Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

CÂU hỏi QUẢN lý NHÀ nước về đô THỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.32 KB, 27 trang )

MÔN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÔ THỊ
Câu 2 : Anh(chị) hãy phân tích vai trò của nhà nước trong mối quan hệ với doanh
nghiệp và cộng đồng trong công tác quản lý đô thị ?lấy ví dụ để dẫn chứng?
Gồm 5 ý :
- Thứ nhất, nhà nước sẽ ban hành pháp luật, quy chế, tạo ra hành lang pháp lý để
các tổ chức và cộng đồng hoạt động trên địa bàn đô thị.
- Thứ hai, nhà nước kêu gọi các doanh nghiệp và cộng đồng tham gia cung cấp
những dịch vụ công mà doanh nghiệp và cộng đồng có thể đảm nhận (hay nói cách khác
đó là việc thực hiện xã hội hóa của nhà nước, nhà nước sẽ không trực tiếp làm mà giao
cho các doanh nghiệp và cộng đồng có khả năng), và nhà nước sẽ là người đưa ra các qy
định cho các tổ chức, cá nhân thực hiện và giám sát việc thực hiện. Chẳng hạn như, các
trường học tư, các bệnh viện tư, các dịch vụ công ích khác…
- Thứ ba, nhà nước đóng vai trò là cầu nối để kết nối giữa công và tư trong phối
hợp tăng trưởng và phát triển.
- Thứ tư, nhà nước giữ vai trò là người phân phối lại thu nhập, điều hòa lợi ích
giữa các nhóm dân cư trong đô thị thông qua các chính sách như thuế, chính sách phúc
lợi xã hội…
- Thứ năm, nhà nước sẽ là người đứng ra giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong quá trình hoạt động trên địa bàn đô thị nhằm đam bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân doanh nghiệp và cộng đồng.
Câu 4: Anh, chị hãy phân tích đực trưng đô thị hoá theo vùng miền ở Việt Nam và
những thách thức đặt ra đối với công tác quản lý đô thị trong quá trình này đối với
vùng đô thị hoá anh chi đang sinh sống?
Trả lời:
Đô thị hoá: là quá trình chuyển đổi phương thức sống từ nông thôn sang thành
thị.
Đo bằng tỷ lệ dân số đô thị trong khu vực tính
Tăng trưởng là tăng trưởng dân số
Hình thức cơ bản: mở rộng không gian và chuyển đổi đất sang phát triển đô thị
Bản chất là chuyển đổi lao động và tổ chức cuộc sống định cư kiểu đô thị.
Đô thị hóa tại Việt Nam - nghịch lý đảo ngược


Gần 150 năm trước, trào lưu đô thị hoá bắt đầu ở phương Tây rồi lan sang Mỹ
những năm cuối thế kỷ XIX và châu Á là những thập niên 60, 70 thế kỷ XX, đều là hệ
quả tự nhiên của quá trình hiện đại hoá đất nước thông qua các cuộc cách mạng công
nghiệp. Trước đó nữa, sự chuyển biến các chức năng đô thị trong thời kỳ giao lưu hàng
hoá, tiền tệ phát triển mạnh làm xuất hiện hàng loạt nhà ga, hệ thống hạ tầng giao thông,
điện nước, các phương thức xây dựng mới bằng vật liệu bê tông, sắt, thép làm thay đổi
bộ mặt của đô thị, kiến trúc thế giới. Trong thế kỷ XX, các nước phát triển đã chuyển
gần 80% - 90% dân số cư trú từ nông thôn sang cư trú ở đô thị, đưa số người sống trong
đô thị hiện nay lên 50% dân số của thế giới (khoảng hơn 3 tỉ người chỉ trong một thế
kỷ). Các cuộc cách mạng công nghiệp tác động đã làm thay đổi diện mạo của cả khu
vực thành thị và nông thôn một cách sâu sắc, hình thành nên hệ thống kiến trúc hiện đại,
nếp sống văn minh đô thị tại các nước phát triển trên thế giới.
1
Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa lại xảy ra nhiều năm trước quá trình công nghiệp
hóa, khiến cho mô hình và tư duy đô thị gặp nhiều khủng hoảng. Nghịch lý này có thể
bắt nguồn từ nguyên nhân do sức ép nhà ở sau chiến tranh và tình trạng đầu cơ đất. Sự
phát triển ngược trên khiến hệ thống đô thị ở Việt Nam ngày càng lộ rõ những yếu kém,
đi liền với các hệ quả, có thể được gọi là "căn bệnh đô thị" như: kiến trúc thiếu đồng bộ,
giao thông tắc nghẽn, nước thải sinh hoạt, di dân tự do và các vấn đề xã hội nan giải
khác Quy hoạch ngày càng xa rời mục đích gốc - vốn phải phục vụ nhu cầu và thói
quen của đại bộ phận dân cư.
Các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có tới hàng chục vạn người
sống chen chúc trong các ngõ hẻm chật chội, thiếu các nhu cầu tối thiểu về nước sạch,
hạ tầng kỹ thuật, chưa nói đến các nhu cầu về việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khỏe,
môi trường sống Các khu đô thị mới được phát triển mạnh ở khu vực ven đô thường là
các dự án nhỏ lẻ, không đồng bộ, hầu như chỉ xây nhà ở để bán, xa nơi làm việc, trường
học, bệnh viện, chợ và các trung tâm giao tiếp nên cư dân vẫn đổ vào trung tâm cũ theo
giao thông hướng tâm. Điều này càng trở nên nan giải khi dòng người nhập cư không
chính thức từ nông thôn ra thành phố tăng song hành với quá trình đô thị hoá phát triển
nhanh hiện nay ở Việt Nam.

Bước ra vùng ngoại vi thành phố, có thể cảm nhận thấy một sự đứt gãy, phá vỡ
lớn trong cảnh quan khu vực ven đô, vốn có cấu trúc rất đẹp, tạo dựng nên từ sự phối
kết hợp hài hòa của không gian kiến trúc nông thôn truyền thống. Tình trạng bê-tông
hóa ven lộ, ven đê, ven đường cao tốc và trong các làng bộc lộ rõ sự không theo kịp của
việc quy hoạch nông thôn hiện nay. Trong khi đó, theo các số liệu của Hiệp hội Đô thị
Việt Nam, tháng 9-2006, các tổ chức quốc tế dự báo tỷ lệ đô thị hóa ở Việt Nam đến
2020 đạt 60% chứ không phải là 45% như trong chiến lược phát triển đô thị dự kiến.
Đặc điểm cơ bản của đô thị hoá ở nước ta:
- Quá trình đô thị hoá ở nước ta diễn ra chậm chạp, trình độ đô thị hoá thấp:
(- Từ thế kỉ III trước Công nguyên, thành Cổ Loa được coi là đô thị đầu tiên ở nước ta,
là kinh đô của nhà nước Âu Lạc. Trong thời kỳ phong kiến, một số đô thị Việt Nam
được hình thành ở những nơi có vị trí địa lí thuận lợi.
- Thế kỉ XI xuất hiện thành Thăng Long, rồi đến các đô thị : Phú Xuân, Hội An, Đà
Nẳng, Phố Hiến ở thế kỉ XVI-XVIII.
- Thời Pháp thuộc, công nghiệp chưa phát triển, hệ thống đô thị không có cơ sở để mở
rộng, các tỉnh, huyện thường được chia với quy mô nhỏ, chức năng chủ yếu là hành
chính, quân sự. Đến năm 30 của thế kỉ XX mới có một số đô thị lớn được hình thành
như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định,….
- Từ sau Cách mạng thánh Tám năm 1945 đến năm 1954, quá trình đô thị hoá diễn ra
chậm, các đô thị không có sự thay đổi nhiều.
- Từ năm 1954 đến năm 1975 đô thị phát triển theo hai xu hướng khác nhau: Ở miền
Nam, chính quyền Sài Gòn đã dùng “đô thị hoá” như một biện pháp để dồn dân phục vụ
chiến tranh. Ở miền Bắc, đô thị hoá gắn liền với quá trình công nghiệp hoá trên cơ sở
mạng lưới đô thị đã có từ trước. Từ năm 1965 đến năm 1972, các đô thị bị chiến tranh
phá hoại, quá trình đô thị hoá bị chững lại.
- Từ năm 1975 đến nay, quá trình đô thị hoá có chuyển biến khá mạnh, đô thị được mở
2
rộng và phát triển mạnh hơn, đặc biệt là phát triển các đô thị lớn. Tuy nhiên, cơ sở hạ
tầng của các đô thị (hệ thống giao thông, điện, nước, các công trình phúc lợi xã hội) vẫn
còn ở mức độ thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.).

- Tỉ lệ dân thành thị đang ngày càng tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với các nước
trong khu vực.
- Phân bố đô thị không đồng đều giữa các vùng.
6 vùng đô thị hoá:
+ vùng miền núi phía bắc
+ Đồng bằng sông Hồng
+ 3 vùng miền trung
+ Tây Nguyên
+ Đông Nam bộ
+Tây Nam bộ
Tốc độ tăng trưởng đô thị hoá Việt Nam:
+ Dân số đô thị (Hiện nay, tỷ lệ dân số đô thị ở nước ta dưới 40%, theo quy
hoạch phát triển đến năm 2010 con số này sẽ 56-60%, đến năm 2020 là 80%.
Theo dự báo của Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hoá của Việt Nam vào năm 2020 sẽ
đạt khoảng 40%, tương đương với số dân cư sinh sống tại đô thị chiếm trên 45 triệu
dân. Mục tiêu đề ra cho diện tích bình quân đầu người là 100m2/người. Nếu đạt tỷ lệ
100m2/người, Việt Nam cần có khoảng 450.000ha đất đô thị, nhưng hiện nay, diện tích
đất đô thị chỉ có 105.000ha, bằng 1/4 so với yêu cầu.)
+ Số lượng đô thị (Từ năm 1990 các đô thị Việt Nam bắt đầu phát triển, lúc đó
cả nước mới có khoảng 500 đô thị (tỷ lệ đô thị hoá vào khoảng 17-18%), đến năm 2000
con số này lên 649 và năm 2003 là 656 đô thị. Tính đến nay, cả nước có khoảng 700 đô
thị, trong đó có 5 thành phố trực thuộc trung ương, 44 thành phố trực thuộc tỉnh, 45 thị
xã và trên 500 thị trấn.
Bước đầu đã hình thành các chuỗi đô thị trung tâm quốc gia: Các đô thị trung tâm quốc
gia gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế. Các đô thị trung
tâm vùng gồm các thành phố như: Cần Thơ, Biên Hoà, Vũng Tàu, Buôn Ma Thuột, Nha
Trang, Nam Định, Thái Nguyên, Việt Trì, Hạ Long, Hoà Bình…
Các đô thị trung tâm tỉnh gồm các thành phố, thị xã giữ chức năng trung tâm hành
chính-chính trị, kinh tế, văn hoá, du lịch-dịch vụ, đầu mối giao thông; và các đô thị
trung tâm huyện; đô thị trung tâm cụm các khu dân cư nông thôn, các đô thị mới.).

