Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng tại Phòng giao dịch Cầu Giấy chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.46 KB, 63 trang )



HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NG N H NG - T I CH NHÂ À À Í
~~~~~~*~~~~~~
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI PHÒNG GIAO DỊCH CẦU GIẤY- CHI NHÁNH
WESTERN BANK HÀ NỘI

Sinh viên thực hiện : Đào Thị Thu Hà
MSV : 34A-24
Lớp : 34A
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
PGD : Phòng giao dịch
DN : Doanh nghiệp
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
TSĐB : Tài sản đảm bảo
VNĐ, USD : Việt Nam đồng, đô la Mỹ
TCTD : Tổ chức tín dụng
VHĐ : Vốn huy động
LỜI MỞ ĐẦU
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
1
Thực hiện đường mới đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong các nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ VII và lần thứ VIII, nền kinh tế của nước ta đã chuyển từ cơ chế
kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định


hướng XHCN. Quá trình vận động này đòi hỏi các quan hệ kinh tế - xã hội chuyển
biến và thay đổi thường xuyên. Lĩnh vực tiền tệ tín dụng ngân hàng- một trong những
lĩnh vực nhậy cảm nhất của nền kinh tế do hoạt động kinh doanh tiền tệ là loại hình
mang tính năng động và rủi ro cao cần được cải biến, đổi mới nhằm đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe của thị trường.
Ngân hàng thương mại cổ phần là mô hình mới trong hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Hiện nay hệ thống này
vừa vận hành để phát triển, vừa rút kinh nghiệm để định hình. Là loại hình non trẻ, lại
hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường chưa ổn định, do vậy tình hình đặt ra đối
với các NHTMCP cũng không nằm ngoài bối cảnh trên. Ngoài ra, trong quá trình hoạt
động với đặc tính riêng có của mình, các NHTMCP đã có những phát huy nhất định
đóng góp vào sự nghiệp xây dựng chung của đất nước, tuy nhiên, bên cạnh những mặt
đã đạt được, còn bộc lộ những mặt hạn chế. Sau khi xác định được tầm quan trọng của
chất luợng tín dụng và xuất phát từ thực tế tại phòng giao dịch Cầu Giấy, được sự giúp
đỡ của các cô chú, anh chị trong ngân hàng, em đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài:
“Nâng cao chất lượng tín dụng tại Phòng giao dịch Cầu Giấy chi nhánh Hà Nội”
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1 : Những lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của NHTM
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng của PGD Cầu Giấy chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại PGD Cầu Giấy chi nhánh Hà
Nội
Tín dụng của ngân hàng thưong mại là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp còn kinh
nghiệm thực tiễn, cũng như thời gian thực tập của em còn hạn chế nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự cảm thông, và những kiến quý báu
của các thầy cô giáo, và bất cứ ai quan tâm để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin gửi lời chân thành cảm ơn đến các thầy cô đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn
em. Cảm ơn cô, chú, anh, chị làm việc tại PGD Cầu Giấy đã tạo điều kiện tốt nhất
trong suốt thời gian em thực tập để hoàn thành bản chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!


Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
2
CHƯƠNG 1:
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1 Tổng quan về hoạt động tín dụng của NHTM:
1.1.1 Khái niệm tín dụng:
Tín dụng ngân hàng là hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người cho
vay là ngân hàng sang người đi vay trong một thời gian nhất định và với một chi phí
sử dụng vốn nhất định. Nó được hiểu nôm na là hoạt động vay mượn có trả lãi giữa
người đi vay và ngân hàng. Trong đó, ngân hàng sẽ chuyển quyền sử dụng vốn cho
người đi vay trong một khoảng thời gian đã được thỏa thuận trước. Hết thời gian thỏa
thuận, người đi vay có trách nhiệm hoàn trả cho ngân hàng cả vốn lẫn lãi. Như vậy,
nghiệp vụ tín dụng đã góp phần thỏa mãn nhu cầu vốn trong nền kinh tế giữa một bên
có khoản tiền nhàn rỗi, có nhu cầu đầu tư sinh lợi và một bên có nhu cầu tìm kiếm vốn
để hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng. Đồng thời tín dụng ngân hàng cũng tạo
ra một khoản thu nhập lớn nhất trong các hoạt động sinh lời của ngân hàng.
1.1.2 Phân loại tín dụng:
1.1.2.1 Căn cứ vào mục đích tín dụng:
• Tín dụng bất động sản: Đây là loại tín dụng liên quan đến cho vay để mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công thương nghiệp
và dịch vụ.
 Cho vay phục vụ sản xuất, kinh doanh: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất, bổ sung, ứng vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại, dịch vụ. Nguồn trả nợ của hoạt động này là kết quả hoạt động kinh doanh
vì vậy ngân hàng phải có đầy đủ các thông tin cần thiết về khách hàng, phương án sản
xuất kinh doanh của họ.
 Tín dụng tiêu dùng cá nhân: Là loại cho vay đáp ứng các nhu cầu cá nhân về tiêu
dùng, xây dựng sửa chữa nhà, mua sắm vật dụng gia đình, mua xe cơ giới, du học,
chữa bệnh… Ngày nay, ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải chi
phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. Nguồn trả nợ là thu

nhập trong tương lai của người vay.
1.1.2.2 Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
• Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn từ 1 năm trở xuống nhằm tài trợ
cho các tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
3
nghiệp, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho
vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần bảo đảm.
 Tín dụng trung hạn: Loại tín dụng này có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng (có
ngân hàng lên đến 84 tháng). Tín dụng trung hạn chủ yếu được dùng mua sắm tài sản
cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng, sản xuất kinh doanh, xây
dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh, hình thành vốn lưu
động thường xuyên của các DN, đặc biệt là những DN mới thành lập …
 Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, mục đích của loại tín
dụng này nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào các dự án đầu tư, thời hạn thu hồi vốn lâu.
1.1.2.3 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
 Tín dụng không có bảo đảm: Đây là hình thức tín chấp mà người đi vay không cần
tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín bản thân
khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đánh giá hiệu quả sử dụng tiền vay của khách
hàng, khách hàng phải có uy tín lớn hoặc khả năng trả nợ cao. Tín dụng này mang tính
rủi ro cao, hiện nay sản phẩm chủ yếu đại diện cho hình thức này là tín dụng tiêu dùng
cá nhân.
 Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng yêu cầu phải có cơ sở đảm bảo như tài sản
thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba. Đa phần các sản phẩm tín dụng yêu cầu
phải có bảo đảm, do khách hàng phải đối mặt với rủi ro trong kinh doanh và do đó
ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tín dụng. Mặc dù vậy nhưng hình thức tín dụng này
vẫn có độ rủi ro nhất định vì tài sản có thể bị mất giá hoặc người bảo lãnh không thực
hiện nghĩa vụ của mình.
1.1.2.4 Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng:
 Cho vay bằng tiền: Hình thái của tín dụng biểu hiện bằng tiền. Đây là hình thức tín

dụng chủ yếu của ngân hàng và được đa dạng hóa như: tín dụng ứng trước (chiết khấu
thương phiếu), cho vay theo các hình thức (thấu chi, hạn mức, luân chuyển, trả góp…)
 Cho vay bằng tài sản: Là hình thức rất phổ biến và đa dạng, riêng với ngân hàng
cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó là tài trợ thuê mua. Theo phương thức
cho vay này ngân hàng hoặc các công ty thê mua (công ty con của ngân hàng) cung
cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là đi thuê và theo định kì người đi thuê
phải hoàn trả nợ vay bao gồm cả gốc và lãi hoặc có thể mua trả góp tài sản đó.
