Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

bài tiểu luận phân tích bể trầm tích sông hồng và cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.39 KB, 11 trang )

Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 1 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT VÀ CƠ CHẾ TẠO THÀNH
BỂ TRẦM TÍCH CỬU LONG . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .2
1.1. Đặc điểm cấu trúc địa chất bể trầm tích Cửu Long . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
1.1.1. Các đơn nghiêng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
1.1.2. Các trũng sâu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
1.1.3. Các đới nâng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
1.1.4. Các đới phân dị . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .6
1.2. Đặc điểm các hệ thống đứt gãy . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
1.2.1. Hệ thống đứt gãy Đông – Đông Bắc/Tây – Tây Nam: . . . . . . . . . . . . 6
1.2.2. Hệ thống đứt gãy Tây – Tây Bắc/Đông – Đông Nam: . . . . . . . . . . . . 7
1.3. Cơ chế hình thành bể trầm tích Cửu Long . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7
1.3.1. Thời kì trước tạo rift . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
1.3.2. Thời kì đồng tạo rift . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
1.3.3. Thời kì sau tạo rift . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
CHƯƠNG 2:
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT VÀ CƠ CHẾ TẠO THÀNH
BỂ TRẦM TÍCH SÔNG HỒNG . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10
2.1. Đặc điểm cấu trúc địa chất bể trầm tích Sông Hồng . . . . . . . . . . . . . . . . 11
2.1.1. Phần Bắc và Đông Bắc bể trầm tích Sông Hồng . . . . . . . . . . . . . . . .11
2.1.2. Phần trung tâm bể trầm tích Sông Hồng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
2.1.3. Phần Nam bể trầm tích Sông Hồng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 15
2.2. Đặc điểm các hệ thống đứt gãy . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16
2.2.1. Các đứt gãy thuận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16
2.2.2. Các đứt gãy nghịch . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17
2.3. Cơ chế hình thành bể trầm tích Sông Hồng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .17










Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 4 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
1.1.1. Các đơn nghiêng
- Các đơn nghiêng Tây Bắc
Kéo dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam còn có tên là cánh Tây Bắc hay là
địa lũy Vũng Tàu – Phan Rang là đới rìa Tây, Tây Bắc của bể. Đơn nghiêng bị cắt
xẻ bởi các đứt gãy kiến tạo có hướng Đông Bắc – Tây Nam hoặc Tây Bắc – Đông
Nam, tạo thành các mũi nhô. Trầm tích Kainozoi của bồn trũng ở khu vực Tây Bắc
này có xu hướng vát nhọn và gá đáy lên móng cổ granitoid trước Kainozoi.
- Các đơn nghiêng Đông Nam
Dải sườn bờ Đông Nam của bồn trầm tích, tiếp giáp với đới nâng Côn Sơn,
qua hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam gần như dọc theo đới nâng Côn Sơn.
Trầm tích của đơn nghiêng này có xu hướng vát nhọn và gá đáy với chiều dày dao
động từ 1km đến 2.5km.
1.1.2. Các trũng sâu
Các trũng quan trọng thường là những cấu trúc lõm sâu nhất của bề mặt móng.
Chúng thường là các địa hào hình thành do quá trình tách dãn trong Oligocene, sau
đó bị oằn võng mạnh trong Miocene, một số có thể là kế thừa từ các trũng Mesozoi.
Các trũng sâu bao gồm:
- Trũng chính bể Cửu Long
Là phần lún chìm chính của bể trầm tích, chiếm tới ¾ diện tích của bồn. Theo
đường đẳng dày 2 km thì trũng chính của bể trầm tích Cửu Long thể hiện rõ nét là
một bồn khép kín có dạng trăng khuyết với vòng cung hướng ra về phía Đông Nam.

