Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tổng hợp chuyên đề môn chủ nghĩa duy vật biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.98 KB, 25 trang )

Vấn đề 1 : Đồng chí hãy sử dụng lý luận Triết học duy vật biện chứng về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức cùng với thực tiễn cách mạng Việt Nam để phân tích, phê phán
bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ trì trệ, từ đó chỉ ra phương hướng khắc phục các bệnh
đó theo tinh thần đổi mới của Đảng ta
Bài làm: Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ là những sai lầm khá phổ biến ở
nước ta trong thời kỳ trước đổi mới và nhiều nước XHCN trước đây, nó gây tác hại nghiêm
trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc tìm hiểu nguyên nhân, những biểu
hiện của 2 căn bệnh này trên cơ sở lý luận triết học về mối quan hệ vật chất và ý thức để tìm ra
những giải pháp khắc phục và tránh những sai lầm của nó trong thực tiễn là vấn đề hết sức cần
thiết đối với Đảng viên, nhất là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn mà đất nước đang đứng
trước những thử thách lớn lao của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải
không ngừng đổi mới và không cho phép mắc phải những sai lầm như đã có trước đây .
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ xuất phát từ khuynh hướng sai lầm, cực đoan
trong việc nhận thức mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Vật chất theo quan điểm triết học Mác Lênin “là một phạm trù triết học đúng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Thực tại khách quan (tồn tại khách
quan) là sự tồn tại có thật, không phải do ý muốn của thần linh, thượng đế hoặc do ý thức chức
quan của con người sản sinh ra, mà đó là sự tồn tại, vận động, chuyển hóa và phát triển theo
những quy luật vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, dù con người có muốn, có biết hay
chưa biết về sự tồn tại đó thì chúng vẫn tồn tại.
Ý thức của con người theo triết học duy vật biện chứng không phải là một hiện tượng thần
bí, tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc biệt là bộ óc của
con người, là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào bộ óc của con người
trên nền tảng của hoạt động lao động sáng tạo và được hiện thực hóa bằng ngôn ngữ. Ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định của
vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội nguồn sản sinh ra ý
thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội dung và xu hướng phát triển của
ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất


trong đó bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, sự
tác động của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói,
chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức.
Ngoài ra, ý thức chỉ có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua
hoạt động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật chất cần
thiết cho hành động.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập tương đối nhưng nó lại có
tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh của ý thức đối
với vật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động, là quá trình con người không ngừng tìm kiếm
tích lũy những hiểu biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận
động và phát triển sự vật . Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò định hướng cho con
người trong việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp lựa chọn các phương án,
hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật chất cần thiết để làm biến đổi chúng đạt đến
1
mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai khuynh hướng :
Một là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật nếu ý thức phản ánh đúng
hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật khách quan, có ý chí động cơ
hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức
kìm hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức phản ánh
không đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, phản động, nếu con người
không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai …Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật
chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động
của vật chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức một nguyên tắc
được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai
trò quyết định của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan, “phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Tuy nhiên, việc
thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính năng

động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức,
của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy
tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để từng bước
thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người thực hiện sự biến đổi từ cái “vật
tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử
dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật … để phục
vụ cho các mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.
Như vậy, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau và mối liên hệ đó tuân theo
các quy luật khách quan vốn có của nó. Nếu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta
tuyệt đối hóa, cường điệu hóa vai trò của một trong hai mặt thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của xã hội và rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí hoặc bệnh bảo thủ trì trệ.
Bệnh bảo thủ trì trệ là khuynh hướng sai lầm cực đoan do cường điệu hóa vai trò của vật
chất, sùng bái sức mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan. Khuynh hướng bảo
thủ sẽ dẫn đến tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở
cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có. Trên thực tế, bệnh bảo thủ còn biểu hiện qua những
định kiến.
Bệnh chủ quan duy ý chí cũng là 1 khuynh hướng sai lầm, ngược lại với bệnh bảo thủ trì
trệ, nó thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan quá đề cao, cường điệu tính sáng
tạo của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, điều kiện
khách quan, lấy nhiệt tình cách mạng thay thế cho sự yếu kém về trí thức khoa học. Sai lầm của
bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện
vọng chủ quan. Sai lầm đó thể hiện rõ trong khi định ra chủ trương chính sách và lựa chọn
phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn theo hướng áp đặt ý chí vào thực tế, lấy ảo tưởng chủ
quan thay cho hiện thực.
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ là một thực tế tồn tại trong thời kỳ khá dài
trước đổi mới (trước Đại hội lần VI tháng 12-1986). Trong giai đoạn này, tình trạng khủng
hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài mà trong đó sai lầm do chủ quan duy ý chí và bảo thủ
có tác hại rất lớn.
Đánh giá về những sai lầm do chủ quan duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này, Văn kiện Đại

hội VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá
2
trình lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan,
nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết”. Văn kiện Đại hội lần thứ VI cũng đã chỉ rõ
Đảng đã “nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều
mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên”. Do chủ quan duy ý
chí, trong nhận thức và hành động của Đảng trong giai đoạn này vi phạm các quy luật khách
quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được Văn kiện ĐH Đảng lần VI đánh giá như sau :
“chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian
tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
SX với tính chất và trình độ SX” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp
nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ” hoặc “đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi
chưa có đủ các tiền đề cần thiết”. Bênh bảo thủ trì trệ được biểu hiện qua việc “chậm đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”, trong công tác tổ chức thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là
sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo
và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính
hình thức ” Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ nên trong kinh tế, Đảng ta
đã “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền
với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất
chủ quan, duy ý chí", “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “
cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là SX và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng
mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế ”, bỏ qua không thừa nhận và
vận dụng những quy luật khách quan của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa
vào việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế do định kiến cho rằng những quy luật này
là chủ nghĩa tư bản, không được áp dụng vào chủ nghĩa xã hội … dẫn đến việc SX chậm phát
triển, khủng hoảng kinh tế trên mâu thuẩn giữa cung và cấu ngày càng gay gắt do việc áp dụng
những chính sách, chủ trương trên đã vi phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế SX
hàng hóa (quy luật cung cầu quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, phá sản …).
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ có nguyên nhân từ sự yếu kém lạc hậu về

tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Sự giản đơn yếu kém
về lý luận thể hiện ở chổ : hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm trù, chưa chú
ý tiếp thu kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại,
thậm chí còn có định kiến phủ nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa chú ý tổng
kết những cái mới từ sự vận động, phát triển của thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì
nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận và lý luật suông. Bệnh chủ quan duy ý
chí, bảo thủ còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của con người chi phối. Những
nguyên nhân khách quan ấy có thể kế như : do xuất phát điểm của nước ta quá thấp, nền SX
nhỏ với trình độ SX lạc hậu, do hậu quả của chiến tranh kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến không
chỉ đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm cho đội ngũ cán bộ - đảng viên không có
điều kiện để học tập nên trình độ KH công nghệ, tri thức không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng, cơ chế quan liêu bao cấp, bệnh quan liêu ảo tưởng, “kiêu ngạo cộng
sản… cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của căn bệnh chủ quan duy ý chí.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút kinh nghiệm từ
những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng đã chỉ rõ bài học
kinh nghiệm và đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh
bảo thủ, trì trệ nhằm từng bước sửa chữa những sai lầm. Những phương hướng biện pháp đó là
:
3
Một là phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những hình thức, bước đi,
cách làm phù hợp, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm mà trước hết là đổi mới tư duy
kinh tế, nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng quy luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
Đảng viên. Đây là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…), từ đổi mới quan niệm, tư duy lý luận đến đổi
mới cơ chế chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Để đảm bảo sự lãnh đạo
thành công trong công cuộc đổi mới này thì Văn kiện Đại hội Đảng lần đã xác định : “Đảng
phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo
sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng” . Trên cơ sở hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và tìhn hình
chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tập trung trước hết

vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền
đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm
tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống XH. Bên cạnh đó, với
quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, trong các chủ trương, chính sách
kinh tế từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể như : Đại
hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không
thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội
xác định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và
bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện
một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản
xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản
xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ
SX phải phù hợp với lực lượng SX, Đại hội VI đã xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này
theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế",
tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực-
thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình
chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản
xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa
Hai là đồng thời với việc đổi mới toàn diện về kinh tế và tư duy lý luận, việc tăng cường phát
huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước “nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển
KTXH, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đây là biện pháp nhằm khắc phục nguyên nhân
sâu xa của bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ là sự yếu kém về lý luận, lạc hậu về trình
độ, tri thức KH công nghệ. Văn kiện ĐH Đảng lần VIII đã nhấn mạnh : “phải lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”
Ba là tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung, phát

triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và kiện toàn tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị trong điều kiện mới, căn cứ vào sự vận động của
thực tiễn, của cuộc sống để kịp thời loại bỏ những hiểu biết lỗi thời, lạc hậu.
Bốn là phải đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới , trong đó,
VK ĐH Đảng lần VII đã chỉ rõ : “ Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng nâng
4
cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản của CN Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh… không ngừng tổng kế kinh nghiệm thực tiễn …phát triển
công tác lý luận của Đảng …tiếp thu những thành quả trí tuệ của con người.
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, chế độ
XHCN ngày càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có
những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa trên
một nền tảng tư tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong đó
sự quán triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm bảo sự dẫn
dắt đúng đắn của Đảng./.
5
Vấn đề 2 : Phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, từ đó rút ra quan điểm toàn diện,
quan điểm lịch sử cụ thể và vận dụng các quan điểm đó để phân tích, phê phán bệnh phiến diện,
bệnh giáo điều, đồng thời phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta : “Đổi mới
toàn diện, đồng bộ triệt để với những bước đi, hình thức, cách làm phù hợp” (Văn kiện Đại hội
IX, trang 81)
Bài làm: Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra
đường lối, cương lĩnh đúng đắn. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng đã khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới trên toàn đất nước, trong đó phương hướng đổi mới được
Đảng xác định tại là phải đổi mới toàn diện, đồng bộ triệt để với những bước đi, hình thức, cách
làm phù hợp. Đây là một những vận dụng của Đảng vào thực tiễn Việt Nam dựa trên nguyên lý
của mối liên hệ phổ biến và được rút ra từ quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
duy vật, trong đó liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự liên quan tác động, ràng buộc,
quy định và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng (SVHT)
hoặc giữa các SVHT với nhau. Mọi SVHT trong thế giới khách quan đều tồn tại trong những
mối liên hệ tác động lẫn nhau, sự vật này thay đổi kéo theo sự vật kia thay đổi và không có một
SVHT nào tồn tại một cách cô lập, tách rời, do đó mối liên hệ giữa các SVHT mang tính phổ
biến. Mối liên hệ này còn mang tính khách quan do đây là cái vốn có từ bên trong SVHT chứ
không phải do áp đặt từ bên ngoài, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới vật chất
của thế giới, từ sự tồn tại và phát triển của chính SVHT. Các SVHT trong thế giới vật chất rất
đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng. Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ có
thể phân biệt các mối liên hệ thành các dạng như sau : liên hệ bên trong và bên ngoài, chung và
riêng, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian, trực tiếp và gián
tiếp… Sự phân loại này là tương đối vì mối liên hệ đó chỉ là bộ phận trong toàn bộ mối liên hệ
phổ biến nói chung, tuy nhiên sự phân biệt các mối liên hệ là cần thiết vì chúng có vai trò khác
nhau đối với sự vận động và phát triển của các SVHT.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho ta 2 quan điểm về cách nhận thức, xem xét một
SVHT và hành động trong thực tiễn, đó là quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi xem xét, đánh giá sự vật hiện tượng, ta phải đặt chúng vào
mối quan hệ với các SVHT khác, xem xét các SVHT trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ
phận, các yếu tố các thuộc tính khác nhau của chính bản thân SVHT và giữa SVHT đó với
những SVHT khác (kể cả trực tiếp, gián tiếp). Thực chất của quan điểm toàn diện là trong khi
chú ý xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành của sự vật, tư duy phải
phát hiện được, phản ánh được những mặt chủ yếu, bản chất, quan trọng nhất, rút ra được cái
trọng tâm, trọng điểm, cơ bản, cốt lõi chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật, không xem
xét dàn trãi, đánh đồng các mối liên hệ . Từ quan điểm toàn diện khi sự xem xét các SVHT dẫn
đến nguyên tắc đồng bộ trong hành động thực tiễn, có nghĩa là để cải tạo một SVHT bao giờ
chúng ta cũng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác
nhau để biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật. Tuy nhiên như đã nói ở trên, “đồng bộ”
không có nghĩa là giàn đều, bình quân mà trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu
then chốt. Thực hiện quan điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện một chiều hoặc

chống chủ nghĩa chiết trung mà đặc trưng của nó là nhân danh quan điểm toàn diện do tỏ ra chú
ý đến nhiều mặt nhưng không nhìn thấy được mặt bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện
6
cũng góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, duy ý chí
Quan điểm lịch sử cụ thể là một quan điểm được rút ra từ nguyên lý mối liên hệ phổ biến.
Quan điểm này đòi hỏi khi xem xét mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra hoặc khi đánh giá một
SVHT, để nhìn thấy được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta gắn nó với không gian và
thời gian cụ thể, với những điều kiện, những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự tồn tại của sự vật,
không được đánh giá chung. Tư duy của chúng ta chỉ có thể chân thực khi chúng ta theo sát sự
thay đổi của những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vật. Quan điểm hoàn cảnh lịch sử cụ thể đòi
hỏi khi vận dụng những nguyên tắc lý luận vào thực tiễn không được dừng lại ở những công
thức chung, sơ đồ chung mà phải tính đến những điều kiện lịch sử cụ thể của sự vận dụng. Nói
cách khác, khi xem xét một luận điểm, một chân lý nào đó phải gắn với những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của luận điểm, của chân lý đó, bởi vì chân lý sẽ trở thành sai lầm nếu nó bị đẩy ra
ngoài giới hạn tồn tại của nó, trong những điều kiện không gian và thời gian nhất định của nó.
Lênin nói “Bản chất linh hồn sống của Chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể một tình hình cụ thể,
điều kiện cụ thể”.
Quán triệt quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, chúng ta cần khắc phục và nghiêm
khắc phê phán bệnh phiến diện và bệnh giáo điều.
Bệnh phiến diện đối lập với quan điểm toàn diện, nó xuất phát từ việc xem xét một SVHT
chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những SVHT
ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của sự
vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của sự việc ấy mà quên mất sự vận động của sự vật ấy, chỉ
thấy cây mà không thấy rừng. Ngoài ra, khi xem xét SVHT, mặc dù có chú ý đến nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ nhưng nếu ta đánh giá ngang nhau những mặt, những mối liên hệ đó thì ta
cũng rơi vào bệnh phiến diện.
Trong thời kỳ trước đổi mới (trước ĐH Đảng lần VI-1986), Đảng ta đã mắc phải nhiều sai
lầm trong chủ trương, chính sách mà trong đó có nguyên nhân do bệnh phiến diện một chiều.
Văn kiện ĐH Đảng lần VI có nêu “Trong nhận thức và hành động, …. chúng ta chưa nắm vững
và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất (QHSX) với tính chất và trình

độ của lực lượng sản xuất (LLSX). Vì vậy, Đảng ta chỉ tập trung xây dựng phát triển QHSX mà
không thấy được vai trò của LLSX dẫn đến xây dựng QHSX tiến vượt xa so với tính chất và
trình độ LLSX đưa đến không phát triển được. Văn kiện ĐH Đảng lần VI xác định : "Kinh
nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa
so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Khi xây dựng QHSX, trong thời kỳ trước
1986, chúng ta chỉ chú ý đến mối quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất (TLSX) mà không chú ý
đến mối quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm dẫn đến việc quốc hữu hóa
TLSX, mở rộng kinh tế quốc doanh và tập thể (sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể) nhưng
không tạo được động lực phát triển, không giải quyết tốt vấn đề lưu thông phân phối hàng hóa,
quản lý kinh tế yếu kém dẫn đến “sản xuất chậm phát triển, mâu thuẩn giữa cung cầu ngày càng
gay gắt” (ĐH Đảng lần VI – Trang 25) kinh tế không phát triển được. Để khắc phục bệnh phiến
diện một chiều, chúng ta cần phải có quan điểm toàn diện khi xem xét nghiên cứu SNHT, phải
biết kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách có dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” (V.I Lênin)
trong phát triển kinh tế.
Bệnh giáo điều cũng xuất phát từ quan điểm phiến diện và không tôn trọng quan điểm lịch
sử cụ thể, đó là việc tuyệt đối hóa lý luận coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất
di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý
đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo
7
điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý luận, cho
rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét điều kiện cụ thể của mình. Ví
dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các
thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà
không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự
có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo động
lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng
nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của địa phương khác vào địa phương mình mà
không sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở
Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ,

Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập
trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ … Để khắc phục
bệnh giáo điều. ta cần từ bỏ lối nghiên cứu một cách kinh viện, thuần túy chỉ biết giải thích
bằng kinh nghiệm, chứng minh lý luận bằng lý luận cần chống đối lối tư duy bắt chước, sao
chép rập khuôn, thoát ly thực tế, bất chấp những đặc điểm, truyền thống và điều kiện lịch sử cụ
thể của đất nước, của dân tộc tăng cường tổng kết thực tiễn bổ sung phát triển lý luận.
Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, Đại hội Đảng lần VI
đã đề ra công cuộc đổi mới trên cơ sở vận dụng nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác-LêNin, trong
đó có nguyên lý mối liên hệ phổ biến, quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sự. Phương
hướng đổi mới do Đảng đề ra là phải “Đổi mới toàn diện, đồng bộ triệt để với những bước đi,
hình thức, cách làm phù hợp” (Văn kiện ĐH Đảng lần IX).
Thực tiễn cho thấy, trước sự khủng hoảng của hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa giai đoạn
này, nếu xã hội Việt Nam không có sự ổn định về mặt chính trị lẫn kinh tế thì đất nước có thể
gặp phải những biến động khó lường, trong đó đặc biệt là mối quan hệ biện chứng giữa tăng
trưởng kinh tế và ổn định xã hội trên nguyên tắc bình đẳng, công bằng, dân chủ và văn minh
được biểu hiện như là yếu tố tất yếu của sự phát triển. Như vậy, để tránh sự bất ổn về chính trị
và thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, dựa trên quan điểm toàn diện, Đảng đã xác định “đổi mới”
phải là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
(kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…), từ đổi mới quan niệm, tư duy lý luận đến đổi mới cơ chế
chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Nếu chỉ đổi mới một lĩnh vực hoặc
một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới không thể đạt kết quả mong muốn.
Với quan điểm lịch sử cụ thể, Đảng đã xác định mỗi một giai đoạn phải có bước đi thích hợp,
ví dụ như trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH, việc cải tạo quan hệ SX XHCN phải chấp nhận
nhiều thành phần kinh tế. Văn kiện Đại hội VI xác định: “Nay phải sửa lại cho đúng như sau:
Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất".
Đồng thời, trong mỗi bước đi của công cuộc đổi mới đó phải xác định đúng khâu then chốt
để tập trung sức giải quyết, làm cơ sở đổi mới các khâu khác, các lực lượng khác. Điều này

được khẳng định tại Văn kiện Đại hội Đảng lần VI : “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng
thời thúc đẩy mạnh mẽ các lĩnh vực khác”
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong
việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại;.không có sự đổi mới đó thì
không có mọi sự đổi mới khác. Tuy nhiên, đứng trước nền kinh tế đang bị khủng hoảng trầm
trọng, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới
8
kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ
vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới
các mặt khác của đời sống XH.
Bên cạnh việc đổi mới kinh tế, Đảng ta xác định nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân
trong đổi mới là ''phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt''. Trong việc đổi
mới tổ chức và cơ chế hành động của hệ thống chính trị, chúng ta đã đi bước thận trọng và
vững chắc, bắt đầu từ việc giải quyết những vấn đề cấp bách nhất và đã chín muồi, với việc
nhìn thấy đây là việc rất cần thiết nhưng đặc biệt phức tạp, nhạy cảm và nếu vội vã để xảy ra sai
lầm sẽ phải trả giá rất đắc có khi không cứu vãn được.
Song song với việc đổi mới hệ thống chính trị là việc thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ
cương. Khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống
khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng “dân
chủ”, “dân quyền” nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ hoặc can thiệp vào nội bộ nước
ta. Không chấp nhận chế độ đa nguyên đa Đảng.
Trong công cuộc đổi mới, việc xác định bước đi đúng đắn phải song song với việc đổi mới
hình thức. và cách làm phù hợp tương ứng với từng giai đoạn, từng thời kỳ. Cụ thể như .
Phương thức lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở từng bước được đổi mới. Hoạt động
của tổ chức đảng, đảng viên, hệ thống chính trị chuyển theo hướng gắn bó hơn với nhân dân,
tôn trọng lợi ích của nhân dân hiểu dân, trọng dân và học dân để vì dân. Đổi mới cách ra nghị
quyết của Đảng ở các cấp theo hướng dân chủ, thiết thực, dễ hiểu, khả thi gắn với chương trình
hành động thực hiện nghị quyết, có phân công trách nhiệm, tăng cường công tác kiểm tra thực
hiện nghị quyết, Điều lệ Đảng; thông qua cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, làm trong

sạch Đảng và hệ thống chính trị
Hoặc lấy ví dụ cụ thể như trong lĩnh vực đất đai, từ sau ĐH Đảng lần VII (1991), chủ trương
đổi mới của Đảng trong quan hệ ruộng đất đã thích ứng dần với xu thế phát triển tất yếu của
một nền kinh tế đang từng bước đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường thông qua việc thể chế
hoá quan điểm của Đảng bằng Luật đất đai năm 1993, trong đó thừa nhận đất có “giá” và quy
định người sử dụng đất có 5 quyền và đến Luật Đất đai năm 2003, quyền của người sử dụng đất
ngày càng mở rộng hơn, bình đẳng hơn với các thành phần kinh tế, với đối tượng sử dụng đất
trong và ngoài nước . Điều này đã khẳng định bước tiến quan trọng trong quan điểm và chỉ đạo
của Đảng về vấn đề đất đai, thể hiện được quan niệm tiến bộ về cấu trúc quan hệ sở hữu đất đai,
sở hữu toàn dân không còn là hành vi pháp lý chính trị đơn thuần, mà điều cốt yếu là hướng đến
nội dung kinh tế thiết thực, khơi dậy các động lực kinh tế trong việc bảo vệ và sử dụng đất đai.
Sự đổi mới này đã đem lại những thành công khá lớn trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất
nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đúng như đánh giá trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX): "Những đổi mới trong chính sách pháp luật về đất
đai hơn 15 năm qua đã đưa đến những kết quả tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, đặc biệt là
sản xuất nông nghiệp, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội”.
Tóm lại, tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp là sự vận dụng đúng đắn các nguyên lý, quan điểm của triết hoạch Mác LêNin và
là bài học kinh nghiệm qúy báu của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay, là điều kiện
đảm bảo sự thành công của công cuộc đổi mới trong giai đoạn đã qua cũng như trong thời gian
tới.
9
Vấn đề 3 : Nội dung nguyên lý về sự phát triển, từ đó rút ra quan điểm phát triển và vận
dụng quan điểm đó để phân tích, phê phán các bệnh : bảo thủ trì trệ, bệnh giáo điều và để phân
tích nhận định sau đây của Đảng ta “CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất
bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo
ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội” (Văn kiện Đại hội IX, trang 65)
Bài làm: Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra

đường lối, cương lĩnh đúng đắn nhằm lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn, nhiều thử thách và
cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung của các nước xã hội chủ nghĩa
như : bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý chí … dẫn đến sự suy thoái, khủng
hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn khẳng định ““CNXH trên thế giới từ những bài học
thành công và thất bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều
kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện Đại hội IX, trang 65). Nhận định này xuất phát từ
nguyên lý về sự phát triển và quan điểm phát triển trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình
hình thế giới cũng như tình hình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự vận động có định hướng từ thấp đến cao, từ
giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn mà kết quả là cái mới tiến bộ ra
đời thay thế cái cũ lạc hậu. Sự phát triển của sự vật mang tính phổ biến vì trong thế giới khách
quan, không có sự vật hiện tượng (SVHT) nào đã đứng im, tĩnh tại mà nó luôn vận động, phát
triển không ngừng. Sự mất đi của 1 SVHT này là điều kiện ra đời của SVHT khác. Nguyên lý
này cũng khẳng định rằng nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập trong chính bản thân sự vật hiện tượng hay nói cách khác đó là do mâu thuẩn nội tại
bên trong SVHT, nó vạch ra cách thức của sự phát triển là vừa có tích lũy dần về lượng, vừa có
sự chuyển hóa về chất, tức là sự phát triển chẳng qua là sự tăng giảm về lượng và chất (vừa có
tính liên tục, vừa có tính gián đoạn). Nguyên lý về sự phát triển cũng chỉ ra rằng không phải
chỉ có khuynh hướng đi lên mới được coi là sự phát triển mà quá trình phát trển thường được
diễn ra quanh co, phức tạp qua những khâu trung gian mà có lúc bao hàm cả sự thụt lùi đi
xuống tạm thời : đó là khuynh hướng tiến lên của đường “xoáy tròn ốc”. Trong xu hướng của
sự phát triển luôn có tính kế thừa và sự đi lên này là một quá trình có tính lặp lại.
Quan điểm phát triển là phương pháp luận được rút ra từ của nguyên lý trên. Quan điểm
phát triển đòi hỏi để nhìn thấy được bản chất của SVHT, chủ thể phải xem xét các SVHT trong
trạng thái, xu hướng vận động, phát triển và dự đoán được các xu hướng biến đổi chuyển hóa
của chúng, nhìn thấy được cái mới, cái tiến bộ trong hiện tại cái cũ mặc dù cái mới nào lúc ra
đời cũng còn “non yếu”, bị cái cũ lấn áp để từ đó tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ lạc