Thách thức đặt ra đối với công tác quản lý đô thị:
Với tốc độ phát triển và dân số đô thị như vậy, Việt Nam sẽ phải đối mặt với
ngày càng nhiều vấn đề phức tạp phát sinh từ quá trình đô thị hoá.
Đó là: Vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị, làm cho mật độ dân số ở thành thị
tăng cao; vấn đề giải quyết công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và tệ nạn xã hội
làm cho trật tự xã hội ven đô ngày càng thêm phức tạp; vấn đề nhà ở và quản lý trật tự
an toàn xã hội ở đô thị; vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước
Tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ, nhưng dường như đến
nay vẫn chưa có chiến lược toàn diện về phát triển vùng ven, phát triển các làng xã
ven đô. (Hiện nay, tỉ lệ đô thị hóa ở Việt Nam đã xấp xỉ 29% và dự báo có thể đạt 40-
3
50% vào năm 2020. Ông Trần Ngọc Chính, Thứ trưởng Bộ Xây dựng nhận định: các đô
thị là đầu tàu phát triển kinh tế của cả nước, tạo ra sản lượng GDP ngày càng tăng, song
cũng là nơi tạo ra những điểm nóng trong phát triển đô thị, đặc biệt theo quan điểm phát
triển đô thị bền vững hiện nay.
Trong đó, khu vực ven đô thị phải chịu những áp lực nặng nề giữa hai xu hướng
phát triển và bảo tồn, giữa lợi ích phát triển kinh tế và nhu cầu bảo vệ môi trường, bảo
vệ các giá trị văn hóa, và bảo đảm phát triển bền vững cho cả thành phố.
Không gian “xôi đỗ”
Đô thị hóa tại Việt Nam đang cố gắng đạt các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế tri
thức; vai trò văn hóa được đẩy mạnh trong công nghiệp hóa; bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái; thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu dân cư xã hội; đáp ứng xu hướng hội
nhập với phát triển bền vững.
Tuy nhiên, cho đến nay, về không gian đô thị luôn có sự đan xen giữa đô thị và
nông thôn theo kiểu "xôi đỗ", trong đó, tính gắn bó truyền thống và cả huyết thống giữa
đô thị - nông thôn được thể hiện khá rõ rệt và khác với nhiều nước.
So với mặt bằng xã hội hiện nay, người nông dân thu nhập thấp bằng 1/3 người
dân đô thị và cơ hội để phát triển không thể so sánh tương đồng với người dân đô thị.
Chia nhỏ, bán đi một phần đất ở để nâng cao thu nhập khi giá đất tăng là con đường tất
yếu để cải thiện về thu nhập, đời sống. Vì vậy mật độ dân cư tăng, sự pha trộn dân cư

làm giảm đi tính liên kết cộng đồng cũng là tất yếu.
Đối với các khu vực nông thôn nằm trong vùng ảnh hưởng của các đô thị lớn,
nông dân thường dịch chuyển ra thành phố theo mùa vụ, cố định thường xuyên, nhiều
trường hợp đã trở thành di chuyển lâu dài. Cuộc sống định cư của người dân ở khu vực
kinh tế này đang tạo nên những vấn đề bức xúc đối với môi trường sống đô thị hiện nay.
Bởi nơi ở và môi trường ở của họ là các khu định cư phi chính thức, rất kém tiện nghi,
trong đó có những khu ổ chuột, thiếu sự đoàn tụ gia đình
Các đô thị khu ven đô phát triển tự phát, hiện tượng lấn chiếm các không gian
quy hoạch; phát triển mang tính cách ly, không mang tính tổng thể tạo nên các mảng
"da báo" trong cấu trúc ven đô, dẫn đến sự mất cân đối, không công bằng trong phát
triển; chi phí hạ tầng tốn kém do công tác di dân giải phóng mặt bằng, tranh chấp,
không tạo được nguồn tài chính từ đất; cuộc sống của người dân bị xáo trộn, ngành
nghề chuyển đổi tự phát, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống )
Tại các đô thị cần phải phân biệt sự khác nhau về mô hình tổ chức và
phương thức quản lý của bộ máy chính quyền đô thị ở những khu vực này. Vì tại
các đô thị vẫn có sự đan xen giữa khu vực đã đô thị hóa với các khu vực ngoại vi (đang
được đô thị hóa) vẫn còn mang nhiều nét, nhiều yếu tố nông thôn (về kết cấu hạ tầng,
kiến trúc xây dựng, hoạt động kinh tế xã hội, cách sinh hoạt, lối sống ), hoặc là các đơn
vị hành chính nông thôn trực thuộc.
Ðô thị hóa đang làm thay đổi diện mạo đất nước, góp phần nâng cao mức sống
của người dân. Tuy nhiên, quá trình này cũng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp, yếu
kém, bất cập về công tác quản lý đô thị và xây dựng theo quy hoạch, khó khăn
trong giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án. Các hệ thống hạ tầng giao thông, cấp
điện, cấp thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn, môi trường đô thị, cảnh quan kiến
trúc chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều dự án xây dựng các đô thị mới tại các thành phố, hệ
thống thoát nước không tuân theo một cốt nền đồng bộ với quy hoạch được phê duyệt,
4
dẫn đến tình trạng ngập lụt mỗi khi có đợt mưa lớn. Việc di dân từ nông thôn ra thành
thị khiến sức ép tăng dân số cơ học đối với đô thị ngày càng gia tăng, dẫn tới quá tải hệ
thống hạ tầng xã hội: thiếu nhà ở, khu vui chơi giải trí, công viên cây xanh; trường học

và bệnh viện luôn quá tải, môi trường đô thị xuống cấp Sự thay đổi điều kiện sống
làm cho một bộ phận người dân nông thôn di cư ra thành thị, phát sinh nhiều vấn đề xã
hội nan giải.
Ðô thị hóa là một tất yếu trong quá trình phát triển của đất nước ta. Tuy vậy, nếu
đô thị hóa theo hướng tự phát không có sự quản lý, thiếu quy hoạch đồng bộ thì
nảy sinh nhiều tác động tiêu cực, ảnh hưởng trực tiếp chất lượng cuộc sống người
dân đô thị. Ðể quá trình đô thị hóa phát triển một cách ổn định và bền vững thì đòi hỏi
phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhưng trước hết và quan trọng nhất là làm tốt
công tác quy hoạch tổng thể đô thị và thực hiện quy hoạch này. Các chiến lược, chính
sách liên quan quy hoạch đô thị phải được thực hiện với tầm nhìn lâu dài hàng chục
năm, từng bước tạo thành mạng lưới đô thị hoàn chỉnh. Chất lượng quá trình đô thị hóa
phụ thuộc rất lớn khả năng quy hoạch và tổ chức không gian đô thị của bộ máy quản lý
nhà nước, của cán bộ lãnh đạo chính quyền các cấp. Ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, kinh tế và xã hội trong đó coi trọng phát triển hệ thống giao thông công cộng,
nhất là các phương tiện hiện đại, ít hoặc không gây ô nhiễm môi trường như tàu điện
ngầm, tàu điện trên cao, xe buýt là giải pháp trọng tâm để giảm ùn tắc giao thông và ô
nhiễm môi trường. Ðối với các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh thì cần phát
triển các đô thị vệ tinh để giảm tải sức ép cho vùng đô thị trung tâm đi đôi việc kiểm
soát và quản lý và quan tâm đối tượng người nhập cư từ nông thôn ra thành thị. Tăng
cường đầu tư xây dựng đồng bộ các công trình xã hội như bệnh viện, trường học, công
trình văn hóa, cơ sở xử lý chất thải rắn, nước thải sinh hoạt Ðẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân về nếp sống văn minh, gia
đình văn hóa mới, môi trường đô thị. Kiểm tra và giám sát chặt chẽ chủ đầu tư xây dựng
các khu đô thị mới bảo đảm tuân thủ quy hoạch
Câu 8. Anh (chị) cho biết ban quản lý khu đô thị mới có được quản lý xây dựng
theo quy hoạch không? Khi đó vai trò của chính quyền địa phương thay đổi như
thế nào? Cho ví dụ?
1. Ban quản lý khu đô thị mới được quản lý xây dựng theo quy hoạch:
Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày 05/01/2006 của Chính phủ về việc ban hành
quy chế khu đô thị mới quy định: “Dự án khu đô thị mới" (sau đây gọi là dự án cấp 1 là

dự án đầu tư xây dựng một khu đô thị đồng bộ có hệ thống các công trình hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội, khu dân cư và các công trình dịch vụ khác, được phát triển nối tiếp
đô thị hiện có hoặc hình thành khu đô thị tách biệt, có ranh giới và chức năng được xác
định phù hợp với quy hoạch xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt; khu đô thị mới có địa giới hành chính thuộc một tỉnh.
Điều 10. Ban Quản lý phát triển khu đô thị mới
1. Tuỳ theo yêu cầu thực tế của địa phương về phát triển các khu đô thị mới, Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh có thể thành lập Ban Quản lý phát triển khu đô thị mới để làm
đầu mối kết nối, thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao đối với các dự án khu đô
thị mới trong tỉnh.
5
2. Ban Quản lý phát triển khu đô thị mới được Ủy ban nhân dân cấp tính giao một
số nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu có liên quan đến phát triển và xây dựng khu đô thị
mới:
a) Lập kế hoạch phát triển các khu đô thị mới tại địa phương;
b) Lập yêu cầu đối với các dự án kêu gọi đầu tư;
c) Kết nối kế hoạch, tiến độ xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài
hàng rào với tiến độ xây dựng dự án khu đô thị mới;
d) Hỗ trợ và giám sát việc thực hiện các dự án, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp với
quy hoạch chi tiết xây dựng được duyệt, phù hợp với quyết định đầu tư hoặc văn bản
cho phép đầu tư và tiến độ phân giai đoạn đầu tư, tổng tiến độ toàn bộ dự án khu đô thị
mới;
đ) Là đầu mối tiếp nhận và tổ chức thẩm định dự án khu đô thị mới tại địa phương,
trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu tư;
e) Là đầu mối kết nối để giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến các dự án
trong khu đô thị mới với cơ quan hành chính địa phương và được Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh giao thực hiện một số chức năng của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh về các dự án khu đô thị mới;
g) Báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo định kỳ 6 tháng và hàng năm về tình
hình thực hiện các dự án khu đô thị mới án địa bàn do mình quản lý, tham gia góp ý xây

dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý dự án khu đô thị mới;
h) Các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao.
Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quy định:
- Ban Quản lý đầu tư và xây dựng Khu đô thị Nam thành phố, Ban Quản lý đầu tư
– xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Ban Quản lý Khu đô thị Tây Bắc, Ban Quản lý
Khu Công nghệ cao, Ban Quản lý các Khu Chế xuất và Công nghiệp thành phố có trách
nhiệm tổ chức công bố công khai các đồ án quy hoạch đô thị đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt nằm trong phạm vi ranh giới được giao quản lý.
- Ban Quản lý đầu tư và xây dựng Khu đô thị Nam thành phố, Ban Quản lý đầu tư
– xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Ban Quản lý Khu đô thị Tây Bắc, Ban Quản lý
Khu Công nghệ cao, Ban Quản lý các Khu Chế xuất và Công nghiệp thành phố có trách
nhiệm tiếp nhận hồ sơ và cấp Chứng chỉ quy hoạch tại các khu đất, lô đất nằm trong
phạm vi ranh giới được giao quản lý.
Chính phủ đã có Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày 05/01/2006 của Chính phủ về
việc ban hành quy chế khu đô thị mới và Thông tư số 04/2006/TT-BXD của Bộ Xây
dựng hướng dẫn thực hiện quy chế đô thị mới ban hành theo Nghị định số 02/2006/NĐ-
CP ngày 05/01/2006 của Chính phủ; Đồng thời Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương cũng có văn bản quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của ban
quản lý khu đô thị mới. Đây là cơ sở pháp lý để ban quản lý khu đô thị mới được quản
lý xây dựng theo quy hoạch. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy công tác quản lý xây dựng tại
các khu đô thị mới vẫn còn nhiều bất cập:
Cụ thể tại Hà Nội:
Theo ông Vũ Văn Hậu, Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường thì Hà Nội vẫn chưa
đáp ứng đủ nhu cầu nhà ở, nhất là nhà ở cho người nghèo, người thu nhập thấp, công
chức, viên chức. Đặc biệt còn nhiều bất cập tại hầu hết các đô thị mới.
6
Trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện đã và đang triển khai xây dựng hơn 40 khu đô
thị mới với trên 400 nhà cao tầng; xây dựng mới khoảng 6 triệu m2 nhà ở, diện tích
bình quân đạt 7,5m2/đầu người. Việc triển khai mô hình khu đô thị mới trên địa bàn Hà
Nội đã góp phần tích cực vào kết quả phát triển nhà ở của thành phố khoảng trên 1 triệu

