Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.28 KB, 26 trang )

Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
MỤC LỤC
I. Cơ sở lý thuyết 3
1.1 Khái niệm và đặc điểm của ngoại ứng 3
1.1.1 Khái niệm ngoại ứng 3
1.1.2 Đặc điểm của ngoại ứng 3
1.2 Ngoại ứng tiêu cực 3
1.2.1 Sự phi hiệu quả của ngoại ứng tiêu cực 3
1.2.2 Giải pháp khắc phục ngoại ứng tiêu cực 5
II. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề của Việt Nam 8
2.1 Tình hình ô nhiễm môi trường tại các làng nghề Việt Nam 8
2.1.1 Ô nhiễm nguồn nước và đất 10
2.1.2 Vấn đề ô nhiễm không khí 13
2.1.3 Vấn đề ô nhiễm tiếng ồn 14
2.2 Tác động của ô nhiễm môi trường đến sức khoẻ con người 15
2.3 Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tại các làng nghề truyền thống
Việt Nam 16
III. Các giải pháp hạn chế ô nhiễm tại các làng nghề của Việt Nam 18
3.1 Các giải pháp của chính phủ 18
3.2 Các giải pháp kiến nghị 22
MỞ ĐẦU
Nghề thủ công đã có từ rất sớm trong lịch sử phát triển của nước Việt Nam.
Ngày nay, những làng nghề truyền thống vẫn là một bộ phận không thể tách
rời của nền kinh tế và nền văn hóa của dân tộc. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, môi trường ở các làng nghề nhiều nơi đang bị ô nhiễm ngày càng
nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường làng nghề không chỉ ảnh hưởng xấu tới
sức khỏe cuả người dân trong khu vực mà còn gây ra những thiệt hại không
1
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
nhỏ về mặt kinh tế, xã hội. Vấn đề cải thiện môi trường làng nghề đang cần
được gấp rút giải quyết.


Vì những lý do trên, chúng em quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Ô
nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải
pháp”.
Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ thực trạng ô nhiễm môi trường tại
các làng nghề ở Việt Nam và phân tích các giải pháp của chính phủ để từ đó
đưa ra những kiến nghị nhằm cải thiện môi trường ở các làng nghề. Nghiên
cứu dựa trên việc phân tích, tổng hợp những tài liệu về vấn đề ô nhiễm môi
trường ở các làng nghề của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010.
Bài tiểu luận sẽ được chia thành 3 phần:
I. Cơ sở lý thuyết
II. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề của Việt Nam
III. Các giải pháp hạn chế ô nhiễm tại các làng nghề của Việt Nam
Do trình độ và thời gian có hạn, bài tiểu luận sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót. Mong cô giáo góp ý bài tiểu luận của chúng em được hoàn chỉnh
hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
2
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý thuyết
1.1 Khái niệm và đặc điểm của ngoại ứng
1.1.1 Khái niệm ngoại ứng
Khi hành động của một đối tượng (có thể là cá nhân hoặc hãng) có ảnh
hưởng trực tiếp đến phúc lợi của một đối tượng khác, nhưng những ảnh
hưởng đó lại không được phản ánh trong giá cả thị trường thì ảnh hưởng đó
được gọi là ngoại ứng.
1.1.2 Đặc điểm của ngoại ứng
• Ngoại ứng có thể do cả hoạt động sản xuất lẫn tiêu dùng gây ra;
• Trong ngoại ứng, việc ai là người gây tác hại (hay lợi ích) cho ai nhiều
khi chỉ mang tính tương đối;

• Sự phân biệt giữa tính chất tích cực và tiêu cực của ngoại ứng chỉ là
tương đối;
• Tất cả các ngoại ứng đều phi hiệu quả, nếu xét dưới quan điểm xã hội.
1.2 Ngoại ứng tiêu cực
Ngoại ứng tiêu cực là những chi phí áp đặt lên một đối tượng thứ ba
(ngoài người mua và người bán trên thị trường) nhưng chi phí đó lại không
được phản ánh trong giá cả thị trường.
1.2.1 Sự phi hiệu quả của ngoại ứng tiêu cực
Xét ví dụ: Một nhà máy và một hợp tác xã (HTX) đánh cá đang sử dụng
chung một cái hồ, Nhà máy dùng chiếc hồ làm nơi xả thải. Nhưng việc có
nhiều chất thải được xả xuống hồ lại làm chết cá, gây ảnh hưởng đến hoạt
3
Lợi nhuận nhà
máy được thêm
Thiệt hại HTX
phải chịu thêm
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
động đánh bắt thủy sản của hợp tác xã. Nhưng vì hoạt động của nhà máy gây
ra ngoại ứng tiêu cực cho HTX đánh cá nên đi kèm với đường MPC còn có
MEC (chi phí ngoại ứng cận biên) nữa cho biết tổng thiệt hại mà HTX phải
gánh chịu khi nhà máy sản xuất thêm một đơn vị sản lượng. Mức thiệt hại
này được giả định tăng dần khi sản xuất của nhà máy mở rộng. Vì thế, đường
MEC có chiều đi lên giống như đường MPC.
Hình trên mô tả hoạt động của nhà máy. Trục hoành cho biết sản lượng
mà nhà máy sản xuất ra, trục tung đo lường chi phí và lợi ích mà hoạt động
này tạo ra, tính bằng tiền. Đường MPC thể hiện chi phí tư nhân biên tức mọi
khoản chi phí mà nhà máy thực sự phải chi ra để sản xuất thêm một đơn vị
sản lượng.
Đường chi phí cận biên xã hội (MSC) sẽ gồm 2 thành phần: thứ nhất là
chi phí sản xuất của nhà máy phản ánh trên đường MPC; thứ hai là chi phí

thiệt hại mà HTX phải gánh chịu được thể hiện bằng đường MEC. Như vậy
MSC=MPC+MEC
Nếu như nhà máy tối đa hóa lợi nhuận, họ sẽ sản xuất tại điểm MB=MC.
Nhưng vì MC mà nhà máy quan tâm là MPC nên họ sản xuất tại điểm B, tại
đó MPC=MB. Điểm này gọi là điểm tối ưu thị trường. Trái lại, mức sản
lượng tối ưu theo quan điểm xã hội đặt tại A, khi MB=MSC. Như vậy, nhà
4
MB.MC
MSC=MPC+MEC MPC
MEC
A
MB
B
C
E
b
a
O
Q
0
++) Q
1
Q
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
máy gây ngoại ứng tiêu cực đã sản xuất quá nhiều so với mức sản lượng tối
ưu xã hội.
Vì lợi ích ròng mà nhà máy thu được là khoảng cách dọc giữa đường MB
và MPC nên tổng lợi nhuận tăng thêm khi nhà máy duy trì mức sản lượng từ
Q
0