hậu.
Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc phục bệnh bảo thủ trì
trệ và bệnh giáo điều trong tư duy cũng như trong hành động thực tiễn. Bệnh bảo thủ trì trệ là
tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng
lòng thỏa mãn với cái đã có. Đôi khi bệnh bảo thủ biểu hiện qua những định kiến. Bệnh bảo
thủ trì trệ cũng gắn liền với bệnh giáo điều, đó là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi
thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở
những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự
10
vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh
giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng
được không xem xét điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn
đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2
thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối
quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này.
Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của
địa phương khác vào địa phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta
bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy
nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công
nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát
triển công nghiệp nhẹ … Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý
chí là những căn bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở,
thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật hoàn
toàn đối lập với quan điểm bảo thủ trì trệ định kiến. và bệnh giáo điều. Trên cơ sở hiểu rõ quy
luật phát triển của sự vật một cách biện chứng, ta có thể khắc phục được bệnh bảo thủ trì trệ và
bệnh giáo điều thông qua việc từ bỏ lối nghiên cứu áp dụng lý luận một cách kinh viện, thuần
túy, chống lại tư duy bắt chước, sao chép rập khuôn; từ bỏ những định kiến, đấu tranh với sức ỳ
trong nhận thức và hành động, tăng cường tổng kết thực tiễn từ quá trình vận động của các

SVHT để bổ sung phát triển lý luận. Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta
luôn đấu tranh phê phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX
có viết : “ Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây
dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai” (trang 124)
Xét về khía cạnh tư tưởng, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái
đang có mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó. Trong quá
trình phát triển sự vật thường có sự biến đổi tiến lên nhưng cũng có cả những biến đổi thụt lùi.
Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được khi bằng tư duy khoa học, ta có thể khái
quát được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đồng thời thấy được tính
quanh co phức tạp của quá trình phát triển, bước lùi của một sự vật hiện tượng trong giai đoạn
nào đó cũng là tất yếu trên con đường phát triển. Nhận thức đúng được xu hướng phát triển, ta
có thể tránh được những bi quan dao động trước sự thất bại tạm thời của cái mới, tạo được niềm
tin vào sự thắng lợi của cái mới, cái tiến bộ.
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con đường XHCN là căn cứ
vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin tưởng vào sự tất
thắng của chủ nghĩa cộng sản mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay CNXH trên thế giới đang
ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các
nước XHCN vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã nhận định :
“CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ những khát vọng và
sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật
tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Nhận định này phát xuất từ tình hình thực tế điều kiện chính trị thế giới biến đổi một cách
căn bản; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang tạm thời lâm vào giai đoạn thoái trào
do tác động từ sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, CNTB tỏ ra còn khả năng
phát triển và đang có những âm mưu, thủ đoạn mới nhằm xóa bỏ hoàn toàn CNXH, Sau
11
cách mạng tháng 10 Nga (năm 1917) nhiều nước đi vào con đường xây dựng CNXH và đã
được những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, quân sự … Nhưng bên cạnh đó, CNXH cũng
vấp phải những sai lầm nghiêm trọng mà hậu quả của nó là tình trạng trì trệ, khủng hoảng
KTXH trầm trọng, những điểm ưu việt thuộc bản chất của CNXH không thể hiện đầy đủ hoặc

không được thể hiện và thực hiện trong thực tế. Nhận thức được những sai lầm đó các nước
XHCN đã và đang tiến hành cải tổ, đổi mới coi như một tiến trình cách mạng nhằm khắc phục
khủng hoảng đưa XH tiến lên. Nhưng bên cạnh đó, một số nước tiếp tục mắc phải những sai
lầm nghiêm trọng mới (xa rời học thuyết Mác Lê nin, chấp nhận đa nguyên đa Đảng, thực hiện
dân chủ thiểu cận nhích gần đến trình trạng vô chính phủ, kẻ địch lợi dụng …) làm mất ổn định
chính trị, làm biến chất chế độ theo hướng tư bản chủ nghĩa mà điển hình là sự tan rã của Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu. Ngược lại với sự thoái trào tạm thời của CNXH, “trước mắt
CNTB còn có tiềm năng phát triển kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu mới của KH và công
nghệ, cải tiến phương pháp quản lý thay đổi cơ cấu SX, điều chỉnh các hình thức sở hữu và
chính sách XH” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH). Bên cạnh đó,
quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang là một xu thế khách quan, ngày càng lôi kéo nhiều nước
tham gia và nó vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Tuy nhiên, do bản chất của CNTB vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công nên cần phải
thấy rằng mặc dù “CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường
song không thể khắc phục nổi những mâu thuẩn vốn có, đặc biệt là mâu thuẩn giữa tính chất
XH hóa ngày càng cao của lực lượng SX với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu SX,
mâu thuẩn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển”(VK ĐH Đảng IX,trang
64). Trong quá trình toàn cầu hóa, mâu thuẩn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp
tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản
lớn tiếp tục phát triển. “Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẩn đó và cuộc đấu tranh
của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của CNTB” (Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH)
Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của thời đại
mới ngày càng chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá trình cải tổ, đổi
mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết, đưa quá trình cải tổ đổi
mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và đang đạt những chuyển biến
tích cực. Điển hình như Trung Quốc, từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XIII (12-1978) Đảng
cộng sản Trung Quốc đã mở đầu công cuộc cải cách, mở cửa toàn diện, sâu sắc theo định
hướng XHCN và từ đó đến nay, trãi qua một phần tư thế kỷ, Trung quốc đã phát triển không
ngừng và đang đứng vào hàng ngũ các cường quốc trên thế giới. Đối với nước ta, “những thành

tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên
nhiều”(VK ĐH Đảng lần IX, trang 66). Điều này cho thấy rằng thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con
đường thẳng tấp. Cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, quá trình quá độ tiến lên XHCN là
một quá trình dài đầy khó khăn, thử thách có những giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhưng cũng
có lúc thoái trào, có bước tiến nhưng cũng có bước lùi.nó có tiến, có thoái, quanh co khúc
khuỷu, nhưng cuối cùng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
của ĐCS VN nhận định “CNXH hiện thực đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử
thế giới đang trãi qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới
CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử” (trang 8)
Tóm lại, sự phát triển của sự vật hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy mâu
thuẩn, vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận giúp ta tránh
12
được những bệnh bảo thủ trì trệ, định kiến, nhận thức và hành động thực tiễn phải thúc đẩy sự
vật phát triển theo quy luật vốn có của nó và củng cố được niềm tin trước những khó khăn, thử
thách tạm thời. Chính bằng cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển chung
của đất nước./.
Vấn đề 4 : Nội dung của quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại. Vận dụng quy luật trên để phân tích, phê phán khuynh hướng sai lầm
nếu không nhận thức và áp dụng đúng quy luật này và phân tích chủ trương đổi mới sau đây
của Đảng ta :”Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”. (Văn kiện Đại hội IX, trang
91)
Bài làm: Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra
đường lối, cương lĩnh đúng đắn nhằm lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ Đại hội
Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đến nay, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
toàn diện và sâu sắc trên toàn đất nước, trong đó chủ trương đổi mới của Đảng được Văn kiện
Đại hội IX xác định là “Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”. Chủ trương này thể

