Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đề cương chuyên đề ôn tập môn học tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.49 KB, 22 trang )

1
Phân tích các nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong các
nguồn gốc đó nguồn gốc nào quyết định nhất ? Ý nghĩa việc nghiên cứu, học
tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, từng bước hoàn thiện và phát triển
dưới tác động của những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc và nhân loại
trong thời đại Người sống và hoạt động.
Có thể nghiên cứu sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh với những nguồn
gốc chủ yếu sau đây:
- Nguồn gốc lý luận
+ Một là, Tư tưởng HCM là sự kế thừa giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân
dân, cha của Người là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc,
tấm gương lao động cần cù, tấm gương về ý chí vượt qua gian khổ khó khăn để đạt
được mục tiêu.
Nghệ Tĩnh - quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước, chống ngoại xâm, đó cũng là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong
lịch sử Việt Nam như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu
nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu
Chính từ cái nôi gia đình và mảnh đất quê hương đó đã giúp cho Người tiếp
thu được nhiều giá trị truyền thống quý báu.
Do yêu cầu dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam hình thành dân tộc
quốc gia từ rất sớm. Đến nay trải qua hàng nghìn năm đã hình thành cho nước ta
những giá trị truyền thống phong phú, bền vững.
- Trước hết đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng
nước và giữ nước.
Từ văn hoá dân gian đến văn hoá bác học, từ nhân vật truyền thuyết đến các
tên tuổi sáng ngời trong lịch sử như: Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn
Trãi đều đã phản ánh chân lý đó một cách hùng hồn
- Thứ hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương


ái, lá lành đùm lá rách trong hoạn nạn, khó khăn.
Truyền thống này cũng hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc,
từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại
xâm. Người Việt Nam quen sống gắn bó với nhau trong tình làng, nghĩa xóm, tắt
lửa tối đèn có nhau.
- Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu
đời. Trong muôn nguy ngàn khó, người lao động vẫn động viên nhau “chớ thấy
sóng cả mà ngã tay chèo”. Hồ Chí Minh chính là hiện thân của truyền thống lạc
quan đó.
2
- Thứ tư, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh,
sáng tạo.
Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi, là giá trị số một trong
bảng giá trị tư tưởng văn hoá truyền thống Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước đối với
Hồ Chí Minh là:
+ Hình thành lý tưởng mục đích sống chiến đấu “ Tôi chỉ có một ham muốn,
ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
+ Là điểm khởi đầu quan trọng, là bàn đạp thôi thúc Bác ra đi tìm đường cứu nước.
+ Là xuất phát điểm để Bác đến và tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Là động lực để học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Chính chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam là cội nguồn, là điểm xuất
phát, là động lực lên đường cứu nước và là bộ lọc các học thuyết để Hồ Chí Minh
lựa chọn và tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại mà đỉnh cao của nó là chủ nghĩa
Mác Lênin. Đúng như Hồ Chí Minh đã nói: “Lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lê nin và Quốc tế thứ ba”. Bởi
vậy, chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam chính là một nguồn gốc chủ yếu
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hai là, Tư tưởng HCM là sự kết tinh của tinh hoa văn hóa nhân loại,
thể hiện tập trung trên những nét tiêu biểu sau:

Tinh hoa văn hóa phương Đông
Từ cội nguồn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại mà trước hết là tinh
hoa văn hóa phương Đông.
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng trực tiếp văn hóa phương Đông mà
đặc trưng là Phật giáo và Nho giáo đã được Việt hóa.
Phật giáo vào Việt Nam rất sớm và có ảnh hưởng rất lớn đến đất nước ta,
đã từng là quốc giáo (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV). Những mặt tích cực của phật
giáo được Hồ Chí Minh tiếp nhận đó là: Tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu
nạn, thương người như thể thương thân, tình yêu thương bao la kể cả chim muông
cỏ cây; Nếp sống trong sạch, giản dị; Tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ, chất
phác, không phân biệt đẳng cấp; Đề cao lao động chân tay, chống lười biếng, chủ
trương người tu hành phải sống bằng lao động của mình; Đề cao tinh thần yêu
nước, chủ trương gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào công cuộc đấu
tranh của nhân dân, của cộng đồng với tinh thần tốt đời, đẹp đạo…(có thể chỉ kể
một vài ý sau đó ba chấm)
Ngoài ra, Người còn tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ của Lảo tử, Quản tử,
đặc biệt là tư tưởng tiến bộ trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn: Dân tộc
độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
3
Nho giáo: Đây là một tư tưởng lớn của Trung Quốc, ảnh hưởng đến nhiều
nước ở phương Đông. Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh sử dụng khá
nhiều mệnh đề của Nho giáo và đưa vào đó những nội dung và ý nghĩa mới mang
tính cách mạng và thời đại.
Bên cạnh những mặt hạn chế, Nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích cực
như: Triết lý hành động tích cực: “ tư tưởng nhập thế hành đạo giúp đời”; Triết lý
nhân sinh: “ tu thân dưỡng tính”, chủ trương từ thiên tử đến thần dân ai cũng phải
lấy tu thân làm gốc, tạo ra một xã hội lấy đạo đức làm trọng; Nho giáo nêu cao lý
tưởng về một xã hội thái bình trị; Nho giáo đề cao văn hoá, lễ giáo, tạo ra một
truyền thống hiếu học trong nhân dân…(có thể chỉ kể một vài ý sau đó ba chấm)

Những tác động tích cực của Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã tác động tới
Hồ Chí Minh ngay từ khi còn nhỏ ở trong môi trường giáo dục- văn hoá Việt của
làng xã Việt Nam.
Tinh hoa văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ lúc còn ngồi trên
ghế nhà trường. Sau đó, với khoảng thoi gian lao động, học tập và hoạt động ở
nước ngoài, đặc biệt là trong môi trường văn hoá phương Tây, Hồ Chí Minh đã có
điều kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm qua các hoạt động chính
trị, văn hoá, xã hội ở các nước phương Tây. Người đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng
dân chủ của các nhà khai sáng (Vonte, Rutxô, Môngtétxkiơ ) qua các tác phẩm
của họ. Người đã tới Pháp, Mỹ, Anh và trực tiếp khảo sát mọi mặt tại những nơi
khởi nguồn của ba cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới. Tư tưởng cách
mạng tiến bộ của các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ tới Hồ Chí Minh.
Đó là những tư tưởng: tự do, bình đẳng của Pháp (Các giá trị của bản Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng pháp); Quyền sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc (của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776); Lòng nhân
ái của thiên chúa giáo…
Nhưng cũng trong quá trình này, Hồ Chí Minh cũng thấy rõ những hạn chế về
lý luận cũng như trong thực tế của cách mạng tư sản. Hay nói cách khác, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh là trong sự kế thừa có phê phán, tiếp
thu có chọn lọc để mở rộng, nâng cao và làm giàu văn hóa ở tầm thế giới.
+ Ba là, chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là tổng thể giá trị tinh hoa văn hoá nhân loại được
hợp thành với 3 bộ phận: Triết học, Kinh tế chính trị, CNXHKH.
Với tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác - Lênin được xem là nguồn
gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi vì:
+ Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh đã chuyển hoá và nâng cao được những yếu tố tích cực, tiến bộ của
4
truyền thống dân tộc cũng như tinh hoa văn hoá nhân loại để tạo ra những tư tưởng