1.1.2.5 Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
 Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cung cấp vốn trực tiếp cho cá nhân, tổ chức có nhu
cầu, trực tiếp kiểm tra đôn đốc thu gốc và lãi.
 Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức vay vốn thông qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, nhóm ( hội phụ nữ, hội nông dân ). Ngân hàng có
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
4
thể chuyển một vài khâu hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian: phát tiền vay,
thu nợ… Tổ chức trung gian có thể bảo lãnh cho thành viên của mình vay vốn. Cho
vay gián tiếp áp dụng với thị trường nhiều món vay nhỏ, người phân tán, cách xa ngân
hàng.
1.1.2.6 Một số cách phân loại khác:
Ngoài các cách phân loại trên, tín dụng còn được phân loại theo các tiêu thức:
 Theo đồng tiến được sử dụng cho vay:
- Cho vay bằng đồng nội tệ
- Cho vay bằng đồng ngoại tệ
 Phân theo đối tượng được cho vay:
- Tín dụng cho tổ chức tài chính, doanh nghiệp
- Tín dụng cho nhà nước
- Tín dụng cho người tiêu dùng
Dựa vào các cách phân loại trên ta có thể biết được kết cấu tín dụng của từng loại
tín dụng (tỷ trọng của từng loại tín dụng trên tổng dư nợ). Từ đó đem so sánh với kết
cấu nguồn huy động, so với nhu cầu của nền kinh tế sẽ giúp ta đánh giá, xem xét kết

cấu tín dụng đã phù hợp với ngân hàng chưa và đưa ra những giải pháp thích hợp.
1.1.3 Các nguyên tắc tín dụng của ngân hàng:
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn dựa trên một số nguyên tắc nhất định.
Những nguyên tắc này đề ra nhằm đảm bảo cho các ngân hàng tồn tại và hoạt động
bình thường.
 Vốn vay phải đảm bảo được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận, và mục đích
này không được trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân
hàng cấp trên. Các chủ thể sử dụng tín dụng phải đáp ứng các mục tiêu cụ thể trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó thúc đẩy các đơn vị này hoàn thành kế
hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Khoản tín dụng được sử dụng hiệu quả không
những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
 Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng theo kì hạn đã thỏa thuận do nguồn
vốn sử dụng làm tín dụng chủ yếu xuất phát từ nguồn huy động, là một bộ phận tài
sản các chủ sở hữu mà ngân hàng nhận quản lý. Nếu các khoản tín dụng không được
hoàn trả đúng hạn sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của ngân hàng. Đây là điều
kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
 Phương án (dự án) được cấp tín dụng phải là phương án có hiệu quả bởi vì
phương án hoạt động có hiệu quả minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
5
và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với tài sản
của người vay và đa phần trong các khoản tín dụng đều yêu cầu tài sản đảm bảo.
1.1.4 Vai trò của hoạt động tín dụng đối với Ngân hàng và khách hàng:
1.1.4.1 Đối với ngân hàng:
Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại 70-80% lợi nhuận của ngân hàng.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế là tối đa hóa lợi nhuận và đây cũng là mục tiêu hàng đầu của ngân hàng.
Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính kinh doanh trên nguyên tắc tiền gửi
của khách hàng (huy động vốn) và nhu cầu vay vốn của cá nhân, tổ chức. Trên cơ sở
đó ngân hàng tiến hành các hoạt động cho vay dưới nhiều hình thức tùy theo yêu cầu

của khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân hàng. Sự chênh lệch giữa tiền lãi thu
được và chi phí bỏ ra huy động vốn, bù đắp nợ không thu hồi được là lợi nhuận của
ngân hàng.
Mặt khác hoạt động tín dụng phản ánh đúng vị trí của ngân hàng thương mại, một
vị trí quan trọng là làm tăng tốc độ chu chuyển vốn, tạo cơ chế phân phối vốn một
cách có hiệu quả. Do đặc điểm tuần hoàn vốn nên trong quá trình sản xuất kinh doanh
luôn có sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng vốn cần thiết để dự trữ vật tư
hàng hóa. Có thời điểm nguồn vốn của doanh nghiệp, tổ chức nhàn rỗi, có lúc lại thiếu
trầm trọng. Khi đó ngân hàng thực hiện vai trò của mình là cầu nối: huy động những
nơi thừa sử dụng đầu tư những nơi thiếu.
Hoạt động tín dụng chứa rủi ro cao nhưng hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao nên các
ngân hàng luôn chú trọng hoạt động này. Đồng thời với việc mở rộng tín dụng theo
chiều rộng thì các ngân hàng phải quan tâm tới chất lượng tín dụng để hạn chế rủi ro
tới mức thấp nhất.
1.1.4.2 Đối với khách hàng:
Nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay ngày một phát triển và mở rộng với
những loại hình kinh tế đa dạng. Nhưng với bất kì loại hình nào thì con người không
thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu thiếu vốn. Ở nước ta hiện nay, thiếu vốn là hiện
tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế. Tín dụng ngân hàng đáp ứng
nhu cầu vốn để duy trì, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh từ doanh nghệp cho
đến cá nhân hộ gia đình. Việc duy trì hoặc mở rộng sản xuất nếu thuận lợi sẽ mang lại
nguồn lợi nhuận cho cả chủ đầu tư và ngân hàng. Đồng thời với việc mở rộng sản xuất
sẽ là tạo thêm công ăn việc làm mới, ổn định đời sống của hàng triệu con người.
Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
6
kinh tế quốc tế. Thật vậy trong nền kinh tế mở thì các tổ chức, doanh nghiệp không chỉ
có quan hệ kinh doanh với các tổ chức trong nước mà còn có những quan hệ xuất nhập
khẩu với các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài. Ngân hàng có thể thúc đẩy mối quan
hệ này thông qua các nghiệp vụ bảo lãnh, chiết khấu, tài trợ nhà xuất khẩu… từ đó

nâng cao uy tín của các tổ chức, doanh nghiệp trên trường quốc tế.
Riêng đối với doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng góp phần giúp doanh nghiệp
minh bạch hóa sổ sách tài chính. Sổ sách tài chính là một trong những tài liệu chính để
ngân hàng tiến hành thẩm định, xem xét hoạt động của doanh nghiệp trước khi có
quyết định cấp tín dụng. Tuy nhiên ở Việt Nam, sổ sách tài chính có tính minh bạch
không cao và chưa tuân thủ nghiêm ngặt theo những quy định chuẩn. Điều này bắt
nguồn từ những hạn chế về trình độ quản lí yếu kém, trình độ nhân viên còn chưa cao.
Khi tiến hành thẩm định, ngân hàng rất thận trọng trong viêc thẩm định sổ sách tài
chính, theo quy chuẩn để có thể đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của ngân hàng
trong việc ra quyết định cấp tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là đầu mối tiết kiệm và đầu tư, ngân hàng luôn quan tâm
xem lượng tín dụng được sử dụng ra sao, có đúng mục đích không, có hiệu quả
không…Vì vậy ngân hàng sẽ luôn giám sát thúc đẩy khách hàng sử dụng vốn làm sao
đạt hiệu quả cao nhất. Từ đó tín dụng cũng đã góp phần tạo nên thành công của mỗi
doanh nghiệp, cá nhân…Vì vậy có thể nói tín dụng của ngân hàng đóng vai trò rất
quan trọng như một thứ “dầu mỡ” bôi trơn hoạt động của nền kinh tế.