đến Q
1
là tam giác ABE. Trong khi đó, HTX sẽ bị thiệt hại do ô nhiễm
môi trường nhà máy thải ra. Với mỗi đơn vị sản lượng do nhà máy sản xuất,
HTX sẽ chịu thiệt hại một khoản bằng MEC. Vì thế, khi sản lượng tăng từ Q
0
đến Q
1
thì tổng thiệt hại mà HTX phải chịu là hình thang abQ
1
Q
0
.
Cũng từ phân tích trên có thể thấy rằng mức sản lượng hiệu quả xã hội
không có nghĩa là một mức sản lượng không gây ô nhiễm; bởi lẽ yêu cầu
như vậy đồng nghĩa với việc chấm dứt sản xuất. Cái mà xã hội cần là phải
tìm ra một mức ô nhiễm chấp nhận được, theo nghĩa lợi ích của sản xuất đem
lại phải đủ bù đắp chi phí mà xã hội phải gánh chịu khi tiến hành sản xuất,
trong đó tính cả đến chi phí ô nhiễm.
1.2.2 Giải pháp khắc phục ngoại ứng tiêu cực
a. Các giải pháp tư nhân đối với ngoại ứng
Quy định quyền sở hữu tài sản.
Coase cho rằng sự xuất hiện ngoại ứng bắt nguồn từ việc thiếu một qui
định rõ ràng về quyền sở hữu rõ ràng về quyền sở hữu đối với nguồn lực
được các bên sử dụng chụng. Định lý Coase phát biểu rằng, nếu chi phí đàm
phán không đáng kể thì có thể đưa ra được một giải pháp hiệu quả đối với
ngoại ứng bằng cách trao quyền sở hữu đối với nguồn lực được sử dụng
chung cho một bên nào đó. Kết quả này không phụ thuộc vào việc bên nào
được trao quyền sở hữu.
Trong ví dụ kể trên, theo Coase, cái hồ là nguồn lực chung của nhà máy

và HTX đánh cá. Vì việc sử dụng cái hồ này không thêm chi phí cho bên nào
nên cả hai đều cố gắng tận dụng tối đa cái hồ vì lợi ích của riêng mình.
5
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Chính điều này đã dẫn đến tình trạng sử dụng quá mức nguồn lực này. Nếu
cái hồ đó thuộc quyền sở hữu của một trong hai bên thì lập tức hiện tượng
ngoại ứng biến mất thông qua quá trình đàm phán giữa hai bên.
Sáp nhập
Một cách giải quyết vấn đề là “nội hóa” ngoại ứng bằng cách sáp nhập
các bên liên quan vơi nhau. Trong ví dụ trên, nếu nhà máy và HTX liên kết
lại với nhau thì lợi nhuận của sự liên doanh này sẽ cao hơn tổng mức lợi
nhuận đơn lẻ của từng bên khi chưa liên kết. Khi đó, liên doanh sẽ phải cân
nhắc lợi ích của cả hai hoạt động và dừng lại ở mức sản lượng tối đa xã hội,
vì đó là điểm mà lợi nhuận của liên doanh là lớn nhất. Về một mặt nào đó,
sáp nhập cũng là chính là một hình thức áp dụng định lý Coase. Tuy nhiên,
việc sáp nhập dễ dẫn tới sự độc quyền khi một doanh nghiệp sở hữu quá
nhiều nguồn lực.
Dùng dư luận xã hội
Người ta có thể sử dụng dư luận hoặc tập tục, lề thói xã hội làm một công
cụ để buộc cá nhân phải lưu tâm đến ngoại ứng mà mình gây ra. Ví dụ, trẻ
em được giáo dục là không gây mất vệ sinh nơi công cộng, không chặt cây
bẻ cành. Với các doanh nghiệp sản xuất gây ô nhiễm, các tổ chức bảo vệ môi
trường có thể dùng sức ép dư luận để buộc các doanh nghiệp này phải chú
trọng đến việc sử dụng công nghệ sạch như bằng cách vận động người tiêu
dùng tẩy chay sản phẩm gây ô nhiễm. Ngày nay, biện pháp này đã tỏ ra khá
hữu hiệu, góp phần cải thiện môi trường sinh thái.
b. Các giải pháp của chính phủ
Đánh thuế
Nguyên nhân khiến nhà máy sản xuất không hiệu quả là do giá cả các đầu
vào mà nhà máy phải trả để sản xuất đã không phản ánh đúng chi phí xã hội

cận biên. Vì thế, một giải pháp rất tự nhiên được nhà kinh tế học người Anh
A. C. Pigou đề nghị là đánh thuế ô nhiễm đối với nhà máy này. Thuế Pigou
6
MPC
MPC + t
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị sản phẩm đầu ra của hãng gây ô nhiễm, sao
cho nó đúng bằng chi phí ngoại ứng tại mức sản lượng tối ưu xã hội
Trợ cấp
Trong điều kiện số lượng người gây ô nhiễm là cố định thì có thể đạt
được mức sản lượng hiệu quả bằng cách trả cho người gây ô nhiễm để họ
giảm bớt mức độ gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên mới đầu cách làm này
có vẻ kỳ quặc nhưng nó hoạt động tương tự việc đánh thuế. Giải pháp này có
vẻ đi ngược lại với quan điểm chung của xã hội là người gây tác hại cho xã
hội phải bị trừng phạt chứ không phải được thưởng. Hơn nữa điều này sẽ
khuyến khích những nhà máy khác cũng đến hoạt động bên bờ hồ để được
trợ cấp. Do đó giải pháp này chỉ hiệu quả khi nó được kết hợp với biện pháp
khác nhằm ngăn chặn nguy cơ xuất hiện những người gây ô nhiễm mới. Cuối
cùng, để có tiền trợ cấp chính phủ buộc phải tăng thuế ở đâu đó trong nền
kinh tế. Khi đó thuế có gây ra sự không hiệu quả ở những nơi khác trong nền
kinh tế và không rõ những phi hiệu quả do thuế gây ra có nhỏ hơn những phi
hiệu quả do ngoại ứng gây ra hay không.
Hình thành thị trường về ô nhiễm
7
MB.MC
MSC=MPC+MEC
MEC
A
MB=m
=

B
C
E
b
a
O
Q
0
++) Q
1
Q
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Như đã nêu ở trên, sự phi hiệu quả gắn với ngoại ứng tiêu cực là do thiếu
một thị trường về những nguồn lực được sử dụng chung như hồ nước, không
khí sạch… Điều này đã gợi ra một cách khắc phục ngoại ứng khác của chính
phủ là bán giấy phép gây ô nhiễm, hay còn gọi là giấy phép xả thải. Theo kế
hoạch này, chính phủ sẽ bán giấy phép xả thải cho phép các nhà sản xuất
được xả một lượng phế thải nhất định Z
0
(tương đương với lượng phế thải
khi sản xuất tại mức Q
0
). Các hãng sẽ tiến hành đấu giá để mua những giấy
phép này và hãng nào trả giá cao nhất sẽ được nhận. Mức giá của những giấy
phép này sẽ là mức giá mà chính phủ mong muốn. Mức giá cân bằng đối với
các giấy phép này được gọi là phí xả thải.
Kiểm soát trực tiếp bằng mức chuẩn thải
Theo cách này mỗi hãng gây ô nhiễm sẽ bị yêu cầu chỉ gây ô nhiễm ở một
mức nhất định, gọi là mức chuẩn thải nếu không sẽ bị đóng cửa. Cách làm
này thường không có hiệu quả khi có nhiều hãng cùng gây ô nhiễm, nhưng