của mình.
+ Tìm thấy quy luật phát triển tất yếu của nhân loại: sớm hay muộn các dân
tộc sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội.
+ Nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tổng kết được kinh
nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, để tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn, vượt hẳn các thế hệ trước, chấm dứt cuộc khủng hoảng
về đường lối cứu nước diễn ra từ đầu thế kỷ XX.
+ Cũng nhờ có thế giới quan và phương pháp luận Mác xít nên Hồ Chí
Minh đã nhìn thấy con đường dân tộc Việt Nam phải đi và đích phải đến. Đó là
con đường cách mạng vô sản và đích của nó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản, là ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Có thể nói, về văn hóa, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa các giá trị tốt
đẹp của văn hóa dân tộc và nhân loại trên một trình độ mới về chất, phù hợp với
thời đại mới.
- Nguồn gốc thực tiễn
+ Một là, thực tiễn Việt Nam
Việt Nam có lịch sử và văn hiến lâu đời với truyền thống chống giặc ngoại
xâm vô cùng oanh liệt. Nhưng, đến giữa thế kỷ XIX, trước sự suy yếu của chế độ
phong kiến nhà Nguyễn, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược nước ta. Mặc
dù triều định nhà Nguyễn từng bước đầu hàng thực dân Pháp, phản bội lợi ích dân
tộc và phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân ta, nhưng nhân dân ta
đã liên tục anh dũng đứng lên chống xâm lược trên cả nước. Từ 1858 đến cuối thế
kỉ XIX, phong trào đấu tranh yêu nước dưới sự lãnh đạo của Trương Định,
Nguyễn Trung Trực (Nam Bộ); Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan
Đình Phùng (Miền Trung); Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích (Miền Bắc)
đều thất bại. Cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh
đạo trong tình thế bị bao vây nên đến tháng 12 - 1897 đã buộc phải đình chiến lần
thứ hai với kẻ thù.
Sau khi đã hoàn thành về căn bản công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân
sự, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam cũng như ở Lào và

Cămpuchia một cách quy mô và từng bước biến nước ta từ một nước phong kiến
thành nước thuộc địa, nửa phong kiến với những biến đổi căn bản về chính trị - kinh
tế -văn hóa - xã hội. Sự biến đổi đó làm xuất hiện trong xã hội Việt Nam những giai
tầng mới với sự ra đời của giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản.
Theo đó, bên cạnh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến là giữa nông dân với
địa chủ phong kiến, sự xuất hiện các giai tầng mới đã làm nảy sinh thêm các mâu
thuẫn mới: giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, giữa toàn thể nhân
dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.
5
Trước các biến đổi trên, phong trào cách mạng Việt Nam cũng từng bước có
những phát triển mới đó là sự xuất hiện của phong trào yêu nước mới và phong
trào công nhân ở nước ta.
Sang đầu thế kỷ XX, dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
xã hội nước ta có sự chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của “Tân
thư” ở Trung Quốc và trào lưu cải cách ở Nhật Bản, phong trào yêu nước của nhân
dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Đại biểu là Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh, với phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân…
nhưng tất cả đều bị dập tắt do chưa có hướng đi đúng. Hệ tư tưởng tư sản cũng
không lãnh đạo được phong trào chống Pháp. Dù thất bại nhưng các phong trào
yêu nước này đã nối tiếp nhau duy trì ngọn lửa cứu nước tiếp tục cháy trong lòng
dân tộc.
Trước sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối, sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả
dân tộc Việt Nam là phải tìm con đường cứu nước đúng đắn. Phong trào yêu nước
của nhân dân ta muốn giành thắng lợi phải đi theo một con đường mới. Tuy nhiên,
đến đầu thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước đã diễn ra sâu sắc.
Tìm ra con đường cứu nước mới là yêu cầu nóng bỏng nhất của dân tộc Việt Nam.
Cùng với phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta, sự ra đời và phong
trào đấu tranh của giai cấp mới là giai cấp công nhân Việt Nam sau chiến tranh thế
giới lần thứ nhất đã làm cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta
thêm những yếu tố mới. Đặc biệt, từ đầu những năm hai mươi của thế kỷ XX, giai

cấp công nhân Việt Nam ngày càng trưởng thành về số lượng và chất lượng lại
chịu tác động của phong trào cách mạng thế giới đã làm phong trào đấu tranh
mang đặc trưng riêng của giai cấp công nhân càng được thể hiện rõ nét. Đây là
nguồn gốc thực tiễn xã hội cực kỳ quan trọng cho sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt nam là cơ sở thực tiễn
trong nước cho sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hai là, thực tiễn thế giới
Vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền - giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa- đã chuyển từ mở thị trường buôn bán sang việc các nước đế quốc tiến
hành tranh giành, đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa Tình hình đó đã làm sâu sắc
thêm mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản chủ
6
nghĩa và mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau và làm nảy sinh mâu
thuẫn giữa nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc
thực dân. Yêu cầu giải phóng, đem lại độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ
là đòi hỏi riêng của các dân tộc thuộc địa mà còn là yêu cầu chung của các dân tộc
đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, chủ yếu là do tranh giành thị trường
giữa các nước đế quốc, đã dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ nhất (8-1914 đến 11-
1918) nhằm chia lại các khu vực ảnh hưởng làm xuất hiện phong trào của nhân
dân thế giới đấu tranh đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh đế quốc và đó cũng là
một trong những nguyên nhân bùng nổ Cách mạng tháng Mười Nga.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của nhà nước công
nông đầu tiên trên thế giới, đã mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi quốc tế, đã cổ vũ và thúc đẩy sự phát triển
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới, với sự ra đời và dẫn dắt của Quốc tế III.
Ý nghĩa việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Học tập TTHCM góp phần nâng cao tư duy lý luận và phương pháp công
tác. Thông qua học tập, nghiên cứu TTHCM để qua đó từng cá nhân được củng cố
lập trường quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, TTHCM;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực chủ
động đấu tranh chống những quan điểm sai trái, bảo vệ đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước; biết vận dụng tư tưởng HCM và giải quyết những vấn đề đặt
ra trong cuộc sống.
- Bồi dưỡng phẩm chất cách mạng và rèn luyên bản lĩnh chính trị.
TTHCM giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng, qua đó từng cá
nhân có thể vận dụng vào cuộc sống, tu dưỡng rèn luyện bản thân, hoàn thành tốt
chức trách của mình, đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển của nước ta hiện nay
- NC học tập TTHCM là để nâng cao nhận thức, tư tưởng, mục tiêu, cải tiến
phương pháp và phong cách công tác, góp phần đưa công cuộc đổi mới đạt được
nhiêu thành tựu nổi bật hơn nữa
Tóm lại, TTHCM về phương pháp CM là rất phong phú, toàn diện và sâu
sắc. Hơn bao giờ hết trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta cần học tập vận
dụng phát triển TT đó vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước. Để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, Đảng khẳng định chủ nghĩa Mác
–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng. Đảng ta có nhiều chỉ thị, nghị quyết về xây dựng Đảng, về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh, về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu;
7
trung ương và các địa phương, bộ, ngành đã thành lập ban chỉ đạo phòng, chống
tham mưu cho Trung ương đề ra các biện pháp phòng chống tham nhũng lãng phí.
Đặc biệt, Đảng ta đã phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị 06-CT/TW trong toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân nhân kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng ( 3-2-2006) có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước, nâng cao chất