1.2 Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại:
1.2.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng:
Trong nền kinh tế, mỗi một ngân hàng ra đời với vô vàn sản phẩm nhằm thỏa
mãn nhu cầu khách hàng của mình một cách tốt nhất. Theo đó mỗi sản phẩm đều
mang trong mình chỉ tiêu quan trọng là chất lượng để đánh giá khả năng phục vụ
khách hàng của ngân hàng. Vậy chất lượng là gì? Thuật ngữ “chất lượng” đã được sử
dụng từ lâu để mô tả các thuộc tính như đẹp, tốt, đắt, tươi, xa xỉ Vì thế, chất lượng
dường như là một khái niệm rất khó hiểu và không thể quản lý. Chất lượng là một vấn
đề nhận thức riêng, nó có thể là sự phù hợp với mục đích và sử dụng hay chất lượng là
năng lực đáp ứng của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu
của người sử dụng. Tuy nhiên chất lượng không chỉ là một đặc tính đơn lẻ mà là toàn
bộ tất cả các đặc tính quyết định đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Chất lượng
thường được định nghĩa như là sự tuân thủ toàn bộ các yêu cầu; các yêu cầu này là
toàn bộ các yêu cầu của tổ chức và khách hàng, không chỉ tuân thủ các đặc tính của

sản phẩm.
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
7
Với định nghĩa chất lượng như ở trên thì sản phẩm tín dụng của ngân hàng có đạt
chất lượng tốt hay không phụ thuộc vào đánh giá của ngân hàng và khách hàng. Khi
cung cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng hướng tới hai mục tiêu cơ bản là an toàn
và sinh lời. Ngoài ra ngân hàng còn mong muốn thỏa mãn tối đa nhu cầu về vốn của
khách hàng trong thời gian nhanh nhất. Trong khi đó khách hàng lại quan tâm tới giá
cả tín dụng, kì hạn cho vay, thủ tục đơn giản, thuận lợi… Tín dụng đạt chất lượng tốt
thì góp phần giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung hóa sản
xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế. Như
vậy có thể định nghĩa chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã
hội.
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ảnh mức độ thích nghi
của Ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức
mạnh của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Nó chỉ là một khái
niệm hoàn toàn tương đối: vừa cụ thể (thể hiện qua chỉ tiêu có thể tính toán được: kết
quả kinh doanh của ngân hàng, các tỉ lệ nợ…) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng
thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế qua các ảnh hưởng xuôi và ngược…).
Chất lượng tín dụng còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan (khả năng, trình độ
quản lý của cán bộ tín dụng) và khách quan (sự thay đổi trong môi trường kinh doanh,
xu hướng phát triển nền kinh tế, sự thay đổi giá cả thị trường).
1.2.2 Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng:
Hoạt động tín dụng xuất phát từ nhu cầu của hai phía: ngân hàng và khách hàng.
Vì vậy vai trò của việc nâng cao chất lượng sẽ được thể hiện đối với hai chủ thể đó.
Đối với ngân hàng, chất lượng tín dụng thể hiện qua mức độ an toàn và sinh lời
của các khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng. Chất lượng tín dụng phản ánh
hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng, khả năng thích nghi của ngân hàng với sự
thay đổi bên ngoài. Chất lượng tín dụng tốt thể hiện hoạt động tín dụng thu hút được

nhiều khách hàng, tạo được niềm tin cho khách hàng và đem về cho ngân hàng lợi
nhuận. Mặt khác do ngân hàng luôn quan tâm tới chiều sâu của tín dụng nên chất
lượng tín dụng sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cảnh báo tình trạng hoạt động của
ngân hàng đang thuận lợi hay gặp khó khăn thông qua các chỉ số về an toàn( tỷ lệ nợ
rủi ro, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ món nợ không trả đúng hạn ), các tỉ lệ về sinh lời( thu lãi từ
hoạt động tín dụng, lãi treo…). Từ đó ngân hàng có các dự trù trong tương lai, hay đưa
ra những biện pháp xử lí tình huống. Bên cạnh đó chất lượng tín dụng làm tăng khả
năng cung cấp dịch vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
8
vốn vay và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ tạo
ra một hình ảnh tốt đẹp về biểu tượng, uy tín của ngân hàng và sự trung thành của
ngân hàng. Từ đó chất lượng tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của
ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh.
Đối với khách hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện ở chỗ số tiền mà ngân
hàng cho vay phải có lãi suất và kì hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận lợi, thu hút
được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. Quan tâm tới chất
lượng tín dụng giúp khách hàng lựa chọn được ngân hàng phù hợp với nhu cầu đi vay
của mình. Chặng hạn như khách hàng đảm bảo được đầy đủ các yêu cầu tín dụng sẽ
lựa chọn ngân hàng có chính sách cho vay ưu đãi, lãi suất thỏa thuận, tốc độ giải ngân
nhanh. Trong khi đó khách hàng có mức đảm bảo kém hơn sẽ tìm đến những ngân
hàng chấp nhận rủi ro hơn, nhưng đồng thời lãi suất đi vay sẽ cao hơn. Ngoài ra chất
lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế do đó
làm tăng uy tín quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng tạo tiền của NHTM, thông
qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt…NHTM có thể
mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền thực có, hoặc ngân hàng cho phép các
chủ tài khoản phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khác cho khách vượt
quá số tiền gửi thực có
Như vậy, chất lượng tín dụng có thể được nhìn nhận trực tiếp từ giác độ ngân
hàng và khách hàng. Chất lượng tín dụng phải thỏa mãn đồng thời mục tiêu của cả hai

phía. Tuy nhiên ngân hàng muốn nâng cao lợi nhuận thì mức lãi suất cho vay phải cao,
khoản tín dụng phải được hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi. Đối với khách hàng, họ
muốn tối thiểu hóa chi phí nên mức lãi suất đi vay phải thấp, giải ngân nhanh chóng,
thời gian chiếm dụng vốn càng cao càng tốt. Có thể nhận thấy rõ ràng là các mục tiêu
này của ngân hàng và khách hàng mâu thuẫn, xung đột lẫn nhau. Chính vì vậy chất
lượng tín dụng tốt phải dung hòa lợi ích của cả hai bên, đảm bảo cho ngân hàng ổn
định phát triển bền vững, thỏa mãn nhu cầu, tạo được niềm tin trong lòng khách hàng.
1.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại:
Hoạt dộng tín dụng đạt chất lượng tốt khi nó đạt được những mục tiêu đặt ra.
Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu phản ánh độ thích nghi của ngân hàng thương mại với
sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong
quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt
động tín dụng của ngân hàng cần đo lường được mức độ đạt được các mục tiêu. Chúng
bao gồm các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng :
1.2.3.1 Chỉ tiêu định tính:
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
9
Chỉ tiêu định tính khó xem xét đánh giá hơn chỉ tiêu định lượng, do chỉ tiêu này
đa phần được xem xét dựa trên cảm nhận của ngân hàng và khách hàng bao gồm: sự
đáp ứng các yêu cầu của khách hàng về chất lượng dịch vụ cung cấp, sự tuân thủ các
quy định và chính sách tín dụng của ngân hàng nhà nước và của chính ngân hàng, và
cuối cùng là mức độ phân bố các khoản tín dụng giữa các khách hàng thuộc các nhóm
khác nhau.