m2 nhà mỗi năm, tạo không gian đô thị mới, kiến trúc hiện đại, nâng cao chất lượng
dịch vụ đô thị, đảm bảo đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khớp nối với khu dân
cư cũ
Bất cập lớn ở các khu đô thị mới là thiếu sự đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật trong
khu đô thị với hạ tầng bên ngoài các khu đô thị mà cụ thể là sự liên thông và kết nối
giao thông, thoát nước, xử lý nước thải không đảm bảo.
Các khu đô thị mới phát triển không có sự gắn kết với nhau trong một quy hoạch
tổng thể chung của đô thị, thiếu trầm trọng các công trình hạ tầng xã hội. TS. Nguyễn
Hồng Tiến, Phó vụ trưởng Vụ Hạ tầng kỹ thuật đô thị (Bộ Xây dựng) nhận định: mặc
dù các khu đô thị mới đều được quy hoạch và xây dựng theo quy hoạch nhưng qua một
số khu đô thị cho thấy không có các giải pháp về thiết kế đô thị.
Do đó, các khu đô thị mới có những nét giống nhau về cách tổ chức không gian
song cũng lại có những nét riêng không giống ai. Hình ảnh quen thuộc của các khu đô
thị mới là các nhà cao tầng làm hàng rào quây xung quanh các khu đất và lọt ở giữa các
nhà thấp tầng. Một sự chênh lệch về chiều cao quá lớn tạo nên sự hụt hẫng không gian
cũng như sự rời rạc không có nhịp điệu của các nhà cao tầng trong cùng một dự án hoặc
của hai dự án ở hai bên đường.
Khu biệt thự, nhà liền kề pha tạp hình thái kiến trúc đủ loại và đa màu sắc và hình
như không ai quản lý thiết kế kiến trúc của các công trình này. Mật độ xây dựng cao và
hệ số sử dụng đất lớn khiến các đô thị thiếu không gian mở, không gian công cộng. Hầu
hết các khu đô thị đều thiếu các công trình hạ tầng xã hội như trường học, trạm y tế, bãi
đỗ xe
Nhiều khu đô thị được xây dựng khá đồng bộ các công trình hạ tầng kỹ thuật ở
bên trong ranh giới đất được giao còn bên ngoài khu vực dự án thì còn nhiều bất cập, sự
khớp nối giữa các công trình hạ tầng bên trong và bên ngoài hàng rào chưa có hoặc nếu
có cũng không được tuân thủ nghiêm chỉnh.
Tình trạng ách tắc giao thông thường xuyên xảy ra tại các cửa ra vào ở khu đô thị
mới Định Công - Linh Đàm. Sự gia tăng đột biến của các phương tiện giao thông cũng
như lưu thông các loại xe tải nặng qua khu vực này (do cầu Tó bị hư hỏng) đã làm cho
các hoạt động tại đây bị xáo trộn.

Khu đô thị mới Đại Kim có vị trí như một "ốc đảo" nên hiện tại giao thông ra vào
rất khó khăn. Cao độ nền trong khu đô thị cao hơn hoặc thấp hơn khu vực xung quanh
trong khi đó không có sự khớp nối hệ thống thoát nước gây hậu quả ngập úng liền kề
hoặc ngập úng tại chính khu đô thị.
Do vậy nếu không có giải pháp thích hợp để giải quyết vấn đề này thì hệ thống hạ
tầng kỹ thuật sẽ manh mún, độc lập với nhau mà hậu quả trước mắt là ách tắc giao
thông, úng ngập cục bộ, ô nhiễm môi trường và nhiều vấn đề khác nảy sinh chưa thể
lường trước
Các khu đô thị tổ chức giao thông theo kiểu ô cờ. Chiều dài mỗi đoạn phố khoảng
trên 100m, có rất nhiều điểm giao cắt ngõ với ngõ, ngõ với đường chính, nhiều đoạn rẽ,
đường cong. Tuy nhiên hầu như trong các khu đô thị này không có biển báo giao thông
hay hệ thống giảm tốc giữa các điểm giao cắt đó, tình trạng mất an toàn giao thông
7
thường xuyên xảy ra. Sự ùn tắc, thiếu các bãi đỗ xe và lấn chiếm đường để đỗ xe đã
xuất hiện tại nhiều khu đô thị mới.
Nhiều nơi, việc cung cấp nước sạch không đảm bảo, chất lượng nước còn có nhiều
vấn đề, hệ thống chiếu sáng tại một số khu vực trong khu đô thị còn thiếu. Bên cạnh đó,
việc quản lý vận hành khu nhà ở khu đô thị, nhất là nhà chung cư sau đầu tư còn chưa
thống nhất, chưa có cơ chế chính sách về quản lý khai thác sau đầu tư đối với các dự án
phát triển nhà ở và khu đô thị, nhất là nhà ở cao tầng; chưa rõ mô hình quản lý, vận
hành, đặc biệt là diện tích tầng 1, tầng hầm và dịch vụ của nhà chung cư cao tầng cũng
như cả khu đô thị mới.
Bộ Xây dựng đã chỉ ra 7 bất cập về thủ tục hành chính của dự án khu đô thị
mới, khu nhà ở, hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp. Đây là cơ sở để Chính phủ ban
hành Nghị quyết về một số giải pháp cải cách thủ tục hành chính
- Thứ nhất, về thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt và điều chỉnh quy hoạch chi tiết
xây dựng, hiện còn nhiều đô thị chưa phủ kín quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000
nên thiếu cơ sở để quản lý, dẫn đến tình trạng phải thoả thuận về quy hoạch, kiến trúc,
làm phát sinh thủ tục, mất nhiều thời gian, dễ dẫn đến tuỳ tiện, tiêu cực.
Khi thẩm định quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500, thì lại chưa thực hiện cơ

chế “một cửa”, chủ đầu tư phải đi lấy ý kiến của từng cơ quan quản lý nhà nước về xây
dựng, môi trường, quốc phòng, hạ tầng kỹ thuật và các cơ quan có liên quan.
- Thứ hai, các điều kiện để tổ chức đấu thầu, lựa chọn chủ đầu tư dự án theo quy
định hiện nay khó thực hiện, nhất là quy định điều kiện về giá sàn tiền sử dụng đất;
phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
- Thứ ba, việc đánh giá tác động môi trường làm thành 1 thủ tục riêng như hiện
nay đang làm phát sinh thủ tục, tốn nhiều thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư.
- Thứ tư, thủ tục liên quan đến việc thu tiền sử dụng đất, cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với 3 loại dự án trên chưa phù hợp thực tế, gây khó khăn cho nhà
đầu tư.
- Thứ năm, tại văn bản số 3803/BQP ngày 28/7/2006 của Bộ Quốc phòng “về việc
quản lý các công trình xây dựng đảm bảo tĩnh không cho hoạt động bay, quản lý vạch
ngang bảo vệ vùng trời” có yêu cầu đối với các công trình trong phạm vi quy định, chủ
đầu tư phải xin ý kiến thoả thuận của Bộ Quốc phòng về chiều cao công trình.
Đây cũng là một thủ tục mà nhiều địa phương và các nhà đầu tư đề nghị cải tiến để
cho chủ đầu tư cũng như cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng không phải đi xin thoả
thuận của Bộ Quốc phòng cho từng công trình cụ thể.
- Thứ sáu, theo quy định của Luật Đầu tư và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP thì tất
cả các dự án có vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng trở lên (bao gồm cả dự án đầu tư trong nước,
dự án có vốn đầu tư nước ngoài) đều phải làm thủ tục đăng ký đầu tư, cấp Giấy chứng
nhận đầu tư.
Đối với các dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và các dự án từ 300 tỷ đồng
trở lên thì phải làm thêm thủ tục thẩm tra trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Trong quá trình rà soát thủ tục hành chính, làm việc với các địa phương, các nhà
đầu tư, nhiều ý kiến đề nghị bỏ thủ tục đăng ký và cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với
nhà đầu tư trong nước, chỉ nên áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài như trước đây.
- Thứ bẩy, một số địa phương tự đặt ra các thủ tục hoặc yêu cầu chủ đầu tư phải
làm không đúng với quy định của Chính phủ như: xác nhận ranh giới đất không có tranh
chấp, khiếu kiện; thoả thuận về địa điểm của dự án; chấp thuận đề cương nhiệm vụ đồ
8

án quy hoạch; chấp thuận lập nhiệm vụ quy hoạch chi tiết xây dựng; chấp thuận về ranh
giới, mốc giới và diện tích ô đất để lập quy hoạch…
Thậm chí còn yêu cầu chủ đầu tư đi xin ý kiến của nhiều cơ quan chuyên môn như: cấp
điện, cấp nước, môi trường, phòng cháy chữa cháy, di tích lịch sử – văn hoá, tôn giáo,
an ninh, quốc phòng…
Theo kết quả rà soát của Bộ Xây dựng, số lượng thủ tục của 3 loại dự án nêu trên
vẫn còn tới khoảng 33 thủ tục/dự án và kéo dài tới 3 năm, trong đó có những thủ tục do
địa phương tự đặt ra hoặc yêu cầu chủ đầu tư phải làm trái với quy định của Chính phủ.
Hiện nay, chính phủ cũng như BXD đã có những cải tiến rõ rệt trong khâu quản lý
thủ tục hành chính, tạo hành lang thông thoáng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cho các
nhà đầu tư, tuy nhiên, việc chỉ ra những bất cập của bộ Xây dựng có ý nghĩa quan trọng
cho việc ban hành Nghị Quyết về một số giải pháp trong cải cách thủ tục hành chính
trong xây dựng
2. Vai trò của chính quyền địa phương thay đổi:
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể thành lập Ban Quản lý phát triển khu đô thị mới
để làm đầu mối kết nối, thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao đối với các dự án
khu đô thị mới trong tỉnh. Điều nãy đã làm thay đổi vai trò của chính quyền địa phương
trong công tác quản lý hành chính nhà nước tại các khu đô thị mới, nhất là đối với
UBND cấp quận và phường. Cụ thể:
- Phân định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước về công khai quy hoạch đô
thị và cấp Chứng chỉ quy hoạch giữa UBND quận và ban quản lý khu đô thị mới:
+ UBND các quận, huyện có trách nhiệm tổ chức công bố công khai quy hoạch đô
thị do UBND quận, huyện phê duyệt và phối hợp tổ chức công bố công khai các quy
hoạch đô thị do cấp trên phê duyệt nằm trong phạm vi ranh giới hành chính của quận,
huyện. Còn các Ban Quản lý khu đô thị mới có trách nhiệm tổ chức công bố công khai
các đồ án quy hoạch đô thị đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt nằm trong phạm vi
ranh giới được giao quản lý.
+ Các ban quản lý khu đô thị mới có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và cấp Chứng chỉ
quy hoạch tại các khu đất, lô đất nằm trong phạm vi ranh giới được giao quản lý. Ủy
ban nhân dân các quận, huyện có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và cung cấp Chứng chỉ