Cấu trúc của trũng trung tâm được chia ra thành các đơn vị cấu trúc nhỏ hơn như một
trũng độc lập bao gồm: Trũng Đông Bắc, trũng Tây Bạch Hổ, trũng Đông Bạch Hổ.
- Trũng Đông Bắc
Đây là trũng sâu nhất, chiều dày trầm tích có thể đạt tới 8km. Trũng có phương
kéo dài dọc theo trục chính của bể trầm tích, nằm kẹp giữa hai đới nâng và chịu
khống chế bởi hệ thống các đứt gãy chính hướng Đông Bắc – Tây Nam.
- Trũng Tây Bạch Hổ
Nằm kề ngay sát rìa của vòm nâng trung tâm. Cấu trúc này có bề dày trầm tích
đạt tới 7.5km. Cấu trúc phát triển theo hướng của đứt gãy chính Đông Bắc – Tây
Nam. Đây có thể là đới tích tụ trầm tích Mesozoi với đáy của mặt cắt là các thành
tạo sét – vôi, phiến sét.
- Trũng Đông Bạch Hổ
Phát triển theo hướng đứt gãy Đông Bắc – Tây Nam, nằm ở phía Đông vòm
nâng trung tâm. Trũng Đông Bạch Hổ bị phức tạp hóa bởi đứt gãy phương Đông
Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 6 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
gồm các cấu tạo dương và có liên quan đến những khối nâng cổ của móng trước
Kainozoi (Bạch Hổ, Rồng).
- Đới nâng phía Tây Bắc:
Nằm về phía Tây Bắc của trũng Đông Bắc và được khống chế bởi các đứt gãy
chính phương Đông Bắc – Tây Nam. Về phía Tây Bắc đới nâng bị ngăn cách với đơn
nghiêng Tây Bắc bởi một địa hào nhỏ có chiều dày trầm tích khoảng 6km. Đới nâng
bao gồm các cấu tạo Vừng Đông và dải nâng kéo dài về phía Đông Bắc.
- Đới nâng phía Đông:
Chạy dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, phía Tây Bắc ngăn cách với trũng
Đông Bắc bởi hệ thống đứt gãy có phương á vĩ tuyến và Đông Bắc – Tây Nam, phía
Đông Nam ngăn cách với đới phân dị Đông Bắc bởi võng nhỏ, xem như phần kéo
dài của trũng Đông Bạch Hổ về phía Đông Bắc. Trên đới nâng đã xuất hiện các cấu
tạo dương như: Rạng Đông, Phương Đông và Jade.
1.1.4. Các đới phân dị

- Đới phân dị Đông Bắc:
Phần đầu Đông Bắc của bể trầm tích, nằm kẹp giữa đới nâng Đông Phú Quý
và đơn nghiêng Tây Bắc. Đây là khu vực có chiều dày trầm tích trung bình và bị
phân dị mạnh bởi các hệ thống đứt gãy có đường phương Đông Bắc – Tây Nam, á
kinh tuyến và á vĩ tuyến tạo thành nhiều địa hào, địa lũy nhỏ theo bề mặt móng.
- Đới phân dị Tây Nam:
Nằm ở phía Tây Nam của trũng chính. Khác với đới phân dị Đông Bắc, đới
này bị phân dị mạnh bởi hệ thống những đứt gãy với đường phương chủ yếu là á vĩ
tuyến tạo thành những địa hào, địa lũy, hoặc bán địa hào, bán địa lũy xen kẽ nhau.

1.2. Đặc điểm các hệ thống đứt gãy
Hệ thống đứt gãy được phân ra thành các hướng sau:
1.2.1. Hệ thống đứt gãy Đông – Đông Bắc/Tây – Tây Nam:
Bao gồm hai hệ thống đứt gãy cùng phương Đông – Đông Bắc/Tây – Tây
Nam. Chúng khống chế các hướng cấu tạo phía Đông và Trung Tâm bể Cửu Long.
- Các đứt gãy chờm nghịch Đông – Đông Bắc/Tây – Tây Nam:
Được sinh thành do các pha nén ép địa phương xảy ra vào cuối Oligocene sớm,
đầu Oligocene muộn, chúng tiếp tục hoạt động trong suốt thời kì Oligocene muộn,
cho đến đầu Miocen sớm. Hệ thống đứt gãy này nằm ở cánh phía Tây của cấu tạo
Rồng và Bạch Hổ, chúng được hình thành muộn hơn so với các đứt gãy cùng hướng
ở cánh phía Đông của khu vực.
Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 7 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
- Các đứt gãy thuận cùng phương cánh phía Đông – Đông Bắc:
Một số lớn các đứt gãy có nguồn gốc dưới sâu và được hình thành trong thời
kì móng bị dập vỡ vào cuối Mesozoi. Một số đã ngừng nghỉ hoạt động ngay từ trong
móng, còn lại đại bộ phận thì tiếp tục hoạt động trong quá trình tạo rift cùng với các
đứt gãy hình thành trong thời kì này. Đến gần cuối Oligocene muộn thì hầu hết các
đứt gãy đều ngừng nghỉ hoạt động (cuối chu kì tạo rift).
1.2.2. Hệ thống đứt gãy Tây – Tây Bắc/Đông – Đông Nam:

Hệ thống đứt gãy này phát triển chủ yếu ở vùng nâng Trung tâm và phân chia
cấu tạo Bạch Hổ thành những khối khác nhau. Đồng thời làm phức tạp các cấu trúc
địa phương ở phía Bắc của bể trầm tích. Hệ thống đứt gãy này hình thành vào đầu
thời kì tạo rift và tiếp tục hoạt động trong suốt quá trình đó và ngừng nghỉ vào cuối
Miocen muộn.

- Hệ thống đứt gãy á kinh tuyến:
Hệ thống đứt gãy hoạt động theo phương á kinh tuyến, được phát hiện ít ở khu
vực mỏ phía Bắc Rồng và phần trung tâm của cấu tạo Bạch Hổ. Các đứt gãy này hoạt
động chủ yếu vào giai đoạn đầu tạo rift, sau đó thì ngừng nghỉ hoạt động.
- Hệ thống đứt gãy á vĩ tuyến:
Hệ thống đứt gãy này chủ yếu phân bố ở phía tây của bể, đặc biệt là ở lô 16 và
lô 17, biên độ đứng thường chỉ đạt 200 – 400m đến 1000 – 1200m vào trước Oligocen
muộn và tăng lên 400 – 600m đến 1600m vào đầu Oligocene muộn, giảm xuống vào
thời kì Miocen.

Tóm lại, các hệ thống đứt gãy Đông – Đông Bắc/Tây – Tây Nam, Tây – Tây
Bắc/Đông – Đông Bắc, á kinh tuyến và á vĩ tuyến đều là những đứt gãy thuận đồng
trầm tích, được hình thành sớm hơn rất nhiều so với hệ thống đứt gãy chờm nghịch
Đông – Đông Bắc/Tây – Tây Nam ở cánh phía Tây – Tây Nam cấu tạo Bạch Hổ, các
đứt gãy đồng trầm tích đều được các vật liệu vụn trầm tích lấp đầy và “ trám kín” trở
thành các màn chắn ngăn cản không cho Hydrocacbon dịch chuyển từ khối này qua
khối khác. Còn các đứt gãy chờm nghịch ở cánh phía Tây được hình thành do pha
nén ép, là những đới phá hủy và trở thành đường dẫn cho Hydrocacbon dịch chuyển
từ nơi sinh thành và tích tụ lại trong đá móng nứt nẻ.

1.3. Cơ chế hình thành bể trầm tích Cửu Long
Bồn trũng Cửu Long là bồn trũng kiểu rift nội lục điển hình. Bồn trũng được
hình thành và phát triển trên mặt đá kết tinh trước Kainozoi (thường được gọi là bề
mặt móng). Lịch sử tiến hóa của bể được thể hiện qua 3 giai đoạn sau:

Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 8 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
1.3.1. Thời kì trước tạo rift
Trước Đệ Tam, đặc biệt từ Jura muộn đến Paleocen là thời gian thành tạo và
nâng cao đá móng magma xâm nhập (các thành tạo nằm dưới các trầm tích Kanozoi
ở bồn trũng Cửu Long). Các đá này gặp rất phổ biến ở hầu hết các lục địa Việt Nam.
Do ảnh hưởng của quá trình va chạm mảng Ấn Độ vào mảng Âu Á và hình thành đới
hút chìm dọc cung Sunda (50 - 43.5 triệu năm). Các thành tạo đá xâm nhập, phun
trào Mesozoi muộn – Kanozoi sớm và trầm tích cổ trước đó đã trải qua các thời kì
dài bóc mòn, giập vỡ khối tảng, căng giãn khu vực hướng Tây Bắc – Đông Nam. Sự
phát triển các đai mạch lớn, kéo dài có hướng Đông Bắc – Tây Nam thuộc phức hệ
Cù Mông và Phan Rang tuổi tuyệt đối từ 60 – 30 triệu năm là bằng chứng cho điều
đó. Đây là giai đoạn san bằng địa hình trước khi hình thành bồn trầm tích Cửu Long.
Địa hình bề mặt bóc mòn của móng kết tinh trong phạm vi khu vực bồn lúc này
không hoàn toàn bằng phẳng, có sự đan xen giữa các thung lũng và đồi núi thấp.
Chính hình thái địa hình mặt móng này đóng vai trò khá quan trọng trong việc phát
triển trầm tích lớp phủ kế thừa vào cuối Eocen, đầu Oligocen.
1.3.2. Thời kì đồng tạo rift
Được khởi đầu vào cuối Eocen, đầu Oligocen do tác động của các biến cố kiến
tạo với hướng căng giãn chính là Tây Bắc – Đông Nam. Hàng loạt đứt gãy Đông
Bắc-Tây Nam đã được sinh thành do sụt lún và căng giãn. Các đứt gãy chính là các
đứt gãy dạng gàu xúc, cắm về Đông Nam. Còn các đứt gãy hướng Đông Tây lại do
tác động của các biến cố kiến tạo khác. Vào đầu Kanozoi do sự va mạnh ở góc hội
tụ Tây Tạng giữa các mảng Ấn Độ và Á – Âu làm vi mảng Indosinia bị thúc trồi
xuống Đông Nam theo các đứt gãy trượt bằng lớn như đứt gãy Sông Hồng, Sông
Hậu – Ba Tháp, với xu thế trượt trái ở phía Bắc và trượt phải ở phía Nam tạo nên các
trũng Đệ Tam trên các đới khâu ven rìa, trong đó có bồn trũng Cửu Long. Kết quả là
đã hình thành các hệ thống đứt gãy khác có hướng gần Đông Bắc – Tây Nam. Như
vậy, trong bồn trũng Cửu Long bên cạnh hướng Đông Bắc – Tây Nam còn có hệ
thống đứt gãy có xu hướng cận kề chúng.

Trong Oligocen quá trình tách giãn đáy biển theo hướng Bắc – Nam tạo Biển
Đông bắt đầu từ 32 triệu năm. Trục giãn đáy biển phát triển lấn dần xuống Tây Nam
và đổi hướng từ Đông – Tây sang Đông Bắc – Tây Nam vào cuối Oligocen. Các quá
trình này đã làm gia tăng các hoạt động tách giãn và đứt gãy ở bồn trũng Cửu Long
trong Oligocen và nén ép vào cuối Oligocen.
Hoạt Động nén ép vào cuối Oligocen muộn đã đẩy trồi các khối móng sâu, gây
nghịch đảo trong trầm tích Oligocen ở trung tâm các trũng chính, làm tái hoạt động
đứt gãy thuận chính ở dạng ép chờm, trượt bằng và tạo nên các cấu trúc “trồi”, các
cấu tạo âm dương/âm hình hoa, phát sinh các đứt gãy nghịch ở một số nơi như trên
cấu tạo Rạng Đông, phía Tây cấu tạo Bạch Hổ và một số khu vực mỏ Rồng. Đồng
thời xảy ra hiện tượng bào mòn và vát mỏng mạnh các trầm tích thuộc hệ tầng Trà
Tân trên. Sự kết thúc hoạt động của phần lớn các đứt gãy và không chỉnh hợp góc
rộng lớn ở nóc trầm tích Oligocen đã đánh dấu sự kết thúc thời kì đồng tạo rift.
Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 9 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
1.3.3. Thời kì sau tạo rift
Vào Miocen sớm, quá trình giãn đáy Biển Đông theo phương Tây Bắc – Đông
Nam đã yếu đi và nhanh chóng kết thúc vào cuối Miocen sớm (cách đây 17 triệu
năm), tiếp theo là quá trình nguội lạnh vỏ. Trong thời kì đầu Miocen sớm các hoạt
động đứt gãy vẫn còn xảy ra yếu và chỉ chấm dứt hoàn toàn vào Miocen giữa đến
hiện tại. Các trầm tích của thời kì sau rift có đặc điểm chung là: Phân bố rộng rãi,
không bị biến vị, uốn nếp và gần như nằm ngang. Tuy nhiên, ở bồn trũng Cửu Long
các quá trình này vẫn gây ra các hoạt động tái căng giãn yếu, lún chìm từ từ trong
Miocen sớm và hoạt động núi lửa ở một số nơi, đặc biệt là phần Đông Bắc bồn trũng.
Vào cuối Miocen sớm trên phần lớn diện tích bồn trũng với sự tạo thành tầng “sét
Rotalia” biển nông rộng khắp và tạo nên tầng đánh dấu địa tầng và tầng chắn khu
vực khá tốt cho toàn bộ bồn trũng. Cuối Miocen sớm toàn bồn trũng trải qua quá
trình nâng khu vực và bóc mòn yếu. Vào Miocen giữa, lún chìm tiếp tục gia tăng và
biển đã có ảnh hưởng rộng lớn tới hầu hết các vùng quanh Biển Đông. Cuối thời kì
này có một pha nâng lên, dẫn tới sự tái thiết lập điều kiện môi trường sông ở phần