lượng, hiệu quả, hoạt động công tác trên mọi lĩnh vực đồng thời ngăn chặn suy
thoái, xuống cấp về đạo đức trong đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng. Đây là chủ
trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng đồng thời thể hiện sự kính trọng, tôn vinh và
tiếp tục khẳng định giá trị lý luận và thực tiến tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí
Minh.
Phân tích những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận (giáo trình
trang 52-53). Cách mạng giải phóng dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần qúi báu của Đảng và dân tộc.
Tư tưởng đó là sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân
loại, là sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta. Trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người thì cách mạng giải
phóng dân tộc là một trong những vấn đề cớ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở
điều này đã thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh mà dưới đây chúng ta sẽ cùng
tìm hiểu.
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Người đã mắt thấy
tai nghe những nỗi khổ cực nhọc nhằn của một dân tộc mất nước, cảm nhận được
sự tàn ác dã man của bọn thực dân đế quốc : “Lịch sử việc người Âu xâm chiếm
Châu Phi cũng như bất cứ lịch sử xâm chiếm thuộc điạ nào thì từ đầu đến cuối đều
được viết bằng máu những người bản xứ “. Yêu nước thương dân, sau bao năm :
“Lênh đênh bốn bể một con tàu” Người đã tìm ra con đường cưu nước cứu dân : “
Muốn cưú nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”. Chỉ có con đường này mới giải phóng được hai mặt cơ bản
của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫm giữa hội Việt Nam Đế Quốc Tay
Sai và mâu thuẫn nhân dân với điạ chủ phong kiến muốn giải quyết được hài hòa
vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Theo Người : “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô
sản thì mới giải phóng được dân tộc. Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của CNCS và cách mạng thế giới. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh cơ
sở hàng đầu để đánh giá tính triệt đổ của một cuộc cách mạng là qui mô giải phóng
quần chúng lao động bị ápbức, vì thế Người đã chọn con đường cách mạnh vô sản,
theo gương cách mạng tháng 10 Nga là một cuộc cách mạng nằm trong dòng chảy

liên tục của quá trình giải phóng con người.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện nước ta, Người đã
xác định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn mà đã được thể hiện Q.
VVVT là : “Chủ trương làm TS dân quyền cách mạng và thổ địa CN để đi tới
XHCS”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã
hội đã được thể hiện rất rõ ràng và đó là luận điểm trọng tâm xuyên suốt toàn bộ
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
8
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Đó là
điểm khác biệt căn bản giữa con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với các người
yêu nước khác như : Phan Bội Châu, Phan Chu trinh, Nguyễn Thái Học … Phan
Bội Châu đã phải thốt lên : “Than ôi ! Lịch sử của tôi là lịch sử một trăm thất bại
không một thành công”, thì ngược lại, Hồ Chí Minhlà người duy nhất tìm ra con
đường đúng đắn để cứu nước, giải phóng cho nhân dân lao động.
Trong tư tưởng về chủ nghĩa giải phóng dân tộc đã thể hiện sự sáng tạo thiên
tài của Hồ Chí Minh. Đó là luận điểm về cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạnh vô sản chính quốc và tác động trở
lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Là người yêu nước, lăn lộn trong phong trào
cộng sản và chủ nghĩa quốc tế lại là người hoạt động rất tích cực trong phong trào
giải phóng dân tộc thế giới nên Người hiểu rõ hơn ai hết về thuộc địa, về chủ nghĩa
thực dân, về những nối thống khổ mà nhân dân thuộc địa phải gánh chịu. Người đã
thấy được tinh thần cách mạng đang ầm ỉ và ngày càng mãnh liệt của nhân dân
Đông Dương. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì
đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Sự
tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đatá rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải
làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. Hồ Chí Minh đã
vì chủ nghĩa đế quốc như con đĩa hai vòi, mộtvòi hút máu nhân dân lao động chính
quốc, một vòi hút máu nhân dân thuộc địa. Khi cách mạng bùng nồ thì hàng trăm
triệu nhân dân thuộc địa sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản, cắt bớt một vòi của chủ nghĩa đế

quốc và như thế họ có thể giúp đỡ người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm
vụ giải phóng hoàn toàn, cắt đứt cái vòi còn lại của chủ nghĩa đế quốc ở chính
quốc. Theo Hồ Chí Minh : “An Nam dân tộc cách mạng thành công thì tư bản
Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mạng cũng dễ
dàng”. Như vậy, Hồ Chí Minh chẳng những hiểu rõ về sức mạnh to lớn của phong
trào giải phóng dân tộc mà còn thấy được tính chủ động, tích cực của cách mạng
giải phòng dân tộc. Theo Người, cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc
quan hệ mật thiếc với nhau như hai cánh của một con chim trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.Trong cuộc đấu tranh đó, khi có chủ
nghĩa Mác – Lênin soi đường và được Đảng Cộng Sản lãnh đạo thì nhân dân các
dân tộc thuộc địa có thể chủ động tự đứng lên : “đem sức ta mà tự giải phòng cho
ta”. Mặc dù, ở các nước thuộc địa CN, thương nghiệp chưa phát triển, giai cấp
công nhân còn nhỏ bé, trình dộ thấp kém. Hồ Chí Minh sớm ý thức được về sức
mạnh tự giải phóng của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Theo Người cách mạng
giải phóng dân tộc là sự nghiệp của bản thân các dân tộc bị áp bức. “Hỡi anh em ở
các nước thuộc điạ ! Anh em phải làm thế nào để được giải phóng ? vận dụng công
thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng : công cuộc giải phóng, anh
em chỉ có thể thực hiện được bằng nổ lực của bản thân anh em …”. Luận điểm dân
tộc tự đứng lên giải phóng được Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Nói như vậy, không có nghĩa là không cần sự giúp đỡ
của bè bạn năm châu, ngược lại sự giúp đỡ đó lá rất quí báu, song “chỉ có chúng ta
mới giải quyết được số phận chúng ta, và hoàn cầu cũng chú ý đến chúng ta khi
9
chúng ta mạnh. Tóm lại, lực lượng đoàn kết và chiến đấu của toàn dân vẫn là tất
cả, vẫn định đoạt tất cả”. Ở Hồ Chí Minh, việc tập hợp lực lượng cách mạng cũng
thể hiện sự linh hoạt sáng tạo của Người. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải
phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, “nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều
chống lại cường quyền …”, giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng, của
đồng bào ta. Nhờ vậy, mà cách mạng Việt Nam đã tổ chức được một lực lượng
cách mạng vô cùng to lớn dướisự lãnh đạo giai cấp công nhân mà đội tiền phong