quy hoạch cho nhà ở riêng biệt và các khu đất, lô đất trong phạm vi ranh giới hành
chính của quận, huyện và không nằm trong các quy định nêu trên.
- Quản lý nhà nước về cấp Giấy phép xây dựng :
+ Trưởng Ban Quản lý đầu tư và xây dựng Khu đô thị mới, Khu công nghiệp - Khu
chế xuất, Khu công nghệ cao cấp GPXD đối với các công trình thuộc phạm vi địa giới
quản lý. Trong khi đó: Giám đốc Sở Xây dựng được quyền cấp GPXD đối với các công
trình xây dựng cấp đặc biệt, cấp I, cấp II; công trình tôn giáo; công trình di tích lịch sử -
văn hóa; công trình tượng đài, tranh hoành tráng; những công trình trên các tuyến, trục
đường phố chính trong đô thị; công trình thuộc dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài; công trình thuộc dự án mà theo quy định phải xin cấp GPXD. UBND quận-huyện
cấp GPXD đối với tất cả các công trình còn lại; các công trình chỉ yêu cầu lập báo cáo
kinh tế kỹ thuật do UBND quận-huyện quyết định đầu tư; công trình tín ngưỡng và nhà
ở riêng lẻ thuộc phạm vi địa giới hành chính quản lý (trừ các công trình quy định không
phải xin cấp GPXD). UBND phường-xã, thị trấn tiếp nhận hồ sơ đăng ký xây dựng, sửa
chữa, cải tạo đối với những công trình mà theo quy định không phải xin cấp GPXD;
thông báo ngày khởi công xây dựng của chủ đầu tư theo quy định.
9
- Các cấp chính quyền địa phương đều tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt
động thông qua thực hiện các chức năng của mình. Hầu hết các khu nhà đều thành lập
Tổ dân phố theo quy định của chính quyền địa phương và có sự phối hợp nhịp nhàng
trong công việc với doanh nghiệp quản lý vận hành khu đô thị khu đô thị mới từ công
tác quản lý nhân khẩu, họp tổ dân phố, Chi bộ Đảng và nhà nước cũng thực hiện các
quy chế sinh sống trong khu đô thị mới. Đặc biệt là trong công tác an ninh luôn có sự
phối hợp của công an phường nơi đô thị mới trực thuộc địa bàn hành chính. Qua đánh
giá trong bảng điều tra thì công tác an ninh, trật tự xã hội trong các khu đô thị mới được
đánh giá tốt.
- Mức phí dịch vụ nhà cung cư cao tầng tại khu đô thị mới do doanh nghiệp kinh
doanh quản lý vận hành khu đô thị mới đang thu từ các hộ dân hiện nay chưa đồng nhất
tại tất cả các khu đô thị mới thậm chí có sự chênh lệch rất lớn. Ngay tại Hà nội, các mức
thu phí của HUD, Vinaconex, Tổng công ty xây dựng Hà nội cũng khác nhau. Việc thu

phí này không theo quy định của trung ương và thành phố đối với các khu vực dân cư.
- Các cấp chính quyền địa phương đã có sự hỗ trợ nhất định đối với hoạt động
cung ứng dịch vụ quản lý vận hành khu đô thị mới của các doanh nghiệp, nhưng hiện
nay do việc hình thành các khu đô thị mới nằm trên địa giới hành chính của nhiều
phường xã khác nhau nên việc thực hiện công tác phối hợp với các cấp chính quyền sẽ
bị lặp lại nhiều lần với cùng một nội dung công việc (do không phải lúc nào cũng họp
liên xã, phường trong cùng một thời điểm). Thêm vào đó, tuỳ theo chức năng thực tế và
lượng nhân sự của từng phường, xã mà việc bám nắm giải quyết các công việc khác
nhau nên sẽ khó có sự thực hiện đồng nhất (vướng mắc sẽ xảy ra khi đi ra giải quyết
việc lấn chiếm lòng đường vỉa hè mà theo địa giới hành chính thuộc hai phường khác
nhau sẽ phải tổ chức phối hợp rất phức tạp).
Thực trạng về vai trò của địa phương trong công tác quy hoạch đô thị tại một
số tỉnh, thành phố:
Theo định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam thì đến
năm 2020, dân số Việt Nam sẽ lên tới trên 101,6 triệu người, trong đó 45% sẽ sống
trong các đô thị. Việc mở rộng và nâng cấp đô thị, quy hoạch phát triển các khu đô thị
mới, đô thị hóa các làng xã ven đô đã đặt ra những yêu cầu cấp bách cho công tác quy
hoạch đô thị (QHĐT) qua đó đòi hỏi vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương
cũng như người dân trong việc lập, thực hiện và quản lý các đồ án quy hoạch chi tiết
(QHCT) cũng cần được nâng cao.
"Tăng cường sự tham gia của người dân và Quản lý nhà nước ở các đô thị Việt
Nam thông qua hiệp hội các đô thị Việt Nam” là dự án do Ủy ban Châu Âu và viện
Konrad - Adenauer (KAS - CHLB Đức) phối hợp thực hiện. Qua trao đổi và nghiên cứu
thực tế tại một số địa phương được chọn là đối tượng thí điểm của dự án như: Vinh,
Nam Định, Pleiku, Quy Nhơn có thể thấy rõ một số vấn đề sau liên quan đến vai trò,
trách nhiệm của chính quyền địa phương:
- Vai trò của chính quyền địa phương còn mờ nhạt trong việc thúc đẩy sự tham gia
của cộng đồng vào quy hoạch chi tiết. Với các đồ án QHCT thuộc quản lý của cấp quận,
huyện và phường xã, người dân chỉ được thông báo về nội dung quy hoạch của đồ án
mà không được tham gia góp ý kiến ngay từ khâu xác định mục đích đồ án QH, lập

nhiệm vụ QH. UBND quận huyện hoặc phường xã chỉ hỗ trợ đơn vị tư vấn tổ chức họp
dân và phát phiếu lấy ý kiến đến đại diện người dân hoặc các hộ dân mà quyền lợi bị
ảnh hưởng trực tiếp bởi đồ án quy hoạch. Việc khảo sát, đánh giá hiện trạng cho việc
10
lập quy hoạch do bên tư vấn tự làm, hầu như không có sự tham gia của người dân hay
phối hợp với chính quyền địa phương để tăng cường sự tham gia của người dân trong
bước quan trọng này.
- Thiếu cán bộ chuyên trách, năng lực, nhận thức còn hạn chế: Hầu hết các cán bộ
quản lý QH từ cấp thành phố trở xuống đều không được cung cấp đầy đủ kiến thức hay
được đào tạo, tập huấn các kỹ năng, công cụ để làm việc với cộng đồng. Chỉ có một số
khóa tập huấn ngắn hạn theo một số dự án. Không có các khóa tập huấn thường niên
cho các cán bộ trẻ về nguyên tắc và cách thức làm việc với cộng đồng.
- Không có cơ chế cụ thể về tài chính cho việc tăng cường sự tham gia của cộng
đồng trong quy hoạch chi tiết. Không có kinh phí cho việc in ấn, triển lãm nội dung
phương án quy hoạch đến người dân, tổ chức các cuộc họp dân, điều tra khảo sát, phỏng
vấn lấy ý kiến của người dân. Các kinh phí này chủ yếu do đơn vị tư vấn quy hoạch
phải chi, do vậy họ thường làm cho xong, mang tính hình thức. Đây là một trong các
nguyên nhân dẫn đến tính hình thức trong việc huy động sự tham gia của người dân
- Thiếu tính chủ động, sáng tạo ở cấp cơ sở: Những hạn chế về nhân lực, năng lực
và nhận thức của các bộ quản lý đô thị đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của địa
phương. Bản thân cán bộ quản lý nhiều khi không nắm được mục đích, nội dung của
các đồ án QHCT hoặc điều chỉnh QHCT trên địa bàn phường nên rất khó có thể chủ
động, sáng tạo trong các hoạt động tăng cường sự tham gia của người dân, hay chủ động
phát hiện các vấn đề
Những khó khăn, rào cản
- Trong những năm gần đây tại các địa phương có sự tách nhập thay đổi địa giới
hành chính rất đáng kể, do vậy đồ án QHCT phải điều chỉnh nhiều lần hoặc phải lập
mới. Tuy nhiên, rất nhiều phường, xã chưa có quy hoạch sử dụng đất chi tiết. Tuy
nhiên, không ít trường hợp QHCT được làm trước, dẫn đến bản đồ quy hoạch sử dụng
đất trong QHCT không phù hợp với bản đồ dải thửa của quy hoạch sử dụng đất, gây ra

những khó khăn cho cán bộ quản lý địa phương, gây nhiều bức xúc, không đồng thuận
từ phía người dân.
- Quy hoạch chung về giao thông và hạ tầng kỹ thuật không được nghiên cứu đồng
bộ trong quy hoạch chung của toàn đô thị, dẫn đến việc quy hoạch mới, mở rộng nâng
cấp nhiều tuyến đường đòi hỏi phải điều chỉnh QHCT tại cấp quận huyện, phường xã,
nhiều đồ án QHCT vừa mới được phê duyệt đã phải điều chỉnh.
- Thời gian cho việc lập nhiệm vụ và đồ án QHCT là rất ngắn. Thời gian lập nhiệm
vụ QHCT không quá 01 tháng và thời gian lập đồ án là không quá 06 tháng (Nghị định
số 37/2010/NĐ-CP, điều 2, mục 3) rất khó cho việc TGCĐ ngay từ khâu xác định mục
đích, nhiệm vụ QH. Đặc biệt là với các đồ án QHCT cải tạo, chỉnh trang hoặc QHCT
cho các khu vực đặc thù, cần có sự tham gia chặt chẽ của người dân. Tại Singapore,
Australia, thời gian lập QHCT cho 1 khu vực tối thiểu là 9 -12 tháng. Thời gian để tham
vấn ý kiến người dân tối thiểu là 2 tháng. Ở Nhật Bản, với một dự án tái phát triển khu
vực thị trấn cổ với sự tham gia của người dân, họ cần thời gian rất dài cho việc khảo sát,
đánh giá hiện trạng, đề xuất phương án và thực hiện phương án dưới sự điều hành và
giám sát của cộng đồng trong một quá trình liên tục nhiều năm.
- Việc quản lý, lưu trữ thông tin, số liệu phục vụ công tác quản lý QH được thực
hiện thủ công thông qua các tài liệu, bản đồ lưu trữ trong các tủ hồ sơ của các cơ quan
quản lý, không có sự hỗ trợ của phương tiện lưu trữ thông tin hiện đại nên rất khó khăn
cho việc tìm kiếm tài liệu. Hầu như việc tra cứu số liệu không thể thực hiện hoặc rất khó
thực hiện trong thời gian ngắn, không đảm bảo tiến độ công việc. Việc không tương
11
thích giữa các phần mềm sử dụng để quản lý hoặc bản đồ không thống nhất về tỷ lệ dẫn
đến kết quả không chính xác, sai số lớn giữa các bản đồ QH (bản đồ tỉ lệ 1/2000 và bản
đồ tỉ lệ 1/500), gây khó khăn cho người quản lý và mâu thuẫn cho người dân.
Kết luận - Đề xuất
Sau khi làm việc và thu thập ý kiến từ lãnh đạo địa phương của các thành phố thí
điểm, có thể đưa ra một số kết luận và đề xuất cơ bản sau:
Các địa phương đều có nhu cầu đào tạo, tổ chức các khóa tập huấn để nâng cao
năng lực, nhận thức, cung cấp kỹ năng, công cụ cho cán bộ trong việc huy động, tổ chức