mỗi hãng có khả năng giảm ô nhiễm với mức chi phí khác nhau.
II. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề của Việt
Nam
2.1 Tình hình ô nhiễm môi trường tại các làng nghề Việt Nam
Làng nghề ở nước ta đã tồn tại và phát triển từ rất lâu, đây chủ yếu là
những làng nghề thủ công. Ở nước ta, làng nghề thủ công rất đa dạng. Hiện
trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 1.350 làng có nghề với tổng số lao động
tham gia sản xuất là hơn 670 nghìn người. Năm 2010, giá trị sản xuất của
các làng nghề trên địa bàn ước đạt 8.663 tỷ đồng, chiếm 8,3% giá trị sản xuất
công nghiệp trên địa bàn; một số tỉnh có số lượng làng nghề đông bao gồm:
Thái Bình có 187 làng, Bắc Ninh có 59 làng, Hải Dương có 65 làng, Nam
8
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Định có 90 làng, Thanh Hoá có 127 làng…Các loại hình ngành nghề thủ
công cũng rất đa dạng, phong phú nhưng chủ yếu là các ngành như: Sản xuất
mây, tre đan, dệt vải, thêu ren, sản xuất đồ nội thất, sơn mài, tranh tượng…
Những sản phẩm của các làng nghề truyền thống này đã tạo được chỗ đứng
trên thị trường cả trong và ngoài nước như gốm sứ Bát Tràng, giấy Yên Hòa,
dệt Triều Khúc, khảm gỗ Đồng Kỵ (Bắc Ninh), mây, tre đan, chiếu cói
(Hưng Yên, Thái Bình) Điều này khuyến khích những nghệ nhân và nhân
dân gắn bó với nghề truyền thống, mở rộng và phát triển các làng nghề.
Tuy nhiên, làng nghề phát triển, sản xuất kinh doanh mở rộng khiến cho
lượng chất thải gây ô nhiễm phát sinh ngày càng nhiều, tình trạng ô nhiễm
môi trường làng nghề đang có xu hướng tăng trong khi việc quản lý môi
trường làng nghề còn nhiều bất cập, chồng chéo, đầu tư xử lý chất thải làng
nghề chưa được chú trọng. Vấn đề này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức
khoẻ của người dân cũng như môi trường sống và vấn đề phát triển bền
vững.
Tuy chưa có được một nghiên cứu đầy đủ về môi trường làng nghề song
theo kết quả quan trắc môi trường tại các làng nghề khu vực Hà Nội nói

riêng cho thấy, hiện trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng theo từng
năm. Theo kết quả quan trắc năm 2009, có 9/23 làng nghề có từ một đến bốn
chỉ tiêu quan trắc nồng độ khí thải gây ô nhiễm vượt mức cho phép từ 1,1 lần
đến 3,1 lần. Năm 2010, có 45/46 làng nghề có từ một chỉ tiêu quan trắc chất
lượng không khí vượt chuẩn cho phép từ 1,1 lần đến 4,3 lần. Đặc biệt các
làng nghề chế biến nông sản thực phẩm như bún, miến, đậu phụ …có chỉ
tiêu hữu cơ quan trắc chất lượng nước thải vượt chuẩn cho phép cao nhất từ
10-14 lần.
Điều đáng báo động nhất là mức độ ô nhiễm ở các làng nghề không có
chiều hướng giảm mà có xu hướng ngày càng tăng theo thời gian.
9
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Tuỳ theo lĩnh vực ngành nghề kinh doanh mà mức độ ô nhiễm (nặng, nhẹ) và
loại ô nhiễm (môi trường đất, nước, không khí, tiếng ồn) cũng khác nhau.
Các ngành nghề sản xuất mây, tre đan thì bị ô nhiễm không khí do phải sử
dụng lưu huỳnh để sấy nguyên liệu, với các làng nghề sản xuất công nghiệp
thì chất thải chủ yếu là khói, bụi, khí độc; ở các làng nghề tái chế nhựa khi
làm sạch nguyên liệu người ta phải thải vào sông hồ một lượng chất độc
nguy hiểm như thuốc trừ sâu, hoá chất gây ô nhiễm nguồn nước, không chỉ
thế khi nấy chảy nguyên liệu còn tạo ra mùi rất khó chịu.
2.1.1 Ô nhiễm nguồn nước và đất
Hiện nay, tình trạng phổ biến của các hộ, cơ sở sản xuất nghề ở nông thôn
là sử dụng ngay diện tích ở làm nơi sản xuất. Khi quy mô sản xuất tăng lên
hoặc sử dụng thiết bị, hoá chất đã làm cho môi trường sống bị ô nhiễm nặng
nề, nhất là các làng nghề tái chế phế liệu và chế biến thực phẩm. Cho đến
nay, phần lớn nước thải tại các làng nghề được đổ trực tiếp ra sông hồ mà
không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Đây chính là nguyên nhân khiến cho tình
trạng ô nhiễm nguồn nước tại các làng nghề ngày càng tồi tệ hơn.
Theo như một khảo sát mới đây của Viện khoa học và Công nghệ môi
trường (Đại học Bách Khoa Hà Nội) và Bộ Công nghệ cho thấy 100% mẫu

nước thải tại các làng nghề đều cho thông số nhiễm vượt mức tiêu chuẩn cho
phép. Hầu như toàn bộ hệ thống nước mặt và nước ngầm đều có dấu hiệu bị
ô nhiễm.
Khảo sát ở 40 xã ở Hà Nội cho thấy khoảng 60% số xã bị ô nhiễm nặng
từ các hoạt động sản xuất. Xã Hữu Hoà thuộc huyện Thanh Trì có hơn 30 hộ
làm nghề miến dong, bánh đa… với công suất từ 30 đến 40 tấn mỗi ngày,
toàn bộ nước thải từ ngâm, tẩy trắng bột, cùng với nước thải trong chăn nuôi,
sinh hoạt hằng ngày đều được đổ trực tiếp vào hệ thống cống rãnh của địa
phương, rồi đổ ra sông Nhuệ. Hai xã Phú Diễn và Thượng Cát của huyện Từ
10
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Liêm có nghề sản xuất đậu phụ và tình trạng nước thải từ sản xuất đậu phụ
đến nước thải từ các chuồng lợn cũng đổ ra hệ thống cống chung của xã, bốc
mùi hôi và ôi nhiễm môi trường. Ở huyện Từ Liêm còn một số làng nghề săn
xuất bánh kẹo, mứt, ô mai, nghề làm ni-lon, sản xuấ nhựa tái chế, nghề dệt
vải…cũng trong tình trạng nước thải từ quá trình sản xuất các sản phẩm đó
đều thải trực tiếp vào hệ thống cống thoát nước chung, hay các ao hồ của xã
rồi đổ ra các sông.
Vấn đề ô nhiễm nước tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm ngày
càng trầm trọng. Chế biến nông sản thực phẩm là loại hình sản xuất có nhu
cầu lớn về sử dụng nước và đồng thời cũng thải ra một lượng nước không
nhỏ. Nước thải tại các làng nghề này có đặc trưng là rất giàu chất hữu cơ, dễ
phân huỷ sinh học. Phân tích nước thải của một số làng nghề cho thấy chất
lượng môi trường nước ở đây rất đáng lo ngại. Chất lượng nước ngầm tại các
làng nghề chế biến nông sản thực phẩm phần lớn đều có dấu hiệu bị ô nhiễm
với hàm lượng COD, TS, NH4+ trong nước giếng cao. Nước giếng của làng
Tân Độ và Ninh Vân nhiễm vi khuẩn coliform. Nước giếng của làng nghề
sản xuất nước mắm Hải Thanh (Thanh Hóa) hàm lượng COD lên tới 186
mg/l Nước thải này tồn đọng ở cống rãnh thường bị phân hủy yếm khí gây
ô nhiễm không khí và ngấm xuống lòng đất gây ô nhiễm môi trường đất và