là Đảng Cộng Sản Việt Nam, giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Như
vậy, tư tưởng cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng chính quốc
và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc là sáng tạo thiên tài của HoÀ
Chí Minh làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về CMDT nói
chung và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng. Luận điểm này có ý nghĩa chủ
đạo thực tiễn rất quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc. Nó chỉ ra cho
nhân dân các dân tộc thuộc địa không nên trông chờ ỷ lại vào cách mạng chính
quốc mà phải chủ động đứng lên tự giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc, góp phần tích cực vào cách mạng thế giới trong đó có cả cách mạng ở chính
quốc. Thực tiễn cách mạng Việt nam mà điển hình là cách mạng tháng 8 thành
công đã chứng minh và khẳng định tính đúng đắn của luận điểm trên.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi sáng soi cho toàn Đảng, toàn dân nhứt là trong giai
đoạn đổi mới hiện nay. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững định lý xã hội
chủ nghĩa, phát huy tinh thần tự lực tự cường (phát huy nội lực trong xây dựng đất
nước, giữ gìn sự trong sáng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ quan điểm có áp bức thì có đấu tranh, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
vì bị áp bức mà sinh ra cách mạng, cho nên hễ bị áp bức càng nặng thì lòng cách
mạng càng cao, chí cách mạng càng quyết. Người đã chỉ rõ nhân dân thuộc địa
chịu đau khổ gấp ngàn lần nội đau của giai cấp công nhân chính quốc. Trên thế
giới không có dân tộc chiến bại nào bị đàn áp và hành hạ như người dân thuộc địa.
Phân tích những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng Cộng sản cầm quyền? Tính khách quan và nhiệm vụ chủ yếu về tăng
cường công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay?
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và củng cố
Đảng, coi đó là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và mỗi đảng viên chân chính. Quan
điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh
thể hiện ở nhiều nội dung, nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn

cách mạng. cụ thể là:
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động
10
Từ thời kỳ vận động thành lập Đảng Hồ Chí Minh đã quán triệt quan điểm
của V.I Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách
mạng… Chỉ có đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả
năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”
(1)
. Người khẳng định rõ: “Đảng muốn
vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo
chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam”
(2)
.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp cho Đảng phương
pháp luận duy vật biện chứng để hoạch định quan điểm, đường lối chính sách;
giúp cán bộ đảng viên tu dưỡng rèn luyện bản lĩnh cách mạng, đề ra biện pháp
thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa Mác -
Lênin là “cẩm nang thần kỳ”, “là mặt trời soi sáng” đưa chúng ta tới thắng lợi của
sự nghiệp giải phóng, tới tự do, hạnh phúc. Hay nói cách khác, tin theo chủ nghĩa
Mác - Lênin là bởi tính khoa học cách mạng và phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa ấy.
Tuy nhiên, như Người đã nói, học tập nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin là
để vận dụng vào thực tiễn cách mạng, học phải đi đôi với hành chứ không phải để
trang sức, “để lòe thiên hạ”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành
động, chứ “không phải là kinh thánh”, vì vậy phải vận dụng vào thực tiễn một
cách sáng tạo, phù hợp, phải chống giáo điều, máy móc. Cần vận dụng sáng tạo
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin vào tình hình cụ thể của đất nước,
làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin thấm sâu vào từng đảng viên, tổ chức cơ sở đảng,

thực sự là cơ sở tư tưởng cho hành động.
Tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng
Xây dựng tổ chức, bộ máy của một chính đảng vô sản kiểu mới luôn là một
nội dung quan trọng trong cả lý luận và thực tiễn công tác xây dựng Đảng. Kế thừa
và phát triển sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin về xây dựng tổ
chức bộ máy của Đảng trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng
định vai trò quan trọng của tổ chức bộ máy của Đảng, coi đây là cơ sở quan trọng
để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng. Theo Người, việc xây dựng tổ
chức bộ máy của Đảng cần:
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ
Hồ Chí Minh gọi đây là nguyên tắc tổ chức cao nhất, có mối quan hệ chặt
chẽ và không đối lập nhau. Tập trung phải trên nền tảng dân chủ và dân chủ phải
dưới sự chỉ đạo tập trung; dân chủ không phải là vô chính phủ, vô tổ chức. Người
giải thích, tập trung trên nền tảng dân chủ nghĩa là các cơ quan lãnh đạo do đảng
viên bầu ra. Nghị quyết và các chính sách của Đảng là do đảng viên thảo luận,
1
V.I Lênin Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1975, tiếng Việt, tập 6, tr.31-32.
2
Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.289.
11
gom góp ý kiến, sáng kiến, kinh nghiệm xây dựng nên, được tập thể biểu quyết mà
thành chứ không phải ý của riêng cá nhân nào. Thực hiện nguyên tắc này phải theo
trật tự của Đảng là cá nhân phục tùng tổ chức, số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới
phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương. (Nếu thời gian không đủ có
thể cắt - Các tô đỏ của những phần khác được hiểu là không kịp thì cắt!)
Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, nghĩa là mọi đảng viên đều có quyền
nêu ý kiến vào việc xây dựng nghị quyết của Đảng, nhưng không được nói hoặc
làm trái với nghị quyết đã được số nhiều biểu quyết. Các nghị quyết của Đảng phải
do cơ quan lãnh đạo chuẩn bị kỹ càng, khoa học, rồi đưa ra để các cấp thảo luận,
góp ý kiến… Người khẳng định: “Để làm cho Đảng mạnh thì phải mở rộng dân

chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính
tổ chức và tính kỷ luật”
(3)
. (Nếu thời gian không đủ có thể cắt!)
Như vậy, trong xây dựng và kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng cần giữ
vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng, thể hiện ở
các điểm sau:
Đảng lãnh đạo thống nhất công tác cán bộ.
Xây dựng tổ chức, lựa chọn cán bộ cần tập trung trí tuệ của nhiều người,
quyết định theo đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên.
Thực hiện dân chủ tập trung trong tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ, trong
chỉnh đốn tổ chức của Đảng.
Dựa vào nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Đảng.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Hồ Chí Minh gọi đây là nguyên tắc lãnh đạo, là chế độ lãnh đạo của Đảng.
Người giải thích: “Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất đơn giản, chân lý của nó rất rõ
rệt. Tục ngữ có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc là nghĩa đó”
(

