Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

294 Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định đự án đầu tư tại Bình Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 88 trang )

1
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU


Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC THẨM 1
ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ


1.1 1.1 KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ MỤC ĐÍCH THẨM ĐỊNH CÁC
DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1
1.1.1.Khái niệm về đầu tư
1
1.1.2.Vai trò của thẩm đinh dự án đầu tư
1.1.3.Mục đích và khuôn khổ của thẩm định dự án đầu tư
1
2
1.2. CHIẾN LƯỢCTHẨM ĐỊNH CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ
3
1.2.1. Nghiên cứu tiền khả thi
3
1.2.2 Nghiên cứu khả thi
4
1.2.3 Thiết kế chi tiết
4
1.2.4 Thực hiện dự án
1.2.5 Đánh giá dự án
5
5


1.3 XÂY DỰNG BIÊN DẠNG NGÂN LƯU TÀI CHÍNH
6
CHO CÁC DỰ ÁN

1.3.1 Xây dựng báo cáo ngân lưu hoạch đinh
6
1.3.2 Công thức báo cáo ngân lưu hoạch định
9
1.4 CHIẾT KHẤU VÀ CÁC TIÊU CHUẨN ĐỂ ĐÁNH GIÁ ĐẦU TƯ
9
1.4.1 Suất chiết khấu
9
1.4.2 Các tiêu chuẩn đánh giá đầu tư khác nhau
11
1.5. QUY MÔ VÀTHỜI ĐIỂM TRONG CHỌN LỰA DỰ ÁN
13
1.5.1. Xác định quy mô trong lựa chọn dự án
13
1.5.2. Thời điểm đầu tư
14
1.6. SỬ DỤNG GIÁ CẢ TRONG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH
15
1.6.1.Định nghĩa giá cả và chỉ số giá
15
1.6.2.Đưa lạm phát vào phân tích tài chính
17
1.7. PHÂN TÍCH RỦI RO





18
2
1.7.1 Phân tích độ nhạy
1.7.2. Phân tích các tình huống
18
19
1.7.3. Phương pháp phân tích rủi ro Monte Carlo
19
Chương 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC THẨM 21
ĐỊNH DỰ ÁN DẦU TƯ TẠI TỈNH BÌNH THUẬN


2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH 21
BÌNH THUẬN

2.1.1 2.1.1 Vị trí địa lý
21
2.1.2 Nguồn tài nguyên
22
2.1.3 Dân số và nguồn nhân lực
24
2.1.4 Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
26
2.2. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ TẠI TỈNH BÌNH THUẬN 27
2.2.1. Khái quát về đầu tư tại Tỉnh Bình Thuận từ năm
27
2001 đến 2005
2.2.2. Phân tích cụ thể các dự án đầu tư tại Bình Thuận
29

năm 2004
2.3. HIỆU QUẢ CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ 33
2.3.1. Những thành tích đạt được
33
2.3.2. Một số hạn chế về đầu tư tại tỉnh Bình Thuận
34
2.4. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH 37
DỰ ÁN ĐẦU TƯ
2.4.1. Chưa xây dựng chi tiết khung phân tích dự án đầu tư
37
2.4.2. Chưa quan tâm đầy đủ việc phân tích các khía cạnh của
39
dự án đầu tư khi thẩm định dự án đầu tư
2.4.3.Hạn chế về việc phân tích rủi ro khi thẩm định dự
43
án đầu tư

2.4.4. Hạn chế về nguồn thông tin phục vụ cho công tác
45
thẩm định

2.4.5. Chưa có quy định thống nhất về các chỉ tiêu thẩm
45
định dự án

2.4.6. Chưa quan tâm tính toán các chỉ tiêu suất chiết khấu,
45
lạm phát



3
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG 46
TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN



3.1. QUY TRÌNH, THỦ TỤC CẤP PHÉP ĐẦU TƯ TẠI TỈNH
46
BÌNH THUẬN

3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI TỈNH BÌNH
46
THUẬN ĐẾN NĂM 2010:

3.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, và các chỉ tiêu chủ yếu
46
3.2.2. Định hướng phát triển các lĩnh vực, các ngành, các vùng
47
3.3. NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ VỀ PHÁT TRIỂN CÁC DỰ ÁN 50
ĐẦU TƯ TẠI BÌNH THUẬN

3.3.1 Công tác qui hoạch và triển khai thực hiện qui hoạch
50
3.3.2 Phối hợp giữa các cơ quan
51
3.3.3 Nguyên nhân từ phía Nhà đầu tư
51
3.3.4 Nguyên nhân khác
52
3.4 MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ THU HÚT ĐẦU TƯ NĂM 2005

52
VÀ CÁC NĂM TIẾP THEO

3.4.1 Mục tiêu
52
3.4.2. Nhiệm vụ
52
3.5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÔNG
TÁC
53
THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ

3.5.1 Xây dựng quy trình thẩm định dự án đầu tư thống nhất
54
3.5.2 Kiến nghị các chỉ tiêu cơ bản cần thiết khi đánh giá hiệu
55
quả tài chính trong thẩm định dự án đầu tư

3.5.3 Cần thiết phải sử dụng tỷ lệ chiết khấu phù hợp thống
56
nhất khi thẩm định dự án đầu tư.

3.5.4 Cần đưa yếu tố lạm phát vào thẩm định các dự án đầu tư
58
3.5.5 Cần xây dựng chính sách lãi vay thích hợp trong việc tài
60
trợ tín dụng đối với các dự án đầu tư

3.5.6 Tăng cường đào tạo bồi dưởng kiến thức và kỹ năng
60

thẩm định dự án đầu tư cho cán bộ thẩm định.

3.5.7 Tiếp tục đổi mới công tác chuẩn bị đầu tư.
61
4
3.5.8 Đổi mới công tác thẩm định dự án đầu tư.
62
3.6. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI
PHÁP
63
3.6.1 Đào tạo và sử dụng chuyên gia
63
3.6.2 Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý trong lĩnh vực thẩ định dự án đầu tư.
63
3.6.3 Hoàn thiện và phát triển thị trường vốn.
64
3.6.4 Đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính nhà nước.
64
3.6.5 Tranh thủ sự hỗ trợ của chính phủ.
65
3.7. CÁC GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ VÀ
65
ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ TRIỂN KHAI XÂY DỰNG DỰ ÁN NĂM

2005 VÀ CÁC NĂM TIẾP THEO:

3.7.1 Về thu hút đầu tư:
65
3.7.2. Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai xây
66

dựng các dự án đã chấp thuận đầu tư:


PHẦN KẾT LUẬN


TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC















5
PHẦN MỞ ĐẦU

I - Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư là chìa khóa trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia,

một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh nhất thiết phải đầu tư thỏa đáng. Điều đó
càng đúng với các quốc gia có điểm xuất phát thấp, phát triển kinh tế từ nông
nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu. Chúng ta còn thua kém các nước xung quanh về trình
độ phát triển kinh tế, công nghệ, về sức cạnh tranh. Mức tăng trưởng kinh tế còn
thấp hơn khả năng thực tế và chủ yếu dựa vào việc tăng đầu tư vốn, ít tiến bộ về
các nhân tố phát triển theo chiều sâu, năng suất lao động thấp, hiệu quả đầu tư kém,
chi phí sản xuất và lưu thông cao.
Trong những năm tới, đầu tư nhà nước tiếp tục tăng, chiếm gần một nửa tổng
đầu tư toàn xã hội, riêng vốn từ ngân sách và vốn tín dụng đầu tư nhà nước chiếm
khoảng 30%. Vì vậy “ Chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả đầu tư của nhà nước có ý
nghĩa quyết định đến hiệu quả đầu tư chung của nền kinh tế ”, trích lời phát biểu
của Thủ tướng Phan văn Khải.
Tuy vậy, hàng chục ngàn tỉ đồng đã bị lãng phí trong các dự án dầu khí, điện,
cầu đường …trong thời gian qua chỉ vì tiến độ thực hiện đầu tư chậm, giai đoạn
chuẩn bị đầu tư kéo dài. Điều này không chỉ thiệt hại gián tiếp do công trình chậm
đưa vào sử dụng, mà còn gây mất mát trực tiếp vì kinh phí đầu tư tăng lên và làm
sai lệch các kết quả tính toán về hiệu quả của dự án. Tình trạng này hiện khá phổ
biến ở những dự án của doanh nghiệp nhà nước và các công trình đầu tư bằng
nguồn ngân sách. Dự án càng lớn thì thiệt hại càng nhiều. Dự án nhà máy lọc dầu
Dung Quất là một điển hình, kinh phí đầu tư tăng tới 1 tỉ đô la Mỹ, chủ yếu là do
trượt giá.
Bên cạnh đó, sự hời hợt khi làm nghiên cứu khả thi cũng góp phần không nhỏ
vào việc kéo dài thời gian thực hiện dự án và tăng chi phí đầu tư. Dành nhiều thời
gian chuẩn bị kỹ dự án không có nghĩa là chấp nhận lãng phí thời gian vào các thủ
tục thẩm định, xét duyệt. Theo các nhà doanh nghiệp, hiện nay quy trình xét duyệt
thường kéo dài. Ngoài bản thân quy trình quá phức tạp còn có nguyên nhân do trình
độ của các cán bộ đảm nhiệm công tác thẩm định còn kém.Trên đây là những vấn
đề chung mà môn học “ Thẩm định dự án “ phải nghiên cứu. Riêng tại Bình thuận,
để đạt mục tiêu về tăng trưởng bình quân GDP đầu người, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, để đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế như

dự báo thì vấn đề bức xúc hiện nay đặt ra cho Bình Thuận là đầu tư phát triển của
tỉnh.
6
Hiện nay nhu cầu đầu tư vào Bình Thuận là rất cao, kể cả về mặt khách quan
lẫn chủ quan. Về mặt chủ quan do tỉnh còn nghèo, cơ sở vật chất kỹ thuật, cũng như
cơ sở hạ tầng còn hạn chế, việc tăng cường đầu tư phát triển nâng cao đời sống kinh
tế xã hội là điều tất yếu, đó cũng là xu hướng chung của đất nước ta hiện nay. Về
mặt khách quan do tỉnh thực hiện kinh tế mở, hướng ra bên ngoài, nguồn nhân lực
dồi dào, cùng các tiềm lực sẵn có thì việc đầu tư từ bên ngoài vào để kiếm lời là
điều tất yếu khách quan, tuân theo quy luật của thị trường. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra
là làm sao kết hợp giữa khách quan và chủ quan để tạo ra bước nhảy vọt làm tiền đề
phát triển lâu dài cho tỉnh.