Khách hàng cảm nhận chất lượng dịch vụ cung cấp của ngân hàng kể từ bước đầu
tiên tiếp xúc với ngân hàng. Đó là khi khách hàng gọi điện đến nghe tư vấn, với một
tác phong chuyên nghiệp nhân viên ngân hàng có thể thu hút khách hàng ngay từ bước
khởi đầu này. Đó là cảm giác an tâm của khách hàng khi đến giao dịch có bảo vệ, nhân
viên hướng dẫn, sơ đồ làm việc tại các phòng ban…Từ đó khách hàng không bị bỡ
ngỡ khi tiếp xúc với ngân hàng, bước khởi đầu tạo ấn tượng rất tốt. Đồng thời kết hợp
thái độ của cán bộ tín dụng, sự nhạy bén trong công việc tìm ra nhu cầu của khách

hàng và thương thuyết với họ sẽ khiến ngân hàng có những hợp đồng tín dụng chất
lượng mà vẫn thỏa mãn khách hàng. Mặt khác, uy tín của ngân hàng cũng ảnh hưởng
rất lớn tới nguồn khách hàng và loại khách hàng. Ở Việt Nam người dân vẫn đặt lòng
tin vào các ngân hàng quốc doanh cao hơn, một phần là do tính truyền thống của các
ngân hàng này đã thành lập từ rất lâu rồi và một phần do các ngân hàng này được nhà
nước bảo hộ.Nhưng theo dòng thời gian với tốc độ phát triển của nền kinh tế, sự ra đời
của quá nhiều loại ngân hàng ngoài quốc doanh (kĩ thương, cổ phần nhà hà nội, quân
đội…) đã dẫn đến việc cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ góp phần quyết định
để giành lấy khách hàng. Như vậy chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp làm hài
lòng khách hàng và quan trọng hơn “tiếng lành đồn xa” sẽ đưa đến cho ngân hàng
những khách hàng mới với nhiều tiềm năng hơn.
Sự tuân thủ các quy định và chính sách tín dụng của ngân hàng nhà nước được
thể hiện bằng văn bản pháp quy “Quy chế cho vay đới với tổ chức tín dụng và đối với
khách hàng” yêu cầu phải đảm bảo các nguyên tắc tín dụng: khách hàng phải sử dụng
vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, hoàn trả gốc và lãi vốn
vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng…đã được trình bày ở trên.
Đồng thời ngân hàng phải xem xét khách hàng có đủ điều kiện : có năng lực hành vi
dân sự, mục đích dử dụng vốn vay hợp pháp, khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong
thời hạn cam kết, có phương án đầu tư phương án sản xuất kinh doanh khả thi mang
lại hiệu quả. Để đảm bảo được các yêu cầu này, ngân hàng phải triển khai công tác
thẩm định thật tốt. Quyết định cho vay được đưa ra nhờ công tác thẩm định do đó chất
lượng tín dụng gián tiếp được quyết định bởi thẩm định. Như vậy khách hàng có tốt thì
chất lượng tín dụng đem lại mới có thể cao được.
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
10
Thêm vào đó mức độ phân bố các khoản tín dụng giữa các khách hàng thuộc các
nhóm khác nhau cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Khách hàng của ngân hàng
được phân ra làm nhiểu loại: khách hàng thân thiết, khách hàng mới; khách hàng thuộc
đối tượng là cá nhân, doanh nghiệp, nhà nước; khách hàng là thương gia, nông dân,
sinh viên, những người hưởng lương nhà nước…Các khoản tín dụng dành cho khách

hàng thân thiết, có uy tín bao giờ cũng có chất lượng cao hơn nhưng không có nghĩa là
không có rủi ro. Khi khoản tín dụng xin cấp cho một nhóm khách hàng tăng cao,
không nằm trong kế hoạch của ngân hàng sẽ được lãnh đạo xem xét và điều chỉnh cân
đối cho phù hợp nhằm tránh rủi ro.
Như vậy nhờ vào các chỉ tiêu định tính: sự đáp ứng các yêu cầu của khách hàng
về chất lượng dịch vụ cung cấp, sự tuân thủ các quy định và chính sách tín dụng của
ngân hàng nhà nước và của chính ngân hàng, mức độ phân bố các khoản tín dụng giữa
các khách hàng thuộc các nhóm khác nhau có thể đánh giá được phần nào chất lượng
tín dụng của ngân hàng.
1.2.3.2 Chỉ tiêu định lượng:
Khi ngân hàng cung cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng hướng tới hai mục
tiêu cơ bản là : an toàn và sinh lợi. Vì vậy các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
của ngân hàng phải đo lường mức độ đạt được của các mục tiêu trên:
 Các chỉ tiêu nhằm mục tiêu an toàn:
- Nợ rủi ro và nợ xấu:
Nợ rủi ro là nợ có dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng đánh giá là khách hàng có dấu
hiệu khó khăn về khả năng trả nợ( nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 trong QĐ 493/2005/QĐ-
NHNN và QĐ 18/2007/QĐ-NHNN).

Nợ rủi ro không nhất thiết là Nợ quá hạn vì có những khoản nợ quá hạn dưới 10
ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc gốc và lãi bị quá
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
Tỷ lệ nợ rủi ro = Nợ rủi ro
Tổng dư nợ
11
hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại vẫn có thể cho vào Nhóm 1.
Theo quy định có những khoản nợ đã được cơ cấu lại thời gian trả nợ (không phải là
nợ quá hạn nữa) hoặc những khoản Nợ đủ tiêu chuẩn của khách hàng có ít nhất một
món vay bị xếp vào nhóm Nợ rủi ro thì tổ chức tín dụng phải phân loại các khoản nợ
còn lại của khách hàng vào nhóm có rủi ro cao nhất trong các món nợ của khách hàng

đó. Ngoài ra, những trường hợp như: Có những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực đến
môi trường, lĩnh vực kinh doanh của khách hàng; Các khoản nợ của khách hàng bị các
tổ chức tín dụng khác phân loại vào nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn (nếu có thông
tin); Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng (về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán,
tỷ lệ nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm liên
tục hoặc có biến động lớn theo chiều hướng suy giảm; Khách hàng không cung cấp
đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin tài chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng
để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng Thì tổ chức tín dụng phải chuyển khoản
nợ vào nhóm có rủi ro cao hơn.
Nợ xấu là nợ có rủi ro từ nhóm 3 đến nhóm 5 bao gồm các khoản nợ quá hạn lâu
(>90 ngày) và nợ có biểu hiện rủi ro( như nợ được cơ cấu lại thời gian trả nợ). Tỷ lệ nợ
xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Đối
với một ngân hàng chỉ tiêu này càng thấp càng tốt. Chỉ tiêu này càng thấp thì nó phản
ánh chất lượng tín dụng càng tốt và ngược lại.
- Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá hạn. Hay
là nợ đến hạn mà khách hàng không trả được. Có rất nhiều bài viết sử dụng chỉ tiêu nợ
quá hạn trên tổng dư nợ để đánh giá chất lượng tín dụng. Tuy nhiên đối với món vay
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu
Tổng dư nợ
12
được trả làm nhiều lần, khi khách hàng không trả được nợ vào một kì nhất định trong
thời gian vay, không có quy định rõ ràng là ngân hàng phải chuyển dư nợ chưa trả kì
đó hay toàn bộ dư nợ còn lại sang nợ quá hạn. Hơn nữa, ngân hàng có thể gia hạn nợ,
điều chỉnh kì hạn trả nợ, làm cho món nợ đến hạn trả mà khách hàng không trả được
sẽ không bị chuyển nợ quá hạn. Do đó Nợ quá hạn không phải là chỉ tiêu đáng tin cậy
để đánh giá độ an toàn tín dụng. Thay vào đó ta sử dụng các tỷ lệ:
Tỷ lệ nợ không trả đúng hạn =
Số món nợ không trả đúng hạn

Tổng số món nợ trong 1 thời kì
Và:
Tỷ lệ nợ cơ cấu lại thời gian
trả nợ
=
Số món nợ phải cơ cấu lại thời gian
trả nợ
Tổng số món nợ trong 1 thời kì
Các khoản nợ này được chia tách từ nợ quá hạn thành những khoản nợ tiện theo
dõi và chính xác hơn, theo đúng tính chất mà chúng phản ánh. Hơn nữa các tỉ lệ này
đáp ứng được yêu cầu theo dõi chất lượng tín dụng mà chỉ tỷ lệ nợ quá hạn không
phản ánh chân thực.
- Nợ có bảo đảm:


Như đã trình bày ở trên tín dụng có bảo đảm yêu cầu mỗi khoản tín dụng đều
phải có tài sản đảm bảo nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Vì vậy khi xem xét
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
Tỷ lệ nợ có bảo đảm = Nợ có bảo đảm
Tổng dư nợ
13
chất lượng tín dụng ta cũng phải đề cập đến tỷ lệ nợ có bảo đảm. Tỷ lệ này ở các ngân
hàng Việt Nam hiện nay đa phần ở mức cao, do các khoản vay không tài sản đảm bảo
là rất thấp. Tuy nhiên nếu tổng dư nợ gồm các khoản nợ có tài sản đảm bảo nhưng các
tài sản này đang mất giá trên thị trường thì cũng dẫn đến nguy cơ rủi ro cao cho ngân
hàng.
- Phân loại nợ trích lập dự phòng:
Quỹ dự phòng rủi ro tạo ra nguồn bù đắp tổn thất cho ngân hàng khi có rủi ro tín
dụng xảy ra. Do đó, việc lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện
pháp quan trọng để tăng khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng, giúp ngân hàng có

thể ổn định và phát triển được hoạt động kinh doanh trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
Mỗi ngân hàng thương mại phải trích lập dự phòng rủi ro đúng và đủ theo quyết định
493 và quyết định 18 của ngân hàng nhà nước.
Tỷ lệ dự
phòng rủi ro
=
Qũy dự phòng rủi ro tín dụng + Giá trị tài sản đảm bảo
Tổng dư nợ
Hoặc:
Tỷ lệ dự
phòng rủi ro
=
Qũy dự phòng rủi ro tín dụng + Giá trị tài sản đảm bảo
của nợ nhóm 2 đến nhóm 5
Tổng dư nợ nhóm 2 đến nhóm 5
Thêm vào đó, giá trị tài sản đảm bảo góp phần làm giảm khoản thất thu của ngân
hàng khi khách hàng không trả được nợ. Các tỷ lệ này phản ánh khả năng bù đắp của
ngân hàng khi khi khách hàng không thanh toán được nợ, đồng thời cũng có thể sử
dụng các tỷ lệ này để đánh giá độ an toàn tín dụng của ngân hàng.
Còn một chỉ tiêu nữa phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là số ngày
khách hàng phải chờ trước khi nhận được quyết định cấp tín dụng. Chỉ tiêu định lượng
này cho biết mức độ hài lòng của khách hàng khi phải chờ đợi quyết định cho vay. Sẽ
là bất hợp lí khi mà hồ sơ xin vay không được giải quyết nhanh chóng trong khi khách
hàng đang cần vốn, họ sẽ không xoay sở kịp nếu như hồ sơ của họ bị trả lại.
 Các chỉ tiêu nhằm mục tiêu sinh lợi:
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
14
- Lãi thực thu và lãi treo:
Lãi trong hoạt động tín dụng được chia ra thành : lãi dự thu, lãi thực thu và lãi
treo. Đến kì trả nợ, khách hàng đến thanh toán cả gốc lẫn lãi đầy đủ tức là ngân hàng

đã có lãi thực thu. Lãi thực thu phát sinh sau khi khách hàng hoàn trả số tiền vay trong
khi lãi dự thu được ngân hàng tính bất đầu từ thời điểm giải ngân, tức là khi mà khách
hàng chưa thanh toán cho ngân hàng. Lãi dự thu phản ánh số lãi ngân hàng dự tính sẽ
thu được từ khách hàng.
Lãi treo là khoản lãi thể hiện trên tài khoản của ngân hàng, là khoản tiền lãi phát
sinh theo hợp đồng tín dụng nhưng thực tế chưa thu được hoặc không thu được. Khi
khách hàng mất khả năng thanh toán nợ gốc thì cũng mất luôn khả năng thanh toán
tiền lãi và sẽ bị ngân hàng tính lãi suất phạt trả chậm. Hiện nay ở các ngân hàng lãi
suất phạt trả chậm được tính bằng 150% lãi suất trong hạn, vì vậy số lãi này gia tăng
nhanh chóng.
Tỷ lệ lãi thực thu cao và ổn định qua các thời kì cho thấy tình hình kinh doanh,
sản suất của khách hàng vẫn tương đối tốt, ngân hàng không phải lo lắng cho những
khoản tín dụng này. Mặt khác chỉ số lãi treo càng cao lại cho thấy các khoản nợ xấu
của ngân hàng gia tăng, nếu ngân hàng không xử lí kịp thời sẽ phải đối mặt với nguy
cơ thua lỗ.
- Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng:
Tỷ lệ lợi nhuận =
Thu lãi từ hoạt động tín dụng- chi phí từ hoạt
động tín dụng
Tổng dư nợ
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
Tỷ lệ thu lãi từ hoạt
động tín dụng
= Lãi thực thu từ hoạt động tín dụng
Tổng dư nợ
Tỷ lệ lãi treo = Lãi treo
Lãi dự thu
15

Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng tín dụng thông qua lợi nhuận thu về từ hoạt

động tín dụng. Lợi nhuận thu từ hoạt động tín dụng phản ánh chính xác nhất số tiền
mà ngân hàng thu được từ hoạt động này. Các khoản chi phí hoạt động tín dụng được
tính từ khi khách hàng nộp hồ sơ xin vay cho đến khi ngân hàng thu về đồng lãi cuối
cùng. Nó cũng bao gồm cả chi phí dự phòng đã bỏ ra để bù đắp tổn thất. Khi hoạt động
tín đạt chất lượng tốt thì đi kèm với nó sẽ là thu nhập cao và ngược lại, từ tỷ lệ lợi
nhuận của hoạt động tín dụng có thể đánh giá chất lượng tín dụng cao hay không. Chỉ
tiêu này cho thấy lợi nhuận thu về trên một đồng vốn cho vay là bao nhiêu, từ đó chất
lượng tín dụng tốt hay xấu. Một khoản tín dụng có chất lượng tốt thỏa mãn nhiều yếu
tố, trong đó có yếu tố là đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Như vậy, trên cơ sở xem xét kĩ lưỡng các chỉ tiêu định tính và định lượng ta có
thể theo dõi toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Và đồng thời xem xét sự biến
động của chỉ tiêu qua các giai đoạn, ngân hàng có thể đánh giá về chất lượng tín dụng
của ngân hàng mình một cách tương đối chính xác. Nếu muốn xem xét chính xác ta
cần quan tâm tới cả các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng:
1.2.4.1 Xét trên khía cạnh NHTM:
 Chính sách tín dụng của ngân hàng:
Mỗi hoạt động của ngân hàng đều có chiến lược cụ thể và trong hoạt động tín
dụng đó chính là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng là một tập hợp các biện
pháp mang tính đặc thù của ngân hàng nhằm định hướng cho hoạt động tín dụng, đảm
bảo cho hoạt động này đi đúng quỹ đạo trong sự nghiệp phát triển chung của ngân
hàng. Chính sách này bao gồm: các hình thức cho vay được thực hiện, hạn mức, kỳ
hạn các khoản vay, lãi suất…Chính sách tín dụng được xây dựng dựa trên nhiều yếu
tố: yêu cầu của NHNN, khả năng về vốn của ngân hàng, nhu cầu tín dụng của khách
hàng…Vì vậy, mỗi ngân hàng có một chính sách tín dụng khác nhau và nó thay đổi
theo từng thời kì khi các điều kiện và các yếu tố trên thay đổi. Có thể nói rằng chính
sách tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cung cấp tín dụng cho khách hàng của
ngân hàng hay chính là khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Một chính sách tín dụng phù hợp sẽ giúp cho hoạt động tín dụng của ngân hàng
trở nên suôn sẻ hơn nhờ tạo được niềm tin và sự hấp dẫn đối với nhiều khách hàng. Nó

được thể hiện ở mức lãi suất cho vay cạnh tranh, lượng tín dụng cung cấp tối đa cho
khách hàng trên tài sản đảm bảo, kỳ hạn cho vay hợp lý… so với các ngân hàng khác.
