Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tiểu luận: Phân biệt các nguyên nhân trực tiếp và sâu xa mang tính cơ bản của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Đông Nam Á năm 1997 và năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.47 KB, 13 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển, cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông nam Á năm
1997 và năm 2008 đã cho thấy những ảnh hưởng của hành động đầu cơ tiền tệ của các
công ty tài chính, chứng khoán và những khó khăn trong việc điều hành hệ thống tiền tệ
và việc sử dụng các nguồn vốn.
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền
tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh
nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo.
Đây là vấn đề mang tính thời sự được các nhà kinh tế và công chúng rất quan tâm.
Qua đề tài “Phân biệt các nguyên nhân trực tiếp và sâu xa mang tính cơ bản của
cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Đông Nam Á năm 1997 và năm 2008.” Để làm
rõ các nguyên nhân trực tiếp và sâu xa dẫn tới khủng hoảng tài chính, tiền tệ, từ đó rút bài
học kinh nghiệm.
1
I Khái quát chung về khủng hoảng tài chính, tiền tệ
1.Các định nghĩa khủng hoảng tài chính, tiền tệ.
Có rất nhiều định nghĩa về khủng hoảng tài chính, tiền tệ. Có sự khác nhau trong các
định nghĩa định nghĩ là do các cách tiếp cân khác nhau. trong đó có một số định nghĩa có thể
được coi là khá toàn diện vì nó hàm chứa được những nguyên nhân và biều hiện cũng như các
hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và ngân hàng. các định nghĩa này không mâu
thuẫn với quan điểm cho rằng khu vực tài chính là bức tranh phản ánh khu vực sản xuất vật
chất (nhất là các doanh nghiệp) hay khu vực tài chính nhân hàng là hàn thử biểu của nền kinh
tế. Điều quan trọng là các định nghĩa gần đây có thể giải thích được cho những khủng hoảng
tài chính, ngân hàng mới nổ ra gần đây khi nên kinh tế thế giới đã bước sang một giai đoạn
phát triển mới.
Một số nhà nghiên cứu về khủng hoảng cho rằng nếu như các cuộc khủng hoảng cơ
cấu bao trùm khu vực sản xuất vật chất thì các cuộc khủng hoảng chực năng liên quan
đến những đổ vỡ, bất ổn định trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính, tín dụng. Các thẻ chế và
định chế tài chính, tiền tệ đã không còn đủ khả năng để thực hiện các chức năng như giữ
vững tỷ giá hối đoái, kiểm chế lạm phát và các khoản nợ nước ngoài trong những năm
70-80, đó là sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ tín dụng thế giới va lạm phát qui mô toàn cầu.