Trong thời gian tới theo xu hướng chung của đất nước và sẵn có những thế
mạnh riêng của mình, Bình Thuận sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư, nhưng việc
tiếp nhận và hấp thụ vốn đầu tư đó theo cách nào lại là vấn đề đặt ra cần được giải
quyết.
Đầu tư vào tỉnh phải ngay từ bước đầu giải quyết được những mất cân đối
lớn về cơ cấu, giải quyết những khó khăn về đời sống của nhân dân trong tỉnh, đặc
biệt là khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kháng chiến. Phải
nâng cao mức sống, trình độ dân trí và kỹ năng lao động của người dân đáp ứng
được yêu cầu phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa, yêu cầu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lao động.

Tóm lại, Bình Thuận đang đứng trước những cơ hội mới và thử thách mới,
tỉnh cần giải quyết những khó khăn và sử dụng lợi thế so sánh của mình, đẩy mạnh
tăng cường hòa nhập kinh tế, hòa nhập vào xu thế phát triển chung của đất nước.
Thẩm định dự án, một môn học tuy mới ra đời nhưng đã nhanh chóng được
hoàn thiện và phát triển, đã xây dựng được nền tảng cơ sở các chuẩn mực về thẩm
định , góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của việc thẩm định dự án đầu tư. Với

việc áp dụng môn học thẩm định dự án, công tác thẩm định dự án sẽ hạn chế được
những rủi ro của dự án, đánh giá, so sánh các dự án để chọn ra các dự án có hiệu
quả nhất góp phần vào việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế tỉnh nhà một cách
hiệu quả nhất.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên , tôi đã chọn đề tài “ Một số giải pháp nâng
cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Bình Thuận “

7
II - Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết của môn học thẩm định dự án, xây dựng khung phân tích
và đánh giá dự án, hệ thống các chỉ tiêu thẩm định phục vụ cho cán bộ thẩm định
có chuẩn mực để đánh giá các dự án. Đồng thời, căn cứ vào thực trạng của công tác
thẩm dịnh dự án đầu tư hiện nay, xây dựng một số giải pháp góp phần hoàn thiện
công tác thẩm dịnh dự án đầu tư tại tỉnh Bình Thuận.
III - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình thực tế của công tác thẩm dịnh
dự án đầu tư tại tỉnh Bình Thuận.
- Phạm vi nghiên cứu :
* Nghiên cứu một số nội dung cơ bản của dự án đầu tư, các chỉ tiêu phân
tích trong thẩm dịnh dự án đầu tư tại tỉnh Bình Thuận. Bao gồm chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả hoạt động của chủ đầu tư và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của dự
án đầu tư.
* Nghiên cứu thực trạng công tác thẩm dịnh dự án đầu tư tại tỉnh Bình
Thuận.
* Nghiên cứu các giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm dịnh dự án
đầu tư tại tỉnh Bình Thuận.
IV – Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
như: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương
pháp đánh giá, phương pháp xác định độ rủi ro theo xác suất...Trên cơ sở lý luận

của khoa học thẩm định, đối chiếu với công tác thẩm dịnh dự án đầu tư tại tỉnh
Bình Thuận để đề xuất ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm dịnh
dự án đầu tư tại tỉnh Bình Thuận.
V – Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những cơ sở lý luận về công tác thẩm định dự án đầu tư.
- Chương 2: Đánh giá thực trạng về công tác thẩm định dự án dầu tư tại tỉnh
Bình Thuận.
- Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án để có
thể lựa chọn các dự án đầu tư hiệu quả.
Do thời gian và khả năng nghiên cứu của bản thân còn hạn chế, luận văn
chưa thể đề cập hết các khía cạnh của vấn đề và còn nhiều sai sót nhất định. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô, đồng thời xin được gởi đến
quý thầy cô lời cảm ơn chân thành.




8
Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC THẨM
ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ

1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ MỤC ĐÍCH THẨM ĐỊNH CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1.1. Khái niệm về đầu tư:
Theo quan điểm của Chủ đầu tư (người chủ sở hữu vốn, người vay vốn hoặc
người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư
theo quy định của pháp luật) thì Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh, để từ đó
thu được số vốn lớn hơn số đã bỏ ra thông qua lợi nhuận.
Theo quan điểm của xã hội (Quốc gia) thì đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát
triển, để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế - xã hội, vì mục tiêu phát triển quốc

gia
1.1.2. Vai trò của thẩm định dự án đầu tư:
Ở nhiều nơi trên thế giới, những khái niệm cơ bản đằng sau việc phân tích
chi phí và lợi ích kinh tế và tài chính đang dần được chấp nhận. . Thứ nhất, tài liệu
chuyên môn về thẩm định dự án đã được tăng cường trong những năm gần đây.
Thứ hai, các lãnh đạo nhà nước, trong nỗ lực thúc đẩy những chương trình đầy
tham vọng về phát triển kinh tế và xã hội, đã cảm thấy nhu cầu phải thực hiện
những chọn lựa khó khăn giữa các chiến lược chi tiêu khác nhau nhằm đạt được
mục tiêu của họ. Thứ ba, các nước ngày càng có khả năng hơn trong việc thỏa mãn
yêu cầu cần có qui trình thẩm định dự án tốt hơn nhờ những khóa học và chương
trình đào tạo do các trường đại học, các cơ quan quốc tế và chính các cơ quan nhà
nước tổ chức. Một số nước đã đào tạo đủ lực lượng cán bộ để khởi sự một nỗ lực
cấp quốc gia nhằm phân tích một cách có hệ thống chi phí và lợi ích của những
hoạt động chi tiêu đầu tư sắp đến.
Việc nhận thức được bản chất của bối cảnh lựa chọn dự án cho chúng ta thấy
nhu cầu cần phải thực hiện chức năng kiểm tra hoặc kiểm toán trong suốt giai đoạn
thẩm định dự án. Ngay cả phương pháp phân tích tinh vi nhất về lợi ích và chi phí
của dự án cũng có thể dẫn tới sai lầm nếu sử dụng những ước tính căn bản sai lầm
về chi phí và lợi ích của dự án. Vì vậy, chúng ta phải hết sức lưu ý để đảm bảo rằng
mọi số liệu ban đầu phải được cân nhắc thỏa đáng. Những ai còn nghi ngờ tầm
quan trọng của vấn đề này chỉ cần nhìn lại lịch sử thực hiện các dự án thực tế.
Trong hầu hết các trường hợp, kinh nghiệm cho thấy chi phí của dự án bao giờ
cũng cao hơn con số dự liệu ban đầu một cách đáng kể, và cũng trong rất nhiều
trường hợp việc tính toán chi phí ở mức quá thấp lại thường đi đôi với việc tính
toán lợi ích ở mức quá cao.
Thông tin tốt hơn và không thiên lệch chỉ có thể có được khi cơ quan thẩm
định dự án chịu tốn kém về thời gian và tiền của. Những chi phí này sẽ được bù đắp
lại bởi những nguồn lực tiết kiệm được do có thông tin tốt hơn và nhờ đó tránh
được việc thực hiện những dự án tồi hoặc những dự án mà việc thiết kế và hoạt
động nhằm để đáp ứng các mục tiêu của quốc gia.

Để tiết kiệm tài nguyên hiếm hoi về nhân lực và tài chính có được của công
tác thẩm định dự án, chúng ta có thể áp dụng một loạt các giai đoạn khác nhau
9
trong qui trình thẩm định. Mỗi một giai đoạn kế tiếp sẽ được thực hiện với cơ sở dữ
liệu mang độ chính xác cao hơn. Vào cuối mỗi giai đoạn, chúng ta sẽ đi tới quyết
định chấp thuận hay bác bỏ dự án mà không cần phân tích thêm nữa. Chỉ trong
trường hợp triển vọng thành công của dự án biến thiên rất lớn theo mức độ chính
xác của các dữ liệu hiện đang được sử dụng thì chúng ta mới dành thêm công sức
cho việc cải thiện độ tin cậy chung của công việc thẩm định dự án. Một sự thẩm
định có ý nghĩa ở bất kỳ giai đoạn nào cũng đòi hỏi phải đánh giá từng khía cạnh
tài chính, kinh tế và xã hội của dự án.Trong đó thẩm định tài chính là giai đoạn có ý
nghĩa quyết định.
1.1.3. Mục đích và khuôn khổ của thẩm định dự án đầu tư:
Việc đo lường lợi ích và chi phí kinh tế được xây dựng trên những thông tin
xuất phát từ phần thẩm định tài chính, nhưng thêm vào đó những nguyên tắc kinh tế
hình thành trong lĩnh vực kinh tế học phúc lợi ứng dụng cũng được sử dụng rộng
rãi. Để trở thành nhà phân tích kinh tế thành thạo trong lĩnh vực chi tiêu công, cần
phải thông thạo các nguyên tắc của kinh tế học phúc lợi ứng dụng, cũng giống như
nhà phân tích tài chính phải nắm vững các nguyên tắc kế toán.
Những kỹ thuật thẩm định kinh tế, được căn cứ vào ba định đề căn bản của
kinh tế học phúc lợi ứng dụng. Đó là: (a) giá cầu cạnh tranh của một đơn vị sản
phẩm đo lường giá trị của đơn vị sản phẩm đó đối với người có nhu cầu (nghĩa là
mức sẵn lòng chi trả của anh ta); (b) giá cung cạnh tranh của một đơn vị sản phẩm
hay dịch vụ đo lường giá trị của đơn vị sản phẩm đó trên góc độ nhà cung ứng; (c)
khi định giá lợi ích hay chi phí ròng của một hoạt động nào đó (dự án, chương
trình, hay chính sách), các chi phí và lợi tức phát sinh cho mỗi thành viên trong
nhóm liên quan (ví dụ, một quốc gia), nếu có thể được, thì nên đo lường và nhận
dạng gắn liền với người nhận, nhưng trong thẩm định kinh tế lợi ích và chi phí
thường được tổng gộp mà không để ý đến ai sẽ nhận chúng.
* Cầu cung và chi phí cơ hộ

