Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

MẤY VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN SÂU Ở CÁC LỚP CHUYÊN VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.61 KB, 35 trang )

GV: Đỗ Thị Lê
1

MẤY VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN SÂU Ở CÁC LỚP CHUYÊN VĂN
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN

1.Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
Quán triệt tinh thần đổi mới phương pháp dạy học đã ghi trong chương trình
Ngữ văn trung học phổ thông (THPT), khắc phục lối dạy học thầy đọc - trò chép,
phát huy tính tích cực chủ động của người học, hình thành và rèn luyện cho HS
năng lực đọc hiểu văn bản văn học, tháng 05/2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành chương trình dạy học chuyên sâu các môn chuyên ở các trường THPT
Chuyên trên phạm vi toàn quốc, với mục tiêu thống nhất chương trình dạy học các
môn chuyên và nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi cấp THPT trong cả nước. Theo
hướng dẫn đó, tổng số tiết được quy định trong chương trình dạy học mỗi môn
chuyên là 150% của chương trình nâng cao, trong đó 50% dành cho nội dung
chuyên sâu được xây dựng dưới dạng các chuyên đề cụ thể dành cho từng khối lớp.
Trên cơ sở đó, thời lượng dạy học dành cho đối tượng HS chuyên văn là 150 % so
với HS học theo Chương trình Nâng cao: mỗi tuần tăng thêm là 2 tiết; mỗi học kì
học 35 tiết chuyên đề, tổng cả năm là 70 tiết. Thời lượng dạy học mỗi chuyên đề
đã được quy định cụ thể trong Chương trình dạy học chuyên sâu môn Ngữ văn.
Với thời lượng trên, các chuyên đề này tập trung nhiều cho hai phần Văn học và
Làm văn. Chuyên đề tiếng Việt chủ yếu theo hướng vận dụng, thực hành, không
nêu thêm lí thuyết. Giáo viên (GV) nên sắp xếp chuyên đề có nội dung tương ứng
với nội dung của sách giáo khoa (SGK) để thuận tiện trong việc dạy học các nội
dung chuyên sâu.
Thực tế, nội dung chương trình dạy học và cách tiếp cận các chuyên đề
chuyên sâu ở các lớp Chuyên Văn đã có nhiều sự thay đổi trong những năm qua.
Gắn liền sự thay đổi đó, phương pháp dạy của GV và phương pháp học của học


GV: Đỗ Thị Lê
2

sinh (HS) cũng có những đổi thay nhất định. Tuy vậy, dạy học một chuyên đề như
thế nào cho có hiệu quả không phải GV nào cũng thực hiện tốt. So với yêu cầu
thực tiễn hiện nay, chúng tôi nhận thấy cách dạy học các chuyên đề chuyên sâu ở
các lớp Chuyên Văn vẫn còn nhiều điều cần suy ngẫm và cần thiết nhìn nhận lại,
trên cơ sở đó đề xuất hướng thực hiện việc dạy học hợp lí, hữu hiệu hơn. Đó là một
yêu cầu và nhiệm vụ cấp thiết góp phần cải thiện chất lượng học tập bộ môn Ngữ
văn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra một số ý kiến trao đổi về
phương pháp dạy học các chuyên đề chuyên sâu ở các lớp Chuyên Văn trường
THPT Chuyên nhằm đáp ứng kịp thời những yêu cầu đổi mới dạy học văn hiện
nay.
1.2. Mục đích của việc nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lí thuyết của việc dạy học các chuyên đề chuyên
sâu môn Ngữ văn bậc THPT.
Phân tích thực trạng việc dạy học các chuyên đề chuyên sâu môn Ngữ văn
bậc THPT ở các lớp chuyên Văn trường THPT Chuyên tỉnh Tiền Giang.
Bước đầu đề ra những giải pháp thích hợp, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn đáp ứng mục tiêu đào tạo và quy chế trường chuyên đã ban hành.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các nhiệm vụ đã đặt ra, phương pháp nghiên cứu chính chúng
tôi đã sử dụng các là phương pháp phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa lí thuyết.
Nghiên cứu cơ sở khoa học của đề tài, các phương pháp dạy học truyền
thống và hiện đại, xu hướng đổi mới phương pháp dạy học, dạy học các chuyên đề
chuyên sâu ở các lớp chuyên Văn trường THPT Chuyên.
Nghiên cứu các giáo trình và tài liệu giáo khoa Ngữ văn, sách giáo viên
(SGV), sách bài tập và các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài.
2.Nội dung, phương pháp dạy học các chuyên đề chuyên sâu Ngữ văn
2.1. Nội dung dạy học các chuyên đề chuyên sâu Ngữ văn

GV: Đỗ Thị Lê
3

Nội dung dạy học chuyên sâu môn Ngữ văn cho trường THPT chuyên được
xây dựng trên các căn cứ cơ bản sau đây:
- Mục tiêu đào tạo và quy chế của trường chuyên đã ban hành;
- Nội dung chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn Nâng cao;
- Văn bản Hướng dẫn nội dung dạy học các môn chuyên - trường THPT
chuyên ( năm 2001) của Bộ GD&ĐT;
- Đặc trưng của đối tượng học sinh chuyên văn.
Ngoài các nội dung đã học theo Chương trình và Sách Ngữ văn Nâng cao,
các chuyên đề chuyên sâu ở đây được xác định như là các chuyên đề nâng cao của
Chương trình nâng cao. Từ yêu cầu Chuẩn kiến thức của chương trình và sách
giáo khoa Ngữ văn Nâng cao (đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành) xây dựng thêm một số nội dung chuyên sâu nhằm đáp ứng những yêu cầu và
đòi hỏi của đối tượng học sinh giỏi với thời lượng 2tiết/ tuần.
So với văn bản Hướng dẫn nội dung dạy học các môn chuyên - trường
THPT chuyên (gọi tắt là văn bản 2001) của Bộ Giáo dục và Đào tạo, văn bản này
có một số điểm điều chỉnh và kế thừa sau đây:
- Không phân phối cụ thể chi tiết đến từng tuần học mà chỉ nêu nội dung,
yêu cầu cần đạt và thời lượng của các chuyên đề chuyên sâu. Văn bản 2001 chỉ nêu
tên các nội dung dạy học, ghép nội dung học hàng ngày với nội dung nâng cao và
phân phối theo thời lượng 6 tiết /tuần.
- GV dạy các lớp chuyên văn thực hiện đúng phân phối chương trình Ngữ
văn Nâng cao dành cho học sinh ban KHXH-NV (4 tiết/ tuần), sau đó dành các
buổi dạy riêng theo các chuyên đề trong văn bản này cho đủ 2 tiết /tuần.
- Tiếp thu một số nội dung và định hướng ghi trong mục các Chuyên đề hội
thảo (trang 73 văn bản 2001) nhưng có điều chỉnh cho phù hợp với Chương trình
và SGK Ngữ văn Nâng cao.
GV: Đỗ Thị Lê