Hơn nữa một chính sách tín dụng được xây dựng và thực hiện một cách khoa học và
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
16
chặt chẽ, kết hợp hài hòa giữa lợi ích của ngân hàng và khách hàng và của xã hội sẽ
hứa hẹn một chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại chất lượng tín dụng xấu cũng chịu ảnh
hưởng một phần bởi chính sách tín dụng không phù hợp. Với một ý nghĩa rõ ràng như
vậy, chính sách tín dụng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng. Điều này cũng
có nghĩa là chất lượng tín dụng tùy thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng một
cách đúng đắn, hợp lý tình hình thực tế.
 Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng lá những trình tự, giai đoạn cơ bản cần phải thực hiện theo một thủ
tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ, bắt đầu từ vệc chuẩn bị cho vay, giải ngân,
kiểm tra cho đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng tùy thuộc vào việc lập ra
một quy trình tín dụng đảm bảo tính logic và việc thực hiện tốt các bước trong quy
trình tín dụng cũng như sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các bước. Quy trình tín
dụng gồm ba bước:
- Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Sau khi tìm kiếm được
nguồn khách hàng phù hợp, hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ
vay vốn, bước xem xét cho vay là bước rất quan trọng trong quy trình tín dụng. Xét đề
nghị cho vay dựa trên quá trình thẩm định khách hàng. Quá trình thẩm định là quá
trình ngân hàng phân tích đánh giá năng lực của khách hàng trên các phương diện:
năng lực tài chính; tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư; giá
trị của các tài sản đảm bảo. Trong quá tình thẩm định ngân hàng sẽ xem xét khả năng
chi trả nợ của khách hàng, từ đó ngân hàng sẽ chọn lọc những cơ hội đầu tư tốt, hiệu
quả, đảm bảo tính sinh lời và đầu tư an toàn cho ngân hàng. Trong giai đoạn này chất
lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc chấp hành
các quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của ngân hàng. Nếu quá trình thẩm định
mắc phải những sai sót thì ngân hàng có nguy cơ đối diện với rủi ro tín dụng cao.

- Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro: Khi ngân hàng
giải ngân, ngân hàng phải có trách nhiệm với khoản tín dụng mà mình đã cấp, nó thể
hiện bằng việc ngân hàng giám sát thường xuyên hoạt động của khách hàng. Ngân
hàng sẽ có những hành động điều chỉnh can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa rủi ro
có thể xảy ra. Việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình
thức, biện pháp kiểm tra sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Thu nợ và thanh lý giải quyết nợ: định kì ngân hàng tiến hành thu nợ và phân
loại nợ đối với khách hàng. Sự linh hoạt của ngân hang trong khâu thu nợ sẽ giúp ngân
hàng giảm thiểu được những rủi ro, kịp thời có những biện pháp xử lí, tư vấn cho
khách hàng. Do đó hạn chế những khoản nợ quá hạn, bảo toàn vốn, nâng cao chất
lượng tín dụng.
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
17
 Công tác tổ chức của ngân hàng và chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân
hàng:
Công tác tổ chức ở đây bao gồm tổ chức các phòng ban, nhân sự và tổ chức các
hoạt động trong ngân hàng. Ngân hàng có một cơ cấu tổ chức khoa học là phân bổ
đúng người vào đúng vị trí sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các
cán bộ, nhân viên, các phòng ban trong ngân hàng. Mối quan hệ giữa các ngân hàng
với nhau trong toàn bộ hệ thống cũng như với các cơ quan khác liên quan đảm bảo cho
ngân hàng hoạt động nhịp nhàng, thống nhất có hiệu quả cũng nằm trong công tác tổ
chức. Qua đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu khách hàng, theo dõi quản lý
chặt chẽ sát sao các khoản cho vay, từ đó nâng cao hiệu quả tín dụng.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng
nói riêng là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi ngân hàng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
khả năng hoạt động và khả năng tạo lợi nhuận của ngân hàng. Con người là yếu tố
quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn. Kinh tế càng phát triển, các quan hệ
kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi trình độ của người lao
động càng cao. Đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức,
có năng lực sẽ là điều kiện tiền đề để ngân hàng tồn tại và phát triển. Yêu cầu của cán

bộ tín dụng có chất lượng là giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kĩ năng, kinh nghiệm
đánh giá chính xác tính khả thi của dự án, xác dịnh tính chân thực của báo cáo tài
chính… bên cạnh đó cán bộ tín dụng cần phải có sự hiểu biết rộng về pháp luật, môi
trường kinh tế xã hội, sự thay đổi của thị trường… Nếu chất lượng cán bộ tín dụng tốt
thì họ sẽ thực hiện tốt các nhiệm vụ trong việc thẩm định dự án, đánh giá tài sản thế
chấp, giám sát số tiền vay và có các biện pháp hữu hiệu trong việc thu hồi nợ vay, hay
xử lý các tình huống phát sinh trong quan hệ tín dụng của ngân hàng giúp ngân hàng
có thể ngăn ngừa, hoặc giảm nhẹ thiệt hại khi những rủi ro xảy ra trong khi thực hiện
một khoản tín dụng.
 Khả năng thu thập và xử lý thông tin:
Thông tin là yếu tố sống còn đối với mỗi doanh nghiệp trong kinh tế thị trường
cạnh tranh gay gắt. Trong cạnh tranh ai nắm được thông tin trước là người có khả năng
dành chiến thắng lớn hơn, với ngân hàng thông tin tín dụng hết sức cần thiết là cơ sở
để xem xét, quyết định cho vay hay không cho vay và theo dõi, quản lý khoản cho vay
với mục đích đảm bảo an toàn và hiệu quả đối với khoản vốn cho vay. Thông tin tín
dụng có thể được thu được từ nhiều nguồn khác nhau như mua thông tin từ các nguồn
cung cấp thông tin, đến cơ sở của khách hàng trực tiếp xem xét thông tin từ hồ sơ xin
vay vốn. Hiện nay thông tin tín dụng còn được cung cấp bởi trung tâm thông tin tín
dụng của NHNN (CIC) hoặc tư nhân ( như PCB). Các trung tâm này sẽ cung cấp dịch
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
18
vụ gồm các loại báo cáo tình hình vay nợ, tài sản thế chấp, lịch sử quan hệ tín dụng…
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thể nhân. Các thông tin này cũng sẽ được cung cấp
cho các ngân hàng, giúp ngân hàng có cơ sở thực hiện các quyết định cho vay và quản
lý dư nợ. Tuy nhiên từ bất cứ nguồn nào cũng yêu cầu cán bộ tín dụng phải sàng lọc
những thông tin cần thiết để ra quyết định. Như vậy thông tin càng đầy đủ, chính xác
và kịp thời, toàn diện thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng
cao.