hiện sự vận dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại của triết học Mách Lênin (gọi tắt là quy luật lượng - chất) vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Việc tìm hiểu quy luật lượng - chất cũng giúp ta tránh được những
khuynh hướng sai lầm nếu không nhận thức và áp dụng đúng quy luật này trong thực tiễn.
Quy luật lượng và chất là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó chỉ rõ
cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật hiện
tượng (SVHT), là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó và phân biệt nó với
cái khác. Chất của sự vật phụ thuộc vào những yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa
các yếu tố đó. Mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính nhưng chỉ có thuộc tính cơ bản mới
quy định “chất” của sự vật vì chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới thay
đổi. Tuy nhiên, việc phân biệt chất và thuộc tính cũng chỉ là tương đối vì nó còn phụ thuộc vào
những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác và mỗi thuộc tính có thể coi là một chất
trong một quan hệ khác. Chất biểu hiện tính tương đối ổn định của sự vật và là cái khách quan
vốn có không tách rời sự vật.
13
Lượng là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về số lượng, quy
mô, trình độ, nhịp điệu, tốc độ của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như của các thuộc
tính, yếu tố cấu thành nên sự vật. Lượng có thể được biểu hiện thành con số, đại lượng hoặc
mức độ … cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có của sự vật. Sự phân biệt giữa
chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là có cái ở trong quan hệ này là chất nhưng trong quan
hệ khác lại là lượng và ngược lại.
Giữa lượng và chất có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong 1 SVHT, chất và lượng
thống nhất quy định lẫn với nhau : chất nào lượng ấy và lượng nào chất ấy. Chất tương đối ổn
định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi về lượng có thể làm thay đổi về chất và
ngược lại, nhưng trong một giới hạn nhất định thì sự thay đổi về lượng không làm thay đổi căn
bản chất của sự vật, phạm vi giới hạn ấy gọi là độ. Nói cách khác, không phải bất kỳ sự thay đổi
về lượng nào cũng dẫn đền sự thay đổi về chất ngay tức khắc mà chỉ khi lượng thay đổi vượt
quá giới hạn của độ thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Điểm giới hạn mà tại đó bất kỳ sự thay
đổi nào về lượng cũng đưa ngay tới sự thay đổi về chất gọi là điểm nút. Sự thay đổi về lượng

khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới và tạo thành độ mới.
Sự thay đổi về chất qua điểm nút gọi là bước nhảy. Bước nhảy là một phạm triết học để chỉ
ra sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Đây là bước
ngoặc căn bản kết thúc một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng làm thay đổi chất, là sự gián
đoạn trong quá trình biến đổi liên tục của các sự vật. Không có bước nhảy tức là không có sự
thay đổi về chất. Khi chất mới ra đời nó sẽ quy định một lượng mới phù hợp với nó để tạo sự
thống nhất giữa chất và lượng ở mỗi độ nhất định và chất sẽ tác động trở lại lượng, thúc đẩy
quy mô, nhịp điệu tốc độ. Sự vật tồn tại trong sự thống nhất ấy, cứ thế một quá trình tác động
mới với quy mô, nhịp điệu mới lại bắt đầu. Do đó có thể nói, phát triển là sự đứt đoạn trong liên
tục, thông qua hình thức những bước nhảy là trạng thái liên hợp của các điểm nút. Cách thức
của sự phát triển chính là những quá trình biến đổi đó :
Thế giới sự vật hiện tượng là đa dạng, phong phú cho nên các bước nhảy cũng vậy. Có bước
nhảy đột biến hoặc dần dần, có bước nhảy toàn bộ hoặc cục bộ, tức là diễn ra với khoảng thời
gian khác nhau, quy mô khác nhau, nhưng dù với hình thức nào mỗi bước nhảy cũng là một sự
thay đổi về chất.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất, trong đó sự phát triển của sự vật bao giờ
cũng bắt đầu từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và chất khi ra đời nó sẽ quy định lại
quy mô, tốc độ của lượng, chúng ta khi muốn cải tạo sự vật về chất phải quan tâm đến quá trình
tích lũy về lượng. Đồng thời phải chủ động tạo những điều kiện cần thiết để quá trình chuyển
hóa từ chất cũ sang chất mới được thực hiện hoàn hảo
Khi vận dụng quy luật mối quan hệ giữa chất và lượng vào thực tiễn, ta không được tuyệt đối
hóa mặt nào, nếu tuyệt đối hóa một trong hai mặt này thì chúng ta sẽ rơi vào tư tưởng nôn nóng
(tả khuynh) hoặc tư tưởng bảo thủ (hữu khuynh).
Khuynh hướng nôn nóng tả khuynh là khuynh hướng không quan tâm thực hiện quá trình
tích lũy về lượng mà chỉ chú ý thực hiện những bước nhảy vọt làm thay đổi về chất trong khi
chưa có đủ điều kiện tích lũy về lượng cần thiết. Những người có tư tưởng này trong hoạt động
thực tiễn thường nóng vội, chủ quan duy ý chí, họ cho rằng sự phát triển chỉ gồm toàn những
bước nhảy liên tục nên có thể đốt giai đoạn
Khuynh hướng bảo thủ hữu khuynh là khuynh hướng chí chú ý đến quá trình tích lũy về
lượng, không chú ý phát huy nổ lực của nhân tố chủ quan, không dám thực hiện bước nhảy vọt

về chất khi đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng hoặc kéo dài sự tích lũy, chỉ nhấn mạnh đến sự
biến đổi dần về lượng.
14
Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn đến những sai lầm có tác hại rất lớn làm cản trở hoặc kìm
hãm sự phát triển của sự vật hiện tượng. Trong thực tiễn Việt Nam trước thời kỳ đổi mới, Đảng
ta cũng có lúc phạm sai lầm của 2 khuynh hướng trên. Văn kiện Đại hội VI đã nêu “Do chưa
nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối
dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua
những bước đi cần thiết trên thực tế, chúng ta đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có
đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”. Văn kiện
còn nhận định trong công tác tổ chức thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi
mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp
còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức ” Chính
những sai lầm này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế xã hội
trầm trọng ở nước ta trước thời kỳ đổi mới.
Từ những thất bại trong đường lối chỉ đạo trước thời kỳ đổi mới, Đảng đã có những tổng kết,
đánh giá kịp thời về những sai lầm trên. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước đột
phá đầu tiên của tư duy lý luận của Đảng trong việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ
biện chứng giữa lượng và chất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Công cuộc đổi mới mà Đảng đã khởi xướng từ Đại hội VI và từ đó đến nay đang diễn ra trên
đất nước ta có ý nghĩa như là một quá trình mang tính cách mạng bởi nó tạo ra sự biến đổi về
chất trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong quá trình chuyển biến đó thì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa được xem là nhiệm vụ trọng tâm và phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu đề ra, Đảng đã khẳng định “Con đường
công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”.
Phương hướng này chỉ ra rằng bên cạnh việc thực hiện những giải pháp nhằm tích lũy dần
tiềm lực về khoa học công nghệ, về kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và chuyển biến quy trình
sản xuất từ nền sản xuất lao động thủ công sang lao động với phương tiện và phương pháp tiên
tiến có năng suất cao theo những bước đi phù hợp với quy luật phát triển, chúng ta cần phải biết

phát huy những lợi thế của đất nước, tạo điều kiện và phát huy tối đa nguồn lực trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của người Việt Nam, chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, Khoa học và
công nghệ để làm nền tảng, động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển CNH-HĐH của đất nước
có những bước nhảy vọt, đột phá. Nhân tố chủ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
tạo sự đột phá về bước nhảy để rút ngắn thời gian trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, đây là
quan điểm đúng đắn dựa trên cơ sở tác động của chầt đối với lượng để tạo sự đột phá trong
bước nhảy. Văn kiện ĐH Đảng lần VIII đã nhấn mạnh “phải lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đó là việc tăng cường phát huy
dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước “nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển
KTXH, từng bước phát triển kinh tế tri thức”
Tuy nhiên, quá trình CNH-HĐH cũng phải được xây dựng trên những bước đi tuần tự trong
việc xác định cơ chế kinh tế cũng như xây dựng lực lượng lao động cơ bản trong hệ thống sản
xuất tiên tiếncho phù hợp với điều kiện sản xuất hiện đại, có trình độ khoa học - công nghệ,
nghiệp vụ chuyên môn và tay nghề vì như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước
nhảy trong con đường CNH-HĐH hiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về
lượng, thích hợp ở đây bất kỳ một sự nôn nóng chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra tổn
thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
15
cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết
những vấn đề do công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN hiện nay ở nước ta đặt ra.
Đối với người Đảng viên, công viên chức nhà nước, việc nắm vững quy luật lượng - chất sẽ
giúp chúng ta trong hoạt động chuyên môn cũng như trong quản lý, chỉ đạo : một mặt phải biết
phát huy đúng mức vai trò của nhân tố chủ quan, có quyết tâm và nghị lực cao trong việc thực
hiện đột phá trong công việc khi có điều kiện chín muồi, một mặt phải biết cách phân tích, xác
định đúng quy mô, nhịp điệu của các sự việc để có những biện pháp giải quyết thích hợp, tránh
rơi vào khuynh hướng nôn nóng chủ quan duy ý chí hoặc bảo thủ./.
16
Vấn đề 5 : Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Vận dụng để