4

- Trên cơ sở các chuyên đề nêu ở bản hướng dẫn này, các địa phương có thể
vận dụng một cách linh hoạt để thực hiện nội dung chuyên sâu (2tiết/tuần) bằng
cách: bớt thời lượng một số chuyên đề nêu ở đây, thay vào đó những chuyên đề tự
biên soạn hoặc tăng thời lượng cho những bài có nội dung mới và khó để phù hợp
với trình độ thực tế HS của trường sở tại. Cụ thể như sau:
- Nội dung chuyên sâu trong Chương trình nâng cao môn Ngữ văn lớp 10,
ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 9 tháng 5 năm 2006
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ yếu dành cho phần văn học (văn học
dân gian, văn học trung đại, văn học nước ngoài, lí luận văn học), sau đó là Làm
văn. Nội dung Tiếng Việt chủ yếu là thực hành phân tích vai trò, tác dụng của tiếng
Việt trong tác phẩm văn học. Cụ thể
a) Số tiết dành cho phần Văn học là 51 tiết, trong đó:
+ Lý luận văn học: 1 chuyên đề, 5 tiết
+ Văn học dân gian : 3 chuyên đề, 18 tiết
+ Văn học Trung đại : 3 chuyên đề, 18 tiết
+ Văn học nước ngoài : 2 chuyên đề, 10 tiết
b) Số tiết dành cho Tiếng Việt là 7 tiết, 1 chuyên đề
c) Số tiết dành cho Làm văn là 12 tiết, 2 chuyên đề
- Nội dung dạy học môn Ngữ văn lớp 11 dành cho các trường THPT chuyên
ngoài nội dung được ghi trong chương trình Nâng cao môn Ngữ văn, còn có thêm
nội dung chuyên sâu (70 tiết) được xây dựng dưới dạng các chuyên đề. Số tiết tối
đa dành cho một chuyên đề là 8 tiết, tối thiểu là 6 tiết, được phân phối như sau:
+ Tiếng Việt: 01 chuyên đề, 6 tiết.
+ Làm văn : 02 chuyên đề, 16 tiết
+ Lí luận văn học: 02 chuyên đề, 14 tiết.
+ Văn học Việt Nam: 05 chuyên đề , 34 tiết.
GV: Đỗ Thị Lê
5


Các chuyên đề tiếng Việt, lí luận văn học, làm văn chủ yếu là chuyên đề
nâng cao nhận thức và phương pháp, thực hiện chủ yếu bằng hoạt động thực hành,
phục vụ cho yêu cầu nâng cao kĩ năng đọc văn và làm văn. Cụ thể là, chuyên đề
Nghĩa hàm ẩn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đọc hiểu văn học, bởi vì văn
học, về cơ bản là vận dụng ý nghĩa hàm ẩn của ngôn từ. Chuyên đề Đọc hiểu văn
bản văn học và chuyên đề Đọc thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, không phải lặp
lại giản đơn các bài tương ứng trong SGK Ngữ văn 10 và Ngữ văn 11 nâng cao,
mà có sự mở rộng, đào sâu về nội dung và chi tiết, có ý nghĩa thiết thực trong việc
giúp nâng cao năng lực đọc-hiểu sáng tạo của học sinh. Các chuyên đề làm văn đề
cập tới vấn đề then chốt nhất của văn nghị luận.
Các chuyên đề văn học Việt Nam giúp học sinh đi sâu vào một số phương
diện cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX đến 1945. Trong các
nội dung ấy có một chuyên đề khắc sâu nội dung công cuộc hiện đại hoá văn học,
nội dung tính hiện đại của văn học, hiện đại hoá văn học là đổi mới quan niệm văn
học, bao gồm tính thẩm mĩ, tính cá thể, tính độc lập tự chủ, tính dân chủ ; một
chuyên đề phân tích nội dung yêu nước phong phú của thời kì văn học này, trong
đó nội dung yêu nước cách mạng có vị trí chủ đạo; một chuyên đề hệ thống hoá và
nâng cao về thành tựu thơ Mới, một chuyên đề đi sâu vào hướng tìm tòi thơ tượng
trưng, siêu thực; một chuyên đề nâng cao về các thành tựu tiểu thuyết.
- Nội dung dạy học môn Ngữ văn lớp 12 dành cho các trường THPT chuyên
ngoài nội dung được ghi trong chương trình Nâng cao môn Ngữ văn, còn có thêm
nội dung chuyên sâu (70 tiết) được xây dựng dưới dạng các chuyên đề. Số tiết tối
đa dành cho một chuyên đề là 7 tiết, được phân phối như sau:
+ Tiếng Việt: 1 chuyên đề, 7 tiết.
+ Làm văn : 02 chuyên đề, 14 tiết
+ Lí luận văn học: 02 chuyên đề, 14 tiết.
+ Văn học Việt Nam: 04 chuyên đề , 28 tiết.
+ Văn học nước ngoài: 01 chuyên đề, 7 tiết.
GV: Đỗ Thị Lê