Hay một định nghĩa khác có nội dung tương tự:khủng hoảng kinh tế (tài chính, tiền
tệ) là sự rối loạn, mất cân bằng, mất ồn định của hệ thống kinh tế quốc gia làm cho hệ
thống kinh tế mất khả năng phát triển bên vửng trong một thời gian nhất định. Sự mất ồn
định, mất khả năng phát triển bền vững có thể diễn ra trên thị trường tài chính, tiền tệ và
cả trên thị trường sản xuất hàng hoá và dịch vụ.
Khủng hoảng tài chỉnh- một sự đổ vỡ trầm trọng trong các thị trường tài chính được đặc trưng
bởi những sụt giảm mạnh mẽ về giá tài sản và sự vỡ nợ của nhiều hãng tài chính và phi tài chính.
Đối với cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực năm 1997-1998, người ta cho
rằng " khung hoảng tài chính tiền tệ này Là Tảng băng nổi biểu hiện những mâu thuẫn
bên trong nền kinh tế của các nước trong khu vực Đông -Nam á sau một thời gian tăng
tốc và phát triển nóng của nên kinh tế. Đó là sự phát triển mất cân đối, đẩy mạnh xuất
khẩu trên cơ sở phụ thuộc vào vốn của nước ngoài trong khi những tiền đề cần thiết chưa
thất ổn định, đặc biệt là hệ thống ngân hàng -tiền tệ, một lĩnh vực hết sức nhậy cảm và chứa
đựng rủi ro chưa được củng cố và giám sát đúng mức.
Định nghĩa khủng hoảng tiền tệ của Goldstein,Kaminsky và Reinhart "Khủng hoảng
tiền tệ là trạng thái mà ở đó một cuộc tấn công vào đồng tiền nội tệ dẫn đến sự thâm hụt
phần lớn dự trữ ngoại tệ và làm mất giá nhanh chóng đồng tiền nội tệ"….
2. Các lý thuyết phân tích nguyên nhân khủng hoảng
Các cuôc khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng ở châu Mỹ La tinh, châu Âu và châu
á gần đây đã dấy lên là sóng nghiên cứu về những nghuyên nhân gây nên khung hoảng. Nghiên cứu
về khủng hoảng tiền tệ bắt đầu với việc xây dựng những mô hình để giải thích những cuộc khủng
hoảng xảy ra ở một số nước châu Mỹ La tinh vào những năm cuối thập kỷ 70. Những mô hình này
cho rằng khủ ng hoảng tiền tệ có nguyên nhân do những yếu kém của nền kinh tế. Cùng với sự sụp đổ
của hệ thống tiền tệ châu Âu và năm 1992, đã xuất hiện các mô hình thuộc thế hệ thứ hai. Những mô
hình này giải thích nghuyên nhân suất hiên khung hoảng là do hành động chính sách của chính phủ, và
các hoạt đông tự điều chỉnh kỳ vọng của các thành viên thị trường và các khả năng tồn tại cân băng
nhiều chiều, thậm chí khung hoảng có thể xảy ra khi không có những yếu kém cơ bản của nền kinh tế.
Các nghiên cứu về khung hoảng trong kinh tế sôi động kể từ cuộc khung hoảng tài chính châu á năm
1997. Những mô hình thuộc thế hệ thứ ba này cho rằng khủng hoảng tiền tệ xảy ra do sự suy sụp của
nền kinh tế hoặc do những hoảng sợ về tài chính.

2
Lý thuyết về khủng hoảng tiền tệ
Cách tốt nhất để tông hợp lý thuyết về khung hoảng tiền tệ là tập trung vào mô hình
của ba thế hệ. Mô hình thuộc thế hệ thứ nhất được Krugman (1979) Flood và Garber
(1984) trên cơ sở các nghiên cứu của Salant và Henderson (1978). Trong tâm của các
nghiên cứu này là ở pham vi rộng các chính sách kinh tế vĩ mô với tỷ giá hối đoái cố định
dẫn đến những tình huống không ổn định với hệ quả là sự điều chỉnh về tỷ giá. Nguyên
nhân vĩ mô của khung hoảng kinh tế có thể là tăng trưởng kinh tế quá lớn, yếu kém của
hệ thống ngân sách và kinh tế hoạt đông nghèo nàn. Trong trường hợp xảy ra khung
hoảng dự trữ ngoại hối sẽ sut giảm nhanh chóng khi những thành viên của thị trường có
khả năng dự báo rằng cơ chế tỷ giá hối đoái hiện hành sẽ không còn tồn tại lâu.
Thế hệ thứ nhất của lý thuyết khủng hoảng tiền tệ có thể hiểu theo một cách tổng quan
hơn: khủng hoảng xảy ra khi sự không đồng nhất về tỷ giá hối đoái cố định có thể tạo ra những
yếu kém về mặt cơ cấu. Chẳng hạn năng suất lao động không cải thiện dẫn đến giảm tính cạnh
tranh trong sản xuất hàng hoá làm cho mục tiêu tỷ giá không còn phù hợp. Giá xuất khẩu giảm
do những cạnh tranh mới có thể làm cho các chính sách kinh tế vĩ mô và chính sách tỷ giá trở
nên không đồng nhất. Mô hình khung hoảng thế hệ đầu tiên coi khung hoảng tiền tệ xuất phát
từ vấn đề thuộc nên tảng của nên kinh tế.
Các mô hình thế hệ thứ hai của khủng hoảng tiền tệ bắt đầu bằng các nghiên cứu
của Obsbteld (1986 và 1996). Khủng hoảng trong các mô hình này xảy ra do sự dịch
chuyển từ trạng thái cân bằng này sang trạng thái cân bằng khác như từ tỷ giá hối đoái cố
định sang tỷ giá hối đoái thả nổi hay từ tỷ giá cố định này sang tỷ giá cố định khác với tỷ
giá thấp hơn. Thí dụ như lạm phát và thất nghiệpcó phải đối đầu với đường cong truyền
thống của Phillíp. Chính phủ có thể không quan tâm đến việc duy trì một trạng thái nào
và khả năng của trạng thái cân bằng đa phương sẽ xẩy ra đồng thời với điều chỉnh tiền tệ
bất ngờ. Một thí dụ khác của khung hoảng loại này liên quan đến thâm hụt tài chính của
chính phủ dẫn đến các nhà cho vay thu hồi lại vốn và do đó gây ra sư sụp đổ của tiền tệ.
Tức là một nước có thể tự tạo ra khung hoảng sau một số hành động của các nhà đầu cơ,
trạng thái cân bằng có thể chuyển từ cơ chế hói đoái cố định sang tỷ giá thả nổi hoạc tỷ
giá cố đinh nhưng với tỷ giá thấp hơn.