 Thanh tra, giám sát nội bộ:
Thanh tra, giám sát giúp lãnh đạo ngân hàng nắm được tình hình hoạt động kinh

doanh đang diễn ra: những thuận lợi, khó khăn việc chấp hành những quy định pháp
luật, nội quy, quy chế, chính sách kinh doanh , thủ tục tín dụng. Từ đó giúp lãnh đạo
ngân hàng có đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp giải quyết những khó khăn
vướng mắc, phát huy những nhân tố thuận lợi, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chất
lượng tín dụng phụ thuộc vào việc chấp hành những quy định, thể lệ, chính sách. Sự
kịp thời phát hiện sai sót cũng như nguyên nhân dẫn đến sai sót lệch lạc trong quá
trình thực hiện một khoản tín dụng sẽ giúp tránh những hậu quả xấu ảnh hưởng tới
chất lượng tín dụng.
 Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng:
Trang thiết bị tuy không phải là yếu tổ cơ bản nhưng góp phần không nhỏ trong
việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực
hiện tổ chức, quản lý ngân hàng kiểm soát nội bộ, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay,
thực hiện các nghiệp vụ giao dịch với khách hàng. Đặc biệt, với sự phát triển như vũ
bão về công nghệ thông tin hiện nay các trang thiết bị hiện đại đã giúp cho ngân hàng
có được thông tin và xử lý thông tin nhanh chóng, kịp thời.Trên cơ sở đó có quyết định
tín dụng đúng đắn trong kinh doanh và giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh
toán được thuận tiện nhanh chóng, chính xác.
Như vậy các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng xét trên khía cạnh ngân
hàng là: chính sách tín dụng của ngân hàng, quy trình tín dụng, công tác tổ chức của
ngân hàng và chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng,khả năng thu thập và xử
lý thông tin,thanh tra, giám sát nội bộ,trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng.
Từ vai trò của những nhân tố này, ngân hàng có thể chủ động cải thiện chất lượng của
chúng để nâng cao chất lượng tín dụng.

1.2.4.2 Xét trên khía cạnh khách hàng:
Những nhân tố này bao gồm:
 Tính khả thi của phương án kinh doanh (dự án):
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
19
Phương án kinh doanh khả thi là phương án có tính thực tế cao, khả năng thu hồi

vốn nhanh, đem lại lợi nhuận cho khách hàng. Nó có vai trò quyết định giúp khách
hàng được cấp tín dụng. Khả năng thu hồi vốn của phương án ảnh hưởng tới các kì trả
nợ, phân loại nợ của khách hàng vào các nhóm. Chỉ cần chậm trễ 10 ngày, nợ của
khách hàng đã bị chuyển từ nợ đủ tiêu chuẩn sang nợ rủi ro. Mặt khác, lợi nhuận thu
được từ phương án kinh doanh giúp khách hàng chi trả được tiền lãi cho ngân hàng và
tiếp tục phát triển kinh doanh trong tương lai. Vì thế tính khả thi của phương án kinh
doanh cũng là một trong những nhân tố quyết định chất lượng tín dụng.
 Năng lực của khách hàng:
Năng lực của khách hàng được đánh giá trên nhiều phương diện. Đầu tiên đó là
năng lực tài chính của khách hàng. Năng lực tài chính thể hiện ở tổng tài sản, vốn tự
có… nó thể hiện khả năng trả nợ của khách hàng khi rủi ro xảy ra với phương án kinh
doanh. Lượng vốn tự có của khách hàng sẽ là đối tượng để ngân hàng xem xét lượng
tín dụng cấp cho khách hàng và nguồn tài sản đảm bảo mà khách hàng có sẽ là nguồn
để xử lý khi có rủi ro tín dụng. Thứ hai là đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty, doanh
nghiệp, hộ sản xuất… có trình độ chuyên môn, đạo đức tốt sẽ có khả năng đưa ra chiến
lược kinh doanh, cạnh tranh phù hợp giúp công ty, doanh nghiệp đứng vững và phát
triển. Khách hàng làm ăn tốt là điều kiện để họ bù đắp chi phí kinh doanh và trả nợ
ngân hàng cả gốc và lãi đúng hạn, qua đó giảm rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng.
Thứ ba là năng lực quản lý của khách hàng. Năng lực quản lý tốt thể hiện ở những
quyết định, phương án kinh doanh chính xác, hoạt động kinh doanh hiệu quả, kinh
doanh có lãi. Năng lực của khách hàng quyết định việc sử dụng vốn vay đạt hiệu quả,
như vậy chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng từ năng lực của khách hàng rất lớn. Trình
độ năng lực của khách hàng là điều kiện quan trọng và được ngân hàng xem xét kỹ
trước khi cấp tín dụng và năng lực khách hàng càng cao thì khả năng cạnh tranh trên
thị trường càng lớn, vốn vay càng được sử dụng hiệu quả.
 Uy tín và đạo đức kinh doanh của khách hàng:
Uy tín của khách hàng được thể hiện trong những mối quan hệ làm ăn trong quá
khứ, không chỉ với ngân hàng mà còn với những ngân hàng khác, những đối tác… Uy
tín cao thể hiện khả năng kinh doanh của khách hàng tốt, đảm bảo được khả năng chi
trả cho ngân hàng. Bên cạnh đó khía cạnh đạo đức của khách hàng cũng rất quan

trọng. Việc khách hàng làm giả sổ sách, giấy tờ để lừa đảo, chiếm đoạt vốn của ngân
hàng hay sử dụng vốn sai mục đích đã thỏa thuận là một thực tế đang diễn ra rất rõ
ràng. Điều này dẫn đến chất lượng tín dụng xấu đi, khi mà nguồn vốn sử dụng sai mục
đích có nguy cơ không thu hồi được, mà tài sản đảm bảo không phải là thật, thất thoát
của ngân hàng là điều không tránh khỏi.
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
20
Ngoài các yếu tố trên, còn có các yếu tố ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín
dụng như: rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh của khách hàng, tính nhanh nhạy của khách
hàng trước thời vận, chiến lược kinh doanh… Tóm lại để đảm bảo khoản tín dụng sử
dụng có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế xã hội thì khách hàng có vai trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư
cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả
đầy đủ những khoản vốn vay của Ngân hàng khi đến hạn, qua đó đảm bảo an toàn và
nâng cao chất lượng và tín dụng.
1.2.4.3 Các nhân tố khác:
Các nhân tố này là những nhân tố xung quanh, là môi trường hoạt động của ngân
hàng và khách hàng. Chúng bao gồm: môi trường pháp lý và chính sách quản lý vĩ mô
của nhà nước, môi trường kinh tế, môi trường xã hội.