suy giảm chất lượng nước ngầm. Người dân ở những nơi này phải mua nước
ngọt từ nơi khác để sử dụng.
Hầu hết nước thải tại các làng nghề ở Hoài Đức không được xử lý và xả
thẳng vào sông Nhuệ gây ô nhiễm cho vùng hạ lưu như Chương Mỹ, Thanh
Oai…Chất thải rắn cũng chỉ được xử lý đơn giản rồi thu gom chôn lấp tạm
thời. Một số làng nghề ở Dục Tú (Đông Anh), xã Xuân Đỉnh (Từ Liêm) chất
thải được thu gom rất thủ công, đem chô lấp ở các bãi chôn lấp hở, hoặc bị
đốt ngay trên các con đê làng hoặc đổ xuống sông. Cùng với đó là nguồn
nước thải kéo theo nhiều dầu mỡ và các chất hoá học khác khiến cho nguồn
11
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
nước ngầm bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tại những xã này hàmg lượng dầu
mỡ lên tới 2,2 mg/l so với tiêu chuẩn cho phép là 0,3mg/l.
Tại các làng nghề tái chế giấy, vấn đề ô nhiễm chủ yếu là chất rắn như xơ
sợi, bột giấy trong nước thải ở các công đoạn ngâm tẩm, nấu và nghiền
nguyên liệu cũng như công đoạn xeo giấy. Tính riêng hai làng nghề Dương
Ồ và làng Phúc Lâm mỗi ngày thải vào nguồn nước mặt khoảng 1.450 -
3.000 kg COD và hơn 3.000kg bột giấy. Làng nghề sản xuất giấy tái chế Phú
Lâm và Phong Khê (Bắc Ninh) mỗi năm sản xuất ra 20.000 tấn giấy sản
phẩm thì cũng thải ra 1.500m3 nước thải mỗi ngày. Đặc biệt khi dự án cụm
công nghiệp làng nghề (13ha) của xã Phong Khê (Yên Phong, Bắc Ninh)
được khởi công, Phong Khê nhanh chóng trở thành “làng công nghiệp”. Sản
lượng giấy của xã nhanh chóng tăng từ 4.000 tấn/năm lên tới 80.000
tấn/năm, đạt doanh thu gần 200 tỷ đồng. Tuy nhiên kèm theo sự phát triển
kinh tế là ô nhiễm môi trường. Do phải thu mua giấy phế thải từ các nơi nên
Phong Khê trở thành “làng bãi rác”. Qúa trình ngâm, tẩy bằng kiềm, gia-
ven thải trực tiếp ra môi trường một lượng hoá chất độc hại mà không qua
xử lý.
Ở các làng nghề tái chế kim loại, như làng nghề tái chế chì ở Đông Mai
(Hưng Yên), trên mặt đất luôn là những dòng nước rỉ sét, hoá chất chảy từ

hàng đống ắc-quy và phế liệu đóng thành từng lớp, mảng chảy xuống cống
và tràn ra đường.
Nước thải không được xử lý mà xả trực tiếp ra ngoài sông ngòi, cống rãnh
không những gây ô nhiễm nguồn nước mặt mà còn thấm vào đất làm ô
nhiễm đất cũng như nguồn nước ngầm. Hàm lượng các kim loại nặng như
kẽm, chì… trong mạch nước ngầm (ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước
sinh hoạt của người dân từ giếng khoan và giếng đào) và đất ở các khu vực
xung quanh các làng nghề cao một cách báo động, gây ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khoẻ của người dân.
12
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
2.1.2 Vấn đề ô nhiễm không khí
Vấn đề đáng lo ngại nhất hiện nay bên cạnh ô nhiễm nguồn nước và đất ở
các làng nghề truyền thống chính là ô nhiễm không khí.
Đối với môi trường không khí, nguồn gây ô nhiễm đặc trưng nhất của làng
nghề chế biến nông sản thực phẩm là mùi hôi thối do sự phân hủy của các
hợp chất hữu cơ có trong chất thải rắn và nước thải từ các cống rãnh, kênh
mương. Quá trình phân giải yếm khí các chất hữu cơ sinh ra các khí độc rất
ảnh hưởng đến sức khỏe người dân làng nghề. Đặc biệt phải kể đến các làng
nghề sản xuất nước mắm, do phơi ngoài trời nên mùi hôi, tanh khắp cả làng
rất khó chịu.
Một nguồn gây ô nhiễm không khí nữa là bụi nguyên liệu phát tán trong
không khí. Điển hình của ô nhiễm bụi là ở các làng nghề sản xuất vật liệu
xây dựng. Bụi phát sinh do các hoạt động vận chuyển, chế biến nguyên
nhiên vật liệu (đất, đá, cao lanh, xi măng…) và bụi xỉ than, từ lò khói; khí
thải từ các lò nung gốm, xứ, gạch ngói…Hay như bụi trà tại các làng nghề
chế biến trà hương rất mịn và rất dễ xâm nhập vào cơ thể người gây ảnh
hưởng đến đường hô hấp.
Một trong những điểm nóng về khói bụi là tại các cơ sở sản xuất thép, tái
chế phế liệu. Bụi ở các làng nghề này thường có chứa kim loại mà chủ yếu