Một số tác giả khác như Blanchard và Watson (1982) nghiên cưứ khả năng khung
hoảng do hoạt động đâù cơ. Khung hoảng tiền tệ trong trường hợp này tương tự như
khung hoảng tại thị trường chứng khoán. Một minh chứng cho lý thuyết này là khung
hoảng ở Nga vào mùa hè năm 1998 khi tỷ giá hối đoái và chính sách ngân sách được hỗ
trợ bởi một luồng vốn vào lớn, theo đó tất cả những yếu tố liên quan dường như có khả
năng sụp đổ lớn.
Lý thuyết về khủng hoảng tiền tệ nhận được một bước phát triển nữa sau khủng
hoảng châu á năm 1997. Khủng hoảng xẩy ra khi đất nước bị giảm sụt nhanh chóng về
nguồn vốn do những hoảng sợ về tài chính. trong một số trường hợp, một số nước là đối
tượng sự rút vốn ồ ạt ra khỏi ngân hàng với tỷ giá hối đoái cố định hoạt động như là chức
năng của hợp đồng tiền gửi. Một cách tổng quan, các mô hình thuộc thế hệ thứ ba xác
định nguyên nhân khủng hoảng là do cơ cấu của các khoản nợ của một nước. sự ra đi ồ ạt
của các khoản vay ngân hàng làm cho đất nước bị thiếu hụt trầm trọng dự trữ ngoại tệ và
khả năng thanh toán. Các mô hình thuộc thế hệ thứ ba cho rằng khủng hoảng có thể do sự
mất cân đối ngoại tệ của các ngân hàng, doanh nghiệp. chính sự mất cân đối này có thể
dẫn đến phát sinh nhu cầu về ngoại tệ. tổng hợp các nhu cầu về ngoại tệ có thể dẫn đến
sức ép lên tỷ giá. Tỷ giá hối đoái giảm làm lái suất của các nhà đầu tư nước ngoài giảm
dẫn đến dòng chẩy ngoại tệ ra ngoài và hệ quả là khủng hoảng tiền tệ.
3
Một dạng của khủng hoảng thế hệ thứ ba là do "rủi ro về hành vi dẫn đến khủng
hoảng". Đầu tư quá mức, đặc biệt là những khoản đầu tư rủi ro của các ngân hàng, các tổ
chức tài chính khác xẩy ra do những hành động hoặc chính sách của chính phủ. Nguyên
nhân khung hoảng ở đây là những khoản đầu tư rủi ro của các ngân hàng, các tổ chức tín
dụng có thể xẩy ra do chính sách của nhà nước. Việc bảo lãnh của nhà nước làm ra tăng tính
mạo hiểm trong hoát đông của các ngân hàng, đặc biệt đối với các ngân hàng không có vốn
đầy đủ và quản lý yếu kém. Mô hình của Akerlof và Romer đưa ra khái niệm về hành động
cướp bóc trong khung hoảng nợ và tiết kiệm tại Mỹ vào đầu những năm 80. Mô hình này
được mở rộng thành tình hình khủng hoảng tiền tệ, mặc dù không phải lúc nào cũng chính
thức. Thêm vào đó, các nhà đầu tư đều chấp nhân những hành động rủi ro của các tổ chức tài
chính hoặc doanh nghiệp bởi vì họ biết rằng chính phủ hoặc các tổ chức tài chính quốc tế sẽ