6

Các chuyên đề tiếng Việt, lí luận văn học, làm văn chủ yếu là chuyên đề nâng
cao nhận thức và phương pháp, thực hiện chủ yếu bằng hoạt động thực hành, phục vụ
cho yêu cầu nâng cao kĩ năng đọc văn và làm văn. Cụ thể là, chuyên đề Thực hành về
các phong cách chức năng và một số biện pháp tu từ tiếng Việt, Rèn luyện kết hợp các
phương thức biểu đạt và các thao tác lập luận trong văn nghị luận, Tiếp nhận văn học
và các giá trị văn học, Quá trình văn học có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đọc
hiểu văn học, nhận thức văn học sử và làm văn, bởi vì văn học, về cơ bản là vận dụng
các phong cách và các biện pháp tu từ. Chuyên đề Tiếp nhận văn học và các giá trị
văn học, Quá trình văn học có ý nghĩa thiết thực trong việc giúp nâng cao năng lực
đọc hiểu sáng tạo của học sinh, đánh giá các giá trị của văn học và nhận thức sự thay
đổi các hiện tượng văn học trong tiến trình lịch sử. Hai chuyên đề làm văn tập trung
rèn luyện các kĩ năng quan trọng trong chương trình làm văn nghị luận lớp 12 và
hướng dẫn làm văn theo đề mở.
Các chuyên đề văn học Việt Nam giúp học sinh nắm vững các tác phẩm văn
học, các phong cách nghệ thuật tiêu biểu của giai đoạn văn học từ 1945 đến hết thế
kỉ XX. Các chuyên đề này đều tập trung vào một số phương diện quan trọng nhất
về nội dung và hình thức của văn học giai đoạn cuối thế kỉ XX, đặc biệt có hai
chuyên đề giúp học sinh tìm hiểu văn học Việt Nam sau năm 1975 mà trong SGK
chưa có điều kiện nói cụ thể. Chuyên đề về văn học nước ngoài tập trung vào vấn
đề con người, tính nhân văn và sự đa dạng của các thể loại và bút pháp nghệ thuật.
2.2. Về phương pháp và phương tiện dạy học các chuyên đề chuyên sâu
Quán triệt tinh thần đổi mới phương pháp dạy học đã ghi trong chương trình
Ngữ văn THPT:
- Khắc phục lối dạy nhồi nhét, thầy đọc trò ghi, sau đó học thuộc lòng, trả
bài.
- Phát huy cách dạy phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của HS trong
quá trình học tập: khuyến khích HS nêu cách hiểu của mình một cách chủ động,
không sợ sai; khuyến khích tinh thần đối thoại giữa HS với nhau, giữa HS với

GV: Đỗ Thị Lê
7

SGK, sách tham khảo, HS với GV, tạo không khí học tập cởi mở, dân chủ, từ đó
phát huy cá tính của mỗi HS.
- Đổi mới cách dạy theo hướng đọc hiểu tác phẩm văn học của nhà văn,
không bằng lòng với việc phân tích đã có, mà bám sát văn bản, khai thác các
phương thức biểu đạt của văn bản, vận dụng ngữ cảnh và tính sáng tạo của HS để
tìm ra ý mới.
- Kết hợp nhuần nhuyễn đọc văn và viết văn, học cách diễn đạt chính xác, có
lập luận vững chắc, có mức độ, có văn.
- Chú trọng nêu các vấn đề cho HS suy nghĩ, thảo luận.
- Hướng dẫn các đề tài nghiên cứu nhỏ, tận dụng các bài tập nâng cao (bài
tập nghiên cứu) trong SGK nâng cao, đồng thời bổ sung thêm các bài tập khác.
Vận dụng tốt sách Bài tập ngữ văn nâng cao.
- Đọc sách tham khảo có chọn lọc, không đọc tràn lan, dành thì giờ để tự
nghiên cứu.
- Hướng dẫn sưu tầm tư liệu, cắt dán tư liệu trên báo chí, trao đổi tư liệu,
hợp tác trong học tập. Phân biệt tư liệu văn học sử (năm sinh, mất, các sự kiện của
nhà văn, thời điểm sáng tác, hoàn cảnh sáng tác ) với tư liệu lí luận (chú trọng vận
dụng tri thức đọc hiểu trong SGK Nâng cao), hướng dẫn tra từ điển văn học, từ
điển danh nhân, từ điển thuật ngữ văn học, từ điển tiếng Việt.
- Hướng dẫn HS ghi nhật kí đọc văn, viết các ý kiến nhỏ nhằm trình bày ý
riêng hoặc tranh luận, viết bài cho Văn học và tuổi trẻ để cùng thảo luận.
- Khuyến khích đọc báo chuyên ngành có chọn lọc.
Căn cứ vào mục tiêu dạy học các chuyên đề chuyên sâu ở các lớp chuyên
Văn trường THPT Chuyên, chúng tôi thấy rằng, về cơ bản, các chuyên đề nhằm
hướng dẫn HS đọc, tìm hiểu, nghiên cứu ở nhà. Nội dung kiến thức và kĩ năng tập
trung vào một vấn đề nào đó nâng cao, tương đối hoàn chỉnh, trọn vẹn nên dung
lượng bài học khá lớn. Do vậy, hình thức dạy học này là yêu cầu tính tự giác học