i

Trong quá trình phát triển những kỹ thuật thẩm định kinh tế dự án sử dụng
các định đề (a), (b) và (c) điều quan trọng là nhận biết mức độ tinh tế và phức tạp
của các khái niệm về cung và cầu liên quan. Khi đường cầu của người tiêu dùng chỉ
ra số lượng tối đa mà anh ta sẵn lòng chi trả thì nó cũng cho thấy thái độ trung dung
của người tiêu dùng, nghĩa là việc có trong tay đơn vị sản phẩm đó với mức giá đó
hay dùng số tiền này để mua bất cứ hàng hóa và dịch vụ khác sẵn có với giá tương
đương, đều là như nhau. Tương tự, đường cung của một hoạt động phản ánh giá cả
mà tại đó nhà cung cấp món hàng xem việc bán một số đơn vị hàng ở địa điểm và
thời gian nhất định với việc dùng những sản phẩm và dịch vụ này hoặc các nhập
lượng để sản xuất ra chúng vào mục đích khác là không có gì khác biệt. Hơn nữa,
các phương án lựa chọn liên quan đến vấn đề này có thể rất phức tạp. Sự sẵn lòng
chi trả để mua một chiếc xe hơi mới có thể được quyết định bằng việc đánh đổi khả
năng mua một ngôi nhà mới hoặc cho con đi học đại học. Tất cả những lựa chọn
này được phản ảnh trong giá cầu hay mức sẵn lòng chi trả của một người để mua
chiếc xe. Đối với một cá nhân, chi phí cơ hội của các khoản chi tiêu bị hoãn lại hay
từ bỏ để mua một món đồ nào đó được phản ánh bằng giá cầu hoặc mức sẵn lòng
chi trả của anh ta để mua sản phẩm đó.
10
Tương tự, những chọn lựa có vai trò quyết định giá cung của một đơn vị
hàng hóa hay dịch vụ cũng có thể rất phức tạp. Giá cung một lao động có tay nghề
ở nông thôn sẽ phản ảnh loại công việc và thu nhập mà anh ta sẽ từ bỏ để làm công
việc này, tiện nghi sinh hoạt mất đi khi sống ở nông thôn so với thành thị, điều kiện
làm việc ở nông thôn và các lựa chọn khác, chi phí sinh hoạt thấp ở vùng quê, chi
phí đi lại tăng thêm để thăm viếng gia đình và bạn bè ở thành phố, chi phí vận
chuyển thấp hơn khi làm việc ở vùng nông thôn, và tất cả những nhân tố khác tác
động đến quyết định của một người về nơi sinh sống và làm việc. Đối với hàng
công nghiệp, sự phức tạp của những mối quan hệ đằng sau việc xác định giá cung
của nó còn lớn hơn. Giá cung của xuất lượng không chỉ phản ảnh giá cung hay phí

cơ hội của tất cả các nhập lượng dùng để sản xuất ra sản phẩm đó, mà còn phản ánh
nơi chốn và cách thức hàng hóa được đưa đến điểm tiêu thụ.
Ngay cả những hàng hóa và dịch vụ hiện không được sử dụng vẫn có giá
cung và phí cơ hội dương. Những lao động thất nghiệp sẽ tìm được việc làm vào
lúc nào đó trong tương lai. Có thể họ sẽ định ra một giá trị cho thời gian nhàn rỗi
của mình hay đòi hỏi sự bù đắp để di chuyển từ nơi họ đang ở đến nơi có công ăn
việc làm. Tất cả những nhân tố này sẽ được phản ảnh trong giá cung > 0 của lao
động “thất nghiệp” này.
Trong một nền kinh tế không có thuế má, trợ cấp, ngoại tác hay những khiếm
khuyết của thị trường, giá cung và giá cầu của đơn vị sản phẩm cuối cùng được sản
xuất ra và tiêu thụ trên thị trường sẽ bằng nhau. Tuy nhiên, những yếu tố gây biến
dạng thị trường như vậy luôn hiện hữu trong mỗi nền kinh tế và phải được đưa vào
quá trình thẩm định lợi ích và chi phí kinh tế của dự án. May mắn là hầu hết nếu
không nói là tất cả những yếu tố gây biến dạng này có thể được đưa vào khuôn khổ
nói trên một cách hệ thống, nơi có hàm số cầu của một sản phẩm phản ánh mức sẵn
lòng chi trả của người tiêu dùng và một hàm số cung được xác định bởi các chi phí
cơ hội của việc cung ứng sản phẩm đó.
Bằng cách hướng về thị trường sản phẩm hoặc dịch vụ để có những thông tin
ban đầu cho việc đo lường lợi ích và chi phí kinh tế, chúng ta chú trọng đến ước
muốn của người tiêu dùng và nhà sản xuất trong việc đo lường các giá trị xã hội và
kinh tế.
1.2. CHIẾN LƯỢC THẨM ĐỊNH CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Có năm bước để thực hiện chiến lược thẩm định các dự án đầu tư
1.2.1 Nghiên cứu tiền khả thi
Nghiên cứu tiền khả thi là nỗ lực đầu tiên nhằm đánh giá triển vọng chung
của dự án. Trong suốt quá trình thẩm định, đặc biệt trong giai đoạn nghiên cứu tiền
khả thi, các ước lượng biến số dù thiên lệch về một hướng nào đó vẫn có giá trị hơn
là những giá trị ước tính trung bình của các biến số được biết với mức độ chắc chắn
rất thấp. Vì vậy, trong phân tích tiền khả thi, để tránh việc chấp thuận những dự án

dựa trên các ước tính quá lạc quan về chi phí và lợi ích, chúng ta nên sử dụng
những ước tính có xu hướng giảm bớt lợi ích của dự án và làm tăng mức ước tính
về chi phí. Nếu dự án vẫn hấp dẫn sau khi đã tiến hành thẩm định như vậy, thì có
rất nhiều khả năng dự án sẽ qua được khâu thẩm định chính xác hơn.
11
Nghiên cứu tiền khả thi của các dự án đầu tư thường bao gồm sáu lãnh vực
được tóm tắt như sau:
(a) Phân tích thị trường hay sức cầu. Nhằm ước tính, định lượng hóa và
lýgiải chứng minh sức cầu hàng hóa và dịch vụ, giá cả hay các nhu cầu tương đối
về dịch vụ xã hội.
(b) Phân tích kỹ thuật. Xác định một cách chi tiết các thông số đầu vào của
dự án và xây dựng các ước tính về chi phí.
(c) Phân tích nhân lực và quản lý. Định rõ chi tiết nhu cầu về nhân lực cần
thiết cho việc thực hiện cũng như vận hành dự án, xác định và định lượng cụ thể
nguồn nhân lực.
(d) Phân tích tài chính hay ngân sách. Phân tích chi và thu tài chính cùng với
việc đánh giá các phương án tài trợ khác nhau.
(e) Phân tích hiệu quả kinh tế. Điều chỉnh các dữ liệu tài chính theo ý nghĩa
kinh tế, thẩm định chi phí và lợi ích của dự án trên quan điểm của cả nền kinh tế.
(f) Phân tích hiệu quả xã hội. Thẩm định dự án theo quan điểm của những
đối tượng hưởng lợi từ dự án và những đối tượng phải chịu chi phí cho dự án. Khi
có thể được, cần lượng hóa lợi ích thụ hưởng và chi phí phải chịu của các nhóm
này.
1.2.2. Nghiên cứu khả thi
Sau khi đã hoàn tất xong tất cả các khâu phân tích trong giai đoạn nghiên cứu
tiền khả thi, chúng ta cần nghiên cứu khả năng dự án có thể đáp ứng các tiêu chí về
tài chính, kinh tế và xã hội mà nhà đầu tư đề ra cho các khoản đầu tư hay không.
Cần phân tích độ nhạy của dự án để xác định các biến số chủ chốt quyết định kết
quả của dự án.
Chức năng giai đoạn nghiên cứu khả thi trong thẩm định dự án là nhằm tăng

cường mức độ chính xác các tính toán những biến số chủ chốt nếu như dự án cho
thấy có triển vọng thành công. Để tăng cường được mức độ chính xác, cần thực
hiện nhiều nghiên cứu sơ cấp và có lẽ nên xác định thêm những biến số khác.
Chính vào cuối giai đoạn này là lúc mà quyết định quan trọng nhất phải được
đưa ra là liệu có nên chấp thuận dự án không. Sẽ rất khó để ngưng một dự án tồi
sau khi công việc thiết kế chi tiết (thường là rất tốn kém) đã được thực hiện vào
giai đoạn thẩm định tiếp theo.
1.2.3 Thiết kế chi tiết
Sau nghiên cứu khả thi, nếu các nhà ra quyết định phê chuẩn dự án thì công
việc tiếp theo là triển khai thiết kế chi tiết dự án. Các tiêu chuẩn thiết kế sơ bộ phải
được thiết lập khi dự án được xác định và thẩm định nhưng thông thường chi phí về
những đặc điểm kỹ thuật chi tiết không được bảo đảm vào thời điểm này. Một khi
đã xác định tiếp tục dự án thì công việc thiết kế phải được hoàn tất một cách chi tiết
hơn. Công tác này bao gồm xác định các chương trình cơ bản, phân chia nhiệm vụ,
xác định tài nguyên dùng cho dự án cũng như định hình hoạt động theo các chức
năng sẽ được thực hiện và những ưu tiên của chúng. Giai đoạn này là lúc phải xác
định rõ các yêu cầu kỹ thuật, ví dụ như nhu cầu về nhân lực phân loại theo kỹ năng
lao động. Sau khi hoàn tất xong phần thiết kế chi tiết và các qui cách kỹ thuật cho
việc xây dựng nhà xưởng và trang thiết bị, cần lên kế hoạch và thời gian biểu vận
12
hành dự án cũng như kế hoạch dự phòng bất trắc, đồng thời tổng hợp chúng để
nâng lên thành kế hoạch thực hiện chính thức.
Tóm lại, giai đoạn thiết kế chi tiết trong thẩm định dự án chính là thời điểm
tăng cường độ chính xác của mọi dữ kiện đã được sử dụng trong các phần phân tích
trước đó để có thể xây dựng kế hoạch vận hành chính thức. Trong giai đoạn này,
chẳng những chúng ta hoàn tất thiết kế về mặt vật chất của dự án mà còn lên kế
hoạch quản lý hành chánh, vận hành sản xuất, và tiếp thị.
1.2.4 Thực hiện dự án
Thực hiện dự án bao gồm việc điều phối và phân bố tài nguyên hay nguồn
lực để dự án có thể hoạt động. Giám đốc dự án phải tập hợp được đội ngũ giám sát