hỗ trợ tài chính cho các tổ chức và doanh nghiệp này. Các nghiên cứu cho thấy một khuôn
khổ thể chế yếu kém về quản trị doanh nghiệp có thể là nguyên nhân gây ra khủng hoảng
tiền tệ trong điều kiện các công ty bị tấn công chỉ với các cú sốc nhỏ. Quan điểm này cũng
được kiểm chứng bởi các nghiên cứu thực nghiệm và cho thấy mức độ giảm giá của đồng
tiền phụ thuộc vào chất lượng của khuôn khổ thể chế.
Một hình thức khác của mô hình khủng hoảng tiền tệ gần đây nhất liên quan đến
hiện tượng tác động dây chuyền của thị trường bất động sản và thị trường tài
chính.Khủng hoảng cũng có thể xẩy ra do những cú sốc toàn cầu, chẳng hạn như sự gia
tăng của lãi suất và giá dầu thế giới có thể làm tác động đến tất cả các đối tượng của các
nước và vì vậy gây nên khủng hoảng ở phạm vi rộng. Điều này cho một giải thích khác
đối với những khủng hoảng có vẻ như là do tác động lan truyền nhưng thực chất là do
những yếu tố nên tảng. Cũng có những hình thức khác mà khủng hoảng tại một nước hay
một khu vực có thể lan truyền đến một nước hay một khu vực khác của thế giới. Chẳng
hạn, đó có thể là do các mối quan hệ thương mại bị suy giảm bởi cạnh tranh. Đó có thể là
những mối quan hệ về tài chính có liên quan đến những vân đề về đầu tư nước
ngoài (FDI), chẳng hạn như sự kiện tại Thái Lan có thể gây nên khung hoảng ở
Indonéia vì các nhà đầu tư Thái Lan rút vốn ra khỏi Indonesia. Kênh cho vay phỏ thông là
một trong những hình thức cuả loại tác động dây chuyền. Trong khung hoảng tài chính ở
châu á, Nhật Bản được coi là nước truyền những tác động dây chuyền này, trong khi Mỹ
đóng vai trò trong khung hoảng ở châu Mỹ La tinh. Khủng hoảng ở một nước có thể làm cho
các nhà đầu tư hiều một số vấn đề cơ bản của những nước tương tự. Điều đó không nhất thiết
là tác động của dây chuyền mà có thể là sự hiểu thực tế mô hình của rủi ro.
Tuy nhiên, các thị trường tài chính cũng có thể chứa đựng các yếu tố gây nên khủng
hoảng tài chính và thị trường tài chính cũng có thể đóng vai trò độc lập trong khung
hoảng tiền tệ. Điều này có thể do những vấn đề về điều phối trên thị trường tài chính
-từng thị trường có thể hành động theo quan điểm riêng nhưng tổng thể lại gây nên những
phản ứng gây nên khung hoảng như rút vốn ồ ạt khỏi ngân hàng. Mức độ của những hành
động này có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố thể chế. Sự không cân xứng về thông tin
có thể làm vấn đề thêm trầm trọng khi các nhà đầu tư hành động theo các nhà đầu tư nội
gián dường như có thông tin tốt hơn

II Diễn biến và nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính, tiền tệ
1 Diễn biến và nguyên nhân khủng hoàng tài chinh năm 1997
A-Diễn biến cuộc khủng hoảng ở một số quốc gia
Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân
hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh
4
báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ
được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả
mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy
mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá
giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần
50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ
số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối
năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ
USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8,
IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20
tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương
Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách
nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất
giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào
cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới
các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001,
Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng
1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso
thêm mất giá

Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng
thống.
Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo
vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở
Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ
USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3,
nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các
thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ
số Hang Seng đã giảm 23%.
Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên
thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt
đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ
phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm
Trưởng Đặc khu hành chính Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ.
Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar
Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoáng
này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của
nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi
chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của
thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ
vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
Hàn Quốc
5
Hàn Quốc được xếp hạng thứ 11 trong số những nền kinh tế lớn trên thế giới. Khi
khủng hoảng xảy ra, với tình trạng kém cỏi sẵn có của hệ thống ngân hàng bắt nguồn từ những
khoản nợ kém hiệu quả rất lớn, Moody's đã hạ bậc tín dụng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3
vào tháng 11/1997 và tiếp tục hạ xuống B2 vào tháng 12.
Sự kiện này góp phần làm thị TTCK Hàn Quốc sụt giảm mạnh hơn, giảm 4% vào