kà ô-xít sắt nồng độ lên tới 0,5mg/m3 làm không khí có mùi tanh. Ngoài ra
các hơi độc như Cl, HCN, HCl, CO, NO; các khí ô nhiễm do quá trình cháy
vật liệu bám theo phế liệu (sơn, mỡ, polime) tuy có hàm lượng nhỏ nhưng
cũng gây ra những ảnh hưởng nhất định đến sức khoẻ của người dân sinh địa
phương và những vùng xung quanh. Trường hợp ô nhiễm không khí điển
hình do khói bụi từ cơ sở sản xuất sắt thép là làng nghề Châu Khê (Từ Sơn)
với hơn 850 hộ sản xuất, trong đó có 160 họ sản xuất lớn. Khói, bụi từ hàng
trăm lò đúc, cán thép ở làng nghề này không qua bất kỳ hệ thống xử lý khí
13
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
thải nào mà được xả trực tiếp vào môi trường làm bầu không khí trở nên oi
nồng, ngột ngạt, đặc biệt là những ngày hè nóng bức.
Thêm vào đó là bụi phát sinh tại các làng nghề mộc trong quá trình gia
công và vận chuyển. Nồng độ bụi đo được ở các làng mộc là cao hơn rất
nhiều so với mức cho phép; tại làng mộc Bích Chu (Vĩnh Phúc) trong
khoảng 4,8-24,5mg/m3, tại làng mộc Minh Tân (Vĩnh Phúc) trong khoảng
2,5-18,3mg/m3, tại làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh) chuyên sản xuất đồ gỗ trong
khoản 1,2-9,8mg/m3. Ngoài ra việc các gia đình do không có nhà xưởng
chuyên dụng nên chủ yếu là sơn đồ gỗ ngoài trời nên cũng phát tán các dung
môi hữu cơ độc hại ra ngoài không khí.
Một điểm đáng chú ý là hầu hết các làng nghề sản xuất đều là thủ công,
một phần nhỏ là nửa cơ giới, nên chủ yếu sử dụng than củi. Với nhu cầu
nhiên liệu rất lớn, bụi, khí thải sinh ra do đốt nhiên liệu than củi là nguồn gây
ô nhiễm chính tới môi trường không khí.
2.1.3 Vấn đề ô nhiễm tiếng ồn
Không chỉ có nguồn nước, không khí và đất tại các làng nghề bị ô nhiễm
nặng nề, mà tại đây những vấn đề liên quan đến tiếng ồn, một dạng ô nhiễm
mà ít người để ý tới, cũng đáng quan ngại. Ô nhiễm tiếng ồn xảy ra nhiều ở
các làng nghề mộc và chạm khắc. Tiếng ồn phát sinh từ các máy xẻ gỗ, máy
cưa, máy tiên, máy bào, máy phun sơn, máy chuốt, Tại các vị trí này, tiếng

ồn đo dều vượt 85dB, cá biệt tại khu vực làm việc bên cạnh các máy xẻ gỗ,
chuốt, xẻ mây song tiếng ồn vượt 95dB. Do đặc thù là làng nghề nên nơi sản
xuất và nhà ở liền kề nhau, điều này không chỉ làm cho công nhân mà cả
những người hàng xómg và gia đình họ phải chịu đựng tiếng ồn lớn cả
những lúc nghỉ ngơi. Có nhiều gia đình mức tiếng ồn đo được trong phòng
khách, phòng ngủ lên tới 78dB, vượt quá tiêu chuẩn cho phép tiếng ồn trong
khu dân cư (Tiêu chuẩn TCXD 175:1990, mức tiếng ồn tương đương cho
14
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
phép là : từ 22h-6h: 40dB; từ 6h-22h: 55dB). Do không gian chật hẹp, không
có vùng đệm nên tiếng ồn mà các cơ sở sản xuất này gây ra cho khu vực
xung quanh là khá cao, tại nhiều vị trí trước cửa nhà, mức tiếng ồn lên tới
80-82dB. Tuy ít được chú ý nhất nhưng có thể thấy đây là hình thức ô nhiễm
tiềm tàng nguy hiểm nhất với người dân ở các làng nghề truyền thống bởi
tính chất khó nhận biết và đo đạc của nó.
2.2 Tác động của ô nhiễm môi trường đến sức khoẻ con người
Tại các làng nghề ở Việt Nam, nơi sản xuất đan xen với khu nhà ở, hầu
hết dân cư ở làng tham gia vào sản xuất nên nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe
là rất lớn. Do môi trường không khí, nước ngầm, nước mạch và đất bị ô
nhiễm nên người dân bị mắc phải các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh
ngoài da, tiêu hóa, phụ khoa là rất cao. Ngoài ra còn một số bệnh mang tính
nghề nghiệp cao như bụi phổi, ung thư, thần kinh, đau lưng, đau cột sống…
Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu tại làng nghề mới chỉ dừng lại ở các mô tả
cắt ngang (tập trung vào hiện trạng môi trường và tình hình bệnh) mà chưa
có những nghiên cứu dịch tễ đánh giá được mối liên quan của bệnh tật đối
với ô nhiễm. Theo các nghiên cứu của Viện bảo hiểm lao động, sức khỏe dân
cư tại làng nghề tái sinh kim loại là có nhiều vấn đề nhất. Kết quả điều tra
sức khỏe tại làng tái sinh chì Đông Mai (Hưng Yên) cho thấy: triệu chứng về
hô hấp (tức ngực, khó thở) chiếm 65,6%; suy nhược thần kinh chiếm 71,8%,
viêm khớp mãn tính chiếm 46,9%, tỷ lệ hồng cầu giảm chiếm 19,4%, tỷ lệ

HST giảm chiếm 44,8% (kết quả về tỷ lệ hồng cầu và HST thông qua xét
nghiệm máu và ALA niệu cho 32 đối tượng trong làng) và 5 trường hợp
nhiễm độc chì (trong đó có trẻ em). Tại làng nghề Văn Môn: bệnh đường hô
hấp chiếm 64.4%, suy ngược thần kinh 54,5%, bệnh ngoài da 21,1%. Tại
làng nghề Vân Mai, Bắc Ninh: Bệnh đường hô hấp chiếm 44,4%, bệnh da
liễu 68,5%, bệnh đường ruột 58,8%. Trong một nghiên cứu của Viện bảo
15
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
hiểm lao động năm 2005, điều tra về tình hình mắc bệnh trong 2 tháng,
17,73% đối tượng trả lời rằng mình có bị ốm trong thời gian đó. Trong số
mắc bênh nhiều nhất là các bệnh về đường hô hấp (viêm họng 30,56%, viêm
phế quản 25%), sau đó là các bệnh cơ xướng khớp (đau khớp xương:
15,28%, đau dây thần kinh 9,72%), thấp hơn là các bệnh về mắt (11,11%),
bệnh về tiêu hóa, bệnh về da,…Kết quả nghiên cứu tại làng nghề Tống Xá
(Nam Định) - nơi môi trường bị ô nhiễm - đã cho thấy tổng chi phí thiệt hại
trung bình do ốm đau bệnh tật khoảng 1,3 tỉ đồng/1.000 dân/năm, cao hơn
khoảng 800 triệu đồng đối với một làng nghề không bị ô nhiễm. Theo những
người bị bệnh, 50,8% cho rằng bệnh mà mình mắc có liên quan đến công
việc, 33,3% khác cho là không liên quan đến công việc và 15,9% không biết
bệnh mà mình mắc có liên quan đến công việc hay không.
Mặc dù phát thải ra rất nhiều các chất độc hại, từ chất thải rắn, nước thải
đến khí thải nhưng hầu như các làng nghề truyền thống đều có cơ sở hạ tầng
còn thấp kém, mặt bằng sản xuất chật chội và tổ chức sản xuất thiếu khoa
học; không đầu tư các dây chuyền sản xuất cũng như xử lý chất thải tiên tiến
trong khi điều kiên và môi trường lao động rất đáng lo ngại, người lao động
thường xuyên phải tiếp xúc với bụi, nhiệt, hóa chất; nguy cơ tai nạn lao động
cao và thiếu phương tiện bảo vệ cá nhân. Chính vì vậy mà việc giàu lên về
kinh tế đi đôi với suy giảm chất lượng môi trường và sức khoẻ của người dân
ở các làng nghề truyền thống Việt Nam hiện nay.
2.3 Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tại các làng nghề truyền thống