GV: Đỗ Thị Lê
8

tập của HS. GV cần ý thức được thông tin họ đem lại cho HS không nên bó hẹp
trong khuôn khổ định sẵn mà cần chú trọng cung cấp những thông tin cơ bản nhất
luôn được cập nhật, hoặc những thông tin có “vấn đề”, thông tin “mở” để HS suy
ngẫm. Bên cạnh đó, GV cần có cách gợi mở, tạo không khí thoải mái để HS nhanh
chóng “nhập cuộc” và có nhu cầu tìm kiếm thông tin mới. Trên cơ sở đó, GV rèn
luyện và kích thích tư duy cho HS. Lẽ tất nhiên, trong quá trình giảng dạy, GV cần
dựa vào nội dung, yêu cầu, thời gian, trình độ nhận thức của đối tượng và hoàn
cảnh cụ thể để sử dụng các hình thức giảng dạy thích ứng.
GV phải tạo được mối quan hệ thân mật, nhân bản, cảm thông và trân trọng
với HS; đồng thời cần tập trung vào những vấn đề mà HS có nhu cầu thật sự trong
quá trình tiếp nhận kiến thức. Mặt khác, phải ý thức được dạy các chuyên đề
chuyên sâu không chỉ giúp cho HS thực hiện yêu cầu, mục đích của chương trình
học, mà còn vì khát vọng hiểu biết và vận dụng tri thức vào đời sống. Nói cách
khác, GV cần tạo được một môi trường học tập thuận lợi để HS có thể tự thẩm
định được những hiểu biết và đóng góp của riêng mình cũng như của các bạn đồng
học, nhất là khả năng thích ứng một cách nhạy bén với những hoàn cảnh mới trong
tương lai, những vấn đề sẽ xuất hiện trong quá trình thực hiện chương trình học và
sau khi chương trình học kết thúc. Trên cơ sở đó, HS có được sự tích cực và sáng
tạo trong việc đề xuất và giải quyết các vấn đề thuộc về tác gia, tác phẩm được GV
đặt ra.
Để đạt được mục tiêu của chương trình, GV thay vì để quá nhiều thời gian
soạn bài và giảng bài nên tập trung nỗ lực vào việc giới thiệu cho HS các tài liệu
cơ bản nhằm giúp HS học tập, nghiên cứu một cách thuận lợi nhất; đồng thời
hướng dẫn HS biết cách sử dụng các tài liệu một cách hiệu quả nhất. Cần quan
niệm: tài liệu không chỉ có sách báo, phòng thí nghiệm, học cụ bản đồ, phim ảnh,
băng nhựa, mà còn là kiến thức GV tích luỹ được. GV được xem như là nguồn tài
liệu đặc biệt và vô giá có thể góp phần giúp HS hiểu biết thêm nhiều phương diện

của kiến thức. Kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm nghiên cứu và giảng dạy của
GV được xem như một nguồn tài liệu sẵn sàng cho HS khai thác, tiếp nhận một
GV: Đỗ Thị Lê
9

cách tự giác. GV cho HS biết lĩnh vực nào họ có khả năng nhất và những điều họ
có thể giúp HS. Tuy GV là “một nguồn tài liệu” đặc biệt, nhưng việc sử dụng tài
liệu đó đến mức độ nào là do khả năng, trình độ khai thác của HS. Carl Rogers cho
rằng: “Nếu nhà giáo chỉ dùng một khoảng thời gian bằng thời gian được dùng để
soạn bài thanh toán chương trình, giảng bài, và thi cử hiện nay để cung cấp vô số
những tài liệu học tập cho học sinh thì nhà giáo đã đem lại cho học sinh một hoàn
cảnh học tập mới, mà học sinh có thể chọn được những yếu tố đáp ứng nhu cầu
của học sinh một cách thỏa đáng nhất” [1; tr 82].
Khoa học là một lĩnh vực luôn vận động, biến đổi, chứ không phải là một
cuốn sách đóng kín ghi nhận những vấn đề, sự kiện đã được khám phá. Khoa học
là một sự tìm kiếm không cùng, và không có sự đóng kín trong bất cứ ngành khoa
học nào. Cho nên GV cần phải giúp HS thoát khỏi quan niệm xem khoa học là
tuyệt đối, đầy đủ và bất biến. HS cũng có thể tự trở thành người tìm kiếm, khám
phá khoa học ở một mức độ đơn giản, hay đi tìm câu trả lời cho những vấn đề cụ
thể và thiết thực,
Trong quá trình dạy học, GV cần quan tâm nhiều đến việc tạo ra một bầu
không khí thẩm mĩ cho lớp học; đồng thời nhạy cảm trước những thái độ và tình
cảm của người học trước từng vấn đề văn học. Trên cơ sở đó có sự chia sẻ, đồng
cảm với HS cả về tư tưởng cũng như tình cảm
Có thể nói, quá trình dạy học đòi hỏi phải đảm bảo tinh thần dân chủ khi đối
thoại, trao đổi, thảo luận, trong đó GV và từng HS phải có sự tôn trọng, hợp tác
chặt chẽ. Mỗi người đều phải ý thức sâu sắc về vai trò của chính mình trong quá
trình dạy học. Họ đều có thể đóng góp cho nội dung học với tinh thần trách nhiệm
trước một vấn đề khoa học. GV không nên tự ti, hay từ bỏ những suy nghĩ, kế
hoạch của mình về nội dung dạy học, mà nên sẵn sàng trao đổi với những GV khác

cùng lĩnh vực chuyên môn trong cũng như ngoài trường để có thể góp phần tác
động tích cực, hiệu quả cho quá trình dạy học.
GV: Đỗ Thị Lê
10

