Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

skkn Kinh nghiệm viết một bài văn hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.84 KB, 26 trang )

TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Kinh nghiệm viết một bài văn hay
Ngày s

ạn: 18/9/2008
Tiểu luận, phê bình văn học có thể có nhiều kiểu dạng khác nhau, với nhiều tầm cỡ, nhiều
khuôn khổ dài ngắn khác nhau. Tuy nhiên, nhìn một cách bao quát nhất, có thể gọi chung là thể văn
nghị luận văn học.
Nghị luận là bàn luận, là nói lí nói lẽ, là thuyết phục người đọc bằng lập luận lôgic chặt chẽ.
Nhưng đối tượng của nghị luận văn học lại là các hiện tượng văn học, các tác phẩm văn chương.
Đối tượng này không thể lĩnh hội chỉ bằng lí trí đơn thuần, bằng trí tuệ tỉnh táo. Trong lĩnh vực này,
mọi nhận thức chỉ có nghĩa lí khi kết hợp lí trí với tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Bêlinxki nói: "Thẩm
mĩ không phải là đại số ( ) ngoài trí thông minh và học vấn còn đòi hỏi cảm xúc về cái đẹp". Hoài
Thanh thì quan niệm, hiểu thơ là đồng cảm với tâm hồn thi sĩ. Vì thế ông chủ trương "lấy hồn tôi để
hiểu hồn người".
Vậy nghị luận văn học là thuyết phục người đọc bằng lí trí, bằng lập luận, bằng chứng minh
theo những quy tắc lôgic. Nhưng lí lẽ ấy phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức văn chương bằng
cả tâm hồn rung lên trước những hình tượng đẹp. Người viết nghị luận văn học, vì thế phải có hai
điều kiện chủ quan: tư duy lôgic va năng lực thẩm văn tương đối khá. Và một bài nghị luận văn học
hay cũng phải thể hiện được hai năng lực ấy. Tôi sẽ trở lại vấn đề này ở các phần sau.

I. KINH NGHIỆM LẬP Ý:
Kinh nghiệm viết một bài văn nói ở đây, tất nhiên là kinh nghiệm viết một bài văn hay.
Một bài văn nghị luận văn học hay trước hết phải có ý hay. Ý hay là ý đúng, ý sâu, ý mới,
ý riêng. Ý đúng, ý sâu phải là ý của mình mới hay. Cho nên tìm ra ý mới, ý riêng đúng và sâu là
công việc quyết định nhất và tất nhiên cũng là khó khăn nhất.
Văn chương không chỉ phản ánh sự sống mà chính nó cũng là sự sống - tất nhiên là nói văn
đạt phẩm chất nghệ thuật cao. Người nghệ sĩ tài năng có thể được xem là một tiểu hoá công,
nghĩa là tạo ra được sự sống. Một hiện tượng sống thì bao giờ cũng phong phú, đa chiều, đa dạng,
đa diện và vì thế đa nghĩa. Cho nên người ta nói một áng văn hay là một áng văn không có đáy,
nghĩa là khai thác mãi vẫn không cạn ý, cũng không hết nghĩa. Và mỗi độc giả, do vốn sống, vốn


văn hoá, trình độ thẩm mĩ khác nhau, có thể phát hiện ra ở cùng một tác phẩm văn học
những vẻ đẹp khác nhau và những ý nghĩa khác nhau. Cái gọi là ý mới, ý riêng của người viết
bài nghị luận văn học chính là ở đấy mà ra.

Dưới đây là một số kinh nghiệm tìm ý, lập ý:
1. Rút ra nhận xét khái quát từ những hiện tượng "ám ảnh" trong thế giới nghệ thuật
của nhà văn.
Đó là những hiện tượng được lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng nói lặp đi lặp lại thì chỉ
có nghĩa thuần tuý về số lượng. Nói "ám ảnh" mới bao hàm phẩm chất của hình tượng, nghĩa là
chứa đựng tư tưởng nghệ thuật, chứa đựng tâm huyết của nhà văn.
Thí dụ: Đọc các tác phẩm của Nam Cao, thấy ông hay nói đến hiện tượng con người
trước miếng ăn không giữ được nhân phẩm, nhân tính nghĩa là bị biến chất, bị tha hoá (Một
bữa no, Quên điều độ, Tư cách mõ, Trẻ con không được ăn thịt chó, Đòn chồng, Chí Phèo, Sống
mòn ). Từ đó, có thể rút ra nhận xét khái quát về tư tưởng chi phối sâu sắc những tác phẩm tiêu
biểu của Nam cao: ấy là nỗi đau đớn trước tình trạng con người không giữ được nhân tính,
nhân phẩm do miếng cơm manh áo. Ở tầng lớp trí thức nghèo thì đó là tình trạng chết mòn
(Sống mòn hay Đời thừa ); ở người nông dân nghèo, thì là tình trạng chết hẳn về tinh thần, mất
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
hết ý thức về cái nhục (Một bữa no, Tư cách mõ ), hoặc trở thành quỷ dữ (Chí Phèo) Như thế là
khác với Ngô Tất Tố, lên án xã hội cũ đã xô đẩy con người vào nạn đói, vào cái khổ; Nam Cao
cũng tố cáo xã hội ấy, nhưng ở chỗ nó lăng nhục con người, huỷ hoại nhân tính, nhân phẩm của con
người.
Một thí dụ khác: Nguyễn Công Hoan có sở trường đặc biệt về truyện ngắn trào phúng. Ông
tạo ra hàng trăm thiên truyện ngắn rất ngắn và rất vui. Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
thường được tổ chức xoay quanh một mâu thuẫn giữa hai hạng người. Ở những truyện viết về đề tài
xã hội, là mâu thuẫn giữa một gã nhà giàu nào đó với một người nghèo. Và Nguyễn Công Hoan
đứng hẳn về phía người nghèo để châm biếm, lật tẩy bản chất bất lương, vô liêm sĩ của kẻ giàu có
quyền thế cùng tay sai của chúng. Còn ở những truyện viết về đề tài luân lí gia đình, thì lại là mâu
thuẫn giữa một nam, một nữ hoặc lớp già, lớp trẻ. Và nhà văn đứng hẳn về phía nam giới và thế hệ

già. Ông đả kích rất ác loại phụ nữ gọi là tân thời và lớp thanh niên Âu hoá mà ông cho là đàng
điếm, hư hỏng, vô giáo dục.
Hiện tượng nói trên rất phổ biến trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng
tháng Tám, gần như không có ngoại lệ. Vì thế cần hết sức lưu ý. Từ những hiện tượng trở đi trở lại
với tần số cao ấy có thể rút ra nhận xét khái quát: về thái độ đối với xã hội thực dân, Nguyễn Công
Hoan có tinh thần dân chủ khá sâu sắc. Nhưng về quan điểm đạo đức trong quan hệ hôn nhân, gia
đình, ông tỏ ra hết sức bảo thủ lạc hậu.
Đọc Vũ Trọng Phụng, thấy ông hay dùng cụm từ "vô nghĩa lí" (đời vô nghĩa lí, loai người
vô nghĩa lí, con người vô nghĩa lí, hành vi vô nghĩa lí ). Từ đó có thể phán đoán: con người sính
khái quát, triết lí này đã ráo riết đi tìm nghĩa lí cuộc đời mà không hiểu được, đâu đâu cũng chỉ thấy
toàn chuyện vô nghĩa lí. Vì thế ông đã rơi vào tư tưởng bi quan định mệnh chủ nghĩa: định mệnh, số
đen, số đỏ, ấy là cách giải thích "thoả mãn" nhất đối với mọi thắc mắc về các hiện tượng vô nghĩa lí
trên đời
Tìm hiểu thơ của Hồ Chí Minh (phần lớn bằng chữ Hán, theo thể tuyệt cú) thấy ở câu cuối,
ở phần cuối của bài thơ tác giả thường tô đậm hình ảnh con người hoạt động, sự sống tươi vui, bình
minh rực rỡ:
Phương đông màu sắc chuyển sang hồng
Bóng tôí đêm tàn quét sạch không
(Giải đi sớm)
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
(Chiều tối)
Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh
( Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh)
Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi
( Buổi sớm)
v.v
Từ đó có thể kết luận: mạch thơ, hình tượng thơ của Bác Hồ luôn vận động hướng về sự

sống, ánh sáng và tương lai.

2. Đề xuất luận điểm từ sự so sánh những đối tượng cùng loại.
Tất nhiên so sánh theo quy tắc logic thì phải so sánh những hiện tượng cùng loại và trên
cùng một bình diện.
Hoài Thanh thường lập ý bằng cách này.Thí dụ ông so sánh hình ảnh Hồ Chí Minh trong các
bài thơ của Tố Hữu ra đời trong những thời kỳ khác nhau để thấy những đổi mới về nhận thức và
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
phát hiện những sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ ở mỗi tác phẩm. Xuân Diệu cũng làm như thế khi
bình thơ Huy Cận. Chẳng hạn ông so sánh hai bài thơ của Huy Cận ra đời trước và sau Cách mạng
tháng Tám cùng viết về mưa (Buồn đêm mưa và Mưa xuân trên biển) để thấy những chuyển biến tư
tưởng và nghệ thuật của tác giả. Mùa thu, cảnh thu là đề tài của hàng loạt bài thơ kim cổ đặc sắc. Vì
thế bình giảng thơ về đề tài này người ta cũng thường lập ý bằng lối so sánh.
Tôi cũng thường lập ý bằng cách đó.
Chẳng hạn so sánh những phát hiện khác nhau của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan và
Nam Cao về nỗi khổ của người nông dân trong xã hội cũ, qua ba tác phẩm Tắt đèn, Bước đường
cùng và Chí Phèo: "Khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan ra
đời, tôi chắc ít ai nghĩ rằng thân phận người nông dân dưới ánh đế quốc phong kiến lại có thể có
một nỗi khổ nào hơn những nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Nhưng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước
ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta thường nhận ra rằng, đây mới là hiện thân đầy
đủ những gì gọi là khốn khổ tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp,
bị cào xé, bị huỷ hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán chó, bán con, bán sữa nhưng đời
chị còn được gọi là người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình đi để trở thành
con quỷ dữ của làng Vũ Đại ".
Trong văn học Việt Nam, có một đề tài mà nhiều cây bút đề cập đến, đó là vấn đề miếng ăn:
Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tản Đà, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng So sánh cách
tiếp cận khác nhau về miếng ăn của những cây bút ấy, có thể phát hiện được nhiều thú vị. Ngô Tất
Tố đề cập đến miếng ăn của người nông dân nghèo là để nói đến nạn đói thê thảm ở nông thôn ta
ngày trước. Nam Cao nói miếng ăn là nói cái nhục của con người - miếng ăn là miếng nhục.

Nguyên Hồng đề cập đến miếng ăn của người dân nghèo lại phát hiện ra cái tinh tế, sành sỏi
riêng của khẩu vị người dân lao động. Còn Nguyễn Tuân lại tiếp cận miếng ăn không như một
thực phẩm, mà như một giá trị văn hoá nghệ thuật tinh vi "sang trọng", rất đáng tự hào của
một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến Nghĩa là từ một đề tài có vẻ hết sức nhỏ mọn là miếng
ăn, nhờ so sánh mà ta có thể phát hiện tư tưởng nghệ thuật rất khác nhau của các tác giả.
Để thấy được đặc sắc của những bức tranh thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu, tôi so
sánh với thơ Thế Lữ. Thơ Thế Lữ rất giàu chât hoạ (ông vốn là một hoạ sĩ). Màu sắc trong thơ ông
thường rõ ràng, có thể gọi tên ra được:
Ánh hồng tía rắc ngọc châu trên lá
Trời trong xanh, chân trời đỏ hây hây
( ) Trời cao xanh ngắt. Ô kìa !
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Nhưng trên những bức tranh của Xuân Diệu thì hình ảnh, màu sắc rất khó định danh. Có
một cái gì không rõ đường viền, là một thứ màu sắc, ánh sáng đang chuyển, đang ở dạng biến thái
rất khó nắm bắt:
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
( Xuân Diệu )
Nhưng chính cái hay, cái tài của thơ Xuân Diệu là ở đó, đúng như lời bình của tác giả Thi
nhân Việt Nam : " cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm
rất nhiều thơ mộng". Thơ Xuân Diệu tinh vi là ở đấy. Vận dụng kinh nghiệm của trường thơ tượng
trưng Pháp, đặc biệt là của Bôđơle, Xuân Diệu muốn ghi lại bằng ngôn ngữ thơ ca những biến thái
tinh vi của tạo vật và lòng người. Thậm chí ông còn muốn diễn tả cả những cảm ứng vô hình trong
đôi cánh của một con cò trên ruộng:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần

Một trong những vẻ đẹp độc đáo của thơ nghệ thuật Hồ Chí Minh là màu sắc cổ điển đậm đà. Vì
thế , bình thơ Bác, người ta thường so sánh với thơ Đường, thơ Tống. Chẳng hạn Xuân Diệu so
sánh bài thơ Nhập Tĩnh Tây huyện ngục của Bác với bài Độc toạ Kính Đình san của Lý Bạch; hoặc
như Hoàng Trung Thông so sánh bài Tẩu lộ của Hồ Chí Minh với bài Đăng Quán Tước lâu của
Vương Chi Hoán
Bình bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh tôi cũng lập ý bằng cách so sánh tiếng suối trong
thơ Bác với tiếng suối trong bài Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi: "Ta lắng nghe một tiếng hát từ xa
vọng lại. Không, đó là tiếng suối ngân nga trong rừng sâu:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Câu thơ đột nhiên có một dáng điệu trẻ trung rất thích. Hình như người xưa thường nói đàn
suối, phách suối, - "Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm" (Nguyễn Trãi) - chứ không nói suối hát
chăng? Một hiện tượng rất thực, phù hợp với cảnh vật và sinh hoạt của con người ta lúc bấy giờ ở
chiến khu Việt Bắc. Nhưng lối ví von thoát sáo ấy, đồng thời lại muốn đưa thẳng trí tưởng tượng
của nhà thơ vào cõi mơ màng: tiếng suối hay giọng người , âm thanh của tự nhiên hay điệu hát cất
lên từ một cõi xa xăm nào giữa rừng khuya lung linh bóng nguyệt?"