7/11/1997, giảm tiếp 7% vào ngày 8/11 và 7.2% vào ngày 24/11/2997 khi có tin IMF yêu
cầu Hàn Quốc thực hiện cải tổ hệ thống tài chính.
Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ
USD của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó
Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors.
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước
ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân
hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11
các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11
năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3,
sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng
khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán
Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp
dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.
Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của
Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn
sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở
nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở
trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong
tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng
vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và
quý ba năm 1997.
Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia là quốc
gia nhận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua việc KLSE (sàn
giao dịch chứng khoán chính thức của Malaysia) được coi là sàn giao dịch có hoạt động
mạnh nhất trên thế giới (tổng giá trị giao dịch thậm chí vượt qua cả NYSE mặc dù có

mức vốn hóa thị trường thấp hơn rất nhiều). Ở thời điểm đó, mọi người đều kỳ vọng quốc
gia này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và trở thành nước phát triển vào năm 2020.
Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLSE Index đang ở mức 1.200, đồng
ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với USD, lãi suất qua đêm dưới 7%. Lãi suất qua
đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh giá tín dụng tụt xuống và xảy ra làn
sóng bán chứng khoán và tiền tệ ồ ạt.
Cuối năm 1997, mức đánh giá tín dụng tụt xuống dưới mức bình quân cho các
khoản đầu tư không đảm bảo, KLSE mất 50% điểm, tụt xuống dưới 600, đồng ringgit
cũng mất 50% giá trị, còn 3.8 đồng đổi 1 USD. Năm 1998, GDP giảm 6,2%, đồng ringgit
mất thêm 4,7% giá trị và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm.
Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã
6
nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%.
Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái
thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất
giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ
Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar
Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều
giảm xuống mức thấp lịch sử.Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các
công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty
tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán
Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF
khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên.
Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500
người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng
hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa đồng Rupiah và đồng Dollar vào khoảng 2000 : 1.
Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.

Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia
đã giảm đi
Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7
năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ
lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được
coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là
Khủng hoảng tiền tệ Đông Á.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá
bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng.
Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải
kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng
ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với
những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
B.Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
Những nguyên nhân chủ quan
a-Thâm hụt tài khoản vãng lai(THTKVL), nền kinh tế phát triển mất cân đối, nền
tảng kinh tế vĩ mô yếu kém. Xét về mức độ, tuy có khác nhau nhưng nhìn chung kinh tế
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á, tăng trưởng nóng tạo nên tốc độ phát triển kinh
tế cao trung bình từ 7,5-8% trong những năm qua đã ngấm ngầm báo hiệu những sự mất
cân đối dẫn đến khủng hoảng tài chính.Trước hết thể hiện sự mất cân đối bên trong đó là
mâu thuẩn giữa tốc độ tăng trưởng quá nhanh tạo nên sức ép đối với giá cả do chi phí sản
xuất kinh doanh ngày một tăng. Đối với Thái Lan chỉ số giá tiêu dùng tăng nhanh, đạt
mức 5,6% năm 1996 so với 3,4% năm 1993. Chính phủ vì thế phải tăng mức lương tối
thiểu, trung bình 8,5%/năm, trong khi đố năng suất lao động chỉ tăng trung bình 3%. Đặc
điểm này diển ra tương tự như ở Malaysia, Indonesia và Philippines. Mặt khác các nước
phải tăng vốn vay từ bên ngoài để bù đắp cho việc thiếu hụt trong nước nhằm đẩy nhanh
tốc độ hiện đại hóa sản xuất, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng.
Bên cạnh đó trừ Indonesia phần nào dựa vào nguồn dầu mỏ xuất khẩu, còn Thái