dự án bao gồm các nhà chuyên môn và chuyên gia kỹ thuật. Tập thể này phải tiến
hành điều phối các chuyên gia tư vấn, nhà thầu, nhà cung cấp vật tư thiết bị, cũng
như những đơn vị có liên quan khác. Trách nhiệm và quyền hạn trong việc thực
hiện dự án phải được phân định rõ ràng, kể cả ủy quyền ra quyết định trong các
lãnh vực liên quan đến nhân sự, pháp lý, tài chính, tổ chức và hành chánh. Một kế
hoạch đúng đắn ở giai đoạn này là rất quan trọng để bảo đảm dự án không bị trì
hoãn một cách không cần thiết, cũng như hình thành các qui trình hành chánh phù
hợp để điều phối hài hòa mọi hoạt động cần thiết để thực hiện dự án.
Khi dự án sắp được hoàn thành, cần chuẩn bị để từng bước hoàn tất hoạt
động thi công xây dựng và trao dự án cho ban quản lý mới. Khâu hoàn thành dự án
đòi hỏi phải rút dần và giải thể tổ chức thực hiện dự án. Đây là lúc đòi hỏi chuyển
giao nhân sự cũng như thiết bị sang các khâu vận hành khác. Những hoạt động này
có thể sẽ diễn ra trong khoảng thời gian tương đối dài. Tuy nhiên, khi dự án đi vào
hoạt động, cần bảo đảm có đủ kỹ năng, kế hoạch và tổ chức kiểm soát để thực hiện
chức năng của dự án nhằm tránh những chi phí khởi động quá lớn, mà điều này dễ
dàng quyết định sự thành bại chung của dự án.
1.2.5 Đánh giá dự án
Trong lịch sử ngắn ngủi của công tác thẩm định tài chính - kinh tế - xã hội
của dự án, người ta thường chú trọng vào khâu đánh giá tiền dự án hơn là sau khi
dự án đã được thực hiện. Để phát triển kỹ năng tiến hành thẩm định dự án cũng như
cải thiện độ chính xác của các đánh giá, chúng ta cần so sánh kết quả dự đoán với
kết quả thực tế của dự án. Để việc đánh giá lại các điểm mạnh và điểm yếu của dự
án đã triển khai mang lại giá trị tối đa cho các nhà làm chính sách và các nhà phân
tích dự án, hoạt động của một số nhân sự nhất định trong các nhóm thẩm định dự
án của chính quyền cần được duy trì theo thời gian.
Để thực hiện được phần đánh giá này, cần tiến hành đánh giá các khâu quản
lý hành chính của dự án ngay sau khi đã hoạt động. Các cán bộ quản lý giai đoạn
vận hành phải được thông báo rõ là việc đánh giá chi tiết kết quả dự án sẽ được tiến
hành suốt thời gian hoạt động của nó. Cách này cho phép xây dựng những dữ liệu
cần thiết thông qua các hoạt động tài chính và kiểm soát thông thường, tạo điều

kiện thực hiện đánh giá với chi phí thấp nhất.
Chức năng của phần đánh giá sau dự án để xác định xem những biến số quan
trọng trong thiết kế và thực hiện dự án, góp phần vào sự thành công hoặc thất bại
của dự án. Phần đánh giá hậu dự án giúp phát huy kinh nghiệm thành công và tránh
13
những thất bại đã gặp.
1.3 XÂY DỰNG BIÊN DẠNG NGÂN LƯU TÀI CHÍNH CHO CÁC DỰ ÁN
So sánh lợi ích tài chính hay kinh tế của một dự án với các chi phí tương ứng
đòi hỏi phải sắp xếp tất cả dữ liệu liên quan thành một biên dạng tổng hợp cho toàn
bộ thời gian hoạt động của dự án. Trong thẩm định tài chính, biên dạng này là ngân
lưu ròng của dự án, còn trong thẩm định kinh tế biên dạng này cho thấy những lợi
ích kinh tế ròng do dự án sinh ra. Chúng ta sẽ từng bước giải thích cách xây dựng
các biên dạng ngân lưu của một dự án.
1.3.1 Xây dựng báo cáo ngân lưu hoạch định
1.3.1.1 Kế hoạch đầu tư
Kế hoạch đầu tư gồm hai phần: (a) phần thứ nhất xem xét các chi tiêu cho tài
sản thiết bị mới, và chi phí cơ hội của những tài sản hiện hữu, (b) phần thứ hai cân
nhắc khía cạnh tài trợ cho các khoản đầu tư được đề xuất. Nếu phải xét đến các qui
mô hoặc địa điểm khác nhau, thì cần phải lên kế hoạch đầu tư tương ứng cho mỗi
qui mô và/hoặc địa điểm đó. Điều quan trọng là kế hoạch đầu tư phải phù hợp với
thời gian biểu thực tế trong điều kiện có những hạn chế về lao động, tài chính và
nguồn cung ứng trong nền kinh tế, cũng như những khía cạnh kỹ thuật của dự án.
(a) Kế hoạch đầu tư sẽ bao gồm danh mục tất cả các khoản chi phí cần thực hiện
cho đến khi công trình bắt đầu đi vào hoạt động bình thường. Từng khoản chi phí
này cần được xác định theo năm dự kiến sẽ xảy ra. Ngoài ra, từng khoản chi phải
được tách riêng thành hai phần: chi phí để trả cho hàng hóa và dịch vụ buôn bán
quốc tế và phần chi phí cho hàng hóa và dịch vụ chỉ buôn bán trong nước. Những
loại chi phí này lại được chia thành những khoản chi trả cho các nhà cung ứng cho
từng loại hàng hóa, các khoản nộp cho chính quyền (thuế doanh thu, thuế nhập
khẩu v.v.), khoản trợ giá từ chính quyền và trợ cấp để mua các thiết bị đầu tư. Các

khoản chi phí về lao động trong khâu xây dựng dự án phải được xác định theo năm
và theo kỹ năng.
(b) Kế hoạch đầu tư phác thảo cách thức huy động những chi phí này. Nguồn huy
động có thể là vốn cổ phần hay tài trợ không hoàn lại, vốn vay trong nước ngắn hạn
và dài hạn, vốn vay nước ngoài, và viện trợ nước ngoài. Khoản nào trong các hình
thức nêu trên được coi là ngân lưu vào (nguồn thu) cho dự án là tùy thuộc vào quan
điểm phân tích dự án. Ví dụ, theo quan điểm của chủ đầu tư, vốn cổ phần không
phải là ngân lưu vào vì đó là số vốn mà anh ta phải tự bỏ ra.
1.3.1.2 Xử lý chi phí khấu hao
Chi phí khấu hao hay chi phí hao mòn vốn là một công cụ kế toán nhằm dàn
trải chi phí của các hạng mục đầu tư ra hết chiều dài hoạt động của những khoản
đầu tư này, mục tiêu là nhằm phản ánh tất cả chi phí vào thu nhập ròng của một
năm bất kỳ, kể cả chi phí đầu tư cần thiết để tạo ra sản lượng dự án. Tuy nhiên, chi
phí khấu hao không phải là ngân lưu xuất và do đó không nên đưa vào biên dạng
ngân lưu tài chính của dự án. Đồng thời, toàn bộ chí phí vốn đầu tư đều được tính
trong biên dạng ngân lưu tài chính kể từ khi toàn bộ các khoản chi tiêu đầu tư được
khấu trừ trong năm phát sinh. Nếu có thêm các khoản chi phí vốn nào khác bị khấu
trừ khỏi biên dạng ngân lưu, chẳng hạn chi phí khấu hao, thì có nghĩa là chi phí đã
bị hạch toán hai lần.
14
1.3.1.3 Xử lý kế hoạch hoạt động
Thành quả dự kiến trong tương lai của một dự án đầu tư thương mại được
tóm tắt trong tập hợp các báo cáo tài chính hoạch định hay triển vọng, trong đó bao
gồm các bảng cân đối kế toán, các báo cáo lỗ lãi và báo cáo ngân lưu cho từng năm
trong toàn bộ thời gian hiện hữu của dự án. Dựa theo mục đích thẩm định đầu tư thì
báo cáo ngân lưu là liên quan trực tiếp; tuy nhiên, báo cáo ngân lưu có thể được xây
dựng từ những thông tin có được trong bảng cân đối kế toán và những báo cáo thu
nhập trong nhiều năm.
Bảng cân đối kế toán liệt kê tất cả tài sản có giá trị cũng như các khoản vay
nợ của công ty. Phần khác biệt giữa giá trị tổng tài sản thuộc sở hữu của công ty và

giá trị tổng số nợ của công ty là bằng với giá trị vốn cổ phần hay giá trị ròng của
chủ đầu tư.
Trong khi bảng cân đối kế toán cho thấy tình trạng tài chính của công ty vào
cuối mỗi giai đoạn, báo cáo về thu nhập cho thấy các hoạt động của công ty trong
giai đoạn đó đã làm tăng hay giảm giá trị ròng của công ty. Giá trị ròng tăng khi
công ty báo cáo một khoản thu nhập ròng dương. Báo cáo thu nhập đo lường thu
nhập khi có doanh thu và tính toán chi phí khi mua hàng. Chênh lệch giữa tổng thu
và tổng chi cho thấy mức lãi hay lỗ của công ty trước khi đóng thuế thu nhập. Thuế
thu nhập được đánh vào khoản này, và thu nhập ròng của công ty là phần còn lại
sau khi đã nộp thuế.
Mặc dù báo cáo ngân lưu chứa đựng những thông tin khác với báo cáo thu
nhập, nhưng nó có thể được xây dựng từ một tập hợp các báo cáo thu nhập và bảng
cân đối kế toán. Trong khi báo cáo thu nhập tính toán lợi nhuận của công ty bằng
hiệu số giữa tổng thu nhập (từ doanh thu) và tổng chi phí, thì ngân lưu ròng được
tính bằng chênh lệch giữa tổng thu (total receipts) và tổng chi (total expenditures).
Do đó, có một số biến số phải được định nghĩa rõ ràng và quan hệ giữa chúng phải
được hiểu rõ trước khi ta có thể xây dựng bảng báo cáo ngân lưu từ một tập hợp các
báo cáo thu nhập và các bảng cân đối kế toán.
1.3.1.4