Trong quá trình tìm hiểu những cách tân của thơ Xuân Diệu, tôi đã nhận ra được một đặc
điểm độc đáo của thi pháp tác giả Thơ Thơ và Gửi hương cho gió bằng cách đối chiếu thơ ông với
thơ ca truyền thống: Trong cái vũ trụ nghệ thuật Xuân Diệu mà Xuân và Tình làm chủ "ngưòi ta
thấy một nguyên tắc mỹ học được xác định: vẻ đẹp của con người là vẻ đẹp chuẩn mực của vẻ đẹp
thế giới, vẻ đẹp của vũ trụ. Nếu như chúng ta nhớ rằng trong văn chương xưa, ngưòi ta lấy vẻ đẹp
của thiên nhiên làm chuẩn cho vẻ đẹp của con người thì mới thấy nguyên tắc mĩ học nói trên của
Xuân Diệu là cả một cuộc đỏi mơi đáng kể trong thơ ca Việt Nam hiện đại"
Thơ xưa viết về người đẹp thì nào là mặt hoa, tóc mây , mày liễu, làn thu thuỷ, nét xuân
sơn
Bây giờ Xuân Diệu so sánh ngược lại:
Lá liễu dài như một nét mi
Trăng vú mộng của muôn đời thi sĩ
Hơi gió thở như ngực người yêu đến
Mây đa tình như thi sĩ đời xưa

Quan niệm mĩ học ấy đã giúp ông sáng tạo nên một câu thơ vào loại tuyệt vời của nền thi ca VIệt
Nam hiện đại:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
và v.v

3.Ý kiến được xây dựng từ những phản đề.
Trong nghiên cứu văn học, nhiều khi ý kiến nảy sinh và hình thành nhờ nhu cầu phản
bác một luận điểm nào đấy.
Chúng ta biết rằng, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đất nước bước vào công cuộc
đổi mới sâu sắc và toàn diện. Nói riêng trong lĩnh vực văn học, nhiều hiện tượng văn học cần được
đánh giá lại theo tinh thần đổi mới, trong đó có trào lưu văn học lãng mạn giai đoạn 1930-1945.
Theo quan niệm cũ, trào lưu văn học này hết sức tiêu cực, độc hại. Nó đánh lạc hướng thanh
niên ra khỏi con đưòng Cách mạng mà Đảng đã vạch ra từ 1930. Nghĩa là về tác dụng khách quan,
nó có tính chất phản động. Thực ra thì không phải hoàn toàn như vậy. Vì hầu hết các cây bút lãng
mạn đều rất hăng hái tham gia cách mạng ngay khi cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công.
Riêng Xuân Diệu, Huy Cận thì đã tham gia từ trước đấy nữa.
Vậy thì phải phản bác quan niệm cũ nói trên như thế nào đây?
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Trong quá trình suy nghĩ về vấn đề này, tôi tình cờ đọc được một câu nói của một nhân vật
trong cuốn tiểu thuyết Cha và con của nhà văn Nga I. Tuôcghênhép như sau: "Anh bạn có thấy tôi
đang làm gì đây không? Té ra vali của tôi rỗng tuếch, tôi đang phải nhét cỏ khô vào. Chiếc vali
trường đời của chúng ta cũng thế đấy, ta phải nhét vào bất cứ thứ gì , cốt sao cho nó khỏi trống
rỗng".
Câu nói này đã gợi ý cho tôi hiểu được tâm lí xã hội của các thế hệ thanh niên trí thức thời
Pháp thuộc.
Hồi ấy Đảng hoạt động bí mật. Trong hoàn cảnh ấy có phải ai cũng có thể tiếp nhận được lí
tưởng của Đảng đâu. Trong khi đó thì tâm hồn con người ta không bao giờ chịu để trống không cả.
Quy luật tâm lí của con người ta, nhất là của thanh niên là như vậy. Không tiếp nhận được lí tưởng
của Đảng thì họ cũng phải "nhét" cái gì vao "hành lí tâm hồn" của mình chứ - dù là phải "nhét cỏ

khô"vào đấy. Đương thời bọn thực dân và tay sai chỉ mong muốn họ "nhét" những tư tưởng nô dịch,
chống cộng, tư tưởng sùng bái Đại Pháp, coi Tổ quốc là nước Pháp, coi nòi giống mình là người
Gô-loa Cố đạo Puyginiê đã từng mơ ước như thế khi vạch ra chương trình đồng hoá dân Viêt
Nam để cuối cùng biến nước ta thành "một nước Pháp ở hải ngoại".Nhưng do tinh thần yêu nước
không đến nỗi nguội lạnh , họ đã không chịu "nhét" những "của" ấy vào tâm hồn mình, dù chúng
được Nhà nước thực dân truyền bá hàng ngày bằng mọi phương tiện thông tin và bằng nội dung
chương trình của các nhà trường Pháp - Việt. Họ đã "nhét" Thơ mới lãng mạn vào đấy cùng với
những Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đôi bạn, Gió đầu mùa, Vang bóng một thời, Thiếu quê
hương
Họ làm như thế , trong hoàn cảnh ấy, có nên xem là có hại cho cách mạng không? Những
tác phẩm ấy đúng là không kêu gọi tranh đấu, không tuyên truyền cho cộng sản, nhưng cũng không
bán nước, không ca ngợi kẻ xâm lược. Ít ra nó cũng giúp độc giả thêm yêu mảnh đất đã sinh ra
mình, biết yêu tiếng mẹ đẻ, biết mất nước là buồn, là đau, biết Thiếu quê hương là bơ vơ tủi
nhục Như vậy không thể nói những tác phẩm văn chương ấy đã đầu độc tâm hồn con người , là
đẩy thanh niên xa rời con đường cách mạng. Trái lại, xét ở chừng mực nào đấy , những áng văn thơ
kia đã vô tình chuẩn bị cho con người đến với cách mạng dễ dàng hơn khi họ có điều kiện tiếp xúc
với lí tưởng của Đảng. Thục tế lịch sử đã chứng minh điều đó .
Nhà thơ Chế Lan Viên có bài thơ Hai câu hỏi. Bài thơ diễn tả cơ chế chuyển biến tư tưởng
và nghệ thuật của tác giả trước và sau Cách mạng tháng Tám:
Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình,
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt ;
Ta vì ai? Khẽ xoay chiều ngọn bấc,
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.
Nói chung, những nhà văn "tiền chiến" vào những năm 50, 60 của thế kỷ trước thường có
thái độ đối lập như thế giữa cái tôi riêng và cái ta chung, giữa cá nhân và cộng đồng.
Trong quá trình tìm hiểu con đường nghệ thuật riêng của mỗi nhà văn, tôi đã mượn cách
diễn đạt nói trên của Chế Lan Viên nhưng đồng thời bác bỏ sự đối lập cái tôi và cái ta của nhà
thơ. Tôi cho rằng con đường nghệ thuật độc đáo của mỗi nhà văn được vạch ra từ sự giải đáp khác
nhau về hai câu hỏi nói trên trong quá trình sáng tác: Ta vì ai? (là lí tưởng xã hội của nhà văn). Ta
là ai? (là sở trường riêng, phong cách nghệ thuật riêng của mỗi cây bút). Lời giải đáp đúng đắn chỉ

có thể có được bằng thực tiễn sáng tác của người cầm bút - qua sáng tác, nhà văn, cùng một lúc tìm
hiểu mình và tìm hiểu đời.
Trong lĩnh vực khoa học, nhiều luận điểm mới mẻ đã nảy sinh từ sự bác bỏ những luận điểm
nào đó. Vì thế việc tổ chức những cuộc tranh luận lành mạnh, dân chủ, bình đẳng là tạo ra những
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khoa học. Những ý kiến của tôi về Nguyễn Huy Thiệp, về
một số bài thơ của Bác như Tức cảnh Pắc Bó, Giải đi sớm, Ốm nặng, Cảnh chiều hôm đã nảy sinh
từ những cuộc tranh luận như thế "
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008

4.Ghim những câu hỏi trong đầu như những cái đinh để móc vào đấy những kiến thức thu
lượm được.
Để có ý hay, ý mới, điều quyết định là đầu óc phải luôn làm việc. Nhà thơ Xuân Diệu có
lần nói với tôi khi tôi than phiền nghĩ mãi không ra một ý gì để giải quyết một vấn đề khoa học mà
mình theo đuổi. Ông động viên tôi: "Cứ nghĩ tập trung mãi vào một điểm thì rồi thế nào cũng nghĩ
ra, đừng bi quan. Mình nhiều lúc cũng bí. Hết hạn nộp bài đến nơi rồi mà đầu óc vẫn trống trơn. Y
như nợ phải trả đến nơi rồi mà trong túi không có một xu. Vậy mà cứ nghĩ xoáy mãi vào một điểm
thật quyết liệt rồi ý cũng nảy ra và viết được.".
Tôi có một kinh nghiệm thế này: trong quá trình suy nghĩ, tất nảy ra những thắc mắc,
những câu hỏi. Đó là những đề tài của những bài nghiên cứu rồi có lúc sẽ được giải quyết. Hãy
ghim những câu hỏi ấy trong đầu như những cái đinh đóng trên tường để treo mũ, mắc áo hằng
ngày.
Đọc sách , đọc báo, nghe giảng bài hay nghe nói chuyện mà trong đầu không có sẵn những
cái "đinh" kia thì kiến thức nghe được, đọc được cũng tuột đi mất, vì không khắc sâu vào trí ta
được. Nhiều kiến thức rất thú vị đến với ta một cách hết sức bất ngờ và ngẫu nhiên do đọc
sách hay trò chuyện với ai đó. Nhưng nếu không có sẵn những cái "đinh" kia trong đầu thì có khi
cũng không bắt lấy được và để tuột mất . Những cái "đinh" kia có sức hút rất nhạy những kiến thức
liên quan đến nó, tức là những ý kiến làm cho nó được sáng tỏ. Một cái "đinh" nào đấy khi đã móc
được nhiều ý kiến rồi thì khi đó ta sẽ có đủ khả năng, có đủ luận điểm để giải quyết được một thắc
mắc, một câu hỏi, tức một đề tài khoa học nào đấy mà ta vẫn nung nấu trong đầu. Có nghĩa là ta có

thể xây dựng được một bài nghiên cứu có giá trị nhất định.
Một lần tôi tình cờ đọc được một bài viết của một tác giả Liên Xô bàn về cái tên cuốn tiểu
thuyết của Xtăngđan : Đỏ và đen. Tác giả bài viết cho rằng, cuốn tiểu thuyết đã mở đầu bằng mấy
chi tiết báo trước số phận của nhân vật chính là Giuyliêng Soren. Anh học trò này trước khi đến
nhận làm gia sư cho nhà quý tộc Đơ Rênan, đã đảo qua nhà thờ của thị trấn. Anh ta thấy màu đỏ của
tấm riđô nơi nhà thờ chiếu vào bình nước thánh, trông như máu, đồng thời nhặt được một tờ báo ai
bỏ lại đấy, đăng tin một vụ án mạng. Đấy là cái điềm báo trước số phận của Giuyliêng: anh ta sẽ can
tội giết người và bị án tử hình. Đỏ là máu, đen là tang tóc. Tên truyện Đỏ và đen diễn đạt dưới hình
thức biểu tượng cái điềm triệu kia mà tác giả Xô Viết gọi là chi tiết tiên tri dự báo. Tôi liền chộp lấy
ngay khái niệm này và mắc vào cái "đinh" ghim sẵn trong đầu về trường hợp tư tưởng bi quan định
mệnh chủ nghĩa Vũ Trọng Phụng thể hiện ở hàng loạt nhân vật thầy bói, thầy tướng xuất hiện như
những Quỷ Cốc tái sinh báo trước số phận những nhân vật chính như Mịch (Giông tố), Xuân (Số
đỏ), Phúc (Trúng số độc đắc)

Một lần khác, nhân đọc cuốn tiểu thuyết Anh em nhà Karamazôp của Đôtxtôiepxki, tôi thấy
có một nhân vật nói thế này: "Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người nói
riêng, tức là tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước nhiều khi tôi đã có dự định say
mê phụng sự nhân loại ( ) thế nhưng tôi lại không thể sống chung với bất kỳ ai trong một căn
phòng". Đó là loại người chỉ có cái mà Đôtxtôiepxki gọi là "tình yêu mơ mộng" chứ không có tình
yêu thật sự. Câu nói của nhân vật này khiến tôi liên hệ đến tình cảm nhân đạo vừa mênh mông bao
trùm cả nhân loại vừa rất cụ thể thiết thực của Bác Hồ thể hiện trong Nhật ký trong tù - đây cũng là
một cái "đinh" ghim sẵn trong đầu tôi khi nghiên cứu văn thơ Hồ Chí Minh. Tôi hiểu ra rằng: "Bác
Hồ không vì những mục đích xa mà quên những mục tiêu gần, không vì chú trọng lợi ích lâu dài mà
bỏ qua lợi ích trước mắt của quần chúng, không vì quan tâm đến cái nhân loại lớn mà thờ ơ với cái
nhân loại nhỏ hẹp quanh mình (tức những bạn tù) mà những vui buồn sướng khổ hàng ngày đã dệt
nên những cuộc đời cụ thể v.v
Như thế là những kiến thức có tác dụng giải quyết những đề tài của bài viết của mình nhiều
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
khi nằm ở những tài liệu chẳng có liên quan gì trực tiếp đến đề tài cả. Tuy nhiên muốn thu lượm