Việt Nam
Ô nhiễm môi trường là vấn đề không thể tránh khỏi trong quá trình phát
triển kinh tế và phát triển làng nghề thủ công cũng không phải là ngoại lệ. Có
16
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng ô nhiễm tại các làng nghề ở Việt Nam
hiện nay.
Đầu tiên là do hoạt động của đại đa số làng nghề là tự phát tại các vùng
nông thôn. Người dân làng nghề với nếp nghĩ của người chủ tiểu nông
thường quan tâm tới lợi ích thu đuợc từ sản phẩm mà ít quan tâm tới các tác
hại do sản xuất nghề gây nên. Vì vậy họ không chú trọng đến bảo vệ môi
trường trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Cũng do hoạt động kinh
doanh tại các làng nghề là tự phát nên việc thống kê và báo cáo về mức độ
gây ô nhiễm tại các khu vực làng nghề là không hề dễ dàng. Do không bị
kiểm soát chặt chẽ, nên các cơ sở sản xuất vẫn tiếp tục xả thải trực tiếp ra
môi trường.
Thứ hai là do các thiết bị, máy móc, công nghệ sản xuất ở mỗi làng nghề
phần lớn còn lạc hậu, cũ kỹ, không đồng bộ. Tại một số cơ sở sản xuất phát
triển, tỷ lệ nhập những thiết bị công nghệ tiên tiến để sản xuất còn rất ít, có
đến 70% công nghệ thủ công, cơ khí lạc hậu nên rất dễ gây ô nhiễm.
Thứ ba là trình độ lao động thấp kém ở các làng nghề còn thấp kém, đa số
không được đào tạo tại các trường dạy nghề mà chủ yếu là chuyển giao theo
kiểu truyền miệng, chỉ dẫn bằng tay nên vấn đề bảo hộ lao động, bảo vệ môi
trường thường không hoặc rất ít được trang bị.
Thứ tư là, đôi khi có những cơ sở sản xuất biết là độc hại nhưng do hạn
chế về vốn (cũng như vì mục tiêu lợi nhuận) nên không đủ khả năng để trang
bị hệ thống xử lý ô nhiễm (nếu có cũng chỉ là các hệ thống cũ kỹ, lạc hậu,
không xử lý được hoàn toàn các chất ô nhiễm).
Thêm vào đó là khó khăn trong việc xử lý ô nhiễm làng nghề do quan hệ
sản xuất ở các làng nghề thường mang tính dòng tộc, hàng xóm làng giếng

nên các cấp quản lý, các cơ quan chức năng rất khó có thể tiến hành các thủ
tục xử phạt vi phạm hành chính, cưỡng chế Hơn nữa, thực trạng hiện nay
cho thấy, vì mục tiêu lợi nhuận của mình, các cở sở sản xuất làng nghề sẵn
sàng nộp phạt hành chính để tiếp tục hoạt động kinh doanh.
17
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Cuối cùng là do công tác quản lý môi trường làng nghề còn nhiều bất cập.
Làng nghề rất đa dạng về loại hình sản xuất và quy mô phát triển, có những
đặc thù riêng so với các ngành công nghiệp, dịch vụ khác. Đến nay, hoàn
toàn chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng đối với vấn đề bảo
vệ môi trường làng nghề theo từng đặc thù của nó.Các văn bản hướng dẫn
hiện hành đều quy định chung cho tất cả các loại hình sản xuất kinh doanh,
do đó để áp dụng được đối với làng nghề nhiều khi không phù hợp hoặc khó
áp dụng. Ví dụ như đối với Nghị định 81/2006-NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường. nếu áp dụng đúng theo quy
định của Nghị định này thì các hộ sản xuất này đều phải thuộc đối tượng bị
xử phạt, xử lý dòng thải đạt quy chuẩn hoặc phải đóng cửa cơ sở sản xuất.
Trong khi trên thực tế không có hộ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nào trong
làng nghề hiện nay sản xuất mà không gây ô nhiễm môi trường tuy mức độ
có khác nhau.
III. Các giải pháp hạn chế ô nhiễm tại các làng nghề của Việt
Nam
3.1 Các giải pháp của chính phủ
*Trong giai đoạn 2001 – 2010, các cơ quan của chính phủ đã ban hành
hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý hoàn
thiện cho việc bảo vệ môi trường nông thôn nói chung và làng nghề nói
riêng. Cụ thể như sau:
• Quyết định số 41/2001/QĐ-UB về nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn .
• Quyết định số 99/2002/QĐ-TTG thành lập Ban Chủ nhiệm Chương

trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn
18
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
• Quyết định số 62/2004/QĐ-TTG về tín dụng thực hiện Chiến lược
quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
• Quyết định số 277/2006/QĐ-TTG về việc phê duyệt Chương trình mục
tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn
2006 - 2010 .
• Thông tư liên tịch số 80/2007/TTLT-BTC-BNN Hướng dẫn chế độ
quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước chi cho Chương trình
mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai
đoạn 2006-2010.
• Quyết định số 45/2008/QĐ-BNN 11/03/2008 quy định chức năng,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ
sinh môi trường nông thôn.
• Nghị định số 117/2009/NĐ-CP 31/12/2009 về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường .
• LUẬT THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ngày 29/11/2010
Tuy nhiên văn bản pháp luật cụ thể quy định xử phạt đối với những vi
phạm về ô nhiễm môi trường ở các làng nghề còn chưa rõ ràng. Các quy
định mới chỉ mang tính chất chung chung, chưa giải quyết được cụ thể
những vấn đề xảy ra ở các làng nghề gây khó khăn, lúng túng với các cơ
quan chức năng địa phương trong quá trình xử phạt. Hơn nữa việc xử phạt
còn chưa kiên quyết ,mức xử phạt còn thấp, không tạo được tính răn đe đối
với các đối tượng vi phạm. Quy định trách nhiệm đối với các Ban ngành
không rõ ràng, chồng chéo nên dẫn tới hiện tượng đổ lỗi cho nhau giữa các
cơ quan quản lý khi xảy ra các sự cố môi trường ở các làng nghề.
*Một chính sách lớn của Chính phủ là yêu cầu di rời các hộ sản xuất
trong làng vào các Cụm công nghiệp tập trung nằm tách rời khu dân cư
nhằm giảm thiểu ô nhiễm.