4

)
. Người còn nói, một
người dù khôn ngoan, tài giỏi đến đâu cũng chỉ thấy được một mặt hoặc một số
mặt của vấn đề. Gom góp ý kiến, sáng kiến, kinh nghiệm của nhiều người sẽ thấy
rõ được mọi mặt của vấn đề, khi giải quyết sẽ bớt sai lầm. Thực hiện tập thể lãnh
đạo nhằm vừa phát huy trí tuệ tập thể, vừa ngăn ngừa độc đoán, chuyên quyền.
Cá nhân phụ trách nghĩa là khi công việc đã được bàn bạc kỹ lưỡng, kế
hoạch xác định rõ ràng, được tập thể nhất trí thông qua và trở thành nghị quyết thì
“phải giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách”, phải có người chuyên

trách, chuyên sâu trong mỗi lĩnh vực, như thế công việc mới chạy. Thực hiện cá
nhân phụ trách là để chống thói ỷ lại, dựa dẫm, vô trách nhiệm; “cha chung không
ai khóc”, “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa” - câu mà dân gian thường nói phải
hiểu ý nghĩa là như thế.
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.287.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.619
12
Theo Hồ Chí Minh, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách có mối quan hệ chặt
chẽ. Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Người nhấn mạnh: “Làm việc mà không theo
đúng cách đó tức là làm trái dân chủ tập trung… Vì vậy, những người cán bộ phải
thực hành cho kỳ đúng chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”
(

5

)
. Người yêu cầu
thực hiện nguyên tắc này phải linh hoạt, không thụ động, không nên “một việc cỏn
con” cũng chờ ý kiến tập thể, không dám chịu trách nhiệm, hoặc lợi dụng cá nhân
phụ trách để chuyên quyền, độc đoán.
- Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh gọi đây là luật, quy luật phát triển của Đảng. Người thường
nói , đảng viên cũng là người, không phải thánh thần, không phải người người đều
tốt, việc việc đều hay; công tác cách mạng lại vừa học vừa làm… Vì vậy thiếu sót,
khuyết điểm của cán bộ đảng viên là không tránh khỏi. “Thang thuốc” hay nhất để
khắc phục là thực hiện tự phê bình và phê bình.
Theo Hồ Chí Minh, thương yêu cán bộ không có nghĩa là “nuông chiều thả

mặc” mà phải nghiêm khắc phê bình những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ đảng
viên, giúp họ sửa chữa, không phải như lối “nhà có dâu dại, rể khờ” giấu không
cho gặp bà con. Người nói rõ: “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là
một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, xem xét
khuyết điểm đó từ đâu tới rồi tìm mọi cách sửa chữa. Như vậy mới là một đảng
mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”
(

6

)
.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải thành thật tự phê bình
khuyết điểm của mình; giấu giếm khuyết điểm giống như người ốm giấu bệnh không
uống thuốc , “không chết cũng la lết quả dưa”. Phải thành thật nhận khuyết điểm và
sửa chữa, đồng thời phải phê bình khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình và
phê bình phải thực hiện thường xuyên như rửa mặt hàng ngày.

Mục đích của tự phê bình và phê bình là để mình tiến bộ, đồng chí mình tiến
bộ; làm “cái ác” dần mất đi, “cái thiện” nảy nở, sinh sôi để làm việc tốt hơn.
Tinh thần, thái độ tự phê bình và phê bình là phải coi trọng tự phê bình trước.
Muốn phê bình người khác phải tự biết mình phải quấy chỗ nào, phải hiểu “tiên trách
kỷ, hậu trách nhân” là như vậy. Thực hiện tự phê bình và phê bình phải công khai,
dân chủ, có tổ chức; phải triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt ; phải cụ
thể, chính xác, “nói có sách, mách có chứng”; phê bình phải trên tình đồng chí,đoàn
kết,giúp đỡ lẫn nhau, theo đúng kỷ luật Đảng, không dung những lời lẽ mỉa mai, chua
cay, đâm thọc, đập cho tơi bời, “phê bình việc làm chứ không phê bình người”;
“không được trù dập người phê bình”.
5
Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.620.

6
Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.301
13
Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với vấn đề Đảng tự chỉnh đốn, tự đổi
mới, nhất là khi cách mạng gặp khó khăn, khi chuyển giai đoạn. Hồ Chí Minh đã
quán triệt, chỉnh đốn Đảng là công việc hết sức quan trọng đòi hỏi thực hiện phải
khoa học, từng bước, có chỉ đạo, theo đúng qui trình, có trọng tâm để tránh hữu
khuynh, “tả” khuynh, làm rối loạn tổ chức. Nguyên tắc và quy trình như Người đã
khái quát: “Chỉnh đốn cán bộ trước rồi mới chỉnh đốn chi bộ. Chỉnh đốn tư tưởng
trước rồi mới chỉnh đốn tổ chức. Chỉnh huấn cán bộ cao cấp phải do Trung ương
trực tiếp lãnh đạo vì đó là mấu chốt của việc chỉnh đốn toàn Đảng”
(

7

)
. Đây là vấn
đề còn nguyên giá trị lý luận và tính thời sự hiện nay.
Ba là, nguyên tắc đoàn kết nhất trí trong Đảng
Giữ gìn sự thống nhất của Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản
trong công tác xây dựng Đảng. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết nhất trí phải theo
đúng Điều lệ, kỷ luật Đảng; đoàn kết phải gắn với phê bình và tự phê bình, không
xuôi chiều, thủ tiêu đấu tranh. Có như vậy Đảng với vững mạnh. Sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng cần phải được giữ gìn “như con ngươi của mắt. Phải hết
lòng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ nội bộ; tuyệt đối không được độc đoán cá
nhân, tự đặt mình cao hơn tổ chức ”
(4)
.
- Về tư cách đảng viên và vấn đề cán bộ
Rèn luyện đội ngũ đảng viên là vấn đề cực kỳ quan trọng trong công tác xây

dựng Đảng mà Hồ Chí Minh quan tâm từ thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng. Ngay
trang đầu tác phẩm Đường Kách mệnh Người nêu 23 điều về tư cách một người
cách mệnh với những yêu cầu cụ thể đối với mỗi cán bộ trong quan hệ với tổ chức,
với đồng chí mình, với công việc. Đó là những lời ngắn gọn, dễ hiểu và có ý nghĩa
sâu sắc như: Phải giữ chủ nghĩa cho vững; cần kiệm; hòa mà không tư; cả quyết
sửa lỗi mình; nhẫn nại; vị công vô tư; không hiếu danh, không kiêu ngạo; nói thì
phải làm; hy sinh; ít lòng ham muốn về vật chất; với người thì khoan thứ; với đoàn
thể thì nghiêm…
(