được những kiến thức như thế, trong đầu lúc nào cũng phải ghim sẵn những cái "đinh" như đã nói ở
trên.
Đọc sách, đọc vở nhiều khi vớ được những ý kiến có tác dụng rất lớn giúp mình giải
quyết không phải một đề tài mà hàng loạt đề tài. Đó là những ý kiến có ý nghĩa phương pháp
luận khoa học. Thí dụ ý kiến sau đây của Plêkhanov đã giúp tôi mở ra cả một phương hướng trong
nghiên cứu các hiện tượng văn học sử: "Nếu không hiểu tâm lí xã hội thì không thể tiến lên một
bước nào trong lịch sử văn học, nghệ thuật, triết học " Tôi đã theo phương hướng này để nghiên
cứu một cách có hiệu quả những đặc điểm của nền văn học hiện đại nước ta từ đầu thế kỷ XX đến
1945 và từ 1945 đến 1975, và hàng loạt nhà văn từ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn
Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, đến Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc
Thực tình mà nói, có một thời gian dài, bộ môn lí luận văn học của ta có những biểu hiện
giáo điều, xa rời đời sống thực tế sinh động và phức tạp của văn học. Muốn thoát ra khỏi sự trói
buộc của thứ lí luận "quan liêu" ấy, chỉ có một cách là trực tiếp gắn bó với "cây đời". Vì thế tôi rất
chịu khó tiếp xúc với cac nhà văn, trao đổi với họ, lắng nghe ý kiến của họ tự bạch về quan niệm
văn chương, về kinh nghiệm sáng tác. Nhiều ý kiến của họ đã gợi ý cho tôi giải quyết những vấn đề
mình băn khoăn, thắc mắc trong quá trình nghiên cứu văn học. Chẳng hạn, ông Hoài Thanh có lần
nói: "Người ta sáng tác bằng những ấn tượng lúc năm, bảy tuổi". Nguyễn Đình Thi thì cho biết, cái
ria mép của nhân vật địa chủ Hàn Thanh trong Vỡ bờ là được vẽ theo cái ria mép của một ông giáo
dạy nhà văn hồi học cấp I. Ông còn kể rằng hồi nhỏ, những buổi trưa ở lại trường, ông thường thích
nằm ngửa trên nệm cỏ sân trường ngắm nhìn bầu trời xanh lồng lộng trên cao. Sau này khi ông viết
bài thơ Đất nước, cái bầu trời rất xanh ấy đã trở lại trong tâm hồn ông với tâm trạng vô cùng náo
nức thấy mình được làm chủ giang sơn, trời đất của mình:
"Trời xanh đây là của chúng ta!
Núi rừng đây là của chúng ta!"
Những ý kiến ấy lập tức được mắc vào "cái đinh thắc mắc" đã ghim sẵn trong đầu tôi với
những day dứt không nguôi về nguyên nhân hình thành thế giới nghệ thuật riêng, phong cách nghệ
thuật riêng của mỗi nhà văn. Tôi tin chắc rằng, cái nhân tố hết sức quan trọng tạo ra hình tượng rất
riêng của mỗi nhà văn chính là môi trường xã hội, môi trường văn hoá, là cảnh vật thiên nhiên, là
không khí gia đình mà nhà văn từng hít thở từ tuổi ấu thơ. Những ấn tượng của môi trường sống
rất riêng ấy, bản thân chúng nhiều khi chẳng có ý nghĩa gì, vậy mà sẽ theo đuổi và ám ảnh nhà văn

cho đến suốt đời. Ấy là cái không khí thơ mộng và trữ tình của Huế đối với Tố Hữu, là cái sinh hoạt
"Vang bóng một thời" của cụ Tú Lan đối với Nguyễn Tuân, là cái không khí náo nhiệt và cái nắng,
cái gió của thành phố cửa biển đối với Nguyên Hồng, là cái làng sơn cước Ân Phú bên bờ sông La
với những bãi cát hoang vắng cổ sơ đối với Huy Cận, là cái gió biển nồng nàn của thành phố
Quy Nhơn đối với Xuân Diệu, là những tháp chàm Bình Định, dấu tích diệt vong của một dân tộc
từng có một thời oanh liệt đối với Chế Lan Viên v.v
Nói chung, một bài viết mà toàn là ý hay, nghĩa là ý mới, ý riêng cả là điều rất khó đạt
được. Nhưng trong mười ý thế nào cũng phải có được vài ba ý hay thì mới được gọi là bài văn
có giá.
Mỗi bài viết có một mặt bằng riêng cao thấp khác nhau do trình độ văn hoá, chuyên môn
khác nhau của mỗi cây bút. Trên cái mặt bằng ấy thế nào cũng phải nhô lên một số mũi nhọn,
tức là ý xuất sắc, độc đáo. Theo tôi, có đạt được như vậy thì mới nên cầm bút.
Có nhà lí luận phê bình sản xuất hàng trăm bài văn, hàng chục đầu sách, nhưng không có
được một mũi nhọn nào. Trong khi có người viết rất ít, nhưng bài nào cũng có ý riêng, ý mới và
sâu.
Công luận tất nhiên đánh giá cao cây bút thứ hai và đánh giá thấp cây bút thứ nhất - đánh giá
thấp bằng sự quên đi, thậm chí thấy tên người ấy kí dưới bài viết là không muốn đọc, vì sợ mất thì
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
giờ
II. BỐ CỤC MỘT BÀI VĂN
Tôi sẽ không nói ở đây những lí thuyết chung về cách dàn dựng một bài văn như thế nào.
Chẳng hạn bài văn phải có ba phần: mở bài, thân bài, kết bài. Thân bài gồm một số luận
điểm là một phán đoán nào đấy nhằm giải quyết một khía cạnh của đề bài. (Đề bài là một vấn đề
lớn, được phân tích thành nhiều vấn đề nhỏ, tức là một khía cạnh của đề bài).
Các luận điểm phải đồng đẳng, đồng hạng, được triển khai trong những đoạn văn tương
đương với nhau về độ dài. Các luận điểm không được giẫm đạp vào nhau, nghĩa là không bao gồm
lẫn nhau.
Các luận điểm phải được trình bày một cách có hệ thống tuân theo một trật tự lôgic nào
đấy, ví dụ, từ nội dung đến hình thức, từ nguyên nhân đến kết quả, từ chiều rộng đến chiều sâu v.v

Các luận điểm đưa ra phải thuyết phục người đọc về tính chính xác của chúng dựa
trên những luận cứ xác đáng (bao gồm những lí lẽ và những bằng chứng thực tế).
Tất cả những lí thuyết chung như thế, chúng tôi đã có dịp trình bày tỉ mỉ trong cuốn Muốn
vIết được bài văn hay (NXB Giáo dục, Hà Nội, tái bản lần thứ tư, năm 2000).
Ở đây tôi chỉ trình bày những kinh nghiệm riêng của mình mà thôi.

1.Về thân bài.
Khoan nói về các phần mở đầu và kết bài, hãy đi thẳng vào phần thân bài là phần có ý
nghĩa quyết định nhất đối với nội dung và giá trị một bài văn.

Về bố cục của thân bài, tôi rất tâm đắc với con số 3. Bố cục ba phần (gồm ba lụân
điểm) là bố cục chắc chắn nhất, đẹp nhất. Không phải ngẫu nhiên mà con số 3 là số "thiêng " của
hầu hết các tôn giáo phương Đông và phương Tây. Cho đến cả những thuật bói toán, phù chú của
nhiều dân tộc trên thế giới cũng rất tin ở con số 3. Ở ta , dân gian thường nói "vững như kiềng ba
chân". Bố cục ba phần quả là vững chắc thật. Hai phần thì không đứng được. Bốn, năm phần thì
không chặt chẽ lắm, sức tổng hợp, khái quát của người viết chưa cao.
Nói về sự nghiệp sáng tác của một nhà văn, bố cục ba phần là cổ điển nhất: quan điểm
sáng tác; quá trình sáng tác; phong cách nghệ thuật. Suy nghĩ về văn học nước ta thời kỳ từ đầu
thế kỉ XX đến 1945, tôi rút ra ba đặc điểm sau đây cho là đẹp nhất:
1. Nền văn học được hiện đại hoá.
2. Tốc độ phát triển hết sức mau lẹ.
3. Nền văn học phân hoá phức tạp thành nhiều bộ phận, trào lưu, trường phái khác nhau
Điểm 1 là nói diện mạo; điểm 2, nói tốc độ phát triển; điểm 3, nói cấu trúc của nền văn
học.
Tìm hiểu thời kì văn học từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975, tôi cũng thấy ba đặc
điểm sau đây thể hiện tính khái quát tổng hợp cao nhất:
1. Phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu.
2. Hướng về đại chúng, trước hết là công-nông-binh.
3. Chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn.
Điểm 1 nói mục đích; điểm 2 nói đối tượng; điểm 3 nói thi pháp.


Tất nhiên cũng có trường hợp tôi không sao khái quát được nội dung bài viết của mình thành
ba luận điểm. Ở những trường hợp như thế, dù bài văn cuối cùng phải viết ra với 4, 5 hay 6 luận
điểm ở thân bài, tôi thực tình vẫn không hài lòng lắm. Vì thế tôi rất vui, khi khái quát tư tưởng mĩ
học của Bác Hồ (qua sáng tác thơ nghệ thuật) thành ba điểm:
1. Cuộc sống của nhân dân trong cõi đời trần tục, trần thế này là đẹp nhất .
2. Như sự sống, cái đẹp không máy móc, chết cứng. Nó luôn luôn vận động hướng về sự sống,
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
ánh sáng và tương lai.
3. Cái đẹp là sự kết hợp hài hoà cái cổ điển, cái truyền thống và cái hiện đại, thời đại, từ nội
dung đến hình thức, từ tư tưởng đến nghệ thuật.

Về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám, tôi xác định ba điểm
là ba khía cạnh thể hiện cái ngông của nhà văn này:
1.Tiếp cận sự vật nghiêng về phương diện văn hoá nghệ thuật, phương diện thẩm mĩ; tiếp cận
con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sĩ.
2.Quan niệm cái đẹp là những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ.
3.Sở trường về thể văn "độc tấu" (tức tuỳ bút) với nhân vật "tôi" phóng túng, độc đáo, tài hoa.
Về thơ Xuân Diệu, tôi khái quát thành ba điểm, thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời
của thi sĩ:
1. Khẳng định cái tôi cá nhân trong quan hệ gắn bó với đời.
2. Đưa tình yêu thật sự là tình yêu vào thơ ca Việt Nam.
3. Thực hiện một cách tân táo bạo về thi pháp: coi con người giữa tuổi trẻ và tình yêu là chuẩn
mực của cái đẹp.

Nam Cao là nhà văn luôn luôn băn khoăn về vấn đề nhân phẩm, nhân tính của con người
trong xã hội cũ bị huỷ hoại vì miếng cơm manh áo và vì cái chất "hèn" đã thấm vào trong máu của
những thân phận nô lệ. Muốn nắm được tư tưởng ấy của Nam Cao, phải hiểu thế nào là nhân phẩm,
nhân tính trong quan niệm của nhà văn. Qua tìm hiểu các tác phẩm của nhà văn, đặc biệt là qua hai

tác phẩm Sống mòn và Đời thừa, tôi quy quan niệm về nhân tính, nhân phẩm của Nam Cao vào ba
điểm:
1. Phải có một lí tưởng xã hội cao cả.
2. Phải có tính đồng loại.
3. Phải có tri thức, có văn hoá để có thể sống một cách có ý thức và để hưởng cái hạnh phúc rất
trí tuệ của con người là biết thưởng thức vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật.

Tóm lại, viết một bài văn, thành hay bại, chủ yếu do phần thân bài quyết định. Chuẩn
bị viết một bài văn, trước hết là chuẩn bị nội dung cái thân bài ấy. Sau khi đã tìm được một khối
lượng ý tự cho là đủ để chứa đầy phần thân bài, thì, công việc quyết định nhất là tổ chức các ý lớn
hay nhỏ, chính hay phụ đó lại thành những luận điểm có tính đồng đẳng, đồng hạng. Bố cục
của phần thân bài văn là sự sắp xếp các ý đó theo một trật tự lôgic chặt chẽ. Nếu đạt được ba ý, ba
phần là đẹp nhất. Vũ trụ có "tam tài" - "thiên - địa - nhân", Phật có tam bảo, đạo Kitô có chúa ba
ngôi, Tam vị nhất thể. Con số 3 vẫn là sự khái quát thế giới chặt chẽ nhất, hoàn hảo nhất.

2. Mở bài và kết bài
Không thể nói, mở bài và kết bài là những phần có ý nghĩa quyết định đối với giá trị một bài
văn hay, nhưng vai trò của chúng cũng rất quan trọng.
a.Mở bài
Đối với văn nghị luận thì mở bài tức là đặt ra vấn đề mà bài văn sẽ bàn bạc và giải quyết.
Điều này không khó khăn gì lắm đối với người học trò khi viết một bài tập làm văn. Vì vấn đề đã có
sẵn ở đề bài rồi. nhưng đối với người nghiên cứu, phê bình văn học thì đây là vấn đề cực khó. Bởi
vì đặt vấn đề là phát hiện ra một khoảng trống nào đó mà khoa học chưa bù lấp được, chẳng
những phát hiện mà còn giải quyết được nữa - bài văn ra đời chính là vì mục đích ấy.
Cho nên đối với một bài tiểu luận, phê bình văn học, mở đầu hay nhất, hấp dẫn nhất là
đặt ra được một vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa sâu sắc và hấp dẫn. Mở đầu hay hay không, điều
quyết định là vấn đề đặt ra có hay hay không.
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Nhưng thôi, trong phạm vi bài này, không bàn sâu vào công việc của nhà nghiên cứu, chỉ

xin nêu lên một số kinh nghiệm về cách đặt vấn đề hay cách mở đầu một bài văn.
Trong bài phê bình tập truyện ngắn Hoa và thép của Bùi Hiển, tôi mở đầu bằng cách phê
phán cách trình bày cái bìa của tác phẩm: "Người trình bày cái bìa sách cho Bùi Hiển có lẽ chưa
đọc kỹ những truyện của anh. Màu sắc xanh đỏ tươi quá có phần hơi sặc sỡ. Bút pháp Bùi Hiển
không phải như vậy. Đúng là anh có nói đến hoa - từ đầu đến cuối toàn là thép và hoa. Nhưng đâu
phải hoa hường, hoa cúc ( ) phô trương rực rỡ. Anh chỉ thích hoa ngâu, hoa sói "hữu hương vô
sắc" ( ). Những nhân vật của Bùi Hiển đúng là như thế: hoa và thép của tâm hồn bao giờ cũng ẩn
kín ( ). Anh chọn toàn những con ngưòi bình thường, thậm chí có vẻ tầm thường nữa để tìm hiểu,
thăm dò. Ở truyện này, anh phát hiện ra hoa và thép ở một anh chàng bề ngoài dường như hết sức
xa lạ đối với hoa và thép (Cái mũ), ở truyện kia anh lại tìm ra thép ở những cô gái tưởng chừng
sinh ra chỉ để là hoa (Những đêm, Nhớ về một mùa thị chín ), ở truyện khác, trái lại, anh lại khám
phá ra hoa ở một con người mà dáng vóc, tướng mạo khiến người ta cứ lầm tưởng chỉ có thể là
thép (Hai giọt nước mắt của tiểu đội trưởng Bích Hường) "
Đây là cách mở bài gián tiếp, mượn cớ phê bình người vẽ bìa sách mà nêu lên những
vấn đề cốt lõi của bài viết: chủ đề, thế giới nhân vật, và phong cách nghệ thuật của tập truyện
Hoa và thép của Bùi Hiển ( ).
Trong bài dựng chân dung Nguyên Ngọc, tôi lại mở đầu bằng sự so sánh mình với tác gia
Đất nước đứng lên, Rừng xà nu mà tôi cho là một tâm hồn rất lãng mạn. Tôi tự nhận là một người
bình thường, khác với Nguyên Ngọc là con người của lí tưởng:
"Tôi quen Nguyên Ngọc đã lâu, dễ đến hai chục năm. Tính anh phóng khoáng, bia rượu
khá. Chúng tôi bia bọt với nhau đã nhiều lần ( ). Ấy thế mà không hiểu sao tôi cứ cảm thấy giữa
anh và tôi có một cái gì vẫn như có một khoảng cách ( ). Có lẽ vì anh theo đuổi một cái gì rất cao,
nên có những nguyên tác rất nghiêm. Còn tôi thì sống thế nào cũng xong. Có phần dễ dãi với mình
và cũng dễ mềm lòng trước những lời nói khéo, nói ngọt tuy biết rằng chưa hẳn đã là chân thật.
Nghĩa là sống thiếu nguyên tắc. Cái yêu, cái ghét của anh thì khác, phân minh lắm và không dễ
thay đổi, lắm lúc dương như là cố chấp. Vừa rồi Ban chấp hành Hội Nhà văn cấp cho anh mấy
triệu gọi là tiền bồi dưỡng sáng tác. Anh không nhận. Viết gì đã có nhuận bút, còn tiền kia là của
nhân dân, anh nghĩ thế và dứt khoát từ chối. Tôi thì nhận ngay và tiêu luôn. Đấy, cái gọi là khoảng
cách giữa tôi và anh là ở đó chăng"
Đặt vấn đề như thế vừa nêu được chỗ hay của Nguyên Ngọc, vừa nói được chỗ dở của

anh (cố chấp). Nhưng nói chung là ngợi ca chất lí tưởng, chất lãng mạn của con người này trong
tương quan so sánh với chỗ "tầm thường" của mình. Mở bài như thế thì ai có thể chê trách được!
Rất khiêm tốn mà!
Nói chung mở đầu các bài viết, tôi đặc biệt chú ý đến việc tìm cho mình một cái gịong
thích hợp và khơi gợi một không khí thích hợp.