cộng động tham gia vào các bước trong công tác QHĐT, được đào tạo ngay tại địa
phương là thuận lợi nhất.
Cần làm rõ quy trình, mức độ tham gia của người dân trong đồ án QHCT và tiến
hành thử nghiệm tại nhiều địa phương, rút ra bài học kinh nghiệm cho từng đồ án cụ
thể, từng địa phương cụ thể. Theo kinh nghiệm của thành phố Nam Định, có thể đề xuất
để tham vấn cộng đồng đạt hiệu quả trong các bước của đồ án QH, cần phải chia ra làm
2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Tham vấn xin ý kiến cộng đồng ngay từ khâu xác định mục đích,
nhiệm vụ QHCT, thu thập các nhu cầu, nguyện vọng và mong muốn của cộng đồng về
khu vực quy hoạch. Sau đó tổng hợp, phân loại thông tin để cung cấp cho tư vấn nghiên
cứu đề xuất phương án thiết kế quy hoạch
Giai đoạn 2: Tham vấn xin ý kiến về phương án thiết kế quy hoạch. Tư vấn đưa ra
các kịch bản, phương án có cân nhắc kỹ các khả năng tham gia của cộng đồng. Cần lấy
ý kiến đóng góp của cộng đồng dưới nhiều hình thức và nhiều lần: họp, hội thảo, phỏng
vấn trực tiếp, phát phiếu hỏi, họp nhóm trọng tâm.
- Cần lập ban tư vấn cộng đồng cho các dự án thực hiện QHCT. Ban tư vấn cộng
đồng là tổ chức riêng rẽ, đại diện lợi ích cộng đồng, phối hợp chặt chẽ với chính quyền
địa phương, đơn vị tư vấn quy hoạch.
- Trong thể chế, chính sách cần có quy định về cơ chế tài chính cho tổ chức tham
gia lấy ý kiến cộng đồng.
- Cần trang bị cơ sở vật chất, các phương tiện lưu trữ thông tin hiện đại, số hóa hệ
thống bản vẽ, dữ liệu quy hoạch
Câu 9: Phân tích những nguyên nhân chủ quan dẫn đến quy hoạch treo và dự án
treo ở đô thị hiện nay.
Những nguyên nhân chủ quan dẫn đến quy hoạch treo và dự án treo ở đô thị hiện
nay chủ yếu bao gồm:
1. Hệ thống quy hoạch xây dựng của chúng ta lấy sự thỏa mãn một số nhu cầu
căn bản như ở, đi lại, làm việc, nghỉ ngơi… làm tiêu chí đánh giá sự hợp lý. Tuy nhiên,
trong nền kinh tế thị trường, đặc trưng của xã hội là rất đa dạng. Trên thực tế, khi triển
khai quy hoạch thường bỏ qua tính đa dạng này.

2. Hiện nay, số liệu đầu vào của quy hoạch chưa chính xác. Chúng ta mới có số
liệu của khu vực chính thức, bao gồm Nhà nước, các doanh nghiệp lớn trong và ngoài
nước. Khu vực không chính thức hầu như không được phản ánh vào trong điều tra,
thống kê và tất nhiên khó có thể phản ánh trong nhu cầu phát triển. Tuy nhiên khu vực
này lại có hoạt động rất đáng kể.
12
3. Quy hoạch xây dựng trên thực tế quan tâm đến việc cụ thể hóa các chương
trình phát triển của Nhà nước, phục vụ chi tiêu công cộng từ ngân sách chứ chưa tích
hợp các chương trình phát triển của khu vực tư nhân. Chủ đầu tư phát triển nằm ngoài
phạm vi Nhà nước ít khi được hỏi ý kiến trong quá trình quy hoạch.
4. Việc thu thập số liệu điều tra cũng chưa được quan tâm đúng mức. Sự khiếm
khuyết đầu vào số liệu đã và đang là nguyên nhân dẫn tới quy hoạch khó có thể phản
ánh hết thực tế.
5. Sự can thiệp của các nhà chính trị vào vấn đề quy hoạch đã làm cho nhiều bản
quy hoạch phục vụ ý đồ chính trị hơn là tuân thủ đúng chuyên môn.
6. Việc áp dụng và vận dụng tiêu chuẩn cho thiết kế quy hoạch trong nền kinh tế
thị trường vẫn còn nhiều bất cập. Trên thực tế, các khu vực khác nhau về trình độ phát
triển có mức độ tiện nghi khác nhau và được phản ánh trong cơ cấu sử dụng đất khác
nhau. Như vậy, những chỉ tiêu chủ quan của nhà quy hoạch rất có thể khác biệt trên
thực tiễn, dẫn đến quy hoạch treo. Trong khâu lập, thẩm định, duyệt quy hoạch, dự báo
còn thiếu chính xác, thiếu cơ sở, định hướng mà còn rất lúng túng, chưa sâu sát thực tế.
Có khu vực quy hoạch thì không có nhu cầu sử dụng đất mà có khu không quy hoạch
thì nhu cầu sử dụng đất lại rất lớn.
7. Đất đai dành cho công nghiệp cũng không đơn giản tính bằng các con số lý
thuyết. Thực tế có những cơ sở sản xuất rất thiếu đất nhưng các khu công nghiệp hiện
có rất nhiều đất lại không thể lấp đầy, rất nhiều khu vực đã quy hoạch hoặc không thể
triển khai, hoặc có triển khai cũng không có ai vào. Trong khi đó, các nhà quy hoạch khi
tính toán nhu cầu sử dụng đất cho công nghiệp lại tính bằng con số tăng trưởng dự kiến
(GDP) công nghiệp quy đổi ra đất đai hoặc tính bằng diện tích đề nghị thuê của đại diện
các doanh nghiệp. Khoảng cách giữa nhu cầu thực tế và quy hoạch đất chuyên dùng

phản ánh rất rõ sai số lớn trong cách tiếp cận lý thuyết của quy hoạch.
Sự phối hợp của các loại quy hoạch có nội dung sử dụng đất chưa được nhuần
nhuyễn: bao gồm quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch - kế hoạch sử dụng
đất, các quy hoạch về lĩnh vực xây dựng, giao thông, giao thông thuỷ lợi và các quy
hoạch ngành.
8. Vấn đề năng lực thực hiện của chủ đầu tư cũng gây nên quy hoạch treo. Do
năng lực chủ đầu tư yếu, quy hoạch dự án được lấy đất, phê duyệt quy hoạch nhưng lúc
triển khai chậm do không đủ năng lực đền bù, không thỏa thuận được với các ngành về
cung cấp dịch vụ hạ tầng đi kèm, thiếu năng lực quản lý và tiếp thị sản phẩm… dẫn đến
kéo dài nhiều năm. Kể cả những dự án nhỏ nhưng chủ dự án không có vốn mà phải phụ
thuộc vào vốn vay ưu đãi ngân sách, cũng gặp tình trạng kéo dài ngay từ lúc phê duyệt
ngân sách, dẫn đến kéo dài dự án. Những khu vực như vậy dù có chủ đầu tư, có quy
hoạch chi tiết vẫn dậm chân tại chỗ.
Các chủ dự án còn có tâm lý xin đất để chuyển nhượng, trao đổi thu lợi nhuận,
không thực sự đầu tư để sản xuất kinh doanh.
9. Sự ảnh hưởng của các yếu tố phi thị trường dẫn đến quy hoạch không khả thi.
Quy hoạch có hỗ trợ từ ngân sách, bảo lãnh cho vay nhiều khi làm để có được dự án chứ
không cần có lãi. Các địa phương “chạy đua”, “trải thảm đỏ” để thu hút đầu tư, trong
khi chưa tìm hiểu kỹ về các nhà đầu tư, cấp phép đầu tư tràn lan không cân nhắc kỹ. Do
vậy xảy ra tình trạng rất nhiều “dự án treo”.
13
10. Vấn đề quản lý thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập. Trật tự kỷ cương thấp
ở cơ sở tại các đô thị và nhiều khu vực phát triển tập trung làm cho nhiều dự án bế tắc
không đền bù được. Càng kéo dài càng khó khả thi, chủ đầu tư có thể bỏ hoặc điều
chỉnh phương án, lại phải quy hoạch lại. Mỗi điều chỉnh quy hoạch lại có thể gây xáo
trộn, thậm chí khiếu kiện kéo dài.
Khâu điều chỉnh quy hoạch còn chưa linh hoạt, dập khuôn máy móc, không kiên
quyết xử lý các khu vực “quy hoạch treo”, chưa kiên quyết hoặc còn né tránh thu hồi đất
các “dự án treo”.
Khâu bồi thường giải phóng mặt bằng còn trì trệ, kéo dài, chưa quyết liệt, không

dứt điểm.
Câu 11 : Khi nào cần cấp phép xây dựng cải tạo nhà ở tại đô thị ? Phân tích
thẩm quyền của các cấp trong việc ngăn chặn và cưỡng chế xây dựng trái phép ?
Trả lời :
* Theo Luật Nhà ở - năm 2005 tại Điều 76 quy định về cải tạo nhà ở :
- Cải tạo nhà ở là việc nâng cấp hoặc mở rộng diện tích nhà ở hiện có.
- Chủ sở hữu nhà ở được cải tạo nhà ở của mình; người không phải là chủ sở hữu
nhà ở chỉ được phép cải tạo nhà ở trong trường hợp được chủ sở hữu nhà ở đồng ý bằng
văn bản. Việc cải tạo nhà ở phải thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định
của pháp luật về xây dựng.
* Khi nào cần cấp phép xây dựng cải tạo nhà ở tại đô thị :
Điều 137 Luật nhà ở 2005 quy định:
- Việc cho phép xây dựng, cải tạo nhà ở phải căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô
thị và điểm dân cư nông thôn.
- Việc xây dựng, cải tạo nhà ở phải có giấy phép xây dựng của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, trừ trường hợp không thuộc diện phải có giấy phép xây dựng theo quy
định của pháp luật về xây dựng (Không cấp giấy phép xây dựng mới hoặc cải tạo mở
rộng diện tích cho các công trình xây dựng trên các thửa đất có diện tích nhỏ hơn
15m2; và một số trường hợp không phải xin cấp phép xây dựng cải tạo nhà ở như :
nâng nền, nâng gác, nâng mái để chống ngập; gia cố cải tạo chống nghiêng, lún, nứt
không làm thay đổi quy mô diện tích, không ảnh hưởng đến kết cấu và an toàn công
trình)
- Việc xây dựng, cải tạo nhà ở không tuân thủ các quy định trên thì cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt dự án phát triển nhà ở, cấp phép xây dựng có quyền đình chỉ việc
xây dựng, cải tạo nhà ở.
* Phân tích thẩm quyền của các cấp trong việc ngăn chặn và cưỡng chế xây
dựng trái phép :
14
- Về ngăn chặn :
- Thanh tra xây dựng quận - huyện thực hiện việc thanh tra, kiểm tra chủ đầu tư,