Tây Nam bồn trũng, còn ở phần Đông, Đông Bắc thì điều kiện ven bờ vẫn tiếp tục
được duy trì.
Miocen muộn được đánh dấu bằng luồng chìm mạnh ở Biển Đông và phần rìa
của nó, khởi đầu quá trình thành tạo thềm lục địa hiện đại Đông Việt Nam. Núi lửa
hoạt động tích cực ở phần Đông Bắc của bồn trũng Cửu Long, Nam Côn Sơn và phần
đất liền Nam Việt Nam.
Pliocen là thời gian biển tiến rộng lớn và có lẽ đây là lần đầu tiên toàn bộ vùng
Biển Đông hiện tại nằm dưới mực nước biển. Các trầm tích hạt mịn hơn được vận
chuyển vào vùng bồn trũng Cửu Long và đi xa hơn sẽ tích tụ vào bồn trũng Nam Côn
Sơn trong điều kiện nước sâu lớn hơn.















Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 10 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
CHƯƠNG 2:
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT VÀ CƠ CHẾ TẠO THÀNH
BỂ TRẦM TÍCH SÔNG HỒNG


Bể Sông Hồng nằm trong khoảng 105°30’-110°30’ kinh độ Đông, 14°30’-
21°00’ vĩ độ Bắc. Về vị trí địa lý, bể Sông Hồng có một phần nhỏ diện tích nằm trên
đất liền thuộc đồng bằng Sông Hồng, còn phần lớn diện tích thuộc vùng biển vịnh
Bắc Bộ và biển miền Trung thuộc các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Định.


Hình 2.1: Cấu trúc đơn giản thềm lục địa Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ

Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 11 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
Đây là một bể có lớp phủ trầm tích Đệ Tam dày hơn 14 km, có dạng hình thoi
kéo dài từ miền võng Hà Nội (MVHN) ra vịnh Bắc Bộ và biển miền Trung. Dọc rìa
phía Tây bể trồi lộ các đá móng Paleozoi-Mesozoi. Phía Đông Bắc tiếp giáp bể Tây
Lôi Châu, phía Đông lộ các đá móng đảo Hải Nam-TQ, Đông Nam là bể Đông Nam
Hải Nam-TQ và bể Hoàng Sa-Việt Nam, phía Nam giáp bể trầm tích Phú Khánh.
Trong tổng số diện tích cả bể khoảng 220.000 km
2
, bể Sông Hồng phía Việt
Nam chiếm khoảng 126.000 km
2
, trong đó phần đất liền MVHN và vùng biển nông
ven bờ chiếm khoảng hơn 4.000 km
2
, còn lại là diện tích ngoài khơi vịnh Bắc Bộ và
một phần ở biển miền Trung Việt Nam.

2.1. Đặc điểm cấu trúc địa chất bể trầm tích Sông Hồng
Bể sông Hồng là một bể trầm tích có lịch sử phát triển địa chất phức tạp từ
Paleocen đến nay với nhiều pha căng giãn-nén ép, nghịch đảo kiến tạo, nâng lên-hạ