Về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất nhiên phải có giọng trang nghiêm thành kính: "Nguời xưa
từng nói, văn chương của những bậc lấy việc hành đạo, cứu đời làm mục đích, tất cũng rộng lớn,
phong phú như cuộc đời. Đó không phải là thứ nghệ thuật của bồn hoa, chậu cảnh mà là vẻ đẹp
của đồng xanh nghìn mẫu, nước bạc muôn trùng. Phong cách văn Hồ Chủ tịch là như thế" (Bác
sống như trời đất của ta).
Nhưng viết về thơ Trần Đăng Khoa thì lại chuyến sang giọng khác. Cũng là ca ngợi
nhưng ngợi ca một cậu bé (lúc này Khoa mới 15, 16 truổi):
"Đã lâu tôi không đọc thơ Khoa, cũng không gặp Khoa, thành ra tôi không khỏi ngạc nhiên
khi thấy em viết như thế này về Mạc Thị Bưởi:
Cô bỗng thấy hiện lên
Giọng đồng chí bí thư huyện uỷ trang nghiêm:
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
- Trên các chiến trường
Giặc Pháp đang bị động ".
hay về thằng Tây đồn Coóc:
Ồ nhỉ? Có sao đâu
Lòng hắn hiu hiu nghĩ về nước Pháp
Mẹ hắn thương con, mái đầu sớm bạc
Vợ hắn nhớ chồng, mắt biếc nước sông Ranh
Thế là Khoa đã lớn thật rồi! Mới ngày nào còn sửng sốt về tài thơ của em bé tám, chín tuổi.
Bây giờ em đã nói toàn những chuyện người lớn, chuyện chính trị, chuyện thời đại, lại còn bàn
luận triết lí nữa. Mà ai bảo không đường hoàng, chững chạc!" ("Khúc hát người anh hùng" hay
"tiếng hát quê hương".

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tôi rất yêu quý. Khi anh ốm, tôi có đến
thăm anh mấy lần. Được tin anh mất, tôi vô cùng thương tiếc. Tạp chí Văn nghệ quân đội bảo tôi
viết một bài về anh. Ấy là bài Những ngày cuối cùng gặp Nguyễn Minh Châu. Mở đầu bài viết tôi
gợi lại những kỉ niệm với Nguyễn Minh Châu trong những ngày cuối cùng của anh, tất nhiên với
giọng tiếc thương đau đớn: "Vài năm lại đây tôi hay đến Nguyễn Minh Châu. Vì anh dễ tính và vui
chuyện. Nơi anh ở lại thuận đường tôi đi từ Hà Nội về nhà. Mới mùng ba tết vừa rồi, tôi đến anh,
hai anh em ngồi nói chuyện sôi nổi về thời sự văn học, thế mà bây giờ! Cuộc sống chúng ta sao có
lắm cái đau đớn làm vậy! Thời gian anh vào Nam chữa bệnh, tôi không đến thăm anh được. Nhưng
từ khi anh trở lại Hà Nội, lúc ở Bạch Mai, lúc ở 108, tôi đến anh luôn. Trước cái chết của một nhà
văn, người ta thường nghĩ đến sự bất tử của người cầm bút. Ôi thời gian, thời gian sẽ vùi lấp tất cả
nếu như người nằm xuống không để lại chút gì trong lòng người. Mà có được một chút gì như thế
thật khó vậy thay!
Thương xót người thân qua đời, người ta thường kể lể. Tôi tự nhiên cũng có giọng kể lể.
Trước cái chết, người ta thường nghĩ đến thời gian sẽ xoá đi tất cả và đặt vấn đề: người chết liệu
còn để lại cái gì có thể thắng được thời gian? Tôi cũng nghĩ như thế trước cái chết của Nguyễn
Minh Châu. Lời mở đầu đến với tôi một cách tự nhiên theo quy luật tình cảm của mình, không hề
có sự bố trí sắp đặt gì.

b. Kết luận
Đối với mỗi bài văn, tôi bao giờ cũng chú ý gia công lời kết luận, sao cho có dư ba. Như
âm hưởng ngân nga của tiếng chuông, lời kết luận phải gây cảm xúc bồi hồi và gợi được những cảm
nghĩ mông lung không dứt trong tâm trí người độc giả khi đọc xong câu cuối cùng của bài văn. Lời
hết mà ý cũng hết là kết luận không hay. Lời hết mà ý không cùng mới là lời kết có nghệ thuật.
Kết thúc bài Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng tôi nói đến cái cá tính dễ xúc động, dễ khóc
của nhà văn: "Nguyên Hồng là con người rất dễ xúc động, rất dễ khóc. Ai từng tiếp xúc với Nguyên
Hồng đều thấy như thế. Khóc khi nhắc đến nỗi khổ của con người trong xã hội cũ. Khóc khi nghĩ
đến công ơn của cách mạng. Khóc khi ôn lại những kỉ niệm thắm thiết của mình với bạn bè. Khóc
cả khi kể lại nỗi bất hạnh của những nhân vật do mình sáng tạo ra ( ). Nguyên Hồng đã sống hơn
60 năm, đã viết hơn 40 năm, ai biết được ông đã đổ ra bao nhiêu nước mắt cho đời và cho nghệ
thuật? Bây giờ nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy có bao giờ khô cạn được chăng?".

Lời kêt luận một mặt phải thực hiện chức năng thâu tóm lại nội dung cơ bản của thân
bài, mặt khác phải tạo được dư ba trong lòng người đọc. Thâu tóm nội dung không phải là
lặp lại đúng lời văn trong nội dung mà phải dùng một hình thức khác. Còn tạo được dư ba thì
phải phù hợp với nội dung của bài viết. Ở bài Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng thì dư ba phải là
gợi tình xót thương, nhớ tiếc bồi hồi đối với nhà văn yêu quý vừa vĩnh biệt chúng ta. Chọn vào
cái cá tính "dễ khóc" của Nguyên Hồng tôi cho là rất đích đáng.
Trong bài Lại đọc Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, nhân phân tích vẻ đẹp của nhân vật
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
quản ngục thể hiện ở thái độ ngưỡng mộ đến mức sùng kính đối với Huấn Cao, tôi chọn một lối kết
luận gợi ở người đọc những suy ngẫm rộng ra về cái sang, cái hèn, cái cao ca, cái đê tiện của
con người ta trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương ở trên đời:
"Cái cử chỉ đẹp nhất, cảm động nhất của nhân vật này (tức viên quản ngục) lại chính là cái
cử chỉ khúm núm trước người tử tù cái đêm Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục ( ). Có những cái
cúi đầu làm cho con người ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người đê tiện.
Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lẫm liệt hơn, sang
trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.
Chính Cao Chu Thần, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù, có một
câu thơ thật đẹp, thật sang:
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Một đời chỉ biết cúi đầu vái lạy hoa mai)
Cái cúi đầu của thầy quản ngục vái lạy Huấn Cao chính là cái cúi đầu của Cao Bá Quát
trước hoa mai vậy".
Cái gọi là dư ba của lời kết ở đây chính là gợi mở những ngẫm nghĩ về nhân cách con
người như nói ở trên, cùng một lúc với sự thâu tóm lại - thâu tóm không phải bằng sự lặp lại
mà bằng một hình ảnh mới mẻ hấp dẫn: Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao và viên quảm ngục
vốn là nội dung cơ bản của bài viết.
Nói chung đối với những cây bút lớn vừa qua đời thì để tỏ lòng yêu quý họ, không gì hơn là
nói đến sự nghiệp bất tử của họ. Trong bài viết về Xuân Diệu tôi kết thúc bằng cái ý ấy, tất nhiên
phải tìm cách diễn đạt mới mẻ và cảm động, lại có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của nhà thơ - vì đây là

lời kết luận:
"Thế Lữ đã đánh giá cao tài năng nghệ thuật của Xuân Diệu ( ) . Nhưng thực ra, điểm xuất
phát của Xuân Diệu đâu phải là chuyện tài. Cũng chẳng phải là chuyện thơ văn. Cao hơn nhà thơ,
cao hơn nhà nghệ sĩ là một trái tim hồng muốn đập mãi với cuộc đời này, một linh hồn chân thành
và rộng mở muốn sống mãi với cõi người bất diệt này. Vì thế mà Xuân Diệu đã tìm đến với thơ văn
như tìm thấy một lẽ sống".
Cuối tập Gửi hương cho gió, Ông có một bài thơ lấy tên Tình mai sau bắt nguồn từ một ý
thơ trong Truyện Kiều:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Xưa kia Thuý Kiều, nghĩ đến lúc quyên sinh đã để lại cho em và chàng Kim những vật
thiêng để gọi hồn mình: "Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa".
Ngày nay những vật thiêng Xuân Diệu để lại cho chúng ta là những vần thơ, những áng văn
sôi nổi tình yêu, chan chứa tình đời:
Nếu trang sách có động mình tuyết bạch
Ấy là tôi dào dạt với âm thanh
( ) Thơ tôi đó gió lùa đem toả khắp
Và lòng tôi mời mọc bạn chia nhau
Như vậy là trong cuộc quyết đấu với cái chết, cuối cùng nhà thơ đã chiến thắng".
Trong nhiều trường hợp tôi kết luận bằng một câu hỏi, khêu gợi sự suy nghĩ cho độc giả
khi đọc hết câu cuối cùng.
Bài về Tô Hoài:
"Được sống với một người bình thường, được sống như một người bình thường, đó là hạnh
phúc thiết thực nhất.
Được viết về những người bình thường, được tìm tòi khám phá con người ở phương diện
người thường, trong sinh hoạt đời thường, đó là văn chương nhân tình, nhân bản nhất.
Triết lí sống của Tô Hoài, quan niệm nghệ thuật của Tô Hoài là như thế chăng?
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Bài viết về cái "sướng" của Nguyễn Tuân:

"Đúng, Nguyễn Tuân là người sướng nhất.
Sướng vì chẳng cần chiều ai, chỉ chiều mình, tính khí kiêu ngạo, nhiều khi rất khoảnh, vậy
mà vẫn được quý trọng. Có lẽ liên tài là một đặc điểm của nhân tính chăng?
Bài về Quang Dũng:
"Có lẽ cái gốc lớn nhất của tài năng Quang Dũng là ở đó chăng: Chân thật rất mực với
lòng mình. Chân thật té ra là cả một bản lĩnh lớn lắm. Cho nên thơ cứ trong suốt mà gợi bao cảm
nghĩ bồi hồi:
Mẹ đã chiều em như gái nhỏ
Thềm cao em bước mắt tươi cười
Có những vợ chồng
Không là trăm năm
Bỏ em, anh đi
Đường hai mươi năm
Dài bao chia li
Quang Dũng bây giờ anh đang ở đâu? Hồn thi nhân đang lang thang nơi đâu? Hẳn anh
đang du ngoạn thảnh thơi giữa trời mây non nước xứ Đoài yêu dấu của anh. Bởi vì xưa kia anh
từng ao ước như thế:
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng "
Trong bài Nguyễn Tuân viết yêu ngôn, tôi muốn trong lời kết luận, khẳng định cái tài đặc
biệt viết về ma quỷ của Nguyễn Tuân. Nhưng tôi không muốn ca tụng một cách lộ liễu, nên mượn
một câu chuyện của Kim Lân kể về Nguyễn Tuân. Và cũng kết thúc bằng một câu hỏi: "Gần đây
nhà văn Kim Lân có cho tôi biết hiện tượng đặc biệt này ở Nguyễn Tuân: có một lần Kim Lân cùng
Nguyễn Tuân cùng đi một chuyến công tác ở nước ngoài. Đến một nước bạn kia thuộc vùng Đông
Âu, hai ông được xếp ở cùng khách sạn, mỗi người một buồng riêng rất đàng hoàng. Nhưng
Nguyễn Tuân lại mang hành lí lên phòng Kim Lân đề nghị ở chung. Và đêm nào cũng vậy, Kim Lân
bị đánh thức dậy vì Nguyễn Tuân bật đèn sáng, ăn mặc chỉnh tề, xếp quần áo đồ đạc vào vali, uống
cạn một li rượu rồi đi lại lộp cộp trong phòng y như sắp sửa lên đường vậy. Nhưng thực ra ông

chẳng đi đâu cả. Vì sau đó lại cởi quần áo, thu dọn mọi thứ và đi ngủ. Kim Lân rất bực vì bị quấy
nhiễu không sao ngủ được. Và ông không hiểu tại sao Nguyễn Tuân lại như thế. Giá một đêm như
thế thì bảo là khó ngủ. Nhưng đêm nào cũng thế. Vả lại khó ngủ tại sao phải ăn mặc cẩn thận và
sửa soạn hành lí làm gì? Cho đến nay, Kim Lân chưa tìm được câu trả lời cho câu hỏi ấy của mình.
Ông hạ giọng nói với tôi: "Này Nguyễn Tuân thế mà lại là tay sợ ma nhé! Hay ông ta cũng là ma!
Ma nên mới sợ ma. Ma nên mới viết về ma giỏi như thế chứ? "
Chả lẽ lại đúng như vậy sao?"
Tôi rất lấy làm đắc ý về cái kết luận này. Vừa vui, vừa đạt được ý khen. mà kín đáo, không
nịnh bợ, vừa tạo ra được một cái gì bâng khuâng trước một hiện tượng hư hư thực thực
Nói về chuyện kết luận thì có trăm nghìn cách. Nhưng cách nào thì cách đều phải cố thực
hiện được hai chức năng:
- Thâu tóm nội dung bài bằng một hình thức mới mẻ, ngắn gọn,hấp dẫn.
- Tạo được dư ba trong tâm tư tình cảm của người đọc.
Nhưng xét cho cùng, muốn đạt được hiệu quả đó phải chân thật, chân thật, chân thật.
Tài khéo đến đâu mà không chân thật cũng vất đi, có khi lại gây "phản cảm" nữa là khác.
Muốn gợi suy nghĩ cho người đọc thì bản thân mình cũng phải suy nghĩ thật sự. Muốn
gây cảm xúc bồi hồi thì bản thân mình cũng phải dạt dào cảm xúc. Có một anh bạn dạy văn ở
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Đại học Sư phạm Hà Nội, nói với tôi: "Đọc lời kết bài Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng của anh
đăng trên báo Nhân Dân, tôi chảy nước mắt".
Bố cục bài văn giống như bộ xương thì ghê sợ quá! Phải đắp da đắp thịt cho kín và phải cho
máu chạy trong huyết quản mới thành con người sống động và đẹp.
Vì thế nếu con người không được lộ xương cốt, thì bố cục bài văn cũng không được lộ liễu.
Bài văn hay là từ đầu đến cuối có vẻ tự nhiên phóng túng. Mạch văn chuyển tự nhiên như
không có bố trí sắp xếp gì cả. Vào đề cứ như lạc đề. Chuyển đoạn cứ như là không hề định
trước. Kết luận dường như là hết ý thì phải chấm dứt thôi.
Lộ bố cục, lộ dàn bài là văn học trò, là bài tập làm văn chưa thoát khỏi quy củ trường ốc.
Các em học sinh đọc đến đây, chắc sẽ đặt câu hỏi: chúng em chính là học trò, vậy làm sao
có thể thoát khỏi lối văn học trò?