8

)
.
Trước hết, Người xác định trong kết nạp đảng viên phải coi trọng chất lượng
hơn số lượng; tránh thành phần chủ nghĩa, chú trọng phát triển Đảng trong công
nhân.
Phải chú trọng công tác rèn luyện đảng viên theo theo đúng các yêu cầu về
tiêu chuẩn đảng viên đã qui định trong Điều lệ Đảng, tức là phải bảo đảm “tính
Đảng”. Đó là: Phải giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lập trường tư tưởng phải vững
vàng; Phải tự nguyện phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp của Đảng, đặt lợi ích của Tổ
quốc, của Đảng lên trên hết, trước hết. Khi Đảng và Tổ quốc yêu cầu phải sẵn sàng
hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, của Đảng; Phải liên hệ mật thiết
với quần chúng; tiên phong gương mẫu thực hiện đường lối chính sách của Đảng
7
Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập7, tr.398.
8
Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.280
14
và Nhà nước để quần chúng noi theo; Phải có đạo đức cách mạng trong sáng; Phải

có tinh thần quốc tế chân chính…
Nhận thức rõ vấn đề có cán bộ tốt việc gì cũng xong, Hồ Chí Minh đưa ra
những yêu cầu đối với cán bộ một cách cụ thể, tập trung mà nội dung bao quát là
phải vừa “hồng”, vừa “chuyên”, tức là phải có phẩm chất chính trị tốt, có năng lực
công tác thực tiễn đểhoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Người thường nói: có tài
mà không có đức là người vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó, như ông Bụt trong chùa chẳng giúp ích được gì.
Năng lực công tác của cán bộ theo Hồ Chí Minh nghĩa là cán bộ phải có
năng lực tổ chức, lãnh đạo thực hiện có hiệu quả đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước. Vì vậy Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải không ngừng học tập để
nâng cao trình độ, phải học lý luận, học văn hóa, khoa học kỹ thuật, đồng thời phải
rèn luyện phong cách công tác tốt, nghĩa là phải có ý thức trách nhiệm cao trước
nhân dân, trước Đảng khi thực hiện công việc, phải chống chủ quan, qua loa, đại
khái, phô trương hình thức.
- Giữ vững và tăng cường mối quan hệ gắn bó Đảng với nhân dân
Nước lấy dân làm gốc, cách mạng là sự nghiệp của toàn dân. Vì vậy phải
giữ chặt mối liên hệ với nhân dân và luôn biết lắng nghe ý kiến của dân chúng, ý
đảng lòng dân, đảng phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Trong điều kiện
đảng cầm quyền, HCM nhấn mạnh: Nếu ko có nhân dân thì Chính phủ ko đủ lực
lượng. nếu ko có Chính phủ, thì nhân dân ko ai dẫn đường. vậy nên, Chính phủ với
nhân dân phải đoàn kết thành một khối. phải đem tài dân, sức dân, của dân để làm
cho dân. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng khi xác định đường lối, chính sách là
Đảng phải căn cứ vào thực tiễn, phải nhằm phục vụ lợi ích chính đáng của nhân
dân. Đảng phải chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân.
Vì vậy, trong việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho dân phải hết sức
chú trọng vấn đề nâng cao dân trí. Chỉ có như vậy quần chúng mới nhận thức rõ về
Hiến pháp và pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của công dân để tự giác thực hiện.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng Đảng hiện nay
Tính tất yếu khách quan phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
trong thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam

Hiện nay, chúng ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH
mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, vì vậy đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác
xây dựng Đảng.
Thế giới đang có những thay đổi phức tạp, khó lường ảnh hưởng lớn tới sự
lãnh đạo của Đảng. Trước sự khủng hoảng toàn diện và sụp đổ của hệ thống các
xhcn ở Đông ân và Liên xô, Đảng ta đã nhìn thẳng, đánh giá đúng sự thật, nghiêm
khắc kiểm điểm về những sai lầm khách quan và chủ quan; chỉ ra những khuyết
điểm hạn chế trong việc xây dựng đường lối và trong chỉ đạo thực hiện của Đảng,
trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải
tạo xhcn và quản lý kinh tế. Tại Đại hội lần thứ VI (12/1986) đảng ta đề ra đường
15
lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt cho con đường quá độ đi lên cnxh ở VN.
Đây là bài học nhãn tiền đối với Đảng ta đã rút ra được và khắc phục kịp thời, vấn
đề nay cho thấy Đảng ta vừa thích ứng với thời đại vừa thực hiện công cuộc đổi
mới.
Tình hình công tác xây dựng Đảng trong gần 30 năm qua và thực trạng công
tác xây dựng Đảng hiện nay. Đảng ta ra rất nhiều các Nghị quyết chuyên đề trong
công tác xây dựng Đảng, (nhất là Nghị quyết Hội nghị TW4: Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay). Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế,
yếu kém, tồn tại khuyết điểm kéo dài chậm được khắc phục và nếu không được
sửa chữa sẽ là thách thức đối với vài trò lãnh đạo của đảng và tồn vong của chế độ.
Bên cạnh đó, sự chống phá, âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình của các
thế lực thù địch ngày càng diễn biến phức tạp đòi hỏi Đảng ta phải tăng cường
công tác xây dựng đảng hơn nữa theo TT HCM hiện nay.
Cách mạng VN đang có nhiều thời cơ lớn, nhưng cũng đang đứng trước
những nguy cơ, thách thức không nhỉ đòi hỏi phải phấn đấu, kiên trì đấu tranh để
vượt qua. Đảng và Nhà nước chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế trong xu hướng
toàn cầu hóa khi CNTB còn phát huy lợi thế về KHKT, công nghệ và tiềm lực KT,
giải quyết có hiệu quả 1 số vấn đề về ASXH trong khi mô hình CNXH hiện thực
bộc lộ những yếu kém, bất cập, nhiều đảng cộng sản mất vị thế Đảng cầm quyền,

phong trào cộng sản đang trong giai đoạn khủng hoảng, đòi hỏi CBĐV phải có bản
lĩnh chính trị vững vàng. Vì vậy, vấn đề xây dựng ĐCSVN trong sạch, vững mạnh
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, đưa sự nghiệp đổi mới theo định hướng
XHCN là đòi hỏi khách quan, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Những nhiệm vụ chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định, đó là:
Trước hết, phải tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng; nâng cao
bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng. Đảng phải kiên định CNMLN, tư
tưởng HCM, mục tiêu độc lập dân tộc và cnxh. Nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, làm sang tỏ một số vấn đề về
Đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên cnxh ở nc ta. Đưa việc
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM” trở thành nhiệm vụ thường xuyên
của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu,
hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phê phán, đảy lùi những
biểu hiện “tự diễn biến”. giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của 1 bộ phận không nhỏ CBĐV, nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân
đối với Đảng.
Đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; nâng
cao chất lượng đảng viên. Kiện toàn nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu
của Đảng nhất là ở cấp chiến lược. Phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng tpb và
pb trong sinh hoạt của các cấp ủy, tổ chức đảng; phát huy tính tiền tiên phong
gương mẫu chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ.
16
Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ; thực hiện tốt chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH; coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng
những vấn đề chính trị hiện nay. Đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu
kém trong từng khâu của công tác cán bộ; làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn
cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia các lĩnh vực; trọng dụng