Bên cạnh những yêu cầu chung nói trên, chúng tôi cho rằng, sự đổi mới
phương pháp giảng dạy các chuyên đề chuyên sâu cần lưu ý một vài vấn đề cụ thể
sau:
2.2.1. Giảng dạy các chuyên đề chuyên sâu gắn với việc tự học của HS.
Mặc dù là học sinh lớp chuyên Văn nhưng phần lớn HS chưa hình thành
được thói quen tự học, hoặc chưa hình thành cho mình phương pháp tự học hợp lí.
Vì thế, trong giờ học trên lớp, HS thường chú trọng ghi chép những kiến thức GV
trình bày, còn ít quan tâm về những vấn đề GV gợi ra. HS thường có ý nghĩ phải
hiểu các vấn đề theo cách hiểu của GV. Rất ít HS mạnh dạn trình bày cách hiểu,
cách nghĩ riêng của mình trước những vấn đề mà GV đưa ra. Ngoài ra, việc HS tìm
và chọn đọc tài liệu tham khảo vẫn còn gặp nhiều lúng túng do tài liệu tham khảo
tồn tại ở nhiều nguồn, nhiều loại khác nhau, hoặc nhận thức chưa đúng mực về tầm
quan trọng của tài liệu tham khảo đối với việc tự học, tự nghiên cứu trong quá trình
học tập. Từ thực trạng đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau nhằm thúc đẩy
việc tự học và phát huy tư duy sáng tạo cho HS:
Thứ nhất, đối với các chuyên đề chuyên sâu, việc đọc tác phẩm, các tài liệu
chuyên sâu là yêu cầu cơ bản đầu tiên mà GV cần chú trọng để định hướng cho HS
trong quá trình học tập. HS không thể cảm nhận tác phẩm sâu sắc bằng chính tình
cảm và nhận thức của họ khi chưa đọc tác phẩm. Đây cũng chính là nguyên nhân
dẫn đến hiện trạng HS nói leo và nói theo đã trở thành một thói quen trong quá
trình học tập. Tính độc lập và tư duy sáng tạo của HS vì thế chai mòn dần. Đọc
những tác phẩm văn chương nào và đọc như thế nào? Đó là điều GV cần định
hướng cho HS, nhất là trong bối cảnh hiện nay, HS phải học rất nhiều các môn học
và dành thời gian học thêm rất nhiều. Từ thực trạng nói trên, theo chúng tôi, GV
nên giới thiệu cho HS đọc tài liệu theo hướng sau:

- Những tài liệu GV đề cập đến đến trong bài giảng, hoặc được điểm qua
trong các chuyên đề chuyên sâu.
- Những tác phẩm tiêu biểu của các tác gia tương ứng với từng giai đoạn.
GV: Đỗ Thị Lê
11

- Những tác phẩm “có vấn đề”, hoặc đang được giới phê bình nói riêng và
độc giả nói chung trao đổi, tranh luận trên văn đàn.
Đọc tài liệu nói chung và văn bản tác phẩm văn chương nói riêng phải được
HS thực hiện bắt đầu từ đầu cấp học. Việc định hướng này cần phải được chú trọng
đặt ra trong kế hoạch sinh hoạt đầu khóa của lớp và thực hiện điều này một cách
nghiêm túc.
Còn đọc như thế nào? Chúng tôi cho rằng GV cần hướng HS vào mục đích
cụ thể như:
- Nắm bắt cốt truyện và các nét cơ bản về giá trị nội dung, cũng như nghệ
thuật của tác phẩm.
- Trào lưu, khuynh hướng của tác phẩm.
- Suy ngẫm, chuẩn bị cho việc thuyết trình, thảo luận trên lớp về một vấn đề
nào đó trong tác phẩm, hoặc về một tác phẩm cụ thể.
Thứ hai, giới thiệu và hướng dẫn HS cách đọc các tài liệu học tập đã chọn
lọc theo từng vấn đề trong nội dung giảng dạy. Việc giới thiệu tài liệu tham khảo,
hướng dẫn HS đọc từng chương, mục cụ thể và các loại tài liệu khác nhau trước
cùng một vấn đề sẽ góp phần giúp HS có thêm thời gian trong quá trình tự học.
Trường hợp một đầu sách ở thư viện chỉ có vài cuốn, trong khi nhu cầu đọc và
mượn của HS lại nhiều, GV nên hướng dẫn HS tìm đọc một tài liệu khác có nội
dung tương đương… Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, nguồn tài liệu và sách
tham khảo quá nhiều gây nên tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, GV cần hướng dẫn
HS đọc thêm một số tài liệu, sách báo cần thiết. Chẳng hạn, để chuẩn bị dạy
chuyên đề 2,3,4 phần Văn học dân gian lớp 10 (xem phụ lục), sau khi giới thiệu
nội dung, mục tiêu cần đạt, phương pháp tiến hành, chúng tôi giới thiệu một số tài

liệu tham khảo và yêu cầu HS tìm đọc và nghiên cứu trước như sau:
1) Trương Chính,Tạ Phong Châu, Tiếng cười dân gian Việt Nam, NXB KHXH,
1979.
GV: Đỗ Thị Lê
12

2) Chu Xuân Diên, Lê chí Quế, Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1996.
3) Hoàng Văn Hành (chủ biên), Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Viện Ngôn ngữ
học, NXB KHXH, 1999.
4) Phan Đăng Nhật, Nghiên cứu sử thi Việt Nam, NXB KHXH, 2001.
5) Võ Quang Nhơn, Sử thi anh hùng Tây Nguyên, NXB GD, 1997.
6) Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp ca dao, NXB KHXH, 1991.
7) Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB KHXH, 1978 (in lần thứ
năm)
8) Hoàng Tiến Tựu, Văn học dân gian Việt Nam, NXB GD, 1998.
9) Đỗ Bình Trị, Phân tích tác phẩm văn học dân gian, NXB GD, 1995.
Hay với chuyên đề 6: Các tác giả tiêu biểu trong phong trào Thơ mới trong
chương trình sạy học chuyên sâu Ngữ văn 11, sau khi giới thiệu nội dung, các mục
tiêu cần đạt của chuyên đề, phương pháp tiến hành, chúng tôi yêu cầu HS đọc,
nghiên cứu các tài liệu như:
1) Hà Minh Đức, Một cuộc cách mạng trong thi ca, NXB Văn học.
2) Phan Cự Đệ, Phong trào thơ mới, 1966.
3) Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 – 1945), NXB GD, 1997.
4) Phan Cự Đệ, Hàn Mặc Tử, tác phẩm, phê bình và tưởng niệm, NXB GD, 1998.
5) Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, tái bản nhiều lần.
6) Hoài Thanh, Bình luận văn chương NXB GD, 1998.
7) Đỗ Lai Thuý, Con mắt thơ, NXB GD, Hà Nội, 1998.
8) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tái bản nhiều lần.
9) Chu Văn Sơn, Ba đỉnh cao thơ mới, NXB GD, 2003.