Vâng, các em là học trò, đúng thế. Nhưng nhà trường không cấm, thậm chí khuyến khích
các em tạo ra những bài văn thật hay, cao hơn lối văn học trò.
Vì các em là những học sinh giỏi.

III. KINH NGHIỆM HÀNH VĂN
A.Viết văn là quá trình phấn đấu quyết liệt và liên tục.
1.Có ý hay mà không có văn hay thì ý không nổi lên được, tất nhiên bài viết không hấp dẫn
người đọc. Chế Lan Viên nói đúng: "Có những cách cày bừa tăng năng suất cho cây trồng. Có
những cách dùng chữ, viết văn tăng năng suất cho ý.".
Văn hay cũng có nhiều mức cao thấp khác nhau, phụ thuộc vào sự phấn đấu theo tiêu chí
cao thấp khác nhau của người viết. Đánh giá người viết văn giỏi, không nên căn cứ ở chỗ anh ta viết
nhanh hay chậm, chữa bản thảo nhiều hay ít, mà ở chỗ anh ta đạt đến cái hay ở mức độ nào.
Nhiều nhà văn lớn viết rất chân thật, bản thảo chữa đi chữa lại rất nhiều lần, thậm chí có khi
chữa mãi cũng chưa ưng ý vứt quách đi, không tiếc. Những tập bản thảo ấy, đối với người khác có
khi đã lấy làm thoả mãn lắm rồi. Đấy là do tiêu chí đánh giá cái hay của văn chương trong quan
niệm của mỗi người viết có mức độ cao thấp rất khác nhau.
Viết văn nên phấn đấu theo tiêu chí cao, hướng tới người đọc ở trình độ cao - cao về
văn, tất nhiên. Nghĩa là lấy mức văn của những ông ấy làm chuẩn. Khi viết, ta tưởng tượng những
độc giả ấy sẽ đọc mình và cố sức viết sao cho các vị ấy chấp nhận là được.
Khi Nhà xuất bản Văn học quyết định làm tuyển tập Nguyễn Tuân, ông giám đốc Lý Hải
Châu đề nghị hai người (ông Vũ Ngọc Phan và tôi) để Nguyễn Tuân chọn lựa. Vinh dự này khiến
tôi phải cố hết sức viết bài giới thiệu sao cho nhà văn ưng ý. Bài giới thiệu chỉ hơn 60 trang mà tôi
viết trong gần sáu tháng. Viết xong, hai chân bị phù nề vì ngồi lâu, xuống máu.
Thực ra, tự đánh giá đúng văn mìmh rất khó. Vì thế trong thời kỳ tập viết, nên đưa những
bài văn của mình cho những người có trình độ cao xem để họ đánh giá cho. Khi bài đã in ra, lắng
nghe dư luận đánh giá thế nào để rút kinh nghiệm. Có bài mình viết xong tưởng là được. Té ra
người ta chê không ra gì. Tất nhiên được những ông như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,
Hoài Thanh khen thì rất sướng và hoàn toàn có thể yên tâm. Cố nhiên không nên nghĩ rằng đã viết
được một số bài khá thì sẽ tiếp tục viết khá. Mỗi bài viết lại là một cuộc vật lộn mới, nếu không cố
gắng hết sức thì có thể viết xuống tay dần. nghĩa là thụt lùi một cách thảm hại. Thực tế, đã có những

cây bút như vậy.

2.Nhưng văn hay phải có cái gốc tư tưởng vững. Nhà thơ Xuân Diệu có lần nói với tôi:
"Vốn văn hoá, kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm sống, nếu chịu khó đọc sách, học hỏi ,rút kinh
nghiệm thì rồi sẽ có được. Nhưng điều quyết định là phải có cái gốc nhân tình thật vững thì mới
viết được tốt và mới đi xa được.".
Người ta thường nói văn phải có giọng riêng, văn phải có hồn. Hồn văn, giọng văn xét
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
đến cùng, bắt nguồn từ thái độ, tình cảm của người viết, nghĩa là từ tư tưởng riêng (không phải
tư tưởng vay mượn) thể hiện ở thái độ khinh-trọng, yêu-ghét riêng. Diễn đạt thái độ ấy một
cách chân thật thì tạo ra giọng văn riêng của mình. Đọc văn như thế, thấy có hình ảnh cái tôi của
người cầm bút hiện diện qua lời văn, qua những dòng chữ, cho đến cả cách đặt câu, dùng từ
Mạnh Tử nói:"Lời nói không ngay thẳng biết có điều che ám, lời nói quá quắt biết có bị
hãm về cái gì, lời nói cong queo biết có điều lìa lẽ phải, lời nói quanh quẩn biết có điều bị cùng
khốn". Từ Trình Khanh nói :"Nhân phẩm do sự tu dưỡng mà khác nhau, tài nghệ cũng do đổi dời
mà trái hẳn, cho nên những chính nhân hiền sĩ, lời thuần mà khí bình, những anh hào đại hiệp, lời
hùng mà khí mạnh, những cô thần nghiệt tử, lời gắt mà khí gấp, những dật dân di lão, lời kín mà
khí trầm, các nhà hiền lương văn học, lời nhã mà khí hoà, các bậc phi thần liệt sĩ, lời tôn mà khí
nghiêm, những mị phu cận thần, lời lả lướt mà khí tục tằn, những tuấn nam kì nữ, lời dâm đãng mà
khí hồi hộp"
Tôi có đưa ra khái niệm "sang" trong đánh gía văn chương - bên cạnh tiêu chí đúng - sai,
hay - dở.
Đúng vậy, gốc tư tưởng có tốt, gốc nhân tình có sâu, tư cách người viết có đàng hoàng
thì văn mới hay, mới sang được.

B. Một số thủ pháp hành văn cụ thể
Tổng kết kinh nghiệm viết, tôi có rút ra một số thủ pháp hành văn cụ thể. Thực ra khi viết
chưa hẳn đã có ý thức dùng thủ pháp này thủ pháp khác. Chẳng qua là nội dung viết tự nó đòi hỏi
phải viết như thế - nội dung quyết định ý thức.


1.Thủ pháp đòn bẩy
Muốn làm cho ý của mình nổi bật lên, gây được ấn tượng đậm nét ở người đọc, nhiều
khi phải dùng thủ pháp đòn bẩy.
Thí dụ: Trong bài Nguyên Ngọc, con người lãng mạn, để nêu bật cái ý mà tôi tự thấy là một
phát hiện này: "Nguyên Ngọc không phải chỉ viết truyện sử thi, viết văn lãng mạn. Anh thật sự sống
trong không khí sử thi và mang hẳn trong máu mình chất lãng mạn", tôi đưa cái ý tưởng không
đúng của mình trước đây về Nguyên Ngọc: "Về văn Nguyên Ngọc, thú thật tôi chỉ đọc có hai
tác phẩm Đất nước đứng lên và Rừng xà nu. Mà đọc không phải để nghiên cứu, nên cũng
chẳng cần nghiền ngẫm nhiều. Vì tôi cứ đinhninh, đến thời đổi mới này, anh không thể viết
được nữa. Anh chỉ có thể đổi mới bằng lí luận, bằng lí thuyết mới và bằng cách ủng hộ
những xu hướng sáng tác mới. Cái tạng của anh chuyên viết truyện anh hùng, với ngôn ngữ
sử thi tráng lệ hào hùng và cảm hứng lãng mạn sôi nổi, như Đất nước đứng lên, như Rừng
xà nu, bây giờ viết sao được nữa!".
Ý nghĩ này chính là cái đòn bẩy, cũng có thể gọi là một thứ phục bút, để làm nổi hẳn lên
cái ý mà mình rất tâm đắc sau đây: "Té ra tôi đã lầm, lầm to: anh vẫn viết, vẫn viết về người
anh hùng, vẫn viết bằng cái văn ấy, bằng cái giọng ấy, bằng cái cảm hứng lãng mạn sôi nổi
ấy".
Về bài Dại khôn Nguyễn Khải, để nêu bật cái dại của nhà văn rất khôn này, tôi trước hết nói
về cái khôn của anh đã. Lại khen cả cái "bốc" rất đáng yêu của anh khi phát hiện một văn tài mới.
Đấy cũng là một cái đòn bẩy để tô đậm cái dại của anh, khiến anh "bây giờ nghĩ lại, xấu hổ chết đi
được".
Cũng là một cách ấy, tôi so sánh tư tưởng của Ngô Tất Tố viết về cái đói và miếng ăn của
người nông dân, để nêu bật tư tưởng rất khác của Nam Cao cũng viết về đề tài ấy. Ngô Tất Tố viết
về cái đói, Nam Cao viết về miếng ăn. Ngô Tất Tố viết về cái khổ, Nam Cao viết về cái nhục,
truyện Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu đói, truyện Nam Cao là tiếng kêu hãy cứu lấy nhân tính, nhân
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
phẩm con người đang bị miếng ăn huỷ hoại


2. Lấy một hiện tượng trong đời sống thực tế quen thuộc có hình thức tương đồng để diễn đạt ý
tưởng.
Nói về sự xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết nhiều tập vào những năm 60 của thế kỷ vừa qua,
như Vỡ bờ, Bão biển, Những người thợ mỏ, Cửa biển v.v , tôi hình dung các tác giả của chúng như
những đấu thủ chạy đua dai sức nhiều vòng trên sân vận động - mục đích là để đánh giá cao sức viết
rất khoẻ của Nguyên Hồng: "Đọc bốn tập truyện của Nguyên Hồng, tôi bỗng nảy ra một ý
nghĩ vui vui: viết truyện dài cũng có thể được ví như người chạy đua dai sức chứ sao? Mỗi
vòng đua có thể ví như một tập sách phải hoàn thành. Vậy thì chung quanh đề tài Cửa biển,
cho đến nay, dễ đã có đến bốn, năm người bước vào cuộc đấu. Ở vòng đầu, nói chung, ai
nấy đều hăng hái. Có người chạy rất tốt và hứa hẹn nhiều triển vọng đã được người xem cổ
vũ nhiệt liệt. Nhưng đến vòng hai, xem ra đa số đều uể oải, có người đành phải bỏ cuộc.
Riêng Nguyên Hồng thì cứ đều đều một mạch chạy suốt bốn vòng, khi tới đích, mệt thì có
mệt, vẫn đủ sức giơ tayvẫy chào khán giả".

Kết thúc bài viết về bộ tiểu thuyết Cửa biển, tôi lại nẩy ra một ý khác: so sánh sáng tác tiểu
thuyết với việc tổ chức những trận đánh, nhằm tổng kết dưới hình thức ngắn gọn, dễ hiểu và vui về
chỗ mạnh chỗ yếu cơ bản của ngòi bút Nguyên Hồng, đồng thời cũng nhân đó, đưa ra nhận xét một
cách bóng gió về mấy nhà tiểu thuyết khác: "Viết tiểu thuyết có thể ví như tổ chức một trận
đánh trong nghệ thuật quân sự. Truyện ngắn, ấy là một trận nhỏ. Truyện dài, ấy là tiến
hành một trận đánh lớn, một chiến dịch. Muốn tổ chức một chiến dịch đạt kết quả tốt, tôi
nghĩ, một mặt phải có người chỉ huy giỏi, mặt khác phải có quân đội vững , hậu cần tốt.
Xem xét một số "chiến dịch" tiểu thuyết của tahiện nay, thấy có trường hợp người chỉ huy tỏ
ra rất sắc sảo, đường lối quân sự nắm vững, kế hoạch tác chiến rất thông minh, nhưng trận
đánh càng triển khai càng lúng túng, vì lương thực thiếu, quân lại không đủ mạnh, nhất là
quân chủ lực. Trận đánh của Nguyên Hồng có lẽ thuộc trường hợp ngược lại. "Chiến dịch"
Cửa biển như thế là đã kết thúc và đã giành được thắng lợi nhất định. Nhưng nếu như cũng
quân ấy, hậu cần ấy, mà chỉ huy tốt hơn nữa, mục tiêu nắm chắc hơn, chọn binh tuyển
tướng nghiêm khắc hơn, hành quân mau lẹ và phối hợp các binh chủng một cách chặt chẽ
và khẩn trương hơn thì chắc hẳn "chiến dịch" sẽ diễn ra một cách nhanh gọn hơn và thắng
lợi còn có thể lớn hơn". Tôi cho rằng cách diễn đạt này đã làm sáng tỏ chỗ mạnh, chỗ yếu, nhìn

trên nét lớn của bộ tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng: vốn sống phong phú, hình tượng chồng
chất, chi tiết bề bộn và sinh động, nhưng kết cấu không chặt, nhiều chương dài dòng luộm
thuộm ngược hẳn với chỗ mạnh, chỗ yếu của bộ tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi.