phân tích vai trò của những nguyên nhân chủ quan, những nguyên nhân khách quan dẫn đến
tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trước đổi mới cũng như nguyên nhân của những thành
tựu khởi đầu, những yếu kém và khuyết điểm sau hơn 15 năm đổi mới (chủ yếu phân tích
những nguyên nhân chủ quan, những yếu kém trong lãnh đạo của Đảng)
Bài làm: Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước và
nhân dân ta đã đạt được những thành tựu rất lớn trong công cuộc bảo vệ đất nước và xây dựng
CNXH, tuy nhiên trong quá trình xây dựng đất nước đã có lúc đất nước ta trãi qua một thời kỳ
dài bị khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng và cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, quá
trình quá độ tiến lên XHCN ở nước ta là một quá trình dài đầy khó khăn, thử thách có những
giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có lúc thoái trào, có bước tiến nhưng cũng có bước
lùi.
Theo phép biện chứng duy vật bất kỳ một sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại
trong mối liên hệ nhân quả vì thế giới là một chuỗi liên hệ nhân quả trong thời gian vô tận. Do
đó, trên cơ sở phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, việc tìm hiểu những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng khủng khoảng kinh tế - xã hội kéo dài ở nước ta trước thời kỳ đổi mới
(1986) có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn mà đất nước đang đứng trước
những thử thách lớn lao của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải
không ngừng đổi mới và không cho phép mắc phải những sai lầm như đã có trước đây
Theo triết học duy vật biện chứng, nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong 1 sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây nên những biến đổi nhất định. Kết
quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt bên
trong sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Trong mối liên hệ nhân - quả ấy, nguyên nhân là cái có trước và sinh ra kết quả, kết quả chỉ
xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và có sự tác động. Do đó, nguyên nhân là cái quyết
định các tính chất đặc điểm, nội dung của kết quả. Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ nối tiếp
nào về thời gian và không gian cũng là mối liên hệ nhân quả, chỉ có mối quan hệ trước sau về
mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối quan hệ nhân quả. Vì vậy, nếu có một sự kiện nào
đó trực tiếp xảy ra trước kết quả và có liên hệ với kết quả, nhưng là mối liên hệ bên ngoài,
không cơ bản, không sinh ra kết quả thì sự kiện đó chỉ là nguyên cớ mang tính chất chủ quan và
tuy không gây ra kết quả nhưng nguyên cớ góp phần xúc tiến gây ra kết . Do đó, trong thực tiễn

khi xem xét SVHT ta phải phân biệt giữa nguyên nhân với nguyên cớ.
Trong thực tế, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp, có thể cùng một nguyên nhân dẫn
đến nhiều kết quả, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả cũng có thể do nhiều
nguyên nhân tác động ở những mức độ điều kiện khác nhau; nếu các nguyên nhân tác động
cùng chiều với nhau dẫn đến kết quả nhanh hơn, nếu tác động ngược chiều thì làm cho tiến
trình hình thành kết quả chậm hơn, thậm chí triệt tiêu tác động của nhau.
Khi một kết quả do nhiều nguyên nhân tạo ra thì tác động, vai tròi của từng nguyên nhân
không như nhau. Do đó cần phân loại và xác định vai trò của từng loại nguyên nhân. Triết học
duy vật biện chứng đưa ra nhiều hình thức nguyên nhân : nguyên nhân bên trong và nguyên
nhân bên ngoài, nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản, nguyên nhân chủ yếu và
nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
17
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan thường gắn liền với những kết quả
xuất hiện do có sự tham gia của con người. Nguyên nhân khách quan là sự tác động các mặt,
các yếu tố của hiện thực độc lập với ý thức của chủ thể trong quá trình tạo ra kết quả. Nguyên
nhân chủ quan. Nếu nguyên nhân khách quan tồn tại với tính cách là khả năng gây ra kết quả
thì nguyên nhân chủ quan sẽ quyết định việc biến kết quả ấy thành hiện thực hay không. Ngược
lại, nếu nguyên nhân khách quan có thể tự phát huy tác dụng tạo ra kết quả thì nguyên nhân chủ
quan có thể làm cho kết quả ấy đạt đến trình độ cao hơn hay thấp hơn, nên nó sẽ tác động cùng
chiều hay khác chiều với nguyên nhân khách quan. Vì vậy, muốn tạo ra kết quả trước hết phải
tạo ra nguyên nhân và điều kiện sản sinh ra nó. Ngược lại, muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải
xóa bỏ nguyên nhân và điều kiện sản sinh ra nó, đồng thời quan tâm sự tác động trở lại của kết
quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa giữa nguyên nhân và kết quả.
Mối liên hệ nhân - quả là mối liên hệ cơ bản và quan trọng, thường gắn với tính chất của sự
vật hiện tượng là tính khách quan, tính tất yếu, tính phổ biến. Theo CNDV biện chứng, nguyên
nhân của mọi sự vật, hiện tượng là khách quan nằm ngay trong sự vận động và tồn tại của thế
giới sự vật, không phụ thuộc vào việc con người có nhận thức được nó hay không, không có
SVHT nào là không có nguyên nhân. Con người chỉ có thể phát hiện và vận dụng mối liên hệ
khách quan của nhân quả chứ không thể xóa bỏ nó. Do đó, một trong những nhiệm vụ hàng
đầu của các nhà khoa họ, xã hội học là vạch ra được những mối liên hệ nhân quả để có một

phương pháp phân tích khoa học, phân biệt các loại nguyên nhân và tìm ra nguyên nhân của các
sự vật.Trong mối liên hệ nhân quả, kết quả do nguyên nhân gây ra phụ thuộc vào những điều
kiện nhất định, những điều kiện này là những hiện tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy
ra, nhưng bản thân chúng không gây ra những biến cố ấy. Tuy nhiên, nếu thiếu chúng thì
nguyên nhân không gây nên những kết quả được. Vì vậy, trong những điều kiện nhất định thì
những nguyên nhân nhất định sẽ tạo ra những kết quả nhất định. Những điều kiện thế nào thì
kết quả như thế ấy hay nói cách khác đó là tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả.
Như đã nói ở trên, mối liên hệ nhân quả thể hiện trong thực tế rất phức tạp, đa dạng và cùng
một sự việc xảy ra có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, khi chúng ta giải quyết một
vấn đề nào đó trước hết phải từ nguyên nhân cơ bản để có biện pháp giải quyết đúng đắn, thích
hợp, đồng thời phải biết khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức,
tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển. Do đó, trong nhận thức và hành động của con người cần phải
xem xét hiện tượng một cách toàn diện và tích cực để chống lại những quan niệm siêu hình,
chật hẹp, phiến điện và áp đặt mối quan hệ nhân quả. Trong hoạt động thực tiễn, phải phân tích
sâu sắc những hạn chế của yếu tố chủ quan và đề ra những giải pháp khắc phục, để trên cơ sở
đó tác động một cách có hiệu quả làm biến đổi những nguyên nhân khách quan theo hướng có
lợi.
Trên cơ sở nhận thức nguyên tắc và phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Đảng ta
đã vận dụng khá thành công trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, trên cơ sở đánh giá
phân tích tình hình một các toàn diện, cụ thể vận dụng đúng quy luật khách quan, nắm vững
mối liên hệ nhân quả, nhờ đó đã tạo nên những thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, trong công cuộc xây
dựng CNXH ở nước ta trong những năm trước đổi mới, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
Đảng ta đã phạm những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước,
dẫn đến làm cho nền KT-XH của nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn.
18
Như bất kỳ sự kiện nào trong thế giới khách quan, sự khủng hoảng kinh tế xã hội giai đoạn
này có những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Những nguyên nhân khách
quan có thể kế như : do xuất phát điểm của nước ta quá thấp, nền SX nhỏ với trình độ SX lạc
hậu, do hậu quả của chiến tranh kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ đến tốc độ phát triển