19
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Tại Hà Nội, để hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề,
thành phố đã kiểm tra và ký cam kết với cơ sỏ sản xuất thực hiện bảo đảm
môi trường sạch. Thành phố đã xác định được 83 cơ sở gây ô nhiễm và
không phù hợp với quy hoạch, đồng thời lên danh mục những nghành nghề
phải di chuyển ra khỏi nội thành để đảm bảo an toàn cho môi trường. Hiện
thành phố đã xây dựng 18 khu, cụm công nghiệp (CCN) tập trung, bố trí quỹ
đất để dịch chuyển các làng nghề vào sản xuất. Làng nghề chế biến tinh bột
từ sắn ở Dương Liễu nhiều năm qua chìm trong ô nhiễm khủng khiếp nay
được xử lý bằng công nghệ chất thải rắn. Hay làng nghề “gốm sứ” Bát Tràng
bớt cảnh khói bụi khi thay thế hàng trăm lò than bằng lò gas tiết kiệm năng
lượng… Kết quả là nhờ sự kiện Quỹ bảo vệ môi trường lần đầu tiên thâm
nhập vào khu vực làng nghề với việc cho vay lãi suất ưu đãi bắt đầu từ năm
2007.
Tuy nhiên chính sách thành lập cụm công nghiệp tập trung của chính phủ
còn gặp nhiều khó khăn. Riêng trong vấn đề tìm mặt bằng đã rất khó khăn,
bởi các hộ gia đình phải di rời đòi bồi thường đất với giá cao, gây khó khăn
về mặt tài chính cho cơ quan quản lý như trường hợp dự án điểm dịch vụ tiểu
thủ công nghiệp làng nghề rộng 9.000m2 ở xã Tam Hiệp, Dù chính quyền đã
áp dụng chính sách bồi thường linh hoạt, bảo đảm tối đa quyền lợi cho người
bị thu hồi đất song một số hộ vẫn bất hợp tác. Bên cạnh đó, các hộ gia đình
được di rời ra cụm công nghiệp tập trung chỉ bố trí làm địa điểm giao dịch
còn việc sản xuất vẫn tiến hành ở hộ gia đình nên hiệu quả của việc di rời là
không có. Hay tại làng nghề Vạn Điểm (huyện Thường Tín) chuyên sản xuất
đồ gỗ mỹ nghệ, dù đã có gần 200 hộ sản xuất được sắp xếp ra CCN làng
nghề nhưng CCN này đã bị "biến tướng" thành khu dân cư kết hợp sản xuất
nghề. Hơn 80% số hộ xây dựng nhà cao tầng trong CCN. Thậm chí theo Ông
Lương Duy Dần – Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội làng nghề Việt Nam
20

Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
cho rằng, các cụm công nghiệp làng nghề hiện nay phát triển chưa đúng với
tiêu chí ban đầu mà đang bị biến dạng, chủ yếu để nhằm giãn dân là chính.
*Ngoài ra Chính phủ còn khuyến khích việc áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến vào hoạt động sản xuất ở các làng nghề truyền thống.
Ở Hà Nam, với sự hỗ trợ của Hợp phần kiểm soát ô nhiễm khu vực đông
dân nghèo, UBND tỉnh đã triển khai xây dựng “Dự án xây dựng khu xử lý
nước thải tại làng nghề Nhật Tân”. Để cải thiện hiện trạng ô nhiễm môi
trường ở Nhật Tân các nhà khoa học đã thực hiện đồng bộ các giải pháp như
giáo dục môi trường, quản lý môi trường và các giải pháp kỹ thuật. Kết hợp
cải tạo ao chứa nước thải và xây dựng hệ thống xử lý nước thải trước khi thải
vào các ao chứa nước, xử lý bằng hệ tự hoại với vách ngăn cách mỏng dòng
hướng lên và lọc kỵ khí. Đây là mô hình điểm để nhân rộng cho các địa
phương trên địa bàn toàn tỉnh.
Hoặc như tại Bắc Ninh, UBND tỉnh đồng ý cho Sở Tài nguyên môi
trường triển khai dự án xử lý khí thải tại 3 làng nghề tái chế kim loại màu.
Gần 77,3 ngàn USD là số tiền Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam tài trợ để
xây dựng 6 mô hình trình diễn xử lý khí thải 3 làng nghề của xã Văn Môn
(Yên Phong), Đại Bái (Gia Bình), Quảng Bố (Lương Tài) với sự hỗ trợ kỹ
thuật của Trung tâm Khoa học công nghệ cả môi trường thuộc Liên minh
hợp tác xã Việt Nam. Và trong quý III năm 2009, hệ thống xử lý nước thải
đầu tiên đã được đưa vào sử dụng. Ước tính có 28.000 người dân được
hưởng lợi từ dự án. Các làng nghề này sẽ được lắp hệ thống xử lý khí thải
cho lò tái chế kim loại vói công suất 20.00 m
3
/h, khí thải sau xử lý đạt tiêu
chuẩn môi trường theo quy định.
Hay như thành công của dự án: “Xử lý nước thải các làng nghề chế biến
lương thực bằng phương pháp lọc sinh học ngập nước” của nhóm: Nguyễn
Đình Bảng, Hà Minh Ngọc, Nguyễn Văn Nội thuộc phòng thí nghiệm hóa

môi trường, khoa Hóa học, Trường Đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc
21
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
gia Hà Nội đã góp phần vòa việc giảm ô nhiễm môi trường nước tại các làng
nghề chế biến lương thực. Với dự án này, các loại nước thải của làng nghề
chế biến lương thực đạt tiêu chuẩn Việt Nam về nước thải công nghiệp và
được phép chảy vào dòng chảy chung (TCVN 5945-1995) trong khoảng thời
gian tương đối ngắn: khoảng một ngày đêm (24h).
Tuy nhiên bất cập của trong chính sách này của Chính phủ là việc áp
dụng Khoa học- Kỹ thuật ở địa phương này có thể được nhưng ở địa phương
khác thì không, hay với ngành nghề này thì có được nhưng với ngành nghề
khác lại không đạt được hiệu quả cao do tính chất mỗi ngành nghề sản xuất
kinh doanh là khác nhau. Khó khăn thứ hai với chính sách là các làng nghề
sản xuất với quy mô nhỏ cả về vốn, diện tích và năng suất nên việc mua một
dây truyền thiết bị hiện đại đắt tiền vào sản xuất và xử lý chất thải với các
doanh nghiệp là không khả thi nếu như không được đầu tư bởi các dự án lớn
của nước ngoài hay Chính phủ. Hơn nữa, trình độ lao động ở các làng nghề
còn thấp, chủ yếu là thanh niên trong làng, với trình độ học vấn không cao,
không đủ khả năng vận hành máy móc hiện đại và chưa có nhận thức được
tầm quan trọng bảo vệ môi trường.
*Ngoài ra hiện nay hệ thống quản lý môi trường của nước ta mới chỉ đến
cấp huyện chính điều này khiến cho việc quản lý môi trường ở các làng nghề
còn khó khăn, chưa đi sát được đến thực tế, mang tính chỉ đạo và chủ quan là
chính.
3.2 Các giải pháp kiến nghị
Trước hết, phải chú trọng đến chính sách phát triển bền vững làng nghề.
Sản xuất kinh doanh phải chú ý cải thiện và bảo vệ môi trường, không hy
sinh lợi ích môi trường cho lợi ich kinh tế trước mắt. Nhanh chóng xây dựng,
ban hành và áp dụng văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề,
22

Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
trong đó cần quy định rõ trách nhiệm của địa phương, các ngành, lĩnh vực
hoạt động làng nghề. Các làng nghề tiến hành xây dựng quy định về vệ sinh,
môi trường dưới dạng các quy định, hương ước, cam kết bảo vệ môi trường
của chính địa phương mình. Tăng cường hoạt động giám sát môi trường làng
nghề và thực hiện kiểm kê nguồn thải; áp dụng công cụ kinh tế như phí bảo
vệ môi trường đối với nước thải, khí thải, chất thải rắn. Xây dựng tiêu chí
“Làng nghề xanh” nhằm xếp loại các làng nghề bảo vệ môi trường theo
hướng phát triển bền vững.
Nâng cao trình độ nhận thức về bảo vệ môi trường trong cộng đồng làng
nghề, từ chính người sản xuất và người không làm nghề nhưng sống trong
làng nghề và nhận thức về bảo vệ môi trường của những cán bộ chính quyền
của địa phương có làng nghề. Bên cạnh đó, cần tăng cường các biện pháp
truyền thông nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường tại làng nghề, có thể
tuyên truyền ở các trường học, các hội như hội cựu chiến binh, hội phụ nữ,
hội người cao tuổi. Hiện nay, hệ thống quản lý môi trường mới chỉ đến cấp
huyện, đối với các xã có làng nghề nên tăng cường hệ thống quản lý, phát
hiện kịp thời các hiện tượng ô nhiễm môi trường.
Quy hoạch không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Di dời các
cơ sở gây ô nhiễm nặng ra khỏi khu dân cư. Quy hoạch tập trung theo cụm
công nghiệp nhỏ cần tránh xa khu dân cư và quy hoạch đồng bộ mặt bằng
sản xuất cơ sở hạ tầng như đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước.
hệ thống thông tin, thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn để xử lý tập
trung. Quy hoạch khu vực sản xuất tùy thuộc vào đặc thù của các loại hình
làng nghề như sản xuất gốm sứ, dệt nhuộm, tái chế giấy… Quy hoạch phân
tán, sản xuất ngay tại hộ gia đình kết hợp điều kiện sản xuất với cải thiện vệ
sinh môi trường mà không phải di rời, hạn chế tối đa việc cơi nới, mở rộng
đường, xây nhà cao tầng, lưu giữ khung cảnh sản xuất, tính cổ truyền nhân
văn của làng nghề để kết hợp với du lịch văn hóa. Nhằm bảo tồn và phát
23

Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
triển làng nghề, bảo vệ môi trường và tránh tình trạng CCN làng nghề bị
"biến tướng", trong quá trình thực hiện, chính quyền các địa phương cần
cương quyết với những trường hợp chây ỳ, chống đối.
Hiện nay, hệ thống quản lý môi trường mới chỉ đến cấp huyện, đối với
các xã có làng nghề nên tăng cường hệ thống quản lý, phát hiện kịp thời các
hiện tượng ô nhiễm môi trường. Tăng cường mạnh mẽ công tác quản lý môi
trường ở các làng nghề. Phát hiện và xử lý trường hợp phát sinh các làng
nghề gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay nước ta đang có 13 làng nghề bị đưa
vào danh sách các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần xử lý
triệt để theo quyết định số 64/2003/QĐ-TTG của thủ tướng chính phủ. Trong
thời gian tới, các địa phương và các làng nghề cẩn khẩn trương xử lý môi
trường để được cấp giấy chứng nhận đã hoàn thành các biện pháp xử lý triệt
để ô nhiễm; mặt khác, vẫn cần tăng cường thanh kiểm tra để tiếp tục đưa vào
“danh sách đen” những làng nghề gây ô nhiễm nghiêm trọng. Yêu cầu các
làng nghề triển khai áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm giảm thiểu ô
nhiễm; xây dựng các lộ trình xử lý ô nhiễm không chỉ trong phạm vi làng xã
mà lan rộng ra cả một khu vực. Vì vậy, việc xử lý ô nhiễm không chỉ giới
hạn trong phạm vi làng nghề mà cần xử lý cả khu vực đã bị ô nhiễm.
Những cơ sở mở rộng sản xuất phải thực hiện cam kết bảo vệ môi trường
và đầu tư theo hướng công nghệ thân thiện với môi trường. Tiêu chí lựu chọn
công nghệ xử lý chất thải tại làng nghề cần bảo đảm chất thải sau xử lý đạt
quy chuẩn môi trường Việt Nam hiện hành; công nghệ đơn giản, dễ vận
hành, chuyển giao; vốn đầu tư, chi phí thấp, phù hợp với điều kiện sản xuất
của làng nghề; ưu tiên công nghệ có khả năng tận thu, tái sử dụng chất thải.
Nên khuyến khích áp dụng Khoa học - Kỹ thuật ơ ngay từ khâu đầu vào, tức
là khuyến khích các cơ sở sản xuất trong làng nghề áp dụng các giải pháp
sản xuất sạch hơn, chỉ cần áp dụng một số biện pháp như tiết kiệm nước, tiết
24
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của Việt Nam, thực trạng và giải pháp

kiệm than… có thể cho hiệu quả nhìn thấy, điều này sẽ giúp người dân dễ
tiếp thu hơn, vừa giảm lượng phát thải, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Khuyến khích các cơ sở sản xuất xử lý nước thải, khí thải, quản lý môi
trường bằng cho vay ưu đãi hoặc giảm thuế. Đa dạng hóa các nguồn đầu tư
và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường làng
nghề. Sự phát triển của làng nghề phải đảm bảo tính bền vững, hài hòa các
mặt kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Do đó, một số loại hình làng nghề
sẽ phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô sản xuất, một số khác cần được
hạn chế, không khuyến khích phát triển và một số hoạt động, công nghệ cần
phải cấm triệt để. Thí dụ, hạn chế phát triển mới, mở rộng các cơ sở sản xuất
tái chế chất thải nguy hại; nghiêm cấm sử dụng trong làng nghề những
phương pháp sản xuất thủ công và thiết bị gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng; hoặc sử dụng quặng có tính phóng xạ.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong làng nghề là vấn đề có tính
then chốt. Các hoạt động đào tạo, truyền nghề đã có truyền thông từ xưa với
những hình thức khá đa dạng. Cần có những khảo sát, đánh giá nhu cầu đào
tạo cho người lao động ở những làng nghề; đánh giá đội ngũ nghệ nhân,
những người đang truyền nghề tại các làng nghề. Có kế hoạch cụ thể phối
hợp giữa các làng nghề và các cơ sở dạy nghề có nghề. Chú trọng mô hình
dạy nghề gắn với việc giải quyết việc làm và tiêu thụ sản phẩm làng nghề.
Tăng cường giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng và phổ
biến lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường trong hương ước làng xã. Tuy
nhiên, hương ước cũng cần có nội dung bảo vệ môi trường làng xã trong thời
kỳ phát triển mới.
25

×