xuống, bào mòn-cắt xén, uốn võng do nhiệt kèm theo sự thăng giáng mực nước biển
vì thế theo không gian và thời gian, cấu trúc địa chất và môi trường lắng đọng không
đồng nhất mà biến đổi từ Bắc vào Nam, từ đất liền ra biển, từ móng Đệ Tam đến
trầm tích hiện đại. Cũng vì thế, bể Sông Hồng bao gồm nhiều đơn vị cấu trúc khác
nhau, ẩn chứa tiềm năng dầu khí khác nhau.
2.1.1. Phần Bắc và Đông Bắc bể trầm tích Sông Hồng
Phần Bắc và Đông Bắc là đới thành hệ cấu trúc phân bố rộng vùng Đông Bắc
hệ đứt gãy Sông Lô với các cấu trúc móng trước Kainozoi. Các trầm tích đệ tam
mỏng và lộ rõ vùng Đồng Ho và đảo Bạch Long Vĩ. Hệ thống đứt gãy chính khống
chế cấu trúc của vùng phát triển chủ yếu theo hướng Tây Băc-Đông Nam. Các đứt
gãy này chia cắt khối nền thành địa lũy và bán địa hào nhỏ hình thành các bể Đệ Tam
Bạch Long Vic và Beibu Wan.
Móng của các bể Đệ Tam phân bố rộng rãi đơn vị thành hệ cấu trúc Caledonian
các khối nên fcoor với các thành tạo biển Telhys sau Calendo vài nơi các thành tạo
trầm tích Triat muộn chứa than và các lớp màu đỏ kiểu molas trước núi chủ yếu là
các thành tạo cacbonat tuổi Paleozoi muộn.
Cấu trúc Đệ Tam gồm bán địa hào nhỏ Oligocen kề áp hướng của gãy Sông
Lô (hình 2.2) tách giãn kiểu trượt sụt bậc trọng lực do tách giãn thụ động gây ra các
bán địa hào các tập trầm tích vụn. Mặt gián đoạn cơ sở Miocen kết thúc địa hào nhỏ
hẹp để mở ra các bồn trũng oàn võng Miocen kề gối lên các bán địa hào, trầm tích
Miocen độ phân giải rõ biển tiến trải rộng đều khắp khu vực mực biển dừng cao
Đông Bắc đứt gãy Sông Lô, trầm tích Miocen ít biểu hiện các dấu vết phức tạp liên
quan với kênh rạch nhỏ thủy triều ít có biến dạng uốn nếp mật độ đứt gãy cũng khá
nhiều. Tích tụ chậm và bình ổn liên tục trong cả Pliocen và Đệ Tứ, trầm tích do oằn
võng phân nhịp rõ, không dày biểu thị thế biển tiến với tốc độ lắng đọng thấp, trầm
tích mịn thể hiện quá trình hủy hoại (hình 2.3)
Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 13 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
- Biển tiến vào trũng oằn võng các tập trầm tích Miocen có độ phân giải ổn
định kề gối lên mặt bào mòn của tập Oligocen và cổ hơn

2.1.2. Phần trung tâm bể trầm tích Sông Hồng
Nằm xen giữa hai hệ đứt gãy sông Lô và hệ đứt gãy Sông Hồng, sông Chảy,
sông Mã. Cấu trúc các đới hướng Tây Bắc – Đông Nam, cấu trúc Khoái Châu, Phù
Cừ, Tiên Hưng, Kiến Xương và Tiền Hải có nhiều giếng khoan, chỉ có một tới móng
trầm tích Kainozoi 5000 – 6000 m. Trầm tích trước Kainozoi tài liệu địa chấn chưa
thể phân biệt được, trầm tích Đệ Tam lộ trên đất liền phân bố thành đới dài dọc theo
đứt gãy hướng Tây Bắc – Đông Nam từ Yên Bái đến Đoan Hùng, Sơn Tây đặc trưng
trầm tích khác hẳn trầm tích phần Đông Bắc và phần Nam bể Sông Hồng.
Móng là phần kéo dài của đới khâu sông Hồng cấu trúc Paleozoi Mesozoi từ
Vĩnh Phú tới Nam Định chìm sâu phía ở trung tâm bồn cổ nhất thành tạo biến chất
Protezoi thuộc đới khâu sông Hồng phân bố thành dải hẹp lộ ra núi Con Voi Nam
Định được phát hiện trong một giếng khoan. Đứt gãy sông Hồng xảy ra vào Oligocen.
Trầm tích biển nông sau Varixit tuổi Paleozoi muộn phân bố hạn chế chưa có phát
hiện xác minh. Mesozoi trong giếng khoan Phù Cừ gấm đá phun trào Rhyolit và tuff
thành tạo vụn thô màu đỏ có tuổi tạm coi là Crêta – Eocen kề gối lên móng Mesozoi
phát hiện trong cùng giếng khoan. Phần ngoài phơi móng chìm quá sâu không phát
hiện được
Mặt cắt trầm tích Đệ Tam rất dày 15.000 – 16.000 m, trầm tích lục nguyên
phát triển lấn biển nhanh. Các trầm tích phát hiện giếng khoan 104 là trầm tích
Olistostone tuổi Oligocen biểu hiện tách giãn thụ động phát hiện tại vết lộ cầu qua
Sông Hồng (Yên Bái). Mặt cắt trầm tích phần dưới Pliocen bị đứt gãy chia cắt mạnh
mẽ khó định cấu trúc nguyên thủy (hình 2.4). Dự đoán trầm tích Oligocen phần trung
tâm bể hình thành trong các địa hào lớn tách giãn hướng Tây Băc – Đông Nam kể cả
trong đất liền và trung tâm vịnh Bắc bộ. Đây là cấu trúc tách giãn chính bể sông
Hồng chuyển xoay theo chiều kim đồng hồ khối Đông Dương ép phần này vào khối
cứng của rìa Tây địa hào. Trầm tích Miocen bị biến dạng uốn nếp và cắt cụt trên nóc
Miocen. Miocen không còn biến vị uốn nếp đứt gãy.
Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 17 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
Độ vào mảng Âu-Á thời kỳ Eocen-Oligocen sớm và sinh ra hàng loạt các hệ thống