nhà thầu xây dựng công trình; quyết định đình chỉ thi công xây dựng đối với các công
trình vi phạm thuộc thẩm quyền xử lý của chủ tịch UBND phường, xã nhưng không
được xử lý kịp thời.
Ngoài ra, thanh tra xây dựng quận, huyện được quyền yêu cầu cơ quan quản lý
nhà nước cung cấp các tài liệu như hồ sơ đồ án qui hoạch xây dựng, giấy phép xây dựng
và các tài liệu liên quan khác phục vụ công tác thanh tra. Lực lượng này còn có trách
nhiệm lập hồ sơ vụ vi phạm của chủ đầu tư và nhà thầu xây dựng có dấu hiệu cấu thành
tội phạm để kiến nghị chủ tịch UBND quận, huyện chuyển sang cơ quan điều tra
Thanh tra xây dựng phường, xã thực hiện thanh tra, kiểm tra các chủ đầu tư xây
dựng trên địa bàn trong việc tuân thủ các qui định của pháp luật về qui hoạch xây dựng,
thiết kế xây dựng; phát hiện và kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý các
hành vi vi phạm như xây dựng không phép, sai phép, lấn chiếm hành lang bảo vệ của
công trình hạ tầng kỹ thuật; vi phạm lấn chiếm vỉa hè, đường phố, cơi nới, lấn chiếm
không gian; vi phạm các qui định của pháp luật về bảo vệ môi trường, quản lý, sử dụng
đất đai
Đối với các công trình xây dựng không phép, thanh tra xây dựng phường có
quyền đình chỉ ngay (dù công trình đó có qui mô thế nào, do cơ quan nào cấp cũng
vậy), sau đó báo cáo vụ việc lên cơ quan cấp trên xử lý. Còn thanh tra xây dựng quận sẽ
xử lý những trường hợp xây dựng do UBND quận và Sở Xây dựng cấp phép.
- Về cưỡng chế xây dựng trái phép :
- Khi phát hiện sai phạm, thanh tra xây dựng phường phải lập biên bản, yêu cầu
chủ đầu tư ngừng thi công và tự phá dỡ bộ phận công trình hoặc công trình vi phạm.
Trong thời hạn 24 giờ từ khi lập biên bản, nếu chủ đầu tư không chấp hành thì người lập
biên bản phải trình chủ tịch UBND phường ra quyết định đình chỉ thi công.
- Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi đình chỉ thi công công trình, người ra quyết
định phải yêu cầu thủ trưởng các đơn vị khác dừng việc cấp điện, nước đối với công
trình vi phạm.
- Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính
và đình chỉ thi công, chủ tịch UBND phường, xã, thị trấn chỉ đạo cấm vận chuyển vật
tư, vật liệu và công nhân vào công trình.

- Còn về trình tự cưỡng chế vi phạm, trong thời hạn ba ngày kể từ khi có quyết
định đình chỉ thi công xây dựng, nếu chủ đầu tư không tự phá dỡ công trình, bộ phận
công trình vi phạm thì chủ tịch UBND phường, xã, thị trấn ra quyết định cưỡng chế và
tổ chức phá dỡ.
15
- Còn đối với công trình xây dựng do UBND quận và Sở Xây dựng TP cấp phép,
sau khi ra quyết định đình chỉ thi công, chủ tịch UBND cấp phường phải gửi hồ sơ đến
thanh tra xây dựng quận, huyện.
- Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, chánh thanh tra xây dựng quận,
huyện phải trình chủ tịch UBND quận ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ công trình
vi phạm.
- Trường hợp đã có quyết định đình chỉ thi công nhưng chủ đầu tư, nhà thầu thi
công, đơn vị giám sát vẫn tiếp tục thi công, thì người có thẩm quyền quyết định cưỡng
chế phá dỡ công trình lập hồ sơ để chuyển sang cơ quan điều tra.
* Tham khảo thêm Chỉ thị 20/2008/CT-UBND nha các bạn :
ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
Số: 20/2008/CT-UBND
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TP. Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 11 năm 2008
CHỈ THỊ
Về tăng cường công tác xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng đã quy định chặt
chẽ quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý các chủ thể tham gia hoạt động xây
dựng, nhưng việc thực hiện chưa nghiêm, chưa triệt để dẫn đến tình trạng xây dựng

không phép, sai phép và các vi phạm khác trong lĩnh vực xây dựng vẫn còn xảy ra trên
địa bàn thành phố. Trong năm qua, tuy tình trạng vi phạm xây dựng có giảm nhưng vẫn
còn ở mức độ cao, ở một số quận, huyện ngoại thành xây nhà không phép, sai phép phát
sinh trở lại làm ảnh hưởng đến quy hoạch chung của thành phố.
Nhằm ngăn chặn kịp thời tình trạng vi phạm xây dựng và chấn chỉnh công tác quản
lý tại địa phương và trên toàn địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân thành
phố chỉ thị như sau:
I. Trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân 24 quận, huyện
1. Chịu trách nhiệm quản lý địa bàn, chỉ đạo lực lượng Thanh tra Xây dựng quận,
huyện, phường, xã, thị trấn thường xuyên kiểm tra hoạt động của các chủ thể tham gia
hoạt động xây dựng và việc tuân thủ các quy định của pháp luật về xây dựng nhằm phát
hiện và kịp thời ngăn chặn, xử lý kiên quyết, dứt điểm các hành vi vi phạm pháp luật
như: xây dựng không phép, sai giấy phép xây dựng được cấp và các hành vi vi phạm
16
pháp luật khác liên quan đến hoạt động xây dựng; chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố về việc không phát hiện, xử lý nghiêm và kịp thời các hành vi
vi phạm pháp luật về hoạt động xây dựng.
2. Chỉ đạo Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn tăng cường quản lý các
hoạt động xây dựng trên địa bàn. Khi phát hiện hành vi xây dựng không phép, sai giấy
phép xây dựng được cấp, yêu cầu lực lượng Thanh tra Xây dựng phường, xã, thị trấn
phải xử lý nghiêm, kiên quyết theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số
180/2007/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị,
đồng thời xử phạt theo quy định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động xây dựng. Việc yêu cầu phá dỡ bộ phận công trình hoặc công trình vi phạm
phải căn cứ vào quy định tại Điều 12, Điều 13 Nghị định số 180/2007/NĐ-CP của
Chính phủ.
3. Xử lý nghiêm cán bộ buông lỏng trách nhiệm quản lý để xảy ra vi phạm trên địa
bàn phụ trách quản lý.
4. Thực hiện công tác báo cáo tình hình trật tự xây dựng trên địa bàn định kỳ hàng

tháng, quý về Sở Xây dựng để tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố, Bộ Xây
dựng.
II. Trách nhiệm của các sở - ngành
1. Sở Xây dựng có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, lập đoàn thanh tra, kiểm tra,
giám sát công tác xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị đối với Ủy ban nhân dân 24
quận, huyện, hướng dẫn, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho lực lượng Thanh tra
Xây dựng quận, huyện, xã, phường, thị trấn; phối hợp với Sở Nội vụ kiểm tra, đề xuất
Ủy ban nhân dân thành phố xử lý cán bộ, công chức buông lỏng quản lý trật tự xây
dựng và các biện pháp để quản lý trật tự xây dựng có hiệu quả. Đồng thời, theo dõi tổng
hợp, phân loại, đánh giá và báo cáo số liệu xử lý vi phạm định kỳ và đột xuất cho Ủy
ban nhân dân thành phố và Bộ Xây dựng. Kiên quyết xử phạt theo quy định của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, Nghị định số
180/2007/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị và
Quyết định số 15/2008/QĐ-UBND ngày 12 tháng 3 năm 2008 của Ủy ban nhân dân
thành phố ban hành Quy định về trách nhiệm quản lý chất lượng công trình xây dựng
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
2. Sở Giao thông vận tải chỉ đạo lực lượng Thanh tra chuyên ngành phối hợp chặt
chẽ với lực lượng Thanh tra Xây dựng quận, huyện, phường, xã, thị trấn xử phạt kiên
quyết các trường hợp vi phạm xây dựng các công trình trong hành lang sông, rạch theo
17
Chỉ thị số 27/2002/CT-UB ngày 19 tháng 12 năm 2002 của Ủy ban nhân dân thành phố
về tăng cường quản lý nhà nước đối với sông, kênh, rạch trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh; Quyết định số 319/2003/QĐ-UB ngày 26 tháng 12 năm 2003 của Ủy ban nhân
dân thành phố về ban hành Quy định về quản lý việc san lấp và xây dựng công trình
trên sông, kênh, rạch, đầm, hồ công cộng thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
3. Các Sở quản lý công trình xây dựng chuyên ngành: Sở Tài nguyên và Môi
trường, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công Thương, Sở Thông tin và
Truyền thông và các sở khác liên quan có trách nhiệm chỉ đạo lực lượng Thanh tra tăng
cường kiểm tra, đôn đốc, xử lý kịp thời các vi phạm trong lĩnh vực do mình quản lý, xử

lý nghiêm các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ an toàn công trình
lưới điện cao áp, hệ thống thông tin liên lạc, sông rạch, bờ kè…, báo cáo định kỳ 3
tháng gửi Sở Xây dựng để tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố và hướng dẫn
các chủ đầu tư công trình, dự án do sở, ngành quản lý thực hiện tốt các quy định tại
Quyết định số 15/2008/QĐ-UBND ngày 12 tháng 3 năm 2008 của Ủy ban nhân dân
thành phố ban hành Quy định về trách nhiệm quản lý chất lượng công trình xây dựng
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4. Các Ban Quản lý dự án, các Tổng Công ty có trách nhiệm chỉ đạo các phòng,
ban chuyên môn quản lý về xây dựng tăng cường công tác kiểm tra sau cấp phép trên
địa bàn quản lý, đình chỉ ngay các trường hợp xây dựng trái phép, không đảm bảo chất
lượng theo quy định tại Điều 67 Luật Xây dựng. Phối hợp với Thanh tra Xây dựng xử lý
kịp thời các hành vi vi phạm trong hoạt động xây dựng.
5. Các đơn vị liên quan:
- Công ty Điện lực thành phố, Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn chỉ đạo các đơn vị
trực thuộc tiến hành ngưng cung cấp các dịch vụ điện, nước theo đúng quyết định đình
chỉ thi công xây dựng và quyết định cưỡng chế phá dỡ công trình xây dựng do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành, nghiêm túc thực hiện theo quy định tại Nghị định số
180/2007/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị.
- Giám đốc Công an thành phố chỉ đạo Trưởng Công an các quận, huyện, phường,
xã, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với lực lượng Thanh tra Xây dựng phát hiện, xử lý
vi phạm trật tự xây dựng đô thị, thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu trong quyết định
đình chỉ thi công xây dựng, quyết định cưỡng chế phá dỡ của cấp có thẩm quyền đúng
theo quy định của Nghị định số 180/2007/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2007 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xây dựng về
xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị và Thông tư liên tịch số 04/2007/TTLT-BXD-
18
BCA ngày 07 tháng 7 năm 2007 của Bộ Xây dựng và Bộ Công an hướng dẫn phối hợp
xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động xây dựng.
- Giám đốc Sở Cảnh sát Phòng cháy và chữa cháy chỉ đạo các phòng, ban chuyên