Tính toán vốn lưu động
Để thực hiện được một hoạt động kinh tế, cần phải có đầu tư nhất định vào
một số hạng mục để tạo sự thuận lợi cho công việc kinh doanh. Những hạng mục
này bao gồm: tiền mặt, khoản phải thu trừ đi khoản phải trả, và hàng tồn kho.
Chúng ta đã thấy ở trên cách thức mà những thay đổi trong khoản phải thu và
khoản phải trả làm thay đổi ngân lưu của dự án. Điều quan trọng cần lưu ý là những
thay đổi của hàng tồn kho được tự động đưa vào ngân lưu khi sử dụng hai công
thức trên.
1.3.1.5 Tiền mặt dành riêng để thực hiện giao dịch
Điều quan trọng là phải nhận ra rằng cân đối tiền mặt có thể tăng lên hay giảm

xuống ngay cả khi không có thay đổi gì trong các hạng mục doanh thu, khoản mua,
khoản phải thu hay phải trả. Việc này có thể xảy ra, chẳng hạn, khi công ty huy
động thêm vốn cổ phần hay vốn vay hoặc khi công ty phải trả lãi suất hoặc chi cổ
tức. Khi một lượng tiền mặt được dành riêng để tạo thuận lợi cho các giao dịch, thì
có nghĩa là đang sử dụng tiền mặt nên cũng là ngân lưu ra. Tương tự, lượng tiền
mặt dành riêng cho giao dịch giảm đi chính là một nguồn cung cấp tiền mặt cho các
15
mục đích sử dụng khác của dự án nên đó là một ngân lưu vào. Do đó, nếu lượng
tiền mặt dành riêng cho công việc giao dịch trong một thời kỳ nào đó tăng lên, phần
tăng này là một ngân lưu ra; nếu lượng tiền mặt đó giảm đi, phần giảm đó là một
ngân lưu vào.
1.3.1.6 Chi phí cơ hội
Một khái niệm quan trọng rất có ích cho việc hình thành ngân lưu là chi phí
cơ hội. Chi phí cơ hội của việc sử dụng một nguồn lực trong dự án là những lợi ích
bị bỏ qua khi không sử dụng nguồn lực này vào một hoạt động khác. Ví dụ, chi phí
cơ hội của một ngư dân nghèo khi tham gia dự án tăng trọng gia súc do chính phủ
tài trợ là khoản thu nhập mất đi từ nghề cá. Chi phí cơ hội này phải được đưa vào
khi hình thành ngân lưu của các dự án tăng trọng gia súc.
1.3.1.7 Chi phí chìm và chi phí tăng thêm
Nhiều dự án đầu tư là phần mở rộng thêm từ những hoạt động hiện hữu đang
diễn ra, và vì thế lợi ích và chi phí liên quan đến dự án mới chỉ là phần tăng thêm
ngoài những gì sẽ vẫn diễn ra nếu không có thêm dự án mới. Những chi tiêu trước
đây tạo ra các trách nhiệm tài chính trong tương lai không được đưa vào khâu thẩm
định dự án mới, cũng như những trách nhiệm tài chính trong tương lai đối với các
khoản chi tiêu trước đây (hay các khoản thanh toán tương lai trên cơ sở những chi
tiêu này) không được tính đến khi lập kế hoạch thanh toán tài chính của dự án mới.
Những chi tiêu đã thực hiện trước đây được gọi là “chi phí lịch sử” hay “chi phí
chìm” và không được tính tới nữa khi thẩm định các khoản đầu tư tăng thêm.
Trường hợp duy nhất mà tài sản từ những khoản chi tiêu trước đây được cân
nhắc trong lúc thẩm định dự án mới là khi các tài sản này lẽ ra có thể được đem bán

nếu như dự án mới không được thực hiện, nhưng vì có dự án nên chúng được ghép
vào các công trình mới khi dự án được triển khai. Khi đó, thông số thích hợp không
phải là chi phí lịch sử của các khoản chi tiêu quá khứ, mà là giá trị thanh lý của
những tài sản hiện hữu này. Nên nhớ rằng giá trị thanh lý của các tài sản thường thể
hiện một phần đáng kể chi phí lịch sử ban đầu của công trình cũ, do đó không thể
bỏ qua. Vì vậy, nếu các tài sản được giữ lại, thì giá trị thanh lý của chúng phải được
tính vào chi phí của dự án. Nếu không, tổng chi phí đầu tư cần thiết cho dự án mới
sẽ bị ước tính thấp đi một cách đáng kể. Tuy nhiên, nếu các tài sản hiện hữu có thể
được đem bán với tư cách là những đơn vị đang hoạt động chứ không phải thuộc
diện thanh lý, phần chi phí nguồn lực của các công trình hiện hữu dự kiến sẽ đưa
vào chi phí dự án mới chính là phần giá trị đang được sử dụng của các tài sản đó.
1.3.1.8 Đất đai
Giống như những tài sản khác, đất đai cũng có chi phí cơ hội kinh tế khi được
sử dụng cho dự án. Ngay cả trong trường hợp chính quyền cấp đất miễn phí cho dự
án, nó vẫn phải được tính vào tổng chi phí đầu tư của dự án theo giá thị trường đất
đai trong khu vực. Đất đai còn là một loại tài sản đặc biệt ở chỗ trong hầu hết mọi
trường hợp, đất đai không có khấu hao. Ngược lại, do những cải thiện trong hệ
thống cơ sở hạ tầng, giá trị của đất đai còn có thể tăng nhanh hơn mức tăng của lạm
phát trong suốt vòng đời của dự án. Khi đó, điều quan trọng là không được đưa
phần giá trị đất gia tăng vượt quá mức tăng chung của lạm phát vào giá trị thanh lý
của dự án. Trong đa số trường hợp, mức tăng giá trị thanh lý của đất đai (đặc biệt
16
đất đô thị) không có liên quan gì tới loại hình dự án đang sử dụng mảnh đất đó.
Thông thường, giá đất thật sự tăng lên là nhờ có những đầu tư vào cơ sở hạ tầng
công cộng mà kết quả đầu tư công cộng này lại không được chào bán một cách
cạnh tranh. Do đó, điều quan trọng là không được quy sự gia tăng giá trị thực của
đất đai cho bất kỳ dự án nào nhằm tránh được xu hướng thiên lệch chỉ chọn các dự
án sử dụng nhiều đất. Trường hợp ngoại lệ duy nhất đối với nguyên tắc này là khi
dự án đã sử dụng (hay sẽ sử dụng) đất và sẽ cải thiện hay gây phương hại chất
lượng đất. Trong những trường hợp như vậy, giá trị cải thiện ròng của đất phải

được cộng vào giá trị thực của mảnh đất như đã được xác định vào lúc bắt đầu dự
án, từ đó tính giá trị thanh lý của đất nhằm phục vụ cho mục tiêu phân tích khi dự
án kết thúc.
1.3.2 Công thức báo cáo ngân lưu hoạch định
Trong khi không có một công thức trình bày tiêu chuẩn nào cho báo cáo ngân
lưu hoạch định của một dự án đầu tư, điều quan trọng là những dữ liệu đưa ra phải
được chi tiết hóa đầy đủ, tạo điều kiện dễ dàng để phần thẩm định kinh tế và phân
phối thu nhập có thể đưa ra những điều chỉnh cần thiết đối với ngân lưu tài chính.
Các khoản thu và chi phải được phân loại như đã phác họa trong phần thảo luận về
kế hoạch đầu tư và vận hành của dự án. Các khoản thu phải được xác định tùy theo
chúng là doanh thu từ hàng ngoại thương hay phi ngoại thương. Những khoản chi
thanh toán cũng phải được trình bày theo cách thức tương tự trong đó phân định
riêng biệt tất cả các loại thuế, thuế quan và trợ giá. Chi phí lao động phải được phân
loại theo kỹ năng sử dụng. Cuối cùng, mọi chi phí tài chính, ví dụ như tiền lãi, phải
được tách thành một hạng mục riêng mà không được tính chung vào chi phí của
nhập lượng.
Để minh họa việc xây dựng báo cáo ngân lưu tài chính, chúng ta xét ví dụ
mỏ khoáng sản ( Xem
Phụ lục 1
: Gồm có kế hoạch đầu tư dự án , những thông tin
hoạt động cơ bản cần thiết để xây dựng được các báo cáo ngân lưu hoạch định cho
dự án này và minh họa rõ bản chất của các thông tin cần có cũng như trình bày một
báo cáo ngân lưu phục vụ cho thẩm định tài chính.Báo cáo ngân lưu này làm cơ sở
cho phân tích tài chính và kinh tế của dự án ).
1.4. CHIẾT KHẤU VÀ CÁC TIÊU CHUẨN ĐỂ ĐÁNH GIÁ ĐẦU TƯ
Tiêu chuẩn giá trị hiện tại ròng hay hiện giá ròng (NPV) của một dự án
thường được các nhà phân tích tài chính và kinh tế chấp nhận rộng rãi vì nó cho kết
quả đánh giá tốt hơn so với các tiêu chuẩn hiện hữu khác. Tuy nhiên, một số nhà
đầu tư tư nhân cũng dựa vào những tiêu chuẩn khác như suất sinh lợi nội tại của dự
án (IRR), tỉ số lợi ích - chi phí, và tiêu chuẩn về thời gian thu hồi vốn. Chúng ta sẽ

xem xét các điểm mạnh và yếu của những tiêu chuẩn này nhằm chứng minh tại sao
NPV là tiêu chuẩn đáng tin cậy nhất trong thẩm định dự án đầu tư.
1.4.1 Suất chiết khấu
Bản chất của các dự án đầu tư là lợi ích và chi phí của chúng thường xảy ra
vào những giai đoạn khác nhau. Bởi vì một khoản tiền vào thời điểm hiện tại được
coi là có giá trị cao hơn số tiền tương đương trong tương lai, các chi phí và lợi ích
đến sớm hơn về mặt thời gian phải được xem có trọng lượng lớn hơn so với các chi
phí và lợi ích đến muộn hơn. Lợi ích và chi phí hiện tại được đánh giá cao hơn lợi
17
ích và chi phí tương lai bởi vì tiền có ngay lúc này sẽ được sử dụng để đầu tư hay
tiêu dùng một cách có lợi ngay từ nay cho đến tương lai. Do đó, người đi vay sẵn
sàng trả lãi suất dương để có vốn sử dụng, còn người cho vay đòi phải có lãi.
Hiện giá ròng của một chuỗi lợi ích ròng trong tương lai, (B - C ), (B
1
-
C
1
), (B - C ),..., (B
n
- C ) có thể được diễn tả bằng đại số như sau:
0 0
2 2 n