đứt gãy cổ có phương khác nhau. Trong vùng nghiên cứu đáng chú ý nhất là các đứt
gãy có phương TB-ĐN, đó là những đứt gãy lớn như: Đứt gãy Sông Lô, Sông Chảy,
Thái Bình, Hưng Yên, Sông Cả. Những đứt gãy này về sau tái hoạt động trong thời
kỳ tạo rift. Ngoài các đứt gãy trên trong khu vực nghiên cứu còn phát hiện hàng loạt
các đứt gãy phương ĐB-TN tập trung chủ yếu ở phần Đông. Các đứt gãy khác có
phương á vĩ tuyến và á kinh tuyến thì chúng được hình thành và phát triển chủ yếu
trong thời kỳ tạo rift Eocen-Oligocen-Miocen sớm ít xuất hiện trong khu vực nghiên
cứu.
2.2.2. Các đứt gãy nghịch
Các đứt gãy nghịch là những đứt gãy được sinh thành do sự nén ép tạo nên,
những đứt gãy này tập trung chủ yếu trong hai đới chính phía Tây Bắc và Đông Bắc
bể Sông Hồng. Sự hình thành của các đứt gãy nghịch trong hai khu vực trên vào hai
thời kỳ khác nhau và có thể được hiểu như sau:
Khu vực nghịch đảo kiến tạo quanh đảo Bạch Long Vỹ đã diễn ra pha nén ép
kiến tạo cục bộ vào cuối Oligocen và gây nên một pha chuyển động kiến tạo nghịch
đảo, đồng thời xuất hiện hàng loạt các đứt gãy chờm nghịch, những đứt gãy ở đây
phát triển chủ yếu theo hướng ĐB-TN là những đứt gãy phát triển không lớn về chiều
dài, chỉ vài km đến hàng chục km. Còn tại khu vực Tây Nam đứt gãy Vĩnh Ninh lại
xảy ra pha nén ép kiến tạo vào gần cuối Miocen muộn. Hầu hết các đứt gãy ở đây
đều phát triển theo hướng TB-ĐN, trong chúng đáng chú ý nhất là các đứt gãy Vĩnh
Ninh, Thái Bình. Đây là những đứt gãy cổ, ban đầu cũng là các đứt gãy thuận nhưng
sau này do nén ép các thành tạo được hình thành từ trước bị nâng trồi và trở thành
các đứt gãy nghịch, đồng thời cũng do sự nén ép nên trong khu vực đã xuất hiện
nhiều cấu tạo dạng hình hoa.
2.3. Cơ chế hình thành bể trầm tích Sông Hồng
Bể Sông Hồng là một bể trầm tích Đệ Tam được hình thành từ một địa hào
dạng kéo toác có hướng Tây Bắc-Đông Nam, được khống chế ở hai cánh bằng các
đứt gãy thuận trượt bằng ngang. Sự khởi đầu hoạt động của các đứt gãy này là do va
chạm của các mảng Ấn Độ vào mảng Á-Âu vào thời kỳ Eocen-Oligocen sớm. Hoạt
động trượt bằng trái và kéo toác chính là yếu tố địa động lực chủ yếu bể Sông Hồng.