người có đức, có tài, thực hiện tốt chính sách cán bộ…
Nâng cao chất lượng các phương diện hoạt động và lãnh đạo của Đảng; đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, công tác dân vận của Đảng.
Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng; chú trong kiểm tra, giá sát người đứng đầu
tổ chức đảng, nhà nc, mặt trận và các đoàn thể trong thực hiện chức trách, nhiệm
vụ đc giao; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các sai phạm; tăng cường kỷ
luật, kỷ cương trong Đảng. tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, giải quyết kịp thời
những vướng mắc, bảo vệ quyền, lợi ích của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng
Đảng.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tập trung rà soát, điều chỉnh bổ
sung, ban hành mới, đồng bộ các quy chế, quy định, trình công tác của các cấp ủy,
tổ chức đảng; quy chế quan hệ lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông
lỏng lãnh đạo của Đảng với các cơ quan nhà nc. Đổi mới cách ra nghị quyết, tập
trung vào lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực
hiện nghị quyết của Đảng và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.
Tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, mỗi cán
bộ, đảng viên phải liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng nhân dân và hướng
dẫn, tổ chức nhân dân thành lực lượng, phong trào hành động cách mạng, từ đó
phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Đặc biệt là,
chú trọng vai trò “nêu gương”, “nêu cao tinh thần trách nhiệm, nói đi đôi với làm”
phát huy hơn nữa vai trò tích cực, gương mẫu đi đầu trong học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách
nhiệm trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải
kính yêu nhân dân. Phải tôn trọng thật sự quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối
không được “kiêu ngạo, công thần, tự cao, tự đại”. “Việc gì có lợi cho dân thì hết
sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”(3). Từ trách nhiệm đó, mỗi cán
bộ, đảng viên phải hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, phải xác định mình

là công bộc của dân để thực hiện sứ mệnh “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”,
là một sứ mệnh thiêng liêng và cao cả.
Kết luận:
Trong 25 năm đổi mới toàn diện đất nước, bên cạnh những thành tựu to lớn
trên các lĩnh vực mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được, xét về chủ quan, Đảng ta
cũng còn một số hạn chế, như tình trạng lạc hậu, yếu kém về lý luận; cơ cấu tổ
chức và bộ máy còn cồng kềnh, năng lực của đội ngũ cán bộ còn những hạn chế
trước yêu cầu của tình hình mới; tình trạng xa dân, quan liêu, tham nhũng cũng là
17
một vấn nạn trong Đảng. Do vậy, để Đảng trở thành một Đảng cầm quyền trong
sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay, cần
nghiên cứu, vận dụng sâu sắc hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây
dựng Đảng; tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng theo nguyên tắc “tinh
giảm, hiệu quả”; bảo đảm mỗi bộ phận trong hệ thống đáp ứng đầy đủ yêu cầu,
nhiệm vụ của Đảng giao, phù hợp với tình hình thực tế; xây dựng kiện toàn đội
ngũ cán bộ theo hướng vừa “hồng” vừa “chuyên”; giỏi về lý luận, đồng thời tinh
thông nghiệp vụ, kỹ năng đối với từng chức danh, công việc cụ thể. Bổ sung, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống quy định về cán bộ công chức, từ tuyển chọn, đào
tạo, bố trí, sử dụng, đánh giá, đãi ngộ cán bộ.
Với truyền thống cách mạng kiên cường, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi
sáng, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất định sẽ thành công trong việc khắc phục
những khuyết điểm, yếu kém, xây dựng Đảng thật sự đạo đức, văn minh, đưa sự
nghiệp đổi mới tới thành công.
Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và xây dựng CNXH
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc những vấn đề
cơ bản của CM VN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN Mác-
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về

giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc
gắn liên với CNXH, ” (Văn kiện đại hội lần thứ XI, NXBCTQG, trang 88). Nếu
nói rằng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi của tư tưởng
HCM, thì tư tưởng về CM XHCN là một một bộ phận cốt yếu của nội dung ấy.
Đây là vấn đề được Chủ tịch HCM xác định ngay từ trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng ta.
Có thể nói, quan niệm của HCM về CNXH chính là sự khẳng định tính chất và
triển vọng của một chế độ chính trị, xã hội đầy tính nhân đạo và hiện thực, thể hiện
việc vận dụng sáng tạo CN Mác-Lênin vào hoàn cảnh nước ta. Sự lựa chọn của
Người dựa trên các căn cứ khách quan sau :
Thứ nhất, Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục
tiêu phấn đấu của Người thống nhất là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh
phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. ở mục tiêu chung
ta có thể thấy nhưng khía cạnh sau:
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân, và
muốn nâng cao đời sống nhân dân thì phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là tiêu
chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lực
18
lượng xã hội và mọi chính sách thực tiễn; nếu trượt khỏi quỹ đạo này – nâng cao
đời sống nhân dân- thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu hoặc là không có gì tương
hợp với chủ nghĩa xã hội.
- Chỉ ra mục tiêu chung, tổng quát của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã
khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội đã tồn tại
trước đó trong lịch sử, đồng thời cũng chỉ ra nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội là thực
hiện sự nghiệp giải phóng con người theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng từng cá nhân con người.
- Quá trình đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là một quá trình
lâu dài, trải qua một thời lì quá độ với nhiều bước trung gian quá độ nhỏ.

* Những mục tiêu cụ thể của thời kì quá độ trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội đó là:
- Mục tiêu chính trị:
Chế độ chính trị mà chúng ta xây dựng là chế độ do nhân dân lao động làm
chủ. Người nói: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng
liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo “trong Nhà nước đó, mọi
người công dân đều có quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan Nhà nước, có
quyền kiểm soát và bãi miễn đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân, nếu những
đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Vì thế, trong Nhà nước dân chủ mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, còn chính
phủ là đầy tớ chung của dân. “Dân là chủ thì chính phủ phải là đầy tớ…nếu chính
phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”.
Hồ Chí Minh cũng nói rõ mối quan hệ giữa quyền làm chủ với nghĩa vụ và
tính năng động của người làm chủ: “ Đã là người chủ Nhà nước thì phải chăm lo
việc nước như chăm lo việc nhà…, đã là người chủ thì phải biết tự lo toan, gánh
vác, không ỷ lại, không ngồi chờ…để xứng đáng với vai trò của người chủ.
- Mục tiêu kinh tế:
Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là một nền kinh tế XHCN với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kĩ thuật tiên tiến. Nền kinh tế đó
được tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất; không có nền
kinh tế phát triển cao thì không thể có chủ nghĩa xã hội.
- Mục tiêu văn hoá - xã hội:
Chủ nghĩa xã hội gắn liền với phát triển văn hoá và là giai đoạn phát triển
cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải phóng con người, trước hết là giải phóng
khỏi ách áp bức bóc lột tư bản. Theo Hồ Chí Minh, văn hoá- tư tưởng không chỉ
phụ thuộc một cách máy móc vào điều kiện sinh hoạt vật chất, vào mức sống mà
có khi cách mạng tư tưởng- văn hoá phải đi trước một bước để dọn đường cho
cách mạng công nghiệp. Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền
văn hoá: Lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở , “văn hoá phải sửa