7
Lan, Malaysia rơi vào tình trạng THTKVL ở mức báo động. Theo phân tích của IMF,
nếu thâm hụt trên mức 5% so với GDP sẻ đẩy nước này vào tình trạng khủng hoảng.
THTKVL còn có nghĩa là kinh tế đông Nam Á đã mất cân đối nghiêm trọng đối với bên
ngoài. Từ năm 1995 trở lại đây, THTKVL ở Thái Lan là 8,1%GDP năm1995 và
8,2%GDP năm1996. Tương tự, ở Malaysia là 9,7%GDP năm 1996. Đây là mức độ thâm
hụt bằng với mức mà Mexico gặp phải khi bùng nổ khủng hoảng 1994. Trong khi đó
thâm hụt ở Indonesia là 4% và Philippin là 3,2% GDP năm 1996. Các nguyên nhân chủ
yếu gây nên tình trạng thâm hụt đó là:
+ Do kim ngạch xuất khẩu của các nước từ năm 1995 đến nay giảm mạnh.
+ Do THTKVL và thâm hụt cán cân thanh toán ngày càng nghiêm trọng đã buộc
các nước trong khu vực phải vay nóng từ các khoản vay ngắn hạn của nước ngoài để bù
đắp cho những khoản chi tiêu trong nước.
*Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản
cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các
nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản
của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại
thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các
nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính
phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo
hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước
ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông
tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.)
b- Tỷ giá hối đoái dồn nén một cách khiên cưỡng.
Nếu vấn đề nêu trên là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng thì các
chính sách “neo giá” giữa các đồng tiền khu vực với đồng USD, tạo nên một hệ thống tỷ
giá khiên cưỡng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc phá giá hàng loạt các đồng tiền khu
vực. Mặc dù khởi phát từ việc thả nổi đồng baht Thái Lan dấn đến hiệu ứng lan tỏa sang

các đồng Peso, Ringgit và Rupiah, nhưng trong thực tế trong chừng mực nào đó,các đồng
nội tệ này đã bị giảm giá trước xu hướng ngày càng tăng của đồng USD.
Xét về phương diện lý thuyết, chế độ tỷ giá hối đoái cố định theo hệ thống Bretton
Woods, có ý nghĩa tích cực trong việc ổn định hóa đòng tiền nội tệ và hỗ trợ cho quá trình tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá nhiều vào tỷ giá cố định trong điều kiện đồng nội
tệ trên thực tế bị giảm giá so với đồng tiền mạnh khác cũng như cơ cấu kinh tế mất cân đối lớn
dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Đáng nhẽ ngay từ năm 1996, khi những triệu chứng thâm hụt
tài khoản vảng lai xuất hiện, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác phải thực hiện chính
sách thả nổi đồng nội tệ, trả lại giá đích thực của nó, kết hợp với chính sách thắt chặt tài chính,
chác chắn nguy cơ khủng hoảng bị dập tắp. Thay vì chính chính sách kìm giữ một cách giả tạo
đồng nội tệ để thu hút vốn nước ngoài nhằm bù đắp lỗ hỏng của tài khoản vảng lai và kiềm chế
lạm phát.
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế
gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình
vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế
Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo
ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam
Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm
8
phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô
hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại
trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau
năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất
khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn
Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài
khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng
của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo
hiểm rủi ro.
c. Hệ thống tài chính yếu kém và vấn đề niềm tin bị tổn thương