Nói về những bài thơ viết non, viết vội của Huy Cận trong tập Những năm 60, tôi đã ví nhà
thơ giống như "một đứa trẻ háu ăn, cứ đi đi lại lại nóng lòng sốt ruột qua một cái vườn ấy,
một gốc cây ấy của tâm hồn mình để chờ hái quả thơ vừa chín tới. Hái sớm, hái vội một
chút, cố nhiên là không có lợi cho thơ. Cho nên cũng là một gốc cây Huy Cận đó thôi mà
trái lần này xanh hơn, vị lần này nhạt hơn".
Nhìn một cách khái quát chỗ đứng của các nhà văn trong lịch sử văn học, tôi cho rằng nhà
văn chỉ có thể sống lâu dài với thời gian nghĩa là có vị trí vững chãi trong văn học lịch sử, khi tạo ra
được những kiệt tác văn chương, những đỉnh cao nghệ thuật. Vì thế tôi đã lấy hình ảnh này để diễn
đạt:"Đứng trước lịch sử văn học một dân tộc cũng giống như đứng trước một cảnh núi non
trùng điệp chạy giật lùi về phía chân trời của quá khứ: người ta chỉ có thể nhìn thấy được
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
những đỉnh cao mà thôi".
Nghĩa là đối với văn học đương đại thì người ta có thể thấy được tất cả, dù chỉ là những gò
đống. Nhưng lịch sử lùi xa mãi thì những gò đống sẽ bị xoá đi hết, chỉ còn lại những đỉnh cao.

3. Đưa ra những tiêu chí để phân tích đánh giá, bình giảng.
Những tiêu chí nói ở đây đều bắt nguồn từ những nguyên lí triết học, mĩ học, văn học, tâm lí
học, xã hội học v.v , nhưng phải được vận dụng một cách cụ thể, sáng tạo phù hợp với đối tượng
phân tích, bình giảng , đánh giá
Chẳng hạn tôi lấy tiêu chí "độ phóng đại" để đánh giá nghệ thuật trào phúng của Nguyễn
Công Hoan và Vũ Trọng Phụng. Muốn gây cười, nhất thiết phải phóng đại. Nhưng phóng đại đến
cái độ nào đấy thì phải dừng lại. Phóng đại chưa đến độ thì không đủ gây cười. Nhưng phóng đại
quá độ thì không giữ được niềm tin ở độc giả. Nguyễn Công Hoan nhiều khi đã phóng đại cái quá
độ ấy, nhất là khi ông viết về nhnữg phụ nữ có tư tưởng mới, đòi bình quyền, bình đẳng, đòi quyền
tự do luyến ái v.v Đọc những truyện ấy, người ta có thể buồn cười, nhưng không tin là có thật. Số

đỏ của Vũ Trọng Phụng thì khác: phóng đại dường như là hết sức thoải mái, tạo ra những nhân vật
kì quái đến vô lí như Xuân, TYPN, Phó Đoan, Cố Hồng, ông Phán mọc sừng, Min Đơ, Min Toa,
Văn Minh vợ và chồng, Lang Tỳ, Lang Phế, Cậu Phước, em Chã Vậy mà đọc đến trang cuối cùng,
ngồi ngẫm nghĩ thì thấy, té ra nhà văn chẳng nói điêu cho thằng nào, con nào cả. Xuân tóc đỏ, Phó
Đoan, Cố Hồng , chẳng những có thật mà còn đầy rẫy trong thiên hạ. Có nghĩa là thiên tài trào
phúng của Vũ Trọng Phụng đã cảm nhận được đúng cái độ phải dừng lại kia của nghệ thuật phóng
đại.

Khẳng định giá trị nghệ thuật nhân vật văn sĩ Hoàng của Nam Cao trong Đôi mắt và những
nhân vật của Nguyễn Thi trong cuốn tiểu thuyết viết dở Ở xã Trung Nghĩa, tôi đưa ra tiêu chí về sự
thống nhất biện chứng giữa cái ngẫu nhiên và cái tất yếu: "Có lẽ một trong những điều đặc sắc
nhất của tác phẩm là sự kết hợp đến mức nhuần nhuyễn giữa cái vô nghĩa và cái có nghĩa,
giữa cái ngẫu nhiên và cái tất yếu: Ông Tư Trầm thì phải có cái tên như thế. Thằng đại diện
Hiếm thì phải có cái bộ quần áo và cái giọng nói như thế, nó phải ngồi gọn gàng trên cái xe
đạp vừa chậm vừa nhanh để len lỏi lên họp quận. Còn thằng cảnh sát Âu thì nhất thiết phải
cưỡi lên cái xe gắn máy vừa nhanh vừa chậm như thế và có cái thói quen thắng mạnh xe lại
một cách đột ngột để cho cái hình đàn bà cởi truồng trước mặt nó phải bật ngửa ra tênh
hênh tô hô như ăn vạ. Thằng chủ ấp Ba Sồi cũng vậy, nhất thiết phải có cái búi tóc hủ lậu
bé choắt như trái cau và phải biết sợ vợ một cách khôn ngoan, cũng như vợ nó nhất định
phải to xác, cả miệng và chột mắt:"Nhất voi một ngà, nhì đàn bà một mắt"".

Bình bài thơ hay nhưng rất khó giảng là bài Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm, tôi lại đưa ra
khái niệm "siêu thơ" tôi phân biệt hai phạm trù thơ và Siêu thơ: "Thuộc phạm trù thơ là những
thi phẩm hay hoặc dở, nhưng đều có thể hiểu được, giảng được một cách rành mạch. Còn
bước vào phạm trù siêu thơ là bước vào một thế giới khác, thế giới siêu nhiên, siêu thực.
Một thứ thơ hướng nội ở độ sâu thẳm nhất. Nó đi hẳn vào cõi tiềm thức, vô thức và diễn tả
bằng chính ngôn ngữ mông lung vô thức ( ) Đây là thế giới không tuân theo lôgic thông
thường, không nói năng bằng cú pháp thông thường. Lời lẽ, chữ nghĩa, hình ảnh như là phi
lí, vô nghĩa ( ) Lá Diêu Bông là gì? Có cái lá gì trên đời này gọi là lá Diêu Bông? Vậy thì
tìm đâu cho thấy lá Diêu Bông? Nhưng chính cái ý nghĩa mơ hồ của nó và cái âm hưởng

của nó sao cứ văng vẳng như là tiếng nói, tiếng kêu, tiếng khẩn cầu của ai đó trên cánh
đồng trống vắng một buổi chiều đông bị gió đồng thổi bạt đi thành ra càng trở nên xa vắng
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
hơn và nghe mơ hồ như là tiếng gió
Có phải là linh hồn của đồng quê ta cất lên thành tiếng đó không? Có phải linh hồn
của những thôn nữ ngày xưa, của những cô Tấm, những Ngọc Hoa, Cúc Hoa, những Xuý
Vân đến chết vẫn còn vương vấn trên mảnh đất này với niềm khao khát yêu thương đó
chăng? Hay là chính linh hồn ta đó, hoà cùng linh hồn đất nước, cất lên thành tiếng gọi
thiết tha trên đồng chiều bạt gió:
Diêu Bông hời! ới Diêu Bông!
Vâng, tôi gọi như thế là phạm trù siêu thơ ".

Có lần tôi đã viết một bài nhan đề: Về khái niệm "sang" trong đánh giá văn học. Tôi
muốn bổ sung một tiêu chí đánh giá văn chương bên cạnh các tiêu chí đúng, sai, hay, dở, thường
dùng xưa nay. Tôi cũng hay vận dụng ý kiến của nhà văn Hêminguây về phần nổi phần chìm của
"tảng băng trôi" để phân tích tác phẩm của một số nhà văn Việt Nam, chẳng hạn như Nguyễn Tuân.
Tôi cho rằng lối ăn nói ngông nghênh, khinh bạc, gai góc của ông chỉ là thuộc cái phần nổi của tảng
băng trôi. Đọc Nguyễn Tuân, phải lắng sâu để hiểu được bảy phần chìm của tảng băng dưới nước.
Ấy là tấm lòng tha thiết với những gì đã tạo nên truyền thống văn hoá nghệ thuật lâu đời trên đất
nước này, đã tạo nên cái đẹp, cái sang, cái tài hoa thanh lịch của một dân tộc từng có hàng nghìn
năm văn hiến

Đề cập đến Xuân Diệu như nhà thơ lớn nhất của tình yêu trong văn học Việt Nam tôi khẳng
định đóng góp to lớn của ông đối với lịch sử văn học là đã lần đầu tiên đưa tình yêu thật sự là tình
yêu vào thơ ca nước ta. Luận điểm này buộc tôi phải định nghĩa thế nào là "tình yêu thực sự là tình
yêu". Đấy cũng là một tiêu chí đánh giá thơ tình trong văn học hiện đại: tình yêu là sự kết hợp
thống nhất hai quan hệ giữa nam và nữ: quan hệ nhục thể và quan hệ tinh thần. Đây là sự giao
cảm tuyệt đối và tuyệt vời giữa "anh" và "em" từ thể xác đến linh hồn. Lần đầu tiên trong lịch sử
thơ ca Việt Nam, Xuân Diệu đã nói được điều ấy một cách đầy ý thức và chân thật:

Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau hai mái tóc ngắn dài
( )
Trời cao trêu nhử chén xanh êm
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi ta muốn uống hồn em

Để khẳng định vị trí không thể thay thế được của Nguyên Hồng và Nam Cao đối với lịch sử
văn học dân tộc, tôi đưa ra tiêu chí sau đây: "Muốn biết một nhà văn có vai trò như thế nào
trong lịch sử văn học, nên trả lời câu hỏi này: giả sử không có cây bút ấy, thì bức tranh
rộng lớn của văn học phản ánh xã hội, đất nước và tâm hồn con người qua các thời đại, có
bị khuyết đi một chỗ nào đáng kể không? Nghĩa là đôí với nhiệm vụ của nền văn hoc dân
tộc, đấy có phải là một cây bút cần thiết không?"
Vận dụng tiêu chí này, dễ dàng thấy được vai trò văn học sử quan trọng của các nhà văn nói
trên. Không có Nam Cao thì lấy gì thay thế được bức tranh đầy ấn tượng của ông về tình trạng nông
thôn Việt Nam vô cùng đen tối, ngột ngạt dưới ách Pháp-Nhật, đến nỗi người nông dân bị huỷ hoại
cả nhân tính lẫn nhân hình và bị tước đoạt hẳn quyền làm người?.
Không có tác giả Cửa biển thì lấy gì thay thế được bức tranh đồ sộ hoành tráng của ông về
thành phố Hải Phòng trong những ngày bão táp lịch sử trước Cách mạng tháng Tám, những ngày
dân tộc quằn quại dữ dội trong cơn trở dạ để khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà?.
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008

4. Dựng không khí, diễn tả cảm xúc.
Văn nghiên cứu, phê bình văn học gần với văn sáng tác chính là ở chỗ này đây. Nó đòi hỏi ở
người viết phải có trí tưởng tượng phong phú và sáng tạo được hình ảnh. Đây là hình ảnh
chuyển tải cảm xúc thẩm mĩ.
Trước hết người viết phải có cảm xúc thật sự trước thế giới nghệ thuật của nhà văn (không
có cảm xúc thật thì hình ảnh vẽ ra chỉ là giả tạo và vô duyên, đọc rất chối, thà đừng dùng hình ảnh

còn hơn ).
Đây không phải là sự sao chép lại hình ảnh của nhà văn, nghĩa là trích dẫn dài dòng, la liệt.
Đây là thế giới hình tượng của nhà văn được soi rọi qua hoạt động tư duy tổng hợp và tâm hồn của
nhà phê bình và vì thế trở nên tập trung hơn, tổng hợp hơn, ngắn gọn hơn và nổi bật hơn.
Đây là đoạn diễn tả chất thơ rất khoẻ trong tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng mà tiêu
biểu nhất là chương mở đầu tập Cơn bão đã đến, kể chuyện mẹ La vượt ngục-một tứ thơ độc đáo,
vô cùng mãnh liệt vút lên từ bóng tối khủng khiếp của nhà tù đế quốc: " một đoạn thơ ca ngợi
ánh sáng và sự sống. Nhưng nào phải ánh bình minh với những ngón tay hồng hay vầng
trăng như liềm vàng đĩa bạc! Đây chỉ là một ngọn đèn dầu tù mù như chút linh hồn hấp hối
trong cái bệnh xá khủng khiếp của nhà tù Hà Giang. Chao ôi! Cái ngọn đèn nhập nhoè,
đùng đục ấy bỗng được vặn sáng lên vào một thời khắc nào đó, của những đêm đông dằng
dặc nơi núi rừng, thì có khác nào ánh hào quang lung linh nơi toà sen bảo tháp đối với
những người tù khổ sai đang tưởng mình bị vùi sâu dưới đáy cùng của âm ti địa ngục! Cái
ánh sáng ấy lọc qua sương đêm buốt lạnh, lọt vào khe cửa nhà giam, đã thức tỉnh mẹ La từ
cõi chết, làm sống lại trong tâm hồn người tù khổ sai này những kỉ niệm đầy chất thơ của
tình mẹ con, tình chồng vợ, tình quê hương, làng xóm và đã làm bùng cháy trong trái tim
người đàn bà vô cùng oan khổ này ngọn lửa căm thù mãnh liệt quyết chống lại số mệnh,
chống lại bóng tối đầy tử khí của nhà tù đế quốc. Tứ thơ thật là dữ dội đã cất lên trong âm
hưởng thảm đạm của tiếng kẻng tù, trong nhạc điệu hoang dại của gió rừng thác núi hoà
với tiếng rên rỉ của tù nhân và tiếng xích xiềng loảng xoảng".