đổi được tham những, lười biếng, phù hoa, xa xỉ”, “phải làm cho ai cũng có lí
tưởng tự chủ, độc lập, tự do”, và phải kết hợp với tiếp thu có chọn lọc những giá
trị tinh hoa văn hoá của nhân loại.
19
Về quan hệ xã hội, xã hội mà chúng ta xây dựng là một xã hội công bằng,
dân chủ, có quan hệ tốt đẹp giữa người với người; các chính sách xã hội được
quan tâm thực hiện, đạo đức, lối sống phát triển lành mạnh.
+ Một trong những mục tiêu xây dựng của chủ nghĩa xã hội là đào tạo con
người mới, xây dựng cho được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Người
khẳng định: “Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người” chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa xã hội là công trình tập
thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy. Nếu không có những con người
thiết tha với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thì không có chủ nghĩa xã hội được.
+ Con người xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh phải là con
người có tinh thần và năng lực làm chủ; có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư; có tinh thần dám nghĩ, dám làm…
+ Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, giải phóng mọi
tiềm năng sẵn có của con người để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trong đó có sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
- Thứ hai, các động lực của Chủ nghĩa xã hội
Để hoàn thành được những mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội, điều quan trọng
là phải nhận thức, vận dụng và phát huy tất cả các động lực của chủ nghĩa xã hội.
Động lực ấy chính là tất cả những nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội thông qua hoạt động của con người.
+ Động lực bên trong
Theo Hồ Chí Minh, hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội rất phong phú,
nhưng xét đến cùng, các động lực muốn phát huy được tác dụng đều phải thông
qua con người, do đó bao trùm và quyết định nhất vẫn là động lực của con người,
là nhân dân lao động, nòng cốt là công - nông - trí thức. Hồ Chí Minh thường
xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ; đồng thời chăm lo bồi

dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của nhân dân và từng cá nhân.
Về động lực con người: Hồ Chí Minh nhận thấy ở động lực này có sự kết
hợp giữa cá nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng). Người cho
rằng, không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con
người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn
kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng hợp tạo
nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội.
Động lực kinh tế. Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển
kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi
người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật,
kinh tế với xã hội.
Động lực văn hóa, khoa học, giáo dục. Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí
Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần
không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Các động lực bên ngoài. Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí
Minh phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ
nghĩa yêu nước phải gắn với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử
dụng tốt những thành quả của khoa học - kỹ thuật thế giới
20
 Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết
định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế, Người hay nêu cao tinh
thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính nhưng luôn luôn chú trọng
tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Để phát huy cao độ những động lực của CNXH, cần phải khắc phục những
trở lực kìm hãm nó. Đó là:
Phải thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (giặc nội xâm), vì nó
là kẻ địch hung ác của CNXH, là"bệnh mẹ" đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm khác.
Phải thường xuyên đấu tranh chống tham ô, lãng phí và quan liêu, vì nó là

bạn đồng minh của thực dân phong kiến, nó phá hoại đạo đức cách mạng cần,
kiệm, liêm, chính.
Chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật, vì nó làm giảm sút uy tín và
ngăn trở sự nghiệp của Đảng.
Chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập,…
Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và xây dựng
CNXH trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
- Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
ĐLDT và CNXH phải là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân
ta. Bởi, thực tiễn phát triển đất nước đã cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho ĐLDT.
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã từng dạy: “nếu nước độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì”
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các
nguồn lực, trước hết là nội lực, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã nói: Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân,
do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là
phát huy mọi nguồn lực vốn có trước và có như vậy mới có thể tranh thủ sử dụng
hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
Trong nguồn nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất. Để phát huy sức
mạnh của toàn dân tộc nhằm xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt
các vấn đề sau:
+ Tin vào dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực
tế.
+ Chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
+ Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh để
tạo nên sự đồng thuận xã hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh.

21
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là một yêu
cầu có tính quy luật tất yếu đối với các nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ
nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong đó có Việt
Nam. Thực hiện lời dạy của Bác, chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng
khoa học công nghệ, của điều kiện giao lưu và hội nhập quốc tế để nhanh chóng
biến nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các
cường quốc năm châu.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận
lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh,
chúng ta cần ra sức tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh
nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại. Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối
chính trị độc lập, tự chủ.
Chủ động hội nhập kinh tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh và
bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh thiếu niên.
- Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư xây dựng CNXH.
+ Xây dựng ĐCSVN cầm quyền “đạo đức, văn minh”
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách
đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
+ Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm
khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính
quyền những người lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi ích riêng; phát
huy va trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, giữ vững sự ổn định chính trị- xã hội đất nước.
+ Giáo dục mỗi người dân ý thức biết làm giàu cho đất nước hăng hái đẩy

mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng nước nhà.
Kết luận
Tại sao nói nét nổi bật của Tư tưởng HCM là tư tưởng chính trị?
Hồ Chí Minh là một lãnh tụ kiệt xuất, đồng thời cũng là nhà tư tưởng lớn của
cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người rất rộng lớn và bao trùm nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán
bộ, đảng viên là một bộ phận nổi bật trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người.
Những giá trị tư tưởng đạo đức của Người được biểu hiện sinh động thông qua các
bài viết, bài nói ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với giá trị đạo đức phương Đông và
truyền thống của dân tộc. Đặc biệt, Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực và là tấm
gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Nghiên cứu, tìm hiểu những nét đặc sắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là vấn đề có giá trị lý luận và
thực tiễn sâu sắc trong đời sống chính trị của xã hội ta hiện nay.
22
Với nội dung cơ bản, chủ đạo là giải phóng dân tộc, giải phóng GC và giải
phóng con người (giáo trình trang 27-28)
Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội, có vai trò to lớn trong ổn định và
phát triển xã hội. Đạo đức cách mạng là cái gốc, nền tảng phẩm chất của cán bộ,
đảng viên và là cơ sở, điều kiện quan trọng để cán bộ, đảng viên làm tròn nhiệm
vụ của mình. Tìm hiểu những nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng, đồng thời thực hiện có hiệu quả việc “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” là điểm cốt lõi nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên trong giai đoạn cách mạng hiện nay./.
Vận dụng tư tưởng đó trong công cuộc đổi mới hiện nay.
1. Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có vị trí như thế nào trong tư tưởng Hồ Chí
Minh và trong cách mạng Việt Nam?
- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ với nhau như thế nào?
- Sự nghiệp đổi mới, với việc phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa quan hệ với

tất cả các nước, kể cả các nước tư bản chủ nghĩa, phải chăng chúng ta đang thay
đổi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội?
2. Đổi mới là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Khi đã xác định đổi mới là sự nghiệp của toàn dân đòi hỏi chúng ta phải đặc biệt
quán triệt biện pháp nào của Bác Hồ?
- Để phát huy sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp đổi mới đòi hỏi chúng ta
phải làm gì?
+ Phải tin dân, dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, chú trọng phát triển nguồn nhân lực.
+ Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, tạo sự
đồng thuận xã hội thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội.

×