10) Thơ mới 1932 - 1945, tác gia và tác phẩm, NXB Hội nhà văn, 1999.
GV: Đỗ Thị Lê
13

11) Thơ mới 50 năm nhìn lại, NXB GD, 1992
Tương tự như thế ở chuyên đề lí luận chuyên sâu, HS phải đọc các tài liệu:
1) Phương Lựu (chủ biên), Giáo trình lí luận văn học, chương Tiếp nhận văn học,
NXB GD, HN, 1998.
2) Trần Đình Sử chủ biên, Lí luận văn học, tập hai, dùng cho sinh viên cao đẳng sư
phạm, NXB ĐHSP, 2003
Từ cách giới thiệu và hướng dẫn cho HS cách đọc các tài liệu học tập đã
chọn lọc theo từng vấn đề trong nội dung giảng dạy, GV sẽ gián tiếp giúp HS tiếp
nhận kiến thức trong sự so sánh đối chiếu, tự rút ra nhận xét qua các tài liệu tham
khảo và mặt khác, tạo thuận lợi cho HS tích luỹ được vốn kiến thức đa dạng hơn.
Trên cơ sở đó, HS nhận thức được khoa học không khép kín mà luôn có sự gợi mở.
Trước cùng một vấn đề có thể có nhiều cách tiếp cận, khám phá khác nhau để tìm
ra chân lí. Chính điều này sẽ góp phần giúp cho HS rèn luyện thêm khả năng phân
tích tổng hợp và khái quát vấn đề, cũng như tư duy sáng tạo trong quá trình học
tập.
Thứ ba, nêu vấn đề cho HS tự nghiên cứu tài liệu tham khảo
Để HS chủ động trong quá trình tiếp thu kiến thức, GV cần đưa ra những
vấn đề với từng mức độ khác nhau, trên cơ sở đó giúp HS những nhận xét cụ thể
về từng vấn đề. Trước những tài liệu về một vấn đề ở từng thời kì khác nhau và
cùng thời kì, sau khi tự nghiên cứu, HS có thể có được một số nhận xét về cách
nhìn, cách đánh giá của các nhà nghiên cứu, để rồi họ tự lựa chọn tích luỹ cho
mình những kiến thức tốt nhất. Những kiến thức đó sẽ đọng lại lâu bền trong nhận
thức của họ.
Mặt khác, trong quá trình tự nghiên cứu tài liệu, HS vừa tích lũy, học hỏi
thêm một số kiến thức, vừa có thể nhận ra những nội dung mà họ cần xem xét lại
về tính chính xác, tính cập nhật, cũng như sự sai lệch giữa các tài liệu Hơn thế

nữa, chính từ quá trình này, tư duy của HS có thể xuất hiện ý tưởng mới trong cách
khám phá và soi xét ở một số vấn đề, dù đó là vấn đề nhỏ nhất. Chính điều đó đã
GV: Đỗ Thị Lê
14

góp phần rèn luyện cho HS chủ động trong cách xử lí, năng động trong cách tiếp
nhận tri thức và phát huy tư duy sáng tạo.
2.2.2. Tạo điều kiện và khuyến khích HS thảo luận, đối thoại
Thảo luận là một khâu quan trọng không thể thiếu trong quá trình dạy học ở
các lớp Chuyên. Điều này không có gì mới mẻ bởi từ lâu đã được thực hiện. Thế
nhưng, thực tế thực hiện như thế nào lại là điều cần suy nghĩ lại. Việc thảo luận
diễn ra trong điều kiện không thuận lợi như: thiếu tài liệu, sĩ số của lớp đông, cả
GV và HS còn xem nhẹ bước chuẩn bị cho thảo luận Cho nên việc thảo luận ít
tạo được không khí sôi động, trái lại, lớp học trở nên trầm lắng hơn, các ý kiến
phát biểu thường tập trung vào một số HS. Nhiều khi trong thảo luận, HS không có
ý kiến, GV buộc phải chỉ định để rồi tạo nên không khí căng thẳng hơn đối với HS.
Vì thế, hiệu quả của thảo luận đem lại rất hạn chế.
Để đạt được mục đích đề ra, thời gian dành cho việc thảo luận cần được sắp
xếp hợp lí sau từng chương, mục. Thời gian thảo luận trên lớp cần gia tăng nhưng
không tập trung một lúc, không nặng về hình thức. Nên bố trí mỗi lần thảo luận với
khoảng thời gian từ 20 đến 25 phút cho một vấn đề trong 2 tiết lên lớp. Điều này
còn có ý nghĩa thay đổi không khí cho giờ học và phần nào tạo được hứng thú cho
HS trong quá trình tiếp nhận kiến thức trên lớp. Việc tổ chức cho HS thảo luận về
một vấn đề cần được tiến hành theo các bước sau:
CÁC BƯỚC
THỰC HIỆN
CÔNG VIỆC CỦA GV CÔNG VIỆC CỦA HS
Bước 1
Lựa chọn và đưa ra các vấn đề
cần thảo luận (kể cả những vấn

đề HS đề xuất).
Nghiên cứu tài liệu và chuẩn bị
kĩ các vấn đề sẽ thảo luận.
Bước 2
Chủ trì thảo luận. Trình bày quan niệm của mình
trước vấn đề được đặt ra.
Bước 3 Hướng dẫn thảo luận, phát huy
tính chủ động của HS.
Thảo luận, tranh luận về vấn đề
được đặt ra với bạn đồng học
và với GV để làm rõ vấn đề.
GV: Đỗ Thị Lê
15