kinh tế - xã hội mà còn làm cho đội ngũ cán bộ - đảng viên không có điều kiện để học tập nên
trình độ KH công nghệ, tri thức không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng, do tác động của thiên tai, hạn hán kéo dài và do sự nghiệp xây dựng CNXH là 1 sự
nghiệp hoàn toàn mới mẻ của thế giới.
Tuy nhiên, tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội không phải đều do nguyên nhân khách
quan quyết định đánh giá về nguyên nhân của tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội thời kỳ
này, ĐH lần VI của Đảng đã xác định “những sai lầm khuyết điểm ấy có những nguyên nhân
khách quan và những nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan chi phối nguyên
nhân của những sai lầm ấy là chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan trong cải tạo
XHCN, trong tiến trình CNH và trong cơ chế quản lý kinh tế . Những sai lầm đó cùng với sự trì
trệ trong công tác tổ chức cán bộ, đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu nhiều động lực
phát triển”. Do tư tưởng chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ nên khi đề ra, định ra những chủ
trương, đường lối, chính sách, Đảng và Nhà nước ta đã có những sai lầm, vi phạm các quy luật
khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được nêu văn kiện Đại hội VI như sau :
“Trong những năm 1976-1980, trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh CNH trong khi chưa
có đủ các tiêu đề cần thiết. Mặt khác chậm đổi mới cơ chế kinh tế đã lỗi thời”, trong bố trí cơ
cấu kinh tế, cải tạo XHCN, quản lý kinh tế và lĩnh vực phân phối lưu thông đã có những sai lầm
“duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với
tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất
chủ quan, duy ý chí", “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “, ”,
“chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và
trình độ SX” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý
phát triển công nghiệp nhẹ”, bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật khách quan
của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa Bên cạnh đó, việc buông lỏng chuyên
chính vô sản trong quản lý KT-XH, trong đấu tranh tư tưởng văn hóa, trong việc chống lại
những âm mưu thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù…cũng là nguyên nhân chủ quan dẫn đến
sự khủng hoảng trên.
Đánh giá những nguyên nhân, sai lầm chủ quan, Đảng cho rằng đó những sai lầm nghiêm
trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách về chỉ đạo chiến lược, về tổ chức thực hiện và để
giải quyết những khó khăn do sai lầm khuyết điểm trên việc khắc phục những hạn chế chủ quan

được Đảng đặc biệt xem trọng “Chúng ta không đánh giá thấp những nguyên n hân khách quan,
những khó khăn đó rất lớn. Song điều quan trọng là phân tích sâu sắc những nguyên nhân chủ
quan, nêu rõ những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của Đảng và Nhà nước” (VK ĐH
Đảng VI). Như vậy, nguyên nhân chủ yếu và cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến kết quả là
tình hình khủng hoảng KT-XH trong thời kỳ trước đổi mới ở nước ta là những nguyên nhân chủ
quan, nguyên nhân bên trong.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, rút kinh nghiệm
từ những sai lầm chủ quan, Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm và
đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục nhằm từng bước sửa chữa những sai lầm, đưa đất
nước ra khỏi cuộc khủng hoảng bẳng việc khởi xướng vã lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện
sâu sắc trên tất cả lĩnh vực của đời sống. Cũng từ những sai lầm khuyết điểm chủ quan, ĐH VI
của Đảng đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm :
19
Một là, toàn bộ hành động của mình Đảng ta phải có những tư tưởng “lấy dân làm gốc” xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,
năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện cho sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc CM-XHCN.
Từ sau khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, qua quá trình thực hiện, nước ta đã đạt được
những thành tựu rất quan trọng. Đến ĐH VIII, đất nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng
hoảng KT-XH và chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ CNH-HĐH đất nước.Văn kiện Đại hội
VIII của Đảng (tháng 6-1996) nhận định: “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy
còn một số mặt chưa vững chắc”.
Đến ĐH Đảng lần IX, sau 15 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và rất quan trọng đó là :
- Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm GDP trong nước tăng bình quân hàng năm 7%. Hệ
thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Cơ chế quản lý KT đã có những thay đổi cơ bản. Từ cơ

chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN;
từ chổ chủ yếu chỉ có 2 thành phần KT là KT nhà nước và KT tập thể đã chuyển sang nền KT
nhiều thành phần trong đó KT Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, từ tình trạng hàng hóa khan
hiếm nghiêm trọng nay SX đã đáp ứng được các nhu cầu cần thiết
- Văn hóa xã hội có những tiến bộ, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Tình hình
chính trị - xã hội cơ bản được ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng KT-XH, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hụt hẩn về thị trường
do những biến động ở Liên Xô và Đông Âu gây ra; phá được thế bao cấm vận, mở rộng được
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập KT quốc tế, không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng
hoảng tài chính KT ở một số nước Châu Á mặc dù hậu quả của nó đối với nước ta cũng khá
nặng nề, tình hình CT XH cơ bản ổn định quốc phòng và an ninh được tăng cường.
- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố.
- Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ
động và đạt nhiều kết quả. Ngày nay, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh lên rất nhiều
Nguyên nhân của những thành tựu đó bao gồm nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách
quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Nguyên nhân chủ quan là do Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh đạo
đúng đắn; Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì đổi mới theo những phương hướng, bước đi cơ bản,
đúng đắn, Nhà nước có cố gắng lớn trong việc quản lý điều hành; toàn dân tộc đã phát huy lòng
yêu nước, tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động, sáng tạo…
Nguyên nhân khách quan là tinh thần cách mạng và sự nổ lực phấn đấu của toàn dân với
lòng yêu nước nòng nàn và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, chấp
nhận thử thách, chịu đựng và vượt qua những khó khăn đổi mới làm chuyển biến tình hình.
Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta còn những yếu kém cần khắc phục: nền kinh tế phát triển
chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa xã hội bức xúc và gay
gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách chưa đồng bộ; tình trạng tham nhũng, suy thoái ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Đây là những vấn đề cần phải
được nhanh chóng khắc phục để đất nước phát triển bền vững
20
Dựa trên việc tổng kết những nguyên nhân chủ quan và khách quan từ nhân của những thành

tựu khởi đầu, những yếu kém và khuyết điểm sau hơn 15 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra những
bài học kinh nghiệm quý báo, đó là :
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền
tảng chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân phù hợp với thực tiễn, luôn
sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, được lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi
mới.
Tóm lại, việc nhận thức đúng mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, xác
định được mức độ vai trò của những nguyên nhân ấy đối với những thất bại cũng những thành
tựu trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước để có những biện pháp khắc phục, những tác
động thích hợp nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn là những nguyên tắc đảm bảo sự
thành công của Đảng và nhà nước ta cũng như của từng Đảng viên, công nhân viên chức./.
21
Vấn đề 6 : Phân tích mối liên hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra quan điểm
thực tiễn; vận dụng quan điểm đó để phân tích, phê phán bệnh kinh nghiệm, giáo điều và để
phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta : “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc
nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển đường lối, chính sách của
Đảng, đấu tranh với khuynh hướng, tư tưởng sai trái”(Văn kiện Đại hội IX, trang 141)
Bài làm: Bệnh kinh nghiệm, giáo điều là những sai lầm khá phổ biến ở nước ta trong thời kỳ
trước đổi mới, nó dẫn đến hậu quả là làm cho hành động của chúng ta không xác định được
phương hướng, hoặc xa rời với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và gây tác hại nghiêm trọng đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều xuất phát từ khuynh hướng nhận thức sai lệch về mối quan hệ giữa lý luận và
thực tiển.
Việc phân tích tìm hiểu mối liên hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra quan
điểm thực tiễn và vận dụng đúng đắn quan điểm đó trong hoạt động thực tiễn là rất cần thiết đối
với sự nghiệp đổi mới ở nước ta - như Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã xác định : : “Đẩy

mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận
những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ sung phát
triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu tranh với khuynh hướng, tư tưởng sai trái”(Văn
kiện Đại hội IX, trang 141)
Thực tiễn - theo quan điểm triết học duy vật biện chứng - là toàn bộ hoạt động vật chất
có mục đích mang tính lịch sử XH của con người làm biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã hội.
Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể, là con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo
mục đích của mình. Thực tiễn cũng có quá trình vận động, phát triển, trình độ phát triển của
thực tiễn nói lên quá trình chinh phục tự nhiên, làm chủ xã hội của con người. Thực tiễn mang
tính lịch sử xã hội bởi nó phát triển qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt động thực tiễn có thể chia
làm 3 hình thức cơ bản : hoạt động SX vật chất, hoạt động biến đổi chính trị xã hội và hoạt
động thực nghiệm khoa học. Ttrong đó, hoạt động SX vật chất là hoạt động có ý nghĩa quyết
định các hình thức khác, hoạt động biến đổi chính trị xã hội là hình thức cao nhất và hoạt động
thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt nhằm thu nhận những tri thức về hiện thực khách
quan.
Lý luận – theo Chủ tịch Hồ chí Minh – là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, sự tổng
hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy lại trong quá trình lịch sử của con
người. Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức đồng thời thể hiện trình độ cao của nhận thức,
của những tri thức về bản chất, quy luật của hiện thực và vì vậy, bản chất của lý luận là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Trong
mối quan hệ đó, thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận
là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận thể hiện ở
chổ : chính thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức và
lý luận; nó cung cấp chất liệu phong phú sinh động để hình thành lý luận và thông qua hoạt
động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức mạnh cải tạo hiện
22
thực. Lý luận mặc dù được hình thành từ thực tiễn nhưng nó có vai trò tác động trở lại đối với
thực tiễn. Sự tác động của lý luận thể hiện qua vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng cho