 Môi trường pháp lý và chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước:
Môi trường pháp lý có tác động không nhỏ tới hoạt động của của ngân hàng và
các chủ thể hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế. Nó quy định tất cả những điều
được và không được phép nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Hoạt động của ngân hàng có tầm ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế vì
vậy nó phải hoạt động trong một hành lang pháp lý rất chặt chẽ, đảm bảo an toàn hoạt
động của ngân hàng. Hệ thống pháp lý hoàn thiện sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh
doanh phát triển, đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận và khả năng chi trả nợ với ngân
hàng.
Bên cạnh đó chính sách vĩ mô của nhà nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ. Ví
dụ như chính sách chống lạm phát sẽ hạn chế việc tăng trưởng tín dụng và giới hạn của

mở rộng quy mô tín dụng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Nếu tăng trưởng tín
dụng nóng sẽ làm cho giá cả tăng quá mức, xảy ra lạm phát cao, các ngân hàng thương
mại sẽ chịu thiệt hại do đồng tiền mất giá. Ngoài ra, chính sách kinh tế của Nhà nước
điều tiết để ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực nào đó để
đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh thưởng tới chất lượng tín dụng. Sự ưu
tiên sẽ tạo điều kiện tối đa giúp cho các ngành phát triển, ngay cả trong việc cấp tín
dụng, vì có điều kiện thuận lợi nên đa phần chất lượng tín dụng tốt. Tuy nhiên các
chính sách này thay đổi theo từng thời kì của nền kinh tế. Khi các chính sách này
không ổn định sẽ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, gây trở ngại trong
việc thu hồi nợ của ngân hàng. Ngược lại, chính sách tốt sẽ khuyến khích nền kinh tế
phát triển, đi vào hoạt động ổn định. Như vậy hệ thống pháp luật là cơ sở điều tiết các
hoạt động trong kinh tế. Nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, hay thay đổi sẽ khiến
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
21
cho các hoạt động kinh doanh gặp khó khăn. Ngược lại nếu nó phù hợp với thực tế
khách quan thì sẽ tạo môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến
hành thuận lợi và đạt kết quả cao.
 Môi trường kinh tế, xã hội:
Các hoạt động kinh tế có mối quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau. Chúng
vận động trong môi trường kinh tế. Bất kì một sự biến động của hoạt động kinh tế nào
đó cũng sẽ gây ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh của các lĩnh vực còn lại. Ngân
hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính của nền kinh tế sẽ chịu ảnh hưởng
rất lớn khi nền kinh tế biến động mạnh. Các biến động về lạm phát, lãi suất hay tỷ giá
có tác động không nhỏ tới hoạt động tín dụng của ngân hàng. Biến động về lãi suất
tăng cao có ảnh hưởng xấu, lượng tín dụng bị thu hẹp lại do khách hàng không dám
vay, những khách hàng bắt buộc phải vay thì đối mặt với tình trạng lợi nhuận không
đủ trả lãi ngân hàng vì vậy mà chất lượng tín dụng xấu đi. Bên cạnh đó chu kỳ phát
triển kinh tế cũng là nhân tố tác động tới hoạt động tín dụng. Trong thời kỳ suy thoái
sản xuất kinh doanh bị thu hẹp do cung vượt quá cầu. Hoạt động tín dụng gặp nhiều
khó khăn trên tất cả lĩnh vực, và thời kì này nếu các ngân hàng giảm bớt các nguyên

tắc tín dụng thì chất lượng tín dụng càng giảm. Nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn
tín dụng đã được thực hiện cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn
cho ngân hàng. Vào thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu vốn tín dụng tăng và rủi ro ít đi giúp
cho chất lượng tín dụng tăng cao.
Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín dụng thông qua tác
động của xã hội tới con người. Con người hoạt động trong xã hội, hình thành nhân
cách, đạo đức, các mối quan hệ… Một xã hội tốt sẽ tạo ra con người có đạo đức xã hội
tốt, giảm thiểu rủi ro đạo đức trong kinh doanh. Môi trường xã hội bao gồm những
phong tục tập quán, thói quen, trình độ dân trí… và tất cả những yếu tố này tạo nên
những nét đặc trưng của xã hội đó. Khi tiến hành kinh doanh trên một địa bàn nào đó,
nhà đầu tư phải tìm hiểu được những yếu tố cơ bản trên, nắm được chúng sẽ giúp cho
quá trình kinh doanh thuận lợi, phát triển. Cũng chính vì vậy mà đối với thành thị hay
nông thôn, ngân hàng sẽ có những sản phẩm tín dụng riêng nhắm đến các đối tượng
khác nhau. Nhờ nắm bắt được đối tượng khách hàng mà ngân hàng có biện pháp quản
lý, thu nợ hợp lý và chất lượng tín dụng cũng được nâng cao hơn.
Như vậy qua việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ta thấy
tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện về pháp lý của từng nước mà những nhân
tố này có ảnh hưởng khác nhau đến chất lượng tín dụng. Quan trọng nhất là các yếu tố
của ngân hàng và khách hàng có tác động trực tiếp tới chất lượng tín dụng.
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
22
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA PGD CẦU GIẤY
CHI NHÁNH WESTERN BANK HÀ NỘI
2.1 Tổng quan về PGD Cầu Giấy- chi nhánh Western Bank Hà Nội:
2.1.1 Giới thiệu chung về ngân hàng Western Bank:
Ngân hàng Miền Tây (Western Bank) tiền thân là ngân hàng Cờ Đỏ, được thành
lập từ cuối năm 1988 tại Cần Thơ. Sau gần 20 năm hoạt động liên tục có hiệu quả,
Western Bank được sự chấp nhận của ngân hàng nhà nước Việt Nam chuyển đổi thành
ngân hàng đô thị vào đầu năm 2007 và vốn điều lệ của Western Bank sẽ được nâng lên

1000 tỷ. Hiện nay mạng lưới của Western Bank đã rộng khắp cả nước. Western Bank
đã từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường tài chính Việt Nam và là ngân
hàng đầu tiên trong hệ thống ngân hàng Việt Nam ứng dụng công nghệ hiện đại nhất
và hoạt động như: công nghệ bảo mật bằng dấu vân tay, máy kiểm xuất hàng tự động
TCD (teller cash dispenser), hệ thống ATM, ebanking… Western Bank không ngừng
cải tiến, nâng cao chất lượng dịch vụ và cho ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu
ngày càng đa dạng của khác hàng. Sự hài lòng và tin tưởng của khách hàng là mục tiêu
hàng đầu của Western bank. Sự thành công của Western bank cũng đã được ngân hàng
thế giới (World Bank) đánh giá cao và liên tục trong nhiều năm liền luôn được sự tài
trợ của World Bank cho quỹ phát triển nông thôn, nâng cao năng lực thể chế và tài
chính vi mô. Hướng đến sự phát triển bền vững, Western Bank lựa chọn công ty kiểm
toán quốc tế cho mình vào năm tài chính 2007. Các công ty chứng khoán Miền Tây,
công ty bất động sản Western Bank cũng đang chuẩn bị tham gia thị trường trong thời
gian sắp tới.
Quá trình hoạt động
Năm 2007
Western Bank được chuyển đổi sang mô hình ngân hàng đô thị đầu năm 2007
đồng thời tăng vốn điều lệ lên 1000 tỷ đồng đầu năm 2008 đầu năm 2008.
Chính thức đưa hệ thống quản lý ngân hàng trực tuyến Micro bank vào hoạt
động.
Đào Thị Thu Hà Lớp 34A
23

×