Bước 4
Đánh giá ưu điểm, hạn chế về sự
chuẩn bị; nội dung và phương
pháp trình bày của HS; chỉ ra
vấn đề cần tiếp tục suy nghĩ.
Đề xuất những băn khoăn cần
được lí giải.
Chúng tôi cho rằng, qua thảo luận, HS không chỉ tiếp nhận được kiến thức
từ bạn học và GV, mà điều quan trọng hơn đó là quá trình HS tự nhận thức, tìm tòi,
sáng tạo; đồng thời có điều kiện rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng diễn đạt. Bên
cạnh đó, GV có thể đánh giá được trình độ nhận thức của HS và những kiến thức
cần định hướng, bổ khuyết cho họ.
Trong thảo luận, GV cần khuyến khích HS đối thoại: đối thoại với bạn, với
GV và với chính mình để tìm chân lí. Từ xa xưa Socrate đã tìm kiếm, phát hiện
chân lí bằng “Vấn đáp pháp”. Phương pháp này nhằm tạo cho người học tự ý thức
trước một vấn đề. Hệ thống những câu hỏi Socrate đưa ra với mục đích“khiêu

khích đối thoại” với người tham gia tranh luận, rồi liên tiếp dồn họ đến chỗ tự
mình mâu thuẫn, đối chọi với quan điểm của mình. Với tinh thần đó, chúng tôi cho
rằng, dạy học đối thoại là một trong những giải pháp có ý nghĩa thiết thực cần
được sử dụng cho việc dạy học nói chung và dạy học các chuyên đề chuyên sâu ở
các lớp Chuyên Văn nói riêng.
Như vậy, việc chuẩn bị chu đáo cho thảo luận và cho tiến hành thảo luận,
đối thoại hợp lý sẽ giúp cho HS tích cực chủ động, sáng tạo trong quá trình học
tập. Trên cơ sở đó, những kiến thức HS tiếp nhận thêm phần phong phú và vững
chắc hơn. Còn GV nhận biết rõ hơn về một số vấn đề sau:
- Ý thức và khả năng tự tìm kiếm, phát hiện kiến thức của HS.
- Trình độ nhận thức của HS trước một vấn đề.
- Thái độ và khả năng trình bày lập luận của HS về một vấn đề (điều này rất
có ý nghĩa đối với HS nói chung và HS lớp chuyên Văn nói riêng).
- Trong một chừng mực nhất định, GV trực tiếp giúp HS khắc phục kịp thời
những thiếu sót, hạn chế trong quá trình tiếp nhận kiến thức.
GV: Đỗ Thị Lê
16

Có thể nói, giảng dạy các chuyên đề chuyên sâu gắn với việc tự học và tư
duy sáng tạo của HS là một hướng đổi mới tất yếu mà GV nên quan tâm nhiều hơn
nữa để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
2.2.3. Sử dụng câu hỏi trong giờ dạy học các chuyên đề chuyên sâu
Những vấn đề chung về câu hỏi trong dạy học được nhiều GV quan tâm.
Trong công trình này chúng tôi chỉ bàn về vấn đề nên sử dụng câu hỏi như thế nào
trong quá trình dạy các chuyên đề chuyên sâu. Thực tế, câu hỏi được sử dụng gồm
các kiểu loại khác nhau gắn với các từ dùng để hỏi: Vì sao/ Tại sao ? Thế nào
là… /Như thế nào ? Làm thế nào ? Cần phải làm gì ? Dựa trên cơ sở nào ?
Nguyên nhân nào/ Lí do nào ? Phải chăng ? Tính chất, mức độ, cũng như số
lượng câu hỏi GV đưa ra trong một tiết giảng cũng tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố của
tiết giảng đó và phải nằm trong một hệ thống chặt chẽ. Loại câu hỏi vụn vặt, quá

giản đơn không dễ khiến cho nội dung bài giảng trở nên rời rạc, nhạt nhẽo; thậm
chí có thể nhận ra đó là một trong những biểu hiện về trình độ non kém, hoặc thiếu
chu đáo của GV trong quá trình chuẩn bị bài giảng.
Những câu hỏi được sử dụng trong giờ dạy học các chuyên đề chuyên sâu ở
lớp Chuyên rất đa dạng. Có câu hỏi được GV chuẩn bị trước với các phương án
khác nhau mà HS có thể trả lời; đồng thời, cũng có những câu hỏi bất chợt xuất
hiện khi GV lí giải một vấn đề nào đó, hay từ một vấn đề HS đặt ra trong quá trình
tiếp nhận tri thức mới. Cần nhận thấy, không phải câu hỏi nào cũng nhất thiết được
trả lời thấu đáo ngay trong giờ giảng. Thực tế, có những câu hỏi GV đặt ra phải có
thời gian để HS suy ngẫm và ngược lại, cũng có những câu hỏi của HS đòi hỏi GV
phải cân nhắc kĩ trước khi trả lời.
Đối tượng giảng dạy ở các lớp Chuyên khác với học sinh không chuyên về
trình độ tri thức và khả năng tư duy, cho nên cách hỏi, tính chất và mức độ của câu
hỏi trong giờ dạy học các chuyên đề có nhiều điểm khác nhau. Đó chính là điều
các GV cần nhận thấy để khi đặt câu hỏi tránh được việc tầm thường hoá khả năng
nhận thức của HS và giúp họ xác định rõ đang ở chặng đường nào trên hành trình
tiếp nhận, khám phá kho tàng văn chương; mặt khác, theo chúng tôi, điều đó còn
GV: Đỗ Thị Lê
17

thể hiện thái độ tôn trọng, cũng như phát huy dân chủ đối với người học trước các
vấn đề học thuật. Câu hỏi có sự đa dạng, phong phú về kiểu loại nhưng dù là kiểu
loại nào, câu hỏi vẫn phải hướng đến việc đáp ứng những mục đích sau:
- Câu hỏi phải nhằm đòi hỏi HS phải huy động những kiến thức cơ bản trong
cùng một hệ thống đã được tiếp nhận trước đó ở trường phổ thông, hay có được từ
việc đọc thêm để trả lời. Chẳng hạn, trước khi trình bày về tác gia Thạch Lam, GV
có thể đặt kiểu câu hỏi sau:
+ Anh (chị) hãy cho biết vài nét về sự nghiệp văn chương của Thạch Lam ?
+ Qua các truyện ngắn của Thạch Lam đã được học và đọc thêm trong
chương trình phổ thông, anh (chị) có cảm nhận gì ?