Bài học đắt giá nhất cho kinh tế mỗi nước là nếu chỉ quan tâm đến tăng trưởng nóng
mà không chú ý kiện toàn hệ thống tài chính, hệ ủa tất yếu là ngân sách nhà nước bị thâm
hụt, lạm phát tăng, nền kinh tế sớm muộn gì củng lâm vào khủng hoảng. Hệ thống ngân
hàng tài chính là một lĩnh vực hết sức nhậy cảm và chứa đựng nhiều rủi ro, chỉ cần một
tổn thương cũng gây nên những xáo trộn lớn trong quá trình điieù tiết kinh tế. Việc duy
trì quá lâu tỷ gia hối đoái cố định đã tạo nên kẻ hở trong hệ thống ngân hàng của các
nước này. Hệ thống ngân hàng hoạt động yếu kém dấn đến kẻ hở cho nhà đấu cơ tiền tệ
vay vốn để mua ngoại tệ kiếm lời. Sự tăng giá của đồng Yên Nhật so với USD khiến cho
các ngân hàng đổ xô mua nhau mua sau đó bán lại để mua USD hưởng chênh lệch giá.
Hiện tượng thất thoát vốn do đầu cơ tiền tệ ngày càng trở nên nghiêm trọng. Để duy trì
tốc độ tăng trưởng và tỷ giá hối đoái cố định ngân hàng tiếp tục vay nóng ngân hàng nước
ngoài dẫn đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt xa dự trữ ngoại tệ trong nước. Các chuyên
gia IMF cho biết tỷ lệ nợ /dự trữ ngoại hối ở Thái Lan, Indonêsia xấp xỉ 3 lần, Philippin gấp 4
lần, hấp nhất là Malaysia là 10 tỷ USD. Nguy hiểm hơn khi nhà đầu tư nước ngoài khẩn
trương rút vốn khi thấy có sự bất ổn.
Do thất thoát và khê đọng vốn ở thị trường bất động sản dấn đến hàng loạt ngân hàng
trong khu vực tuyên bố vỡ nợ. Điển hình như ở Thái Lan, 10 ngân hàng lớn nhất đứng trước
nguy cơ phá sản. Các Nhà đầu tư trong và ngoài nước bắt đầu có hội chứng mất dần niềm tin,
hàng loạt khách hàng rút vốn ra khỏi ngân hàng-tài chính đã làm suy giảm thị trường chứng
khoán ở các nước này.
Sau lời tuyên bố từ chức của Bộ trưởng Tài chính A. Vinavan vào cuối tháng 6/1997 khi
khủng hoảng xảy ra, giới kinh doanh đầu tư mất niềm tin làm thị trường chứng khoán Băngkok
giảm xuống ở mức thấp nhất với chỉ số 482,97 điểm, giảm 14,75 điểm so với giữa tháng 6/1997.
Các nhà đầu cơ bán hạ giá các cổ phiếu và chuyển tiền ra nước ngoài để mua USD.
Những nguyên nhân khách quan
a-Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút, những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới.
Từ năm 1995 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp phát triển giảm
sút dẫn đến lượng cầu cũng suy giảm. Đặc biệt, những nước này là bạn hàng chủ yếu, là đối
tác kích thích quá trình tăng trưởng nóng hướng về xuất khẩu của các nước Đông Nam Á.
Những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của khu vực (điện tử, sợi, dệt) đang đứng trước nguy cơ

bảo hòa của thị trường thế giới. Năm 1996, thị trường bán dẫn quốc tế suy thoái mạnh, giá vi
mạch giảm hơn 80%. Các mặt hàng điện tử dân dụng của Nhật, các nước NICs Đông Nam Á
giảm lượng bán hơn 40% trên thị trường thế giới. Mặt khác tính hấp dẫn của thị trường Đông
Nam Á trước các đối tác Mỹ và Tây Âu đã giảm sút trước thị trường Trung Quốc, SNG-Đông
Âu và Mỹ Litinh. Nhật Bản củng đang lúng túng về những đồng vốn cho vay quá lớn trước
những biến động xấu của thị trường tài chính khu vực. Theo báo cáo của ngân hàng D. M.
9
Green Fell thì hơn một nửa số 70 tỷ USD Thái Lan nợ ngân hàng là của Nhật Bản và chủ yếu
là do vay nóng. Do vậy, khi lãi suất tăng thì không chỉ chi phí vay nợ tăng mà đồng vốn vào
Thái Lan cũng sẻ giảm đi hoặc đổi chiều và dẫn đến khủng hoảng về thanh khoản của Thái
Lan đồng thời gây áp lực với đồng Peso và Rupiah.
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì
trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994
cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng
xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi
phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ
dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm
phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước
ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn
hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á
được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ
mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một
cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ.
b. Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công
đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Khi phát hiện những dấu hiệu suy thoái của
hệ thống ngân hàng- tài chính khu vực, nhiều nhà đầu cơ nước ngoài đã tăng cường hợt động đầu cơ
tiền tệ. Theo nguồn tin nước ngoài thì rất nhiều nhà đầu cơ trong tổng số 2300 quỹ tín dụng tư nhân
ở Mỹ, với tài sản trên 100 tỷ USD đã nhảy vào thị trường khu vực này trong 2 tháng 7-8/1997.
Ngoài các quỹ do Soros kiểm soát còn có các quỹ tín dụng lớn như Tiger, Orbis, Pumar, Panther và