môn tăng cường kiểm tra về công tác đảm bảo an toàn phòng cháy, chữa cháy và xử
phạt theo quy định tại Nghị định số 123/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2005 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa
cháy.
III. Tổ chức thực hiện
1. Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận, huyện, phường, xã, thị trấn, lực lượng
Thanh tra Xây dựng các cấp thực hiện chế độ kiểm tra thường xuyên theo quy định của
Chỉ thị này trên địa bàn mình quản lý. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục trên các phương
tiện thông tin đại chúng đến tất cả các tầng lớp nhân dân về nội dung Chỉ thị của Ủy ban
nhân dân thành phố.
2. Giao Giám đốc Sở Xây dựng, Giám đốc Sở Giao thông vận tải, Giám đốc Sở Tài
nguyên và Môi trường, Giám đốc Sở Công Thương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông, Giám đốc các Ban Quản lý,
Tổng Giám đốc các Tổng Công ty; Giám đốc Công an thành phố, Giám đốc Sở Cảnh sát
Phòng cháy và Chữa cháy, Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn, Công ty Điện lực thành
phố và các sở, ngành khác có liên quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện Chỉ thị này
trên toàn địa bàn thành phố.
3. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, các Sở, ngành được giao nhiệm
vụ nghiên cứu có văn bản đề xuất gửi về Sở Xây dựng tổng hợp trình Ủy ban nhân dân
thành phố giải quyết hoặc xin ý kiến Bộ Xây dựng và các Bộ chuyên ngành để được
giải quyết kịp thời.
4. Chỉ thị này có hiệu lực sau 10 ngày, kể từ ngày ký./.
Câu 16: Anh (chị) cho biết vai trò của Nhà nước thay đổi như thế nào trước
và sau đổi mới trong vấn đề cung cấp nhà ở? Phân tích ý nghĩa việc xây dựng nhà
ở xã hội hiện nay và đánh giá sơ bộ về giải pháp đang thực hiện ở địa phương?
Điều 134. Nội dung quản lý nhà nước về nhà ở
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện định hướng, chương trình, quy hoạch và kế hoạch
phát triển nhà ở.
2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về nhà ở và tổ chức thực hiện các văn bản
đó.

3. Ban hành tiêu chuẩn nhà ở và quản lý chất lượng nhà ở theo tiêu chuẩn nhà ở.
4. Công nhận quyền sở hữu nhà ở.
5. Cho phép hoặc đình chỉ việc xây dựng, cải tạo nhà ở.
6. Quản lý hồ sơ nhà ở.
7. Điều tra, thống kê, xây dựng dữ liệu về nhà ở.
19
8. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhà ở.
9. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu phát triển và quản lý nhà ở.
10. Quản lý hoạt động môi giới nhà ở.
11. Quản lý các hoạt động dịch vụ công về nhà ở.
12. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực nhà
ở.
Điều 135. Định hướng, chương trình và quy hoạch phát triển nhà ở
1. Căn cứ vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ ban hành định hướng
phát triển nhà ở quốc gia làm cơ sở hoạch định các chính sách cụ thể bảo đảm nhu cầu
thiết yếu của nhân dân về cải thiện chỗ ở.
2. Căn cứ vào định hướng phát triển nhà ở quốc gia, các chính sách về nhà ở, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh xây dựng chương trình phát triển nhà ở trên địa bàn trình Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh thông qua.
3. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trong việc lập, phê duyệt quy hoạch phát
triển khu dân cư, nhà ở và có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho phát triển nhà ở; chỉ
đạo tổ chức thực hiện chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà ở trên địa bàn.
Điều 136. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về nhà ở
1. Căn cứ Luật nhà ở, định hướng phát triển nhà ở quốc gia và tình hình cụ thể về phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý, sử dụng và phát triển nhà ở.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở ở trung ương trong phạm vi nhiệm vụ và quyền
hạn của mình chịu trách nhiệm ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành
văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng và phát triển nhà ở.
3. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình ban hành văn

bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng và phát triển nhà ở và tổ chức thực hiện các
quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng và phát triển nhà ở.
Điều 137. Cho phép, đình chỉ xây dựng, cải tạo nhà ở
1. Việc cho phép xây dựng, cải tạo nhà ở phải căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô thị và
điểm dân cư nông thôn.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện theo
phân cấp phê duyệt dự án phát triển nhà ở trên địa bàn.
3. Việc xây dựng, cải tạo nhà ở phải có giấy phép xây dựng của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, trừ trường hợp không thuộc diện phải có giấy phép xây dựng theo quy định
của pháp luật về xây dựng.
4. Việc xây dựng, cải tạo nhà ở không tuân thủ các quy định tại các khoản 1, 2 và 3
Điều này thì cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án phát triển nhà ở, cấp phép xây
dựng có quyền đình chỉ việc xây dựng, cải tạo nhà ở.
Điều 138. Công nhận quyền sở hữu nhà ở
1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cấp mới, cấp đổi, cấp lại Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cho tổ chức, cá nhân tạo lập nhà ở hợp pháp theo quy
định của Luật này.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở ở trung ương có trách nhiệm kiểm tra, giám sát
việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở trong cả nước.
20
Điều 139. Quản lý hồ sơ nhà ở
1. Cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý hồ sơ nhà ở quy định tại Điều
66 của Luật này đối với trường hợp do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở.
2. Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm quản lý hồ sơ nhà ở quy định tại Điều 66
của Luật này đối với trường hợp do Uỷ ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở.
3. Cơ quan quản lý hồ sơ nhà ở có trách nhiệm cung cấp các thông tin về hồ sơ nhà ở
khi tổ chức, cá nhân có yêu cầu. Người yêu cầu cung cấp thông tin phải nộp một khoản
phí cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật.

Điều 140. Điều tra, thống kê, xây dựng dữ liệu về nhà ở
1. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thống kê, xây dựng dữ liệu về nhà ở trên địa
bàn phục vụ yêu cầu xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở.
2. Định kỳ năm năm một lần, cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở ở trung ương thực hiện
điều tra, tổng hợp dữ liệu về nhà ở trên phạm vi toàn quốc.
3. Chính phủ bố trí ngân sách cho việc điều tra, thống kê và xây dựng cơ sở dữ liệu về
nhà ở.
Điều 141. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
nhà ở
1. Nhà nước có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho việc nghiên cứu, ứng
dụng khoa học và công nghệ và hợp tác quốc tế phục vụ yêu cầu phát triển và quản lý
nhà ở.
2. Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho việc ứng dụng công nghệ mới, vật liệu mới trong xây
dựng nhà ở bảo đảm chất lượng, tiến độ và giảm chi phí xây dựng.
Điều 142. Đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển và quản lý nhà ở
1. Nhà nước có chính sách đào tạo cán bộ, công chức, viên chức phục vụ cho phát triển
và quản lý nhà ở.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở ở trung ương quy định nội dung chương trình và
phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về phát
triển, kinh doanh và quản lý nhà nước về nhà ở cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức.
Điều 143. Quản lý hoạt động môi giới nhà ở
1. Tổ chức, cá nhân hoạt động môi giới nhà ở phải đăng ký kinh doanh hoạt động môi
giới nhà ở theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện tham gia hoạt động môi giới nhà ở.
3. Cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở ở trung ương ban hành quy chế tổ chức hoạt động
môi giới bất động sản nhà ở.
Điều 144. Quản lý hoạt động dịch vụ công về nhà ở
1. Tổ chức hoạt động dịch vụ công về nhà ở được thành lập để phục vụ nhu cầu của tổ
chức, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng nhà ở.

2. Cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở ở trung ương quy định các hoạt động dịch vụ
công về nhà ở áp dụng thống nhất trong cả nước.
21
3. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập tổ chức thực hiện các dịch vụ công về
nhà ở và ban hành quy chế hoạt động của tổ chức thực hiện các dịch vụ công về nhà ở
trên địa bàn.
Điều 145. Thanh tra thực hiện pháp luật về nhà ở
1. Thanh tra chuyên ngành về xây dựng chịu trách nhiệm thanh tra việc thực hiện pháp
luật về nhà ở.
2. Cơ quan quản lý nhà ở địa phương chịu trách nhiệm thanh tra việc thực hiện pháp
luật về nhà ở tại địa phương.
Điều 146. Cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nhà ở.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở ở trung ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về nhà ở.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở ở trung ương để thực hiện quản lý nhà
nước về nhà ở.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về nhà ở trên địa
bàn theo phân cấp của Chính phủ.
Chính phủ quy định mô hình tổ chức phát triển và quản lý nhà ở bảo đảm thực hiện có
hiệu quả mục tiêu phát triển nhà ở quy định tại Luật này.
- Vai trò của nhà nuớc trong việc cung cấp nhà ở xã hội (theo Luật Nhà ở do
Quốc hội ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005)
o Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển quỹ nhà ở xã hội để các đối tượng theo
quy định thuê, thuê mua.
o Hỗ trợ vốn từ ngân sách nhà nước
o Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần
kinh tế trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển quỹ nhà ở xã hội.
o Nhà nước miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với đất xây dựng nhà ở xã hội;

được miễn, giảm các khoản thuế liên quan theo quy định của pháp luật.
o Quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư xây dựng và xét duyệt đối tượng được thuê,
thuê mua và sử dụng quỹ nhà ở xã hội.
o Lập, phê duyệt và công bố quy hoạch xây dựng quỹ nhà ở xã hội
o Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền thực hiện giao đất hoặc cho thuê đất để đầu
tư xây dựng quỹ nhà ở xã hội.
o Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lựa chọn chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở xã hội
thuộc sở hữu nhà nước để cho thuê, thuê mua trên địa bàn, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện dự án.
o Thực hiện đấu thầu xây dựng quỹ nhà ở xã hội.
o Quy định cụ thể các nguồn vốn đầu tư xây dựng quỹ nhà ở xã hội, đơn vị quản
lý quỹ phát triển nhà ở và nội dung quản lý sử dụng quỹ này bảo đảm nguyên
tắc bảo toàn vốn.
o Thực hiện xét duyệt đối tượng và điều kiện thuê nhà ở xã hội và quyết định
người được thuê, thuê mua, quy định trình tự, thủ tục thuê, thuê mua nhà ở xã
hội.
22
o Xác định giá cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội.
o Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở.
- Vai trò của nhà nuớc sau này trong việc cung cấp nhà ở xã hội
o Xây dựng chính sách, quy hoạch quỹ đất phát triển nhà ở xã hội.
o Thực đấu thầu chọn nhà đầu tư.
o Xây dựng chính sách hỗ trợ về thuế và các chính sách khác cho đầu tư xây dựng
nhà ở xã hội và quản lý nhà ở xã hội.
o Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về đối tượng được thuê, thuê mua, qui
chuẩn xây dựng, khung giá cho thuê… để đối tượng đầu tư và quản lý nhà ở xã
hội thực hiện.
o Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở.
o Kiểm tra, giám sát việc xây dựng, quản lý nhà ở xã hội.
- Ý nghĩa việc xây dựng nhà ở xã hội hiện nay:

o Thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nhà ở, về
vấn đề dân sinh.
o Tạo nơi ở ổn định cho các người dân có thu nhập thấp chưa có nhà ở hoặc nhà ở
không được an toàn, xuống cấp.
o Góp phần ổn định dân sinh.
o Hạn chế tình trạng lấn chiếm, xây dựng trái phép trong khu vực làm phức tạp
hóa tình trạng quản lý đất đai, nhà ở.
o Quy hoạch và quản lý tốt về đất đai, phân bố dân cư đồng thời chủ động giãn
dân, quy hoạch vùng phát triển.
o Tạo khả năng quản lý tốt, tránh việc tụ tập không kiểm soát được do thiếu ổn
định trong chổ ở, chổ sinh hoạt, góp phần ổn định trật tự, an toàn xã hội.
o Thu hút lực lượng lao động cho thị trường tại chổ.
- Một số giải pháp của Thành phố Hồ Chí Minh - Nhận xét:
o Ủy ban nhân dân thành phố chỉ định đối tượng có nhu cầu sử dụng nhà tái định
cư mua lại các căn hộ chung cư sau khi được xây dựng xong, nghiệm thu và đưa
vào khai thác sử dụng. Giá mua căn hộ chung cư dành cho tái định cư bao gồm
các giá trị bồi thường giải phóng mặt bằng, giá trị xây lắp chung cư, giá trị cơ sở
hạ tầng phục vụ đời sống, sinh hoạt trong khu chung cư đó, trừ các hạng mục đã
được ngân sách đầu tư.
 2.2.1 Đối với các dự án xây dựng nhà tái định cư sử dụng vốn ngân sách, được
hỗ trợ từ 1% đến 5% giá trị xây lắp.
 2.2.2 Đối với các dự án xây dựng nhà tái định cư sử dụng các nguồn vốn khác
của chủ đầu tư, được hỗ trợ từ 6% đến 12% giá trị xây lắp Sở Xây dựng chủ trì phối hợp
với Sở Tài chính và Sở Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu trình Ủy ban nhân dân thành
phố ban hành quy định chi tiết cụ thể thực hiện mức hỗ trợ nêu trên cho các dự án đầu
tư. Nguồn vốn để hỗ trợ được trích từ ngân sách thành phố và các chủ đầu tư được hạch
toán khoản hỗ trợ này như là lãi định mức khi xây dựng cơ bản.
o Các dự án đầu tư xây dựng nhà chung cư phục vụ tái định cư được đưa vào kế
hoạch chương trình kích cầu thông qua đầu tư của thành phố, được bù lãi suất đối với
phần vốn mà chủ đầu tư vay để thi công xây lắp các chung cư tái định cư theo lãi suất

của ngân hành thương mại Nhà nước. Thời gian bù lãi suất và mức lãi suất bù được căn
cứ vào tiến độ thực hiện dự án đã được duyệt ; Sở Xây dựng chủ trì phối hợp Sở Kế
23
hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Quỹ đầu tư Phát triển đô thị thành phố trình Ủy ban
nhân dân thành phố quyết định cho từng dự án cụ thể.
o Trường hợp thi công ứng vốn, sẽ được ngân sách thành phố thanh toán sau một
tháng kể từ khi công trình hoàn thành được nghiệm thu đưa vào sử dụng. Nếu thanh
toán chậm hơn quy định, Ủy ban nhân dân thành phố sẽ thanh toán thêm phần lãi suất
phát sinh do thời gian thanh toán chậm theo tỷ lệ lãi suất của ngân hành thương mại Nhà
nước.
o Về bồi thường giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất xây dựng chung cư phục vụ tái
định cư :
 Đối với những dự án đầu tư chưa tiến hành bồi thường giải phóng mặt bằng kể
từ ngày ban hành Chỉ thị này, Ủy ban nhân dân thành phố bố trí đủ vốn trong kế hoạch
năm 2004 và năm 2005 để thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng, tạo đủ quỹ đất
cho việc xây dựng chung cư tái định cư. Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận -
huyện chủ động đẩy nhanh tiến độ bồi thường giải phóng mặt bằng ; giá trị bồi thường
giải phóng mặt bằng được tính vào giá thành xây dựng căn hộ chung cư phục vụ tái định
cư.
 Đối với những dự án đầu tư đang thực hiện hoặc đã tiến hành bồi thường giải
phóng mặt bằng trước ngày ban hành Chỉ thị này, giao Sở Xây dựng chủ trì phối hợp
với Viện Kinh tế, Sở Tài chính tính toán giá trị bồi thường giải phóng mặt bằng để đưa
vào giá thành căn hộ chung cư trình Ủy ban nhân dân thành phố quyết định đối với từng
dự án cụ thể.
oChủ đầu tư phải bảo đảm tuân thủ nghiêm về tiến độ thực hiện, về quy định
quản lý chất lượng và giá thành công trình đối với các dự án đầu tư xây dựng chung cư
phục vụ tái định cư. Cho phép chủ đầu tư được tự chỉ định cụ thể đơn vị tư vấn thiết kế
và tư vấn giám sát đủ trình độ, năng lực và uy tín đối với các dự án đầu tư theo Chỉ thị
này và chịu trách nhiệm đầy đủ trước Ủy ban nhân dân thành phố. Giao Sở Xây dựng
chủ trì phối hợp với Sở Tài chính dự thảo và trình Ủy ban nhân dân thành phố quyết

định về cơ chế thưởng, phạt thật nghiêm đối với các đơn vị tham gia xây dựng chung cư
phục vụ tái định cư theo Chỉ thị này.
oSở Xây dựng hướng dẫn các chủ đầu tư áp dụng thiết kế mẫu nhà chung cư
được chọn trong cuộc thi; lập kế hoạch tổ chức tiếp cuộc thi mẫu chung cư lần hai trình
Ủy ban nhân dân thành phố quyết định.
oUBND TP HCM vừa chỉ đạo các cơ quan chức năng về việc đẩy nhanh tiến độ
chương trình nhà ở xã hội giai đoạn 2006 – 2010. Sở Xây dựng có trách nhiệm phối hợp
với các sở - ngành liên quan tham mưu cho UBND TP trong tháng 3-2008 các giải pháp
nhằm sớm hình thành cơ chế, chính sách đồng bộ để đẩy mạnh hơn nữa tiến độ Chương
trình nhà ở giai đoạn 2006-2010 của thành phố. UBND TP khuyến khích các chủ đầu tư
xây dựng các loại hình căn hộ đa dạng, có tiện ích phù hợp với đối tượng thu nhập thấp
và trung bình trong xã hội, xây mới các chung cư hư hỏng nặng, di dời nhà ở trên và
ven kênh rạch.
oUBND TP.HCM đã chấp thuận địa điểm để Liên minh HTX thành phố thực
hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở tại xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh với quy mô
67,49 ha. UBND TP.HCM giao Sở Xây dựng làm việc với Liên minh HTX thành phố
và chủ đầu tư xác định cụ thể tỷ lệ đất của dự án để xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho
người thu nhập thấp, nhà ở kinh doanh theo hướng dành tối thiểu 60% cho nhà ở xã hội;
10% cho nhà ở cho cán bộ, công nhân viên, xã viên là người thu nhập thấp, khó khăn về
24
nhà ở (nếu các đối tượng này không đủ điều kiện theo quy định để được giải quyết nhà
ở xã hội), phần còn lại cho nhà ở kinh doanh
oBằng chính sách ưu đãi trong đầu tư, TP.HCM sẽ hướng các nhà đầu tư tham
gia mạnh mẽ hơn nữa vào chương trình xây dựng nhà ở xã hội:
 Ưu đãi đầu tư nhà cho người thu nhập thấp
Theo Ban chỉ đạo chính sách nhà ở và thị trường bất động sản TP.HCM, hiện nay
TP đã triển khai một số chương trình nhà ở trọng điểm.
Cụ thể, đã khởi công xây dựng 3 dự án xây dựng ký túc xá sinh viên, 8 dự án xây
dựng nhà lưu trú công nhân, sửa chữa cải tạo 6 chung cư quy mô 1.279 căn hộ tương
đương 52.106m² sàn, trong đó đã xây dựng hoàn thiện 13 chung cư quy mô 1.385 căn

hộ.
Đến nay, TP cũng đã hoàn thành hơn 8.320 căn nhà ở xã hội, tương đương trên
1,24 triệu m² sàn (vượt 13% so với chỉ tiêu 1,1 triệu m²). Đầu năm 2010, TP đã khởi
công xây dựng 3 dự án nhà ở xã hội với quy mô gần 1.400 căn, dự kiến hoàn thành vào
năm 2011 - 2012.
Phát triển nhà ở xã hội, nhà cho người thu nhập thấp, cho công nhân, sinh viên là
mục tiêu dài hạn của TP.HCM. Tuy nhiên, để có cơ sở xây dựng chiến lược phát triển
cụ thể, các Sở Xây dựng, Quy hoạch Kiến trúc, Tài nguyên - Môi trường và các cơ quan
liên quan phải tiến hành nghiên cứu, đánh giá lại thị trường bất động sản theo hướng
xác định rõ các nhu cầu khác nhau về nhà ở của người dân.
Thực hiện chính sách ưu đãi nhà ở cho người thu nhập thấp, Sở Xây dựng
TP.HCM vừa kiến nghị UBND TP xem xét tiêu chí diện tích bình quân nhà ở của gia
đình dưới 5m²/người (có xác nhận của địa phương nơi hộ dân cư trú) để xét chọn đối
tượng được mua, mua trả góp, thuê nhà ở thu nhập thấp vì hiện nay TP chưa xây dựng
được chuẩn thu nhập thấp.
Sở Xây dựng cũng đề xuất các cơ quan có thẩm quyền mở rộng cơ chế vay vốn
mua nhà dành cho người thu nhập thấp với lãi suất ưu đãi. Những trường hợp được vay
vốn mua nhà gồm người thu nhập thấp tại khu vực đô thị và cán bộ, công chức, viên
chức, lực lượng vũ trang hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
 Giải quyết cả trường hợp không đủ điều kiện tái định cư
UBND TP.HCM vừa chỉ đạo Sở Xây dựng kiểm tra, báo cáo tiến độ thực hiện,
thời gian hoàn thành, số lượng căn hộ các dự án xây dựng quỹ nhà ở xã hội, nhà ở thu
nhập thấp.
Đối với trường hợp không đủ điều kiện tái định cư và không còn nơi ở nào khác,
UBND TP yêu cầu không bố trí tái định cư các trường hợp này vào các khu nhà ở với
diện tích lớn mà chỉ bố trí vào các khu có diện tích đảm bảo mức tối thiểu cho sinh hoạt
của mỗi hộ nhằm giảm chi phí đầu tư.
Sở Xây dựng được giao chủ trì, phối hợp với sở - ngành chức năng, Quỹ Phát
triển nhà ở TP đề xuất cơ chế đầu tư xây dựng tạo ra quỹ nhà để giải quyết cho các đối
tượng nêu trên với phương thức quỹ cho vay, không tính tiền sử dụng đất, suất đầu tư

vừa phải để các hộ có đủ điều kiện mua, thuê.
Để hỗ trợ thực hiện cơ chế này, trong quy định của UBND TP về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn có hiệu lực từ ngày 8/6/2010,
mức hỗ trợ và đền bù tăng hơn so với trước đây.
Chẳng hạn, đối với hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà
nước thu hồi đất mà không có đất để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường bằng
tiền, người dân còn được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm. Trường hợp
25

×