Còn đây, tôi cố dựng lại cái không khí bức bối toát ra từ ba chương cuốn tiểu thuyết viết dở
của Nguyễn Thi: Ở xã Trung Nghĩa. Cái khó là phải vừa khái quát tổng hợp vừa bám vào những chi
tiết tiêu biểu, dùng tưởng tượng, chắp nối các chi tiết ấy lại, tạo nên bằng lời văn gợi cảm của mình
bức tranh có hồn thể hiện đúng cái hồn, cái không khí bao trùm lên những trang sách của Nguyễn
Thi: "Biết nói thế nào về cái không khí này ? Chỉ vài trang đầu thôi, người đọc đã cảm giác
được cụ thể một cái gì vừa oi ả bức bối, vừa tởm lợm tanh tưởi bốc lên từ cái bến tắm sặc
mùi cái chết của thằng Ba Kỳ dưới ánh nắng ban chiều còn nóng gắt. Cảnh vật thì trơ trụi,
trống rỗng như cái mặt bàn dá rộng quá khổ đặt trước cái thân hình nhỏ choắt lại của lão
đại diện Hiếm trong cái nhà công sở, tạo ra một khoảng trống vô nghĩa lí và "đầy sự phiền

muộn"; nhất là khi thằng cha bật ngửa người ra sau để tỏ vẻ ngạc nhiên một cách giả dối.
Có một cái gì thật khó tả bao trùm cả không gian và thấm vào hồn người; nó heo hút, xơ
xác, hoang vắng trên cáibóng lẻ loi của ông Tư Trầm, đầu lao về phía trước, đang ngật
ngưỡng bước thấp bước cao đi đến nhà công sở. Nó vừa ảm đạm, buồn tẻ, vừa chập chờn
hư thực một cách ma quái trong cái giọng nói của thằng đại diện. Cái thằng cha, sao nó lại
mặc cái bộ bà ba trắng xác như giấy? Giọng của nó thì cứ đều đều rủ rỉ, nửa như tâm tình ,
nửa như đe doạ, nửa nói chuyện với người khác, nửa như độc thoại nội tâm, tác động một
cách khó chịu mang tai ông Tư, gây ra cái cảm giác mà tác giả gọi là giống như đang ở
trong cái không khí những buổi bắt tà của lão thầy pháp Rôn nào đấy".
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Thực ra viết như thế không hẳn chỉ là chuyện kỹ thuật làm văn mà trước hết phải thực sự
sống với các không khí của truyện, thực sự hít thở trong không khí bức bối, ma quái rất khó chịu ấy
toát lên từ những trang viết của Nguyễn Thi.

5.Dẫn chứng, trích dẫn.
a.Phân tích, bình luận tác phẩm tất phải có trích dẫn văn bản. Lập luận thì phải có luận cứ,
phải tìm dẫn chứng để thuyết phục.
Nhưng viết nghiên cứu, phê bình không nên dẫn chứng nhiều. Nhà viết lịch sử văn học nổi
tiếng Lăng-xông (G.Lanson) viết về các nhà văn Pháp, phân tích tác phẩm của họ mà hầu như
không trích dẫn một câu văn nào của ai cả. Vậy mà thế giới hình tượng của các nhà văn ấy vẫn hiện
lên trước mắt độc giả với đặc điểm riêng, phong cách riêng rất cụ thể.
Nói như thế để thấy, phân tích văn mà trích dẫn la liệt là không hay ho gì. Chỉ nên trích
dẫn khi rất cần thiết và câu văn trích phải rất chọn lọc, phải rất đắt.
Nói về khuynh hướng sử thi trong văn học Việt Nam những năm chống Mĩ (1965-1975)
mà dẫn bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, tuỳ bút Đường chúng ta đi và truyện Rừng
xà nu của Nguyên Ngọc thì thật là đích đáng. Phân tích tâm lí lãng mạn của con người ta thời
kháng chiến tuy đứng trong gian khổ mà tâm hồn luôn sống với lí tưởng, với tương lai, thiết
tưởng không có bằng chứng nào hay hơn là mấy câu thơ Tố Hữu trong Ba mươi năm đời ta có
Đảng:

Củ khoai, củ sắn thay cơm
Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng
Hớp ngụm nước suối trong đỡ khát
Trông trời cao mà mát tâm can.
Lấy cảnh đói nghèo của làng quê ta ngày xưa để giải thích cảm hứng dạt dào của Xuân
Diệu trong bài Ngói mới, không gì thú vị bằng dẫn hai câu thơ lục bát của Trần Đăng Khoa:
Mái tranh ơi hỡi mái tranh,
Thấm bao mưa nắng mà thành quê hương!
Có trường hợp tôi phải tìm nhiều dẫn chứng để khẳng định một luận điểm. Ấy là trường hợp
viết về Nguyễn Đình Thi. Tôi cho rằng Nguyễn Đình Thi có một vùng thẩm mĩ riêng, nghĩa là chỉ
viết về đối tượng ấy thì mới có cảm hứng thực sự và viết hay. Ấy là đất nước đẹp trong đau thương,
lam lũ, bất hạnh:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi tắn vô ngần.
Nhưng Nguyễn Đình Thi là người đa tài. Ông viết đủ các thể loại văn và thơ. Vậy muốn
thuyết phục được người đọc cũng phải tìm dẫn chứng trên đủ các thể loại sáng tác ấy. Tìm ra được
những bằng chứng đích đáng, rất đắc ý:
Thơ: Quang cảnh phố xá Hà Nội đẹp trong hoang vắng, buồn:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Hình ảnh đất nước như một cơ thể bị cào xé, đau đớn:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
( Đất nước )
Tượng trưng cho đất nước là những cô thanh niên xung phong vất vả lam lũ:
Em đứng bên đường như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường
( Lá đỏ )
Tiểu thuyết: Vỡ bờ tập I: đất nước bất hạnh viết hay hơn Vỡ bờ tâp II: đất nước vùng lên,
gv: Vò Trung Kiªn

TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
cách mạng thành công.
Kịch: Nguyễn Đình Thi dường như chỉ có cảm hứng "Nguyễn Trãi ở Đông Quan", Nguyễn
Trãi bị cầm tù, Thăng Long bị chiếm đóng; không có cảm hứng Nguyễn Trãi ở Lam Sơn, Nguyễn
Trãi anh hùng, đất nước chiến thắng.
Nhưng thú vị nhất là dẫn chứng này: trong một bài nói chuyện ở lớp viết văn Nguyễn Du
khoá I, để minh hoạ một ý kiến nào đấy, Nguyễn Đình Thi đã thuật lại một đoạn văn của L. Tônxtôi
trong Chiến tranh và hoà bình: "Nguyên soái Kutudốp chủ trì một hội nghị tướng lĩnh trong một cái
lán của một nông dân Nga giữa cánh đồng. Ông có thói quen ngủ gật khi người ta bàn cãi về quân
sự. Chợt ông tỉnh dậy, thấy ở một xó góc lán, có một em gái Nga lam lũ, tiều tuỵ, có đôi mắt rất
sáng và hồn nhiên nhìn ông đầy thương mến. Ông xúc động, nói thầm với mình: Đây mới là nước
Nga! Em bé gái kia mới đích thực là nước Nga, chứ không phải là lũ tướng tá đang ba hoa kia".
Nguyễn Đình Thi kể đến đấy cũng cảm động quá, ông khóc và dừng lại, không nói được
nữa.
Như gặp một thời cơ may mắn, tôi "chộp" ngay lấy đoạn thuật kể trên của Nguyễn Đình Thi
như một bằng chứng thích đáng. Vì L.Tônxtooi thực ra có viết như thế đâu! Không hề có em gái
Nga ngồi ở gốc lán trước mặt Kutudốp để vị nguyên soái nói thầm với mình một cách thiết tha:
"Đây mới là nước Nga!".
Tôi kết luận: Đây là nước Nga của Nguyễn Đình Thi chứ không phải của Kutudốp-
Nước Nga của Nguyễn Đình Thi mới nghèo khổ và lam lũ như thế!.
Nói chung dẫn chứng phải đích đáng đã đành, nhưng còn phải đa dạng, mới mẻ, không
được trùng lặp, đơn điệu hoặc quá quen thuộc, ai cũng có thể dẫn ra ngay được. Nghĩa là dẫn
chứng phải là một phát hiện của riêng mình.
Trong bài viết về thơ Chính Hữu mà tôi đặt tên là Chính Hữu hành quân trên những trang
thơ, tôi có nhận xét: Thơ Chính Hữu luôn luôn nói đến hành quân, tiến quân. Và tôi rất sướng khi
tìm ra được dẫn chứng này: dưới ngòi bút của nhà thơ, những con chữ vốn nằm im trên mặt giấy
cũng có thể đứng dậy và hành quân: ấy là những con chữ trong một lá thư cũ một người vợ dân
công gửi chồng bộ đội:
Viết thư cho ta ngổn ngang từng nét
Như gồng như gánh dân công

Ánh mực lập loè đường xa lửa đuốc

b.Viết văn nghị luận, phê bình nhiều khi phải dựa vào ý một nhà nghiên cứu nào đó làm luận
cứ cho những phán đoán, những luận điểm của mình.
Nhưng cũng không nên viện dẫn nhiều. Sính trích dẫn sách vở chỉ là bệnh của bọn học trò
khoe kiến thức mới học được. Theo Hoàng Ngọc Hiến, đọc sách đọc vở nhiều là rất cần, nhưng phải
"nuốt" vào trong bụng cho nó tiêu hoá đi. Kẻ hay phô bày sách vở là kẻ vừa ăn vào lại "nhả" luôn ra
trên mặt giấy. Tức là chưa tiêu hoá để biến thành của mình. Chỉ nên "nhả" ra những ý kiến riêng của
mình thôi.
Tuy thế đôi khi cũng phải trích dẫn. Một ý kiến người khác thì nhất thiết phải trích dẫn. Đấy
là đạo đức khoa học. Nhưng theo tôi câu trích dẫn nên chia làm hai loại.
- Một là loại ý kiến nổi tiếng, giới văn học ai cũng biết cả-loại này, dù có biết đích xác xuất
xứ cũng không nên nói rõ ra làm gì. Nói rõ những điều ai cũng biết, là sự cẩn thận của văn học trò,
của luận án nghiên cứu sinh. Theo tôi chỉ nên viết thế này: "người ta thường nói " hoặc "có ai đó
đã nói thế này ". Cẩn thận hơn nữa thì viết: "Có một người Pháp hoặc có một nhà văn Nga phát
biểu thế này ". Để làm duyên có khi lại giả vờ quên: "Hình như có một người Pháp đã nói thế
này "v.v Nếu câu trích dẫn hay bài văn trích dẫn quá quen thuộc, thì có thể trích nửa câu hoặc chỉ
gợi ra một ý, một tình tiết nào đó thôi. Chẳng hạn có thể viết: "Tôi bỗng nhớ bài thơ Bất tri tam
bách của Tố Như xưa " hoặc là: "Tôi bỗng liên tưởng đến nỗi lòng của Giang Châu Tư mã trên bến
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Tầm Dương của Bạch Cư Dị thuở nào v.v ".
- Tuy nhiên có những ý kiến chẳng những phải trích dẫn đầy đủ mà còn phải nói rõ xuất xứ
nữa. Ấy là những ý kiến ít người biết và nhằm làm luận cứ cho một luận điểm nào đó của riêng
mình-một luận điểm mới mẻ, chưa dễ được chấp nhận ngay trong giới khoa học.
Chẳng hạn, để nói về quan niệm tình yêu đích thực có cơ sở quan hệ nhục thể giữa nam và
nữ (trong bài viết về thơ tình Xuân Diệu), tôi phải trích dẫn Ănghen: ông "châm biếm thứ thơ tình
của một nhà thơ đạo đức giả người Đức thế kỉ XI mà ông gọi là "thơ tình của một người thiếu bộ
máy sinh dục", và ông đã ca ngợi "thơ tình của Véctơ, một nhà thơ cách mạng, bạn chiến đấu của
Mác và Ănghen đã biểu hiện một tính nhục dục và những thèm muốn nhục dục thật là lành mạnh và

cường tráng" ( Về văn học nghệ thuật C.Mác và Ph.Ănghen, NXB Sự thật, Hà Nội, 1958, trang
372) v.v

6.Đặt câu, dùng từ.
Ở đây không nói chuyện viết sao cho đúng, ngữ pháp, câu có đủ thành phần chủ vị, đủ mệnh
đề chính, mệnh đề phụ. Ở đây chỉ nói yêu cầu viết sao cho hay. Cũng không nói chuyện phải dùng
từ đúng nghĩa mà nói dùng từ sao cho hay.
Đặt câu dùng từ cho hay, theo kinh nghiệm của tôi, nên đạt được những yêu cầu sau đây:
a.Hoà phối âm thanh, nhịp điệu.
Để câu văn dể lọt tai người đọc, phải cân nhắc âm thanh nhịp điệu. Điều này đòi hỏi
phải có vốn từ ngữ phong phú để chọn chữ chẳng những phải đúng nghĩa mà còn phải có thanh điệu
trầm bổng nhịp nhàng. Điều này hết sức quan trọng đối với những câu dài, nhiều mệnh đề chồng
chất. Phải vận dụng luật bằng trắc, vận dụng phép đối ý, đối thanh cho hài hoà. Không đạt được như
thế thì câu văn trở nên lủng củng, ý nghĩa tối tăm, rối rắm. Đây là chỗ cần đến cái tai thẩm âm tinh
tế của người viết văn nghị luận, phê bình. Nguyễn Tuân nói rất đúng: "Có những tiếng những chữ
mỗi lần vác từ trong kho dân tộc ra mà dùng, cần phải gieo nó xuống, cần phải gõ nó lên
mà đo lại cả những vòng ngân vang hưởng của nó".
Đây là đoạn văn tôi so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa hình ảnh Bác Hồ trong bài Tức
cảnh Pác Bó với hình ảnh Nguyễn Trãi trong Côn Sơn ca. Giống nhau ở phong thái ung dung, tâm
hồn chan hoà với tạo vật trong cái gọi là "thú lâm tuyền". Nhưng đồng thời lại rất khác nhau:
"Dĩ nhiên giữa hai nhà thơ của hai thời đại, ta vẫn nhớ có khoảng cách dài dặc của
mấy trăm năm lịch sử. Cho nên một người lấy đá Côn Sơn làm chiếu, một người lấy đá Pác
Bó làm bàn, tuy cùng chung một tình cảm gắn bó, chan hoà đốivới tạo vật, nhưng thái độ xã
hội, triết lí nhân sinh, vẫn có những chỗ khác nhau về căn bản. Người này tin ở thiên cơ,
thiên mệnh, gặp khi thời thế đảo điên không thể phò đời cứu nước, đành lui về bầu bạn với
mây ngàn hạc nội, phách suối đàn thông. Người kia nắm chắc quy luật khách quan của lịch
sử, đoán chắc thời cơ cách mạng, mượn núi rừng làm nơi căn cứ địa để xây dựng lực
lượng, nhen nhóm phong trào, chuẩn bị cho những cơn bão táp của lịch sử. Một đằng là
triết lí của người ẩn sĩ, từng nếm trải bao phen vinh nhục, cảm thấy đời người như mây nổi,
như chiêm bao, muốn dấn mình trong chốn lâm tuyền, nhập thân vào giữa cái mênh mông

vĩnh cửu của tạo vật. Một đằng là triết lí của người chiến sĩ, triết lí cải tạo thế giới để con
người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, làm chủ lịch sử, làm chủ vận mệnh của mình.".
Tạo âm thanh, nhịp điệu, hay nói chung, tạo tính nhạc cho câu văn xuôi, có điều này rất nên
cảnh giác với mình: nếu không cẩn thận, dễ tạo nên lối diễn đạt du dương dễ dãi với những từ ngữ
"văn vẻ" có tính "cải lương mùi mẫn" hết sức phản cảm đối với người sành sỏi văn chương. Điều
kiện quyết định ở đây là phải có cái tai thẩm âm tinh tế.