(1.4.1) NPV =
o
r
( )
()
( )
()

( )
()
n
nn
o
oo
r
CB
r
CB
r
CB
+

++
+

+
+

1
...
11
1
11


(1.4.2) NPV =
o
r

()
()

=
+

n
ot
t
tt
r
CB
1

trong đó n là thời gian hoạt động của dự án. Biểu thức 1/(1+r) thường được gọi là
hệ số chiết khấu cho năm t.
t
Trong phương trình (1.4.2), lợi ích ròng phát sinh trong suốt tuổi thọ của dự
án được chiết khấu về giai đoạn 0. Tuy nhiên, điều quan trọng phải lưu ý là trong
khi việc chiết khấu các lợi ích ròng từ những giai đoạn khác nhau và độ lớn của
suất chiết khấu là hai yếu tố quan trọng trong việc xếp hạng các dự án, thì thời điểm
cụ thể mà ta chiết khấu tất cả các lợi ích ròng, tức là lợi ích sau khi đã trừ đi chi
phí, của từng giai đoạn thì không quan trọng.
* Suất chiết khấu biến đổi
Giả sử, có khả năng suất chiết khấu sẽ thay đổi theo tuổi thọ của dự án. Nếu
có thể dự đoán trước được, thì hiện giá ròng của một dự án bốn năm nên tính như
sau:

NPV =
0

()
()
()
( )
()( )
( )
()( )(
)
321
33
21
22
1
11
00
111111 rrr
CB
rr
CB
r
CB
CB
+++

+
++

+
+


+−


Trong đó r
1
là suất chiết khấu một kỳ cho giai đoạn 1, r là suất chiết khấu một kỳ
cho giai đoạn 2, r là suất chiết khấu một kỳ của giai đoạn 3.
2
3
Công thức tổng quát để tính hiện giá ròng của một dự án với tuổi thọ là n
năm, tính chiết khấu về năm 0, trở thành:


NPV =
()
0
()


=
=
+

+−
n
t
t
i
i
tt

r
CB
CB
1
0
00
1

Cũng như trong trường hợp suất chiết khấu không đổi, giai đoạn thực tế để
tính chiết khấu các dự án là không quan trọng với điều kiện là NPV của các dự án
đang được so sánh phải được chiết khấu về cùng thời điểm.

18
1.4.2 Các tiêu chuẩn đánh giá đầu tư khác nhau
1.4.2.1 Tiêu chuẩn hiện giá ròng (NPV)
(i) Khi nào thì bác bỏ dự án

Bước đầu tiên để tính hiện giá của dự án đầu tư là phải trừ tất cả các chi phí
ra khỏi tổng lợi ích của mỗi giai đoạn để có được lợi ích ròng. Thứ hai là chọn một
suất chiết khấu thể hiện được chi phí cơ hội của vốn khi dùng vào mục đích khác
trong nền kinh tế, từ đó hình thành một loại chi phí vốn cho mỗi dự án tương đương
với lợi ích phải từ bỏ. Khi hiện giá ròng của một dự án được tính theo các tiêu
chuẩn kinh tế, thì hiện giá ròng dương có nghĩa là dự án này sẽ làm cho nền kinh tế
tốt hơn, ngược lại hiện giá ròng âm có nghĩa là dự án sẽ làm cho nền kinh tế tệ hơn.
Chính ý nghĩa này của tiêu chuẩn hiện giá ròng sẽ đưa chúng ta đến phiên bản thứ
nhất của nó, là cách diễn tả luôn luôn đúng trong mọi hoàn cảnh.
Quy tắc:
“Không chấp nhận một dự án nào trừ khi dự án đó có hiện giá ròng
dương khi được chiết khấu bằng chi phí cơ hội của vốn.”
(ii) Ràng buộc về ngân sách

Thông thường nhà đầu tư không thể có đủ vốn với chi phí cố định để thực
hiện tất cả các dự án có hiện giá ròng dương. Khi tình thế này xảy ra, cần phải lựa
chọn giữa các dự án để quyết định một nhóm các dự án có thể tối đa hóa hiện giá
của các gói đầu tư mà vẫn nằm trong giới hạn của ngân sách. Do đó, cách diễn tả
thứ hai của tiêu chuẩn hiện giá ròng là:
Quy tắc:
“Trong phạm vi giới hạn của một ngân sách cố định, phải chọn trong số
các dự án hiện có nhóm dự án nào có thể tối đa hóa hiện giá ròng.”
Bởi vì ràng buộc ngân sách không đòi hỏi tất cả kinh phí phải được sử dụng
hết, nên quy tắc này sẽ ngăn chặn việc thực hiện một dự án có hiện giá ròng âm.
Ngay cả khi tất cả vốn trong ngân sách không được sử dụng hết, NPV do số vốn
ngân sách này mang lại sẽ tăng lên nếu dự án có NPV âm bị loại bỏ.
(iii) So sánh các dự án thay thế nhau
Trong công tác thẩm định dự án, nhiều khi chúng ta gặp những tình huống
phải lựa chọn giữa các dự án thay thế nhau. Vì lý do kỹ thuật, không thể nào thực
hiện cả hai dự án cùng lúc. Ví dụ, khi làm một con đường nối hai thị trấn, có nhiều
mức chất lượng khác nhau của con đường này; tuy nhiên người ta chỉ có thể làm
một con đường. Tương tự như vậy, một địa điểm xây dựng không thể dùng cho hai
mục đích khác nhau cùng một lúc. Do đó, vấn đề mà nhà phân tích đầu tư gặp phải
là lựa chọn trong những dự án thay thế lẫn nhau dự án nào mang lại hiện giá ròng
lớn nhất. Điều này có thể diễn tả bằng quy tắc sau:
Quy tắc:
“Trong tình huống không có giới hạn ngân sách, nhưng phải chọn một
trong số các dự án thay thế nhau, ta phải luôn chọn dự án tạo ra hiện giá ròng lớn
nhất.”
1.4.2.2 Tiêu chuẩn tỷ số lợi ích-chi phí

Đây là quy tắc được các nhà phân tích đầu tư áp dụng rộng rãi nhất. Nhưng
tiếc thay, nếu không được sử dụng một cách cẩn thận, tiêu chuẩn này sẽ đưa ra lời
khuyên sai lệch về sự hấp dẫn tương đối của các cơ hội đầu tư. Tỷ số lợi ích-chi phí

được tính bằng cách đem chia hiện giá các lợi ích cho hiện giá chi phí, sử dụng chi
phí cơ hội của vốn làm suất chiết khấu.
19

Tỷ số lợi ích-chi phí (R) =
Hiện giá của các lợi ích
Hiện giá của các chi phí

Sử dụng tiêu chuẩn này, ta sẽ yêu cầu một dự án muốn được chấp nhận phải
có giá trị tỷ số R lớn hơn 1. Đối với các dự án loại trừ lẫn nhau, quy tắc lựa chọn là
lấy dự án có tỷ số lợi ích-chi phí lớn nhất.
Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhìn thấy rằng tiêu chuẩn này có khả năng khiến
chúng ta xếp hạng sai các dự án, nếu chúng khác nhau về qui mô
Vấn đề thứ hai liên quan đến việc sử dụng tỷ số lợi ích-chi phí, và có thể đây
là khiếm khuyết nghiêm trọng nhất của tiêu chuẩn này, là tỷ số lợi ích-chi phí nhạy
cảm với cách thức định nghĩa chi phí để tính ngân lưu của các kế toán viên.
Khi đã có chi phí hiện hành của dự án, có nhiều cách khác nhau để ghi nhận
những chi phí này. Tỷ số lợi ích-chi phí cũng sẽ bị thay đổi theo cách thức ghi nhận
những chi phí này. Do đó chúng ta thấy rằng việc xếp hạng hai dự án có thể trái
ngược nhau tùy theo cách xử lý chi phí hiện hành. Ngược lại, hiện giá ròng của một
dự án không nhạy cảm với cách xử lý chi phí của các kế toán viên. Tiếc thay, trong
thẩm định dự án có rất nhiều quyết định tùy tiện về cách cân đối lợi ích với chi phí
và mỗi quyết định như vậy đều ảnh hưởng đến tỷ số lợi ích-chi phí. Vì thế, hiện giá
ròng là một tiêu chuẩn lựa chọn dự án đáng tin cậy hơn nhiều so với tỷ số lợi ích-
chi phí.
1.4.2.3 Thời gian hoàn vốn
Ở hình thức đơn giản nhất, thời gian hoàn vốn đo lường số năm cần thiết để
lợi ích ròng chưa chiết khấu (ngân lưu ròng dương) hoàn lại vốn đầu tư. Người ta
thường ấn định một cách tùy tiện giới hạn số năm tối đa được phép hoàn vốn và chỉ
những khoản đầu tư có đủ lợi ích để bù lại chi phí đầu tư trong thời gian này mới

có thể được chấp nhận.
Một hình thức tinh vi hơn của quy tắc này là đem so sánh các lợi ích đã được
chiết khấu qua một số năm trong giai đoạn đầu của dự án với chi phí đầu tư cũng
đã được chiết khấu. Tuy nhiên, tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn có một giả thiết
ngầm định cho rằng các lợi ích thu được sau thời gian ấn định để hoàn vốn là
không chắc chắn nên có thể bỏ qua. Hình thức này cũng bỏ qua các chi phí đầu tư
có thể phát sinh sau thời điểm đã được ấn định đó, ví dụ như chi phí dọn dẹp địa
điểm và chi phí trồng lại cây phát sinh sau khi kết thúc khai thác một vùng mỏ.
Mặc dù không ai tranh cãi với ý kiến tương lai sẽ bất trắc hơn hiện tại, nhưng
sẽ không thực tế khi cho rằng sau một thời điểm cụ thể nào đó thì giá trị kỳ vọng
trung bình của các lợi ích ròng là zero. Điều này hoàn toàn đúng đối với các dự án
đầu tư dài hạn như cầu, đường, cao ốc. Đối với các tổ chức tồn tại lâu dài như các
công ty lớn hay chính quyền, không có lý do gì để cho rằng tất cả dự án nhanh
chóng mang lại lợi ích là tốt hơn các dự án đầu tư lâu dài.
1.4.2.4 Tiêu chuẩn suất sinh lợi nội tại
Suất sinh lợi nội tại (Internal Rate of Return, IRR) là con số thống kê đã được
các nhà đầu tư ở cả khu vực tư nhân và nhà nước sử dụng rất nhiều để nói lên sự
hấp dẫn của một dự án. Tuy nhiên, nó không phải là một tiêu chuẩn đầu tư đáng tin
cậy, cho dù trong một số trường hợp đây là một con số thống kê hữu ích để tóm tắt
20
khả năng sinh lời của một dự án.
Suất sinh lợi nội tại của một dự án (K) được tính bằng cách giải phương trình
sau:

()

=
+

n

t
t
tt
K
CB
0
1

=
0

Suất sinh lợi nội tại có một lợi thế lớn là có thể được tính toán chỉ dựa vào
các số liệu của dự án mà thôi. Đặc biệt, tính toán này không đòi hỏi số liệu về chi
phí cơ hội của vốn. Tuy nhiên, những điểm bất lợi của suất sinh lợi nội tại là rất
lớn, đòi hỏi chúng ta phải vô cùng thận trọng khi sử dụng nó. Đối với một dự án
điển hình mà sau giai đoạn đầu tư ban đầu (trong thời gian đó giá trị B
t
- C
t
là âm)
là một giai đoạn có lợi ích ròng luôn luôn dương, thì chỉ có một lời giải duy nhất
cho suất sinh lợi nội tại.
Mặt khác, nếu ta có một dự án mà biên dạng các lợi ích ròng theo thời gian
cắt trục hoành qua mức zero nhiều hơn một lần, ta có thể không xác định được một
suất sinh lợi nội tại duy nhất.
Ngay cả khi suất sinh lợi nội tại được tính toán một cách rõ ràng cho từng dự
án đang được xem xét, việc sử dụng nó như một tiêu chuẩn quyết định đầu vẫn tư
gây ra nhiều khó khăn khi một số dự án đang xét mang tính loại trừ nhau. Điều này
có thể xảy ra theo 3 hướng: (i) Các dự án loại trừ nhau nhưng đòi hỏi quy mô đầu
tư khác nhau; (ii) Các dự án loại trừ nhau nhưng có tuổi thọ khác nhau; (iii) Các dự

án loại trừ nhau nhưng chúng thể hiện thời điểm khác nhau của một dự án. Khi đó,
suất sinh lợi nội tại có thể dẫn đến những lựa chọn dự án sai lầm.

1.5. QUY MÔ VÀ THỜI ĐIỂM TRONG CHỌN LỰA DỰ ÁN
1.5.1. Xác định quy mô trong lựa chọn dự án
Các dự án hiếm khi bị những yếu tố kỹ thuật ràng buộc vào một năng suất hay
một qui mô duy nhất. Do đó một trong những quyết định quan trọng nhất đối với
nhà phân tích dự án là phải chọn qui mô sẽ xây dựng. Việc chọn lựa qui mô thường
xuyên được xem như một quyết định kỹ thuật thuần túy, bỏ qua các khía cạnh kinh
tế và tài chính của nó. Khi các cân nhắc kinh tế bị bỏ qua trong giai đoạn thiết kế,
qui mô dự án được xây dựng sẽ không thể là qui mô cho NPV tối đa. Tuy nhiên,
toàn bộ dự án vẫn phải được thẩm định về mặt kinh tế để bảo đảm có NPV dương.
Mục tiêu của chúng ta là chọn qui mô có NPV lớn nhất. Nếu hiện giá của
(B
1
- C
1
) là dương, thì đó là dự án tốt. Tiếp theo, chúng ta cần xét xem hiện giá
của (B - C ) có dương hay không. Nếu NPV tăng thêm là dương, thì dự án ở qui
mô 2 tốt hơn ở qui mô 1. Qui trình này lập lại cho đến khi đạt được một qui mô mà
nếu tăng hơn nữa thì NPV của lợi ích và chi phí tăng thêm tương ứng trở thành âm.
2 2
Qui mô tối ưu của dự án cũng có thể xác định bằng cách sử dụng suất sinh lợi
nội tại (Internal Rate of Return, IRR ), giả thiết rằng mỗi phần đầu tư gia tăng kế
tiếp nhau có một nội suất thu hồi vốn riêng. Nếu điều kiện này được thỏa, thì qui
mô tối ưu của dự án sẽ là qui mô mà ở đó IRR của lợi ích và chi phí tăng thêm
bằng với suất chiết khấu được dùng để tính NPV của dự án. IRR đối với phần đầu
21
tư cần phải tăng thêm để thay đổi qui mô dự án sẽ được gọi là nội suất thu hồi vốn
biên (MIRR - Marginal Internal Rate of Return) ứng với một qui mô của dự án.

Mối quan hệ giữa IRR, nội suất thu hồi vốn biên MIRR, và NPV của một dự án
được trình bày ở hình 1.5.1




















Hình 1.5.1: Mối quan hệ giữa MIRR, IRR và NPV


Nguyên tắc:
“Luôn luôn gia tăng qui mô dự án đến khi nội suất thu hồi vốn trên
phần đầu tư tăng thêm cần để tăng qui mô dự án (MIRR) vừa bằng suất chiết khấu
dùng để tính toán NPV của dự án”.


1.5.2. Thời điểm đầu tư
Một trong những quyết định quan trọng nhất của quá trình chuẩn bị và thực
hiện dự án là xác định thời điểm thích hợp để khởi công dự án. Quyết định này đặc
biệt trở nên khó khăn đối với những dự án lớn không thể chia nhỏ được chẳng hạn
như đầu tư vào cơ sở hạ tầng đường sá, các hệ thống cung cấp điện nước. Nếu
những dự án này được xây dựng quá sớm thì sẽ có một lượng lớn công suất dư
thừa. Trong những trường hợp đó, lợi tức bị bỏ qua (lẽ ra đã thu nếu số tiền này
được đầu tư nơi khác) có thể lớn hơn giá trị lợiích đạt được trong những năm đầu
hiện hữu của dự án. Mặt khác, nếu dự án bị hoãn lại quá lâu thì sự khan hiếm hàng
hoá và dịch vụ sẽ xảy ra và thiệt hại về lợi ích lẽ ra đã có của dự án sẽ lớn hơn lợi
ích tạo ra do số tiền được đầu tư nơi khác.
Mỗi khi dự án được thực hiện quá sớm hoặc quá muộn, NPV của nó sẽ thấp
hơn những gì có thể đạt được nếu triển khai đúng thời điểm. NPV của các dự án
này có thể vẫn dương nhưng đó không phải là giá trị tối đa.
Việc xác định thời điểm đúng đắn cho dự án đầu tư sẽ phụ thuộc vào cách
thức dự báo lợi ích và chi phí tương lai sẽ thay đổi ra sao liên quan đến hiện giá
22
của chúng. Có bốn trường hợp tổng quát mà thời điểm của các dự án đầu tư trở
thành vấn đề quan trọng, như sau:
(a)
Lợi ích của dự án là một hàm số tăng liên tục theo thời gian thực, nhưng không
tăng theo tuổi thọ của dự án. Chẳng hạn, lợi ích của một con đường tăng do tăng
cầu đi lại giữa hai hay nhiều nơi. Do đó, ta có thể dự kiến rằng vì dân số và thu
nhập gia tăng, nhu cầu sử dụng con đường cũng sẽ tăng theo thời gian.

(b) Lợi ích tiềm năng của dự án được xác định bởi thời gian thực chứ không phải
tuổi thọ của dự án. Thêm vào đó, những lợi ích này được dự kiến sẽ tăng trong thời
gian vài năm nhưng sau đó sẽ giảm.
(c) Chi phí đầu tư của dự án cũng tùy thuộc vào thời gian thực và do đó dự kiến
hoặc tăng hoặc giảm nếu thời điểm khởi công dự án bị trì hoãn.

(d) Khi một dự án bị hoãn lại, cả chi phí đầu tư và các hình thức lợi ích mà dự án
tạo ra đều có thể thay đổi.

1.6. SỬ DỤNG GIÁ CẢ TRONG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH
1.6.1. Định nghĩa giá cả và chỉ số giá
1.6.1.1 Giá danh nghĩa
Giá danh nghĩa của hàng hóa và dịch vụ là các mức giá mà chúng ta thấy
trên thị trường mỗi ngày, và thường được gọi là giá cả hiện hành.

1.6.1.2 Mặt bằng giá và chỉ số giá
Mặt bằng giá của một nền kinh tế (P
t
) được tính như số trung bình trọng số
của một tập hợp chọn lọc các mức giá danh nghĩa.
L
P
t
1
, P , P , … P
t
n

t
2
t
3
Mặt bằng giá (P
t
) có thể được tính cho bất kỳ thời gian (t) nào như sau:
L

(1.6.1) P = Trong đó
t
L
(

=
n
i
i
t
i
WP
1
*
)
- i = hàng hóa hay dịch vụ riêng lẽ ở trong nhóm hàng hóa và dịch vụ thị
trường.
- P
t
i
= giá của hàng hóa hay dịch vụ tại một thời điểm.
- W = tỷ trọng ấn định cho giá của một hàng hóa hay dịch vụ i.
i
= 1

i
W
1.6.1.3 Giá thực
Các giá thực (PtjR) là một tập hợp con đặc biệt của các mức giá tương đối, ở
đó giá danh nghĩa của một mặt hàng được chia cho chỉ số mặt bằng giá tại cùng

thời điểm. Chúng diễn đạt giá hàng hóa và dịch vụ so với mặt bằng giá chung. Điều
này được trình bày qua đẳng thức (1.8.3).
P
t
iR
= P
/ P
Trong đó:

t
i
t
I
P

= giá danh nghĩa của hàng hóa và dịch vụ tại thời điểm (t)
t
i
23
P
t

= chỉ số mặt bằng giá tại thời kỳ (t) .
I
1.6.1.4 Giá cố định
Như tên gọi, giá cố định không thay đổi theo thời gian. Chúng đơn giản là
một tập hợp giá danh nghĩa quan sát được vào một thời điểm, được sử dụng cho
mỗi thời kỳ tiếp theo trong thẩm định dự án. Trong khi giá danh nghĩa chịu ảnh
hưởng bởi những thay đổi trong giá thực cũng như thay đổi trong mặt bằng giá, giá
cố định không phản ánh bất kỳ xung lực kinh tế nào.