hoạt động thực tiễn (lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn), vai trò điều chỉnh hoạt
động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Lý luận cách mạng có vai trò to
lớn trong thực tiễn cách mạng. Lênin viết “không có lý luận cách mạng thì không thể có phong
trào cách mạng”. Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn có sự liên hệ, tác động qua lại, tạo điều
kiện cho nhau cùng phát triển và gắn bó hữu cơ với nhau do đó sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là nguyên lý cao nhất của triết học Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ
“Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”, “Lý luận mà không có
thực tiễn là lý luận suôn”
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra được quan điểm thực tiễn.
Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải gắn với thực tiễn, phải theo sát
sự phát triển của thực tiễn để điều chỉnh nhận thức cho sự phù hợp với sự phát triển của thực
tiễn, hiệu quả của thực tiễn để kiểm tra những kết luận của nhận thức, kiểm tra những luận điểm
của lý luận. Quan điểm thực tiễn cũng đòi hỏi những khái niệm của chúng ta về sự vật phải
được hình thành, bổ sung và phát triển bằng con đường thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn chứ
không phải bằng con đường suy diễn thuần túy, không phải bằng con đường tự biện. Do thực
tiễn luôn vận động và phát triển nên phải thường xuyên ổng kết quá trình vận dụng lý luận vào
thực tiễn, xem nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù hợp.
Nắm vững quan điểm thực tiễn có ý nghĩa trong việc góp phần hạn chế bệnh giáo điều và
bệnh chủ quan duy ý chí trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn.
Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò rất quan trọng đối với lý luận, kinh nghiệm chính là cơ sở
để tổng kết, khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm là căn cứ để chúng ta không ngừng xem xét
lại bổ sung, sửa đổi, phát triển lý luận. Tri thức lý luận hình thành tổng kết khái quát kinh
nghiệm nhưng lại phải thông qua tư duy trừu tượng của cá nhân nhà lý luận cho nên nó cũng
chứa đựng khả năng không chính xác xa rời thực tiễn. Vì vậy trí thức lý luận phải được thể
nghiệm trong thực tiễn để khẳng định, bổ sung sửa đổi hoàn thiện. Mặt khác lý luận một khi đã
được hình thành nói không phải thụ động, mà có vai trò độc lập tương đối của nó. Lý luận tác
động trở lại đối với thực tiễn hướng dẫn chỉ đạo hoạt động thực tiễn, dự báo dự đón tình hình và
phương hướng hoạt động thực tiễn trong tương lai …
Chúng ta coi trọng những kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích lũy vốn kinh nghiệm
quý báu đó. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, chỉ dựa vào những hiểu biết ở

trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân coi kinh nghiệm là tất cả,
tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý luận, ít am
hiểu lý luận vươn lên để nắm lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận
… thì rất dễ mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Trong thực tế, đây là trường hợp thường có ở
những cán bộ, đảng viên có kinh nghiệm và làm theo kinh nghiệm. Họ không hiểu được rằng
kinh nghiệm của họ tuy tốt nhưng cũng chỉ là từng bộ phận, từng mặt mà thôi. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhận xét: ''Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ''
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo điều chủ nghĩa.
Bệnh giáo điều chủ nghĩa là tuyệt đối hóa lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, xem lý
luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng,
không chú ý đến những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2
dạng : giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý
luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét điều kiện cụ thể của
23
mình. Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác,
của địa phương khác vào địa phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa …
Thực chất của những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là vi phạm sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cho nên để khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều trong công
tác lý luận cần từ bỏ lối nghiên cứu một cách kinh viện thuần túy, cần chống lại lối tư duy bắt
chước sao chép rập khuôn, thoát ly thực tế, bất chấp những đặc điểm truyền thống và điều kiện
cụ thể của đất nước, của dân tộc đồng thời phải tăng cường tổng kết thực tiễn bổ sung phát triển
lý luận.
Một trong những sai lầm trong đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới
cũng xuất phát từ căn bệnh giáo điều. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khuôn mô
hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có
bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta
chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ
Hoặc theo học thuyết của Mác thì phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã
có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh
tế mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá

độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo
động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Chính những sai lầm này là một trong
những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng trong thời kỳ trước đổi
mới.
Nhận thức được những sai lầm trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986) Đảng đã khởi xuớng công
cuộc đổi mới toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý
luận, tư duy và đề ra phương hướng đổi mới của Đảng ta : “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc
nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển đường lối, chính sách của
Đảng, đấu tranh với khuynh hướng, tư tưởng sai trái” ”(Văn kiện Đại hội IX, trang 141)
Phương hướng mà Đảng đề ra là sự khẳng định trong quá trình đổi mới phải đẩy mạnh việc
tổng kết thực tiễn trong việc nghiên cứu và không ngừng hoàn chỉnh lý luận để có thể dự báo
tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần
kiên định thực hiện đường lối đổi mới. Kết quả của tổng kết thực tiễn cung cấp những cơ sở
cho việc nâng tầm lý luận, thiết thực hơn đó là việc bổ sung, hoàn thiện và hoạch định đường
lối, chính sách cũng như cách thức, bước đi thích hợp để đưa đất nước ta vững bước đi lên. Bởi
vì mỗi chủ trương chính sách biện pháp KT-XH dù là đúng đắn nhất thì trong quá trình thực
hiện nhưng bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu cũng thường có những hệ quả tiêu cực nhất định.
Những vấn đề mới nảy sinh, cần phải dự kiến trước và theo dõi để chủ động ngăn ngừa, giải
quyết, tránh suy nghĩ giản đơn một chiều đến khi có vấn đề mới nảy sinh, có mặt tiêu cực mới
xuất hiện thì hoang man hốt hoảng hoặc khi gặp khó khăn thì dao động và quay lại những cách
sai lầm cũ.
Hiện nay, công cuộc đổi mới ở nước ta càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên thế giới
nhanh chóng, phức tạp, khó lường thì những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều , trong đó có
những vấn đề liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH. Do đó tổng
kết thực tiễn là phương pháp căn bản để khắc phục bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, để nhận
rõ hơn con đường cách mạng mà chúng ta tất yếu phải đi tới . Có thể nói rằng mỗi ĐH Đảng là
một dịp để Đảng và Nhà nước ta tổng kết thực tiễn, nâng tầm lý luận, làm căn cứ cho việc
hoạch định đường lối, chính sách phù hợp cho từng giai đoạn. Tuy nhiên, nhấn mạnh tổng kết
24

thực tiễn không có nghĩa là xem nhẹ nghiên cứu cơ bản mà lý luận cơ bản càng tiếp cận với
những vấn đề cụ thể bao nhiêu càng phải có những quan điểm chung cơ bản bấy nhiêu
Vì thế ĐH VII của ĐCS VN khẳng định : “Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát
triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo,
bớt được những sai lầm và những bước đi quanh co, phức tạp”.
Hơn lúc nào hết muốn lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi Đảng ta phải nâng cao
trình độ hiểu biết và năng lực tổ chức thực tiễn từ việc phải hiểu và nắm vững quy luật vận
động của đời sống XH ta, của bản thân Đảng cho đến hiểu biết về thế giới về thời đại. Tổng kết
thực tiễn tổng kết những cái mới, đang hàng ngày hàng giờ nảy sinh trong đời sống đất nước và
cả thế giới tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Chỉ trên cơ sở ấy Đảng mới có thể
đưa ta đến đường lối chủ trương đúng đắn tránh được những sai lầm, khuyết điểm và làm cho
đường lối chủ trương được thực hiện thắng lợi.
Tóm laị, cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bật của xã hội loài người
có sự đóng góp của lý luận đích thực. Tuy nhiên, lý luận phải gắn với thực tiễn, phải được kiểm
tra, đúc kết, khái quát từ thực tiễn thông qua việc tổng kết thực tiễn. Chính từ nguyên tắc tổng
kết thực tiễn, khái quát lý luận và sự vận dụng đúng quan điểm thực tiển sẽ giúp chúng ta đạt
được những thành công trong cuộc sống, trong suy nghĩ, hành động cũng như trong quá trình
thực hiện công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước./.
25

×