b.Tạo hơi văn, giọng văn phù hợp.
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Hơi văn, giọng văn phải phù hợp với nội dung truyền đạt.
- Chẳng hạn diễn đạt khí thế hành quân sôi nổi trong thơ Chính Hữu thì từ ngữ phải khoẻ,
phải mạnh, câu phải ngắn, nhịp văn phải dồn dập:
"Chính Hữu có một hơi thơ sôi nổi nhiệt tình, khoẻ, phăng phăng, hăm hở-một hình ảnh
xuyên suốt: Đi, Hành quân,Lên đường, Tiến công Thơ như thế thì không thể trói vào, giam vào
trong lục bát, thất ngôn hay bất cứ điệu thơ có khuôn phép nhất định nào. Nó phải là lời nói tự do.
Vần không quan trọng. Nhịp thơ quyết định. Nhịp phải có sức thôi thúc mạnh. Và mỗi câu phải là
một khẩu hiệu, mỗi chữ phải đúc lại để vang xa
Đây là thơ hành quân, là những khúc quân hành. Một hình ảnh cũng thường trở đi
trở lại trong thơ Chính Hữu: hình ảnh ngọn đèn. Nhưng là "ngọn đèn đứng gác", là con mắt
không ngủ, là tâm hồn tỉnh thức. Tỉnh thức để thúc giục lên đường, kêu gọi hành quân:
Đi nhanh, đi nhanh
Chiến trường đã giục
Đầy núi đầy sông
Đèn ta đã mọc
Còn đây là khí thế hừng hực căm thù của nhân dân Hà Nội trong một ngày lịch sử: "Hà Nội
giải tù Mĩ qua phố Hà Nội". Phải diễn đạt làm sao cho đúng với hơi văn của Nguyễn Tuân:
"Chà! Cái ngày Hà Nội giải tù Mĩ thật là một ngày không quên được! Một không khí
trang nghiêm lịch sử, một khí thế bừng bừng của Thủ đô căm hờn như bốc dựng lên với sự
kiện nước sông Hồng trong những ngày cao trào cách mạng, được nhắc đến từ nhà Bảo

tàng lịch sử: Hà Nội trị thuỷ và trị Mĩ! Hà Nội cũng là lớp lớp thuỷ triều, bao đời nay từng
dồn Pháp, đuổi Nhật, giờ đây lại đùng đùng những "con sóng dữ" muốn cuốn phăng đi
"những rơm rác Hoa Kì".
- Có những nội dung lại cần đến giọng trữ tình xót xa, tha thiết. Trường hợp này phải
tránh những từ ngữ diêm dúa ồn ào. Nên sử dụng nhiều thanh bằng, nhất là thanh trầm bình với
những từ gợi cảm, quý mến, xót thương.
Đây là những dòng tôi bình về đoạn thơ của Trần Đăng Khoa viết về lòng yêu quê
hương của chị Mạc Thị Bưởi khi giặc giải chị trở về làng trước khi giết chị: "Khoa đã huy
động những gì là sâu sắc nhất, là máu thịt nhất đã gắn bó em với làng xóm quê hương và
do đó, với chị Bưởi-để làm điểm tựa cho trí tưởng tượng của mình. Ta hiểu vì sao thơ Khoa
càng trở nên đằm thắm thiết tha hơn và nhân vật anh hùng cũng trở nên đậm nét và phong
phú hơn, khi Khoa kính cẩn theo dõi bước chân chị Bưởi từ bốt giặc trở về làng. Người con
gái tuyệt vời ấy đã tận dụng những giờ phút cuối cùng của đời mình để đánh giặc và nhờ
thế mà có dịp gặp lại quê hương mình trước khi ngã xuống:
Khi bàn chân đặt trên đất của làng
Bàn chân tự biết
Hơi mát rất riêng ngấm vào da thịt
Và nhịp tim bỗng đập chẳng bình thường
"Đây là quê hương. Đây là quê hương"
Cả cơ thể rung lên điều ấy "
Và như thế là Khoa đã tìm được cách khơi thẳng vào cái mạch chủ yếu nhất, dồi
dào nhất, đặc sắc nhất của thơ em để chứng minh cho cái em gọi là "Cả cơ thể rung lên
điều ấy" của Mạc Thị Bưởi:
Cô đã sống ở đây
Những đêm mưa rào. Những ngày nắng cháy
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
Nắng ngời ngời mặt lá ngọn cây đa
Mưa ù ù trên sông nghe rất xa
Cứ như thế, lòng yêu quê hương thắm thiết và lòng biết ơn sâu nặng đối với người

anh hùng đã hi sinh cho quê hương ấy đã bắc những nhịp cầu thời gian vững chắc cho thơ
Khoa trở về với quá khứ, trở về với chị Bưởi, người con gái nông thôn cho đến lúc chết, tâm
hồn vẫn còn muốn níu chặt lấy quê hương mình, níu chặt lấy những gì vì nó, chị đã không
tiếc máu xương".
- Có khi nội dung lại đòi hỏi một chất giọng rầu rầu tỏ ra cảm thông với một tâm sự
không vui. Trường hợp này , nhịp văn phải chậm, từng câu ngắn, thủng thẳng. Và cũng nên dùng
nhiều thanh trầm bình. Đây là mấy dòng tôi viết về chân dung Nguyễn Đình Thi: ông "ngồi một
mình, im lặng, đầu cuối thấp để cho mái tóc vẫn còn dầy và đen rủ xuống trán, vẻ sầu
muộn, dường như nhẫn nhục chịu đựng một cái gì. Nhẫn nhục mà kiêu ngạo: đời nó thế,
biết làm sao được đành phải chấp nhận nó vậy ( ). Công tác lãnh đạo đã ngốn của ông
biết bao thời gian và tâm huyết. Mà lãnh đạo cái hội nhà văn nào có nhẹ nhàng gì. Tôi
không sao quên được cái dáng đi vất vả tất bật của ông, cái thái độ cam chịu và cái tài
chèo chống của ông trong những ngày sôi sục của Đại hội nhà văn lần thứ tư. Tôi chắc
những ngày ấy ông buồn lắm. Bọn trẻ bây giờ phức tạp quá, lắm kẻ nhố nhăng và ngỗ
nghịch quá. Mà học vấn thì ít. Đọc ít quá. Chả biết Căng biết Nít sơ là gì. Không có học
thức thì làm sao phát huy được tài năng, làm sao gây dựng được sự nghiệp cho ra trò. Tội
quá! Thương quá!".
Đây là cách đặt mình vào tâm lí của chủ thể sáng tác, nói bằng ngôn ngữ của chính ông ta.
Phải am hiểu gan ruột của đối tượng mới có thể dùng thủ pháp này.
- Có trường hợp phải dùng giọng say, bốc mới chuyển tải được nội dung ý tứ của mình.
Trường hợp này có thể dùng những từ cảm thán như Ôi, Chao ôi, Chà, Trời ôi, "Ôi Quang
Dũng! Người tráng sĩ, đấng trượng phu, từng hiên ngang "Mắt trừng gửi mộng qua biên
giới" "; Chà! Có những thằng tướng quỷ lộ ngay ra thần sắc, diện mạo, như thằng quan
hai Cơ lác kia với bộ mặt như cái "mặt nạ", trên đó "cứ xanh lè hai cục mắt Mĩ "; "Chao
ôi! Vậy thì như thế nào mới là lành mạnh?"; "Trời ơi, cái đói và miếng ăn mà bảo là
chuyện nhỏ ư?" v.v
Tất nhiên không nên lạm dụng những từ cảm thán như thế, vì rất dễ gây cảm giác giả tạo,
lên gân.
- Có những trường hợp phải lấy giọng thân mật suồng sã thì mới hợp. Trường hợp này nên
dùng những từ ngữ nôm na, những khẩu ngữ đời thường như vớ vẩn, xôm trò, "Văn mình vợ

người", chẳng nói oan nói ức cho thằng nào con nào, khó vậy thay, dễ ợt, té ra là thế này, thế kia,
tôi với anh ta vẫn bia bọt lu bù, thằng cha thế mà tình tứ đáo để, kẻ đầu têu ra cái lí thuyết ấy hình
như là nhà triết học Nitsơ v.v
- Có khi lại phải lấy giọng trang trọng, đĩnh đạc. Trường hợp này nên khai thác kho từ
Hán Việt, khai thác những thành ngữ Hán Việt có màu sắc cổ kính, cổ điển.
Tôi có một cái thú là học chữ trong từ điển Hán Việt. Người xưa chữ nghĩa rất đúc, tính hàm
súc cao, chắc khoẻ như khắc vào đá, hình ảnh lại đẹp, có một cái gì đài các, sang trọng, âm hưởng
rất thích.
Nói chung mỗi bài văn có một giọng chủ. Nhưng như thế không phải từ đầu chí cuối chỉ có
một giọng. Văn chương kị nhất là sự đơn điệu. Vì thế nên có nhiều giọng chuyển đổi lẫn nhau như
trong một bản hoà tấu của nhiều nhạc cụ vậy.
Bên cạnh mấy giọng đã dẫn ra trên đây, tôi muốn kể thêm mọt chất giọng nữa mà riêng tôi
rất thích. Ấy là giọng mỉa mai bóng gió pha chút gai góc. Bài văn có thêm giọng này như có thêm
gv: Vò Trung Kiªn
TuÇn 2 + 3 , Tõ tiÕt 7 ®Õn 15 båi dìng hsg 12 Ngµy so¹n: 16/08/2008
chất muối đậm đà hơn, sắc sảo hơn,như có che giấu một nụ cười châm chọc hóm hỉnh sau những
dòng chữ. Đây thường là chỗ người viết trực tiếp tỏ bày tư tưởng của mình, sự yêu ghét, khinh
trọng của mình với bạn đọc.
Chẳng biết bạn đọc có cho những đoạn văn trích sau đây là có chất giọng nói trên không:
" thử nghĩ mà xem, con người không biết sợ cái gì trên đời này cả, liệu có phải là
con người không? Cái gị cũng "vô uý", cũng tỏ thái độ sắt thép, nghĩa là không biết mềm
lòng trước bất cứ một cái gì, đấy là loài quỷ sứ chứ đâu phải là con người! Chữ người tử
tù của Nguyễn Tuân dạy cho người ta hiểu rằng, muốn nên người, phải biết kính sợ ba điều
này: Cái tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của con người (thiên lương). Vậy kẻ nào không
biết sợ cái gì hết, đó là loài quỷ sứ. Loại người này, thực ra rất hiếm hoi, hay nói đúng hơn,
không thể có được. Nhưng loại người sau đây thì chắc không ít: sợ rất nhiều thứ, nhất là
quyền thế và đồng tiền, nhưng đối với cái tài, cái đẹp, cái thiên lương thì lại không biết sợ,
thậm chí sẵn sàng lăng mạ, giày xéo. Đấy là hạng người hèn hạ nhất, thô bỉ nhất, đồi bại
nhất".


"Cách đây vài chục năm, có một vị đàn anh trong nghề dạy tôi thế này: chúng ta là
những con chuột, muốn an toàn phải đào nhiều hang. Mất hang này, ta chạy vào hang
khác. Nguyễn Khải có cái hang sáng tác. Có biến, anh chui tọt ngay vào Lí ra đã là người
viết thì ai chả phải đào cho mình cái hang sáng tác. Nhưng đào có dễ đâu. Cho nên có
những người mang danh sáng tác nhưng lại cứ phải đào cho mình những cái hang khác".
"Có một nhà nghiên cứu Thơ mới đã phê phán câu thơ này là không được lành
mạnh (Câu thơ Xuân Diệu: "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần" ).Chao ôi! Vậy thì
như thế nào mới là lành mạnh? Tôi nghĩ chỉ có những tâm hồn chưa được lành mạnh mới
không biết kính trọng câu thơ đẹp một cách thật là lành mạnh và cường tráng này v.v

c.Học hỏi và tích luỹ một vốn phong phú về các kiểu câu, các từ ngữ.
Xây dựng một bài văn, một đoạn văn, không nên chỉ dùng một kiểu câu. Nếu không có dụng
ý đặc biệt thì không nên dùng liên tiếp một dạng cú pháp gây cảm giác đơn điệu. Muốn thế phải có
một cái kho câu, chữ các loại thật phong phú và đa dạng. Xây dựng cái kho ấy bằng cách nào?
Chỉ có một cách là học, học trong sách vở, học trong giao tiếp, nghe ngóng, học trong đời sống.
Vấn đề là phải có ý thức học tập thì mới tìm được nhiều câu, chữ đáng học để thu lượm, tích luỹ.
Có khi học ở sách Pháp. Chẳng hạn tôi học được những chữ như imagination synthétique (sức
tưởng tượng tổng hợp) để dùng vào bài viết về phong cách nghệ thuật Vũ Trọng Phụng; grisailles
quotidiennes (cái hàng ngày xám xịt) để dùng vào bài viết về Sống mòn của Nam Cao; Champ
esthétique (trường liên tưởng thẩm mĩ) để dùng vào bài viết về cơ chế của xúc cảm thẩm mĩ; idees
poétique (tư tưởng nghệ thuật) để dùng vào bài viết về phương pháp nghiên cứu nhà văn; épíode
prophétique (chi tiết tiên tri dự báo) để dùng vào bài viết về tư tưởng Vũ Trọng Phụng v.v Tất
nhiên học trong sách Việt nhiều hơn, nhất là trong sách của Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nam Cao
Một lần nhân đọc bài Thời và Thơ Tú Xương của Nguyễn Tuân, tôi vớ được chữ "giẫy nẩy".
Ông dùng để tả màu vàng những buồng chuối ngự Nam Định đựng trong những sọt lót lá chuối khô.
Tôi bèn dùng vào trường hợp văn Nguyễn Huy Thiệp, cụ thể là đoạn bình luận về ngôn ngữ sinh
động nhưng rất tục của một bà lão nông dân trong truyện Những bài học nông thôn: đó "là ngôn
ngữ của sự sống, tuy lấm láp bùn đất nhưng cứ tươi rói và giẫy nẩy lên trên những trang
sách". Trong một bài viết về Nguyễn Khải tôi lại dùng cụm từ "Khoán chui tư tưởng", "Khoán chui
ý nghĩ" mượn trong kho ngôn từ của quản lí hợp tác xã nông nghiệp

"Nguyễn Khải giống như một anh cán bộ xã hay huyện gì đó dám tổ chức khoán chui và
gv: Vò Trung Kiªn

×