1.6.1.5 Thay đổi mặt bằng giá (Lạm phát)
Lạm phát được đo bằng sự thay đổi mặt bằng giá chia cho mặt bằng giá đầu
kỳ. Mặt bằng giá đầu kỳ trở thành mốc quy chiếu để xác định tỷ lệ lạm phát trong
suốt thời kỳ đó. Như thế, lạm phát của một thời kỳ có thể biểu diễn như trong
phương trình sau:
(1.6.5)
gP
e
= ((P - P )/ P
L
t
L
nt
L

nt
L

)*100

Lạm phát khó dự báo hơn rất nhiều so với thay đổi trong giá tương đối, bởi
vì lạm phát chủ yếu được xác định bởi cung tiền trong nền kinh tế so với mức độ
hiện diện của hàng hóa và dịch vụ để mua. Kế đến, cung tiền thường được xác định
bởi qui mô thâm hụt của khu vực công và cách thức tài trợ cho khu vực này. Khi
các chính quyền phải tài trợ thâm hụt của họ bằng cách vay mượn rất nhiều từ
Ngân hàng Trung ương, lạm phát là kết quả sau cùng không thể tránh khỏi.
1.6.1.6 Lãi suất danh nghĩa
Đặc điểm quan trọng nhất khi đưa những kỳ vọng về tỉ lệ lạm phát tương lai
( e
)

vào thẩm định dự án là phải đảm bảo những kỳ vọng này là nhất quán với
những dự báo về lãi suất danh nghĩa (i). Trong trường hợp không có những thỏa
thuận vay nợ với lãi suất danh nghĩa cố định, bên cho vay sẽ tăng lãi suất danh
nghĩa trên vốn vay để bù cho những mất mát dự kiến đối với giá trị thực của khoản
vay do lạm phát gây ra. Khi tỷ lệ lạm phát gia tăng, lãi suất danh nghĩa sẽ được gia
tăng để đảm bảo hiện giá của các khoản thanh toán tiền lãi và vốn gốc sẽ không
giảm xuống thấp hơn giá trị ban đầu của khoản vay.
Lãi suất danh nghĩa (i), như được xác định bởi các thị trường tài chính, được
tạo nên bởi 3 thành phần chính: a) lãi suất thực (r) phản ánh giá trị thực về mặt thời
gian của tiền tệ mà bên cho vay đòi hỏi phải có để sẵn lòng bỏ qua việc tiêu thụ và
các cơ hội đầu tư khác, b) hệ số rủi ro (R) đo lường mức đền bù mà bên cho vay
đòi hỏi để đề phòng khả năng vỡ nợ của bên đi vay, và c) thừa số (1+r+R)gP là
khoản đền bù cho do tổn thất dự kiến trong sức mua mà nguyên nhân được quy cho
lạm phát. Tỉ lệ lạm phát kỳ vọng gP làm giảm giá trị tương lai của cả các khoản
trả nợ vay lẫn các khoản thanh toán lãi suất thực. Kết hợp các yếu tố này, lãi suất
danh nghĩa (thị trường) (i) có thể diễn đạt như sau:
e
e
(1.6.6)
i = r + R + (1 + r + R) gP
e


Nhìn chung, lãi suất thực sẽ là một giá trị tương đối cố định bởi vì nó được
xác định chủ yếu bởi năng suất của đầu tư và mong muốn tiêu thụ và tiết kiệm
trong nền kinh tế. Ngoài ra, giá trị của khoản phí rủi ro đối với các ngành và nhà
đầu tư khác nhau cũng thường được biết trước. Trong điều kiện lãi suất thực, phí
24
đền bù rủi ro và lãi suất danh nghĩa được cho trước, thì tỷ lệ lạm phát kỳ vọng
ngầm ẩn trong lãi suất danh nghĩa có thể được ước tính bằng cách biến đổi phương

trình ở trên như sau:
(1.6.7)
gP = (i- r - R)/(1 + r + R)
e
1.6.2. Đưa lạm phát vào phân tích tài chính
Đa số các tài liệu về thẩm định dự án đều đề nghị loại trừ lạm phát khỏi qui
trình thẩm định. Theo huớng tốt nhất, những phương pháp trước đây chỉ tính đến
những thay đổi dự báo về giá tương đối của các yếu tố đầu vào và đầu ra trong tuổi
thọ của dự án. Tuy nhiên, kinh nghiệm của những dự án gặp phải khó khăn về khả
năng thanh toán tài chính và khả năng trả nợ đã chứng minh rằng lạm phát cũng có
thể là một yếu tố quan trọng đối với sự thành bại của các dự án. Việc thiết kế một
cách chính xác dự án để thích ứng được với những thay đổi của giá tương đối lẫn
những thay đổi của tỉ lệ lạm phát có thể rất quan trọng đối với sự tồn tại của dự án
đó.
Việc tính toán không chính xác các tác động của lạm phát khi thực hiện phân
tích tài chính có thể có những ảnh hưởng bất lợi không chỉ đối với khả năng tồn tại
về mặt tài chính của dự án mà còn cả tính khả thi về mặt kinh tế của nó. những giả
định liên quan đến lạm phát sẽ có một tác động trực tiếp lên phần phân tích tài
chính của dự án và có thể đòi hỏi phải điều chỉnh trong hoạt động hay các chính
sách đầu tư. Do việc xử lý lạm phát không đầy đủ có thể có tác động bất lợi lên khả
năng tồn tại về tài chính của dự án, đến một lúc nào đó tính khả thi về mặt kinh tế
của nó cũng sẽ bị thỏa hiệp nếu lạm phát không được tính một cách
đúng đắn và không có những điều chỉnh cần thiết. Điều quan trọng cần phải nhận
thấy là khâu phân tích sau cùng về ngân lưu tài chính phải luôn được thực hiện
bằng một báo cáo được trù bị theo giá trị thật của nội tệ (đã trừ lạm phát). Không
dễ để phân tích giá danh nghĩa hay ngân lưu ròng danh nghĩa vì người ta có khuynh
hướng bị cuốn vào việc tìm hiểu giá trị của các biến số vốn phản ảnh hai thay đổi:
thay đổi giá thực và thay đổi mặt bằng giá chung. Phần liệt kê dưới đây là phương
pháp đưa lạm phát vào khâu thẩm định tài chính của một dự án một cách thống
nhất.

Khi chuẩn bị báo cáo ngân lưu, một số biến số nhất định như nợ thuế, yêu
cầu tiền mặt, các khoản trả lãi và và nợ vay cần phải được ước tính theo giá hiện
hành của năm mà chúng phát sinh. Sự xử lý lạm phát một cách chính xác đòi hỏi
phải chuẩn bị các bảng biểu sử dụng giá danh nghĩa, sau đó khử lạm phát các báo
cáo ngân lưu danh nghĩa để đạt được báo cáo ngân lưu thể hiện giá thực. Xây dựng
phân tích tài chính theo cách này, chúng ta đảm bảo rằng tất cả những tác động
thay đổi giá thực cũng như lạm phát sẽ được phản ảnh một cách nhất quán trong
các biến số dự báo.
Khi phân tích tài chính được thực hiện theo giá thực, điều thiết yếu là các chi
phí cơ hội của vốn tư nhân hay tỉ suất lợi nhuận tài chính được sử dụng làm suất
chiết khấu phải được thể hiện theo giá trị ròng, có nghĩa là đã bỏ đi bất kỳ khoản
bù đắp nào cho tỷ lệ lạm phát kỳ vọng. Nói cách khác, các suất chiết khấu này phải
là biến số thực chứ không phải danh nghĩa. Nếu lãi suất hay tỉ suất lợi nhuận danh
25
nghĩa được sử dụng, sẽ đưa đến kết quả điều chỉnh hai lần cho những thay đổi dự
kiến trong mặt bằng giá chung. Cách làm như vậy sẽ bóp méo đáng kể các kết quả
phân tích liên quan đến tính khả thi về tài chính của dự án.
Cần chu ý rằng giá cả tài chính thực đối với các biến số đầu vào và đầu ra
được hình thành ở trên được sử dụng như là cơ sở để ước tính các giá trị kinh tế
của lợi ích và chi phí dự án. Một khi các chi phí và lợi ích kinh tế này đã được ước
tính, ta sẽ xây dựng một báo cáo lưu chuyển nguồn lực kinh tế (economic resource
flow statement). Cấu trúc của báo cáo này phải tương tự như cấu trúc của báo cáo
ngân lưu tài chính. Cuối cùng, chênh lệch giữa hai báo cáo này sẽ được phân tích
để xác định những tác động phân phối của dự án đang xem xét.
1.7. PHÂN TÍCH RỦI RO
Các khoản lợi nhuận của dự án rải ra theo thời gian. Mỗi biến số có ảnh hưởng
tới hiện giá thuần ( NPV ) đều có mức độ không chắc chắn cao. Việc thu nhập
thông tin và số liệu cần thiết cho các dự báo chính xác đều rất tốn kém. Cần giảm
bớt xu hướng thực hiện một dự án “tồi” trong khi không bác bỏ một dự án “tốt”.
Do đó việc xảy ra các rủi ro cho dự án là khó tránh khỏi, vì vậy chúng ta phải tìm

cách để có thể xác định, phân tích và giải thích tính biến đổi dự kiến của kết quả dự
án.
1.7.1. Phân tích độ nhạy
- Kiểm tra độ nhạy của kết quả của dự án ( hiện giá thuần NPV ) theo biến
động của từng thông số một
- Phân tích “ cái gì sẽ xảy ra nếu như “
- Cho phép kiểm tra xem thông số nào là quan trọng
- Một biến số được coi là quan trọng phụ thuộc vào :
a/ Tỉ lệ của nó trong tổng lợi ích hoặc chi phí
b/ Phạm vi giá trị có khả năng
- Phân tích độ nhạy cho phép xác định được hướng thay đổi của hiện giá
thuần
- Phân tích điểm hòa vốn cho phép xác định được một biến số phải thay đổi là
bao nhiêu trước khi hiện giá thuần trở thành âm
* Những ghi chú đáng lưu ý trong việc phân tích độ nhạy
1. Phạm vi và phân phối xác suất của các biến số
- Phân tích độ nhạy không đại diện cho dãy các giá trị có khả năng
- Phân tích độ nhạy không đại diện cho các xác suất cho mỗi phạm vi . Nhìn
chung xác suất nằm ở các cực là nhỏ
2. Hướng của những tác động
Đối với phần lớn các biến số , hướng tác động có thể nhận thấy .

×