Jaguar. Họ mua đồng Baht sau đó Peso, Ringgit, Rupiah kể cả SGD ước tính 10-15 tỷ USD để đầu
cơ, cả dự trữ ngoại hối nhà nước cạn kiệt càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái
Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả
năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền
kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á.
[4] Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ chặt chẽ
là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội nghị Ngoại
trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một Tuyên bố
chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước
ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai
đoạn này.[6] Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các
nước chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao
Đông Á Thái Bình dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho
vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội nghị
Bộ trưởng Tài chính APEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và
theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho
Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc
khủng hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất
bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng
ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.
2. Diễn biến và nguyên nhân khủng hoảng tài chính năm 2008
10
A. Những mốc chính trong cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ tình trạng bong bóng của thị trường nhà đất ở Mỹ
(tình trạng này diễn ra khoảng năm 2005 - 2006) với những khoản vay dưới chuẩn có
nguy cơ rủi ro cao và các khoản thế chấp có lãi suất điều chỉnh. Từ vài năm trước đó, giá
nhà tăng cao cùng với việc được phép vay với điều kiện rất đơn giản, nhiều khách hàng

đã tranh thủ tiền của các ngân hàng đầu tư để đầu cơ vào bất động sản với hi vọng kiếm được
nhiều tiền từ các khoản mua bán chênh lệch.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét
nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại những mốc sự kiện
chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào:
• Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động
sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất
tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị
trường.
• Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất
động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ hồi
giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
• Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính
cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho
vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp
nợ, tăng 79% từ năm 2006. Thư ký bộ tài chính Mỹ gọi bong bóng bất động sản lần này
là “mối nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế”.
- Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các
nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý 3
năm 2006, tuyên bố phá sản.
- Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên bố
phá sản.
- Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên
trong lịch sử.
- Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên
các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư và quỹ
trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay
ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay 100 tỷ

đô la với lãi suất thấp.
- Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất
nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các
ngân hang khác.
- Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ
bản từ mức 6.25% xuống 5.75%
- Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về
khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn.
- Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo
lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản
thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủng hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự
trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối
11
nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản.
- Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4.5%
- Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với lãi suất
thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
• Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau:
- Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ
phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các
khoản lỗ của Bear Stearn
- Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo
thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
- Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie
Mae và Freddie Mac
- Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ đô la.
- Ngày 15/9: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ
bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau sự kiện
11/9/2001.
- Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty này

tránh phá sản.
- Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của bộ trưởng tài chính Paulson trị giá
700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín dụng.
Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
- Ngày 26/9: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhẩt Mỹ
được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase& Co với giá 1.9
tỷ đôla
- Ngày 29/09: Quốc hội Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ do
bộ Tài chính Mỹ đề xuất.
- Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho vay
dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ Citigroup.
B. Nguyên nhân:
Cuộc khủng hoảng lần này không phải là quá bất ngờ với giới tài chính Mỹ nói riêng và
thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro liên tiếp mà chính các tổ chức tài
chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính mình.
Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất là hệ quả của nhau – đã dẫn đến
cuộc khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ.
• Cho vay dưới chuẩn
Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation) để
biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản (MBS,
CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường. Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà
không trả được các khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu
có các danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì
việc phát mại tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài
sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng.
Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm
mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp
hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả
là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
• Mua bán khống

12
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay
dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp
lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua
và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng
trọn.
Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale),
tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi
dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New
York, Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ hôi của sau một cơn bão”.
• Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư
cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này
trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK để vay tiền. Danh mục cho
vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn
theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao
nhưng rủi ro cũng lớn.
Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính
sang NH đầu tư. Nhà đầu tư lắm tiền trên thế giới đã đổ tiền mua CK này, nhờ vậy đã
cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường BĐS ở Mỹ tăng nóng.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế 2001,
kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm chính của
mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không làm
những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ
quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi
mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.
• Khủng khoảng niềm tin
Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu tư sự sụp đổ thảm khốc của
niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài sản. Những
giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt giá giá trị tài sản

thực của ngân hàng. Đây là một trò chơi mà con người ta khi bắt đầu cảm nhận thấy mùi
của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài chính, khi đó thua lỗ xuất hiện, cả thị trường
xuống dốc và tất cả mọi người đều bị thua lỗ.
Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị
xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy đã
xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục.
13

×