Sau quá trình nghịch đảo kiến tạo trong Miocen giữa-muộn, bể trầm tích tiếp tục trải
qua quá trình sụt lún nhiệt cho đến ngày nay.
Bể trầm tích Sông Hồng có thể đã được bắt đầu hình thành từ cuối Eocen trong
quá trình tạo rift do sự tách giãn của đáy bể bắt nguồn từ những va đập của mảng Ấn
Độ vào mảng Âu-Á. Trong quá trình tạo rift này, ngoài địa hào chính ở vùng trung
tâm của bể trầm tích, ở các vùng rìa phía bắc cơ sở ban đầu của các địa hào hẹp cũng
được hình thành. Chúng được treo trên hệ thống đứt gãy Sông Hồng xen giữa các địa
lũy nằm theo hướng TB-ĐN. Các địa hào nguyên thủy này được lấp đầy rất nhanh
bằng các trầm tích hạt vụn do bào mòn và được mang từ những nơi khác đến.
Bài tiểu luận: Phân tích bể trầm tích
Sinh viên: Đỗ Khắc Mạnh Trang 18 Lớp Lọc Hóa Dầu B – K56
Quá trình tách giãn, sụt lún và lấp đầy này xảy ra liên tục cho tới cuối Oligocen
đầu Miocen, khi biên độ của các địa hào tăng đáng kể và một khối lượng lớn trầm
tích được lắng đọng trong đó thì xuất hiện nén ép ngang do sự dịch chuyển về phía
ĐN của mảng Indochina-Sunda, sự dịch chuyển này đã tạo nên hai hệ thống đứt gãy
dịch ngang trái khu vực đó là hệ thống đứt gãy Sông Hồng ở phía Bắc và Mae Ping
ở phía Nam.
Sau pha hoạt động kiến tạo tích cực trên, trong thời ký cuối Miocen hạ, dịch
ngang trái giảm cường độ và sau đó chuyển dần sang dịch ngang phải ở đứt gãy sông
Hồng do mảng Nam Trung Hoa dịch chuyển về phía Đông trong khi đó mảng
Indochina-Sunda bị tác động chủ yếu do lực xoay. Do bị ảnh hưởng của các quá trình
này mà bể trầm tích Sông Hồng chỉ bị tách giãn nhẹ dẫn đến sự sụt lún của đáy bể
trầm tích. Không gian trầm tích được thành tạo trong quá trình này được lấp đầy rất
nhanh bằng các trầm tích lục nguyên và cacbonat.
Đến cuối Miocen trung dịch ngang phải trên cơ sở hệ thống đứt gãy sông Hồng
và M.Ping đạt tới cường độ lớn, trầm tích nằm trong khu vực giữa đứt gãy Sông Lô
và Sông Chảy (khu vực trũng Neogen) bị ảnh hưởng rất mạnh. Thay vì bị tách dãn
kéo theo sự sụt lún ở những pha kiến tạo trước thì giờ đây trầm tích Đệ tam bị uốn
nếp mạnh, các đứt gãy trong hệ thống mở bể và đứt gãy mới thành tạo (nằm theo
hướng TB-ĐN) chuyển từ cơ chế thuận sang nghịch với biên độ lớn (như đứt gãy

Vĩnh Ninh ở vùng Tiền Hải và đứt gãy Sông Lô ở vùng thềm lục địa) cũng do nghịch
đảo kiến tạo, một khối lượng lớn trầm tích nằm trong các nếp lồi bị nâng lên khỏi
mặt cơ sở sau đó bị bào mòn rất mạnh.
Thời kỳ cuối Miocen trung, đầu Miocen thượng cho tới cuối Miocen thượng
đầu Pliocen, trong điều kiện nghịch đảo nhẹ, hiện tượng bào mòn và lắng đọng tiếp
tục xảy ra trên những phạm vi hẹp và vào cuối giai đoạn này cường độ nghịch đảo
kiến tạo tăng trở lại đến đỉnh điểm kết quả là biên độ uốn nếp tăng lên, trầm tích tiếp
tục vượt khỏi mặt cơ sở cùng với sự phức tạp hóa của cấu trúc. Tiếp sau đó một khối
lượng rất lớn trầm tích Miocen trung-thượng tiếp tục bị bào mòn.
Thời kỳ từ đầu Pliocen đến hiện tại toàn bộ bể rầm tích đơn giản chỉ chịu
sự sụt lún nhiệt, trầm tích trẻ được lắng đọng trên cơ sở của bề mặt lõm dần từ các
vùng rìa vào trung tâm.

×