+ Anh (chị) có nhận xét như thế nào về nghệ thuật tả cảnh của Thạch Lam
trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và “Gió lạnh đầu mùa” ?
Với cách đặt câu hỏi trên, GV vừa kiểm tra được kiến thức HS đã học ở
trường phổ thông và trong chừng mực nhất định nắm bắt thêm mức độ hiểu biết,
hạn chế của họ về tác gia Thạch Lam, vừa giúp họ nhớ lại vốn kiến thức đã tiếp
nhận được trước khi tiếp thu kiến thức mới. Trên cơ sở đó, trong quá trình học tập,
nghiên cứu về tác gia này, GV có điều kiện thuận lợi để cung cấp thêm cho HS
những vấn đề mới cả về chiều rộng và chiều sâu.
- Câu hỏi phải góp phần hình thành cho HS khả năng so sánh, đối chiếu trên
cơ sở tổng hợp, khái quát về một vấn đề cụ thể nào đó theo cách nhìn nhận, đánh
giá đồng đại, hay lịch đại trong tiến trình văn học, Ví dụ: Do nhìn nhân vật từ
những góc độ khác nhau, người đọc đã có những cách gọi (cũng chính là những
nhận xét) khác nhau về nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của
Kim Lân như: người đàn bà vô sỉ, người đàn bà tự trọng, người đàn bà liều lĩnh,
người đàn bà mực thước.
Theo anh (chị), nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của
Kim Lân là ai trong số những người đàn bà nêu trên? Hãy viết về điều đó.
GV: Đỗ Thị Lê
18

Hay sau khi dạy chuyên đề về tác gia Nam Cao, GV có thể đặt câu hỏi để
HS suy ngẫm, lý giải như:
+ Có người cho rằng: Nam Cao không lớn vì tác phẩm của ông chỉ xoay
quanh vấn đề cái đói và miếng ăn.
Suy nghĩ của anh, chị về ý kiến trên?
+ Khoảng trống của nền văn học Việt Nam nếu thiếu Nam Cao?
+ Nhận xét về nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao,
giáo sư Hà Minh Đức cho rằng: “Chí Phèo không phải là một tính cách đơn độc
mà thực sự là một kiểu người và nhân vật mang nặng trên vai những vấn đề xã
hội! Vấn đề Chí Phèo không thuần túy là vấn đề nông dân, mà suy cho cùng là vấn

đề con người.” Suy nghĩ của anh, chị về ý kiến trên.
Thiết nghĩ, qua các ý kiến trình bày, hoặc bàn luận của HS và những kiến
giải của GV về các câu hỏi trong sự đối sánh, ở chừng mực nhất định sẽ tạo nên
điều kiện thuận lợi để HS củng cố kiến thức đã học, mặt khác nhận thức rõ thêm
đặc điểm phong cách nghệ thuật của nhà văn, cũng như những đóng góp của họ
trong việc làm nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn chương dân tộc.
Cũng nhằm mục đích trên, để giúp HS hiểu thêm về sự ảnh hưởng và tác
động qua lại giữa văn học của các dân tộc, khi trình bày những yếu tố quan trọng
đối với tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, GV có thể đặt câu hỏi như:
+ Thơ Baudelaire có ảnh hưởng như thế nào đối với thơ của Xuân Diệu, Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên ?
+ Thơ Huy Cận chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ thơ Đường ở điểm nào?
+ Ảnh hưởng của văn học Pháp về đề tài, kết cấu, kiểu nhân vật mới , đối
với văn học Việt Nam thời kì 1930 - 1945 như thế nào?
Để có thể trả lời những câu hỏi trên, HS không chỉ cần nắm bắt vững vàng
kiến thức về văn học Việt Nam, mà còn phải có những hiểu biết căn bản về văn
học Pháp và văn học Trung Quốc. Do vậy, cách sử dụng câu hỏi trên có khả năng
GV: Đỗ Thị Lê
19

hạn chế bớt cách học qua loa, đại khái có tính chất đối phó của không ít HS, đồng
thời có thể phát huy được tư duy phản biện – tố chất cần thiết của HS chuyên Văn.
- Câu hỏi nhằm đánh giá được phần nào việc tự học, tự nghiên cứu của HS.
Trước những lượng thông tin lớn và xuất hiện dồn dập, đa phương, đa diện trong
cuộc sống hiện nay, GV không nên có tham vọng trình bày được tất cả mọi vấn đề
của môn học. Điều quan trọng là cần hướng HS tự học, tự nghiên cứu để trên cơ sở
những tri thức căn bản nhất đã tiếp nhận được, HS biết cập nhật hoá, bổ sung kiến
thức để tự hoàn thiện trước mắt cũng như lâu dài. Do vậy, đi đôi với việc giới thiệu
tài liệu tham khảo cần đọc cho HS, trong quá trình dạy học GV phải lưu ý đặt ra
một vài câu hỏi nhằm tác động đến nhận thức của HS về việc tự học, tự nghiên

cứu. Chẳng hạn, khi trình bày về phong trào Thơ Mới, GV có thể đặt câu hỏi:
+ Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã đánh giá như thế nào về ý
nghĩa của Thơ Mới ?
+ Trong “Thơ Mới những bước thăng trầm”, Lê Đình Kỵ đã khẳng định về
sự đổi mới cơ bản nhất của phong trào Thơ Mới là gì ?
+ Trong “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca”, Huy Cận đã nhìn nhận
như thế nào về vai trò vị trí của Thơ Mới trong tiến trình thơ ca dân tộc ?
Thông qua cách trả lời của HS về các câu hỏi trên GV có thể nhận thấy: HS
không trả lời được vì chưa đọc, hay đọc qua loa các tài liệu trên; hoặc trường hợp
Hs đọc kĩ các tài liệu nhưng yếu về khả năng tổng hợp, khái quát thì không thể trả
lời đáp ứng với yêu cầu được đặt ra, ngay cả mức độ thấp. Bởi vậy, loại câu hỏi
trên còn có tác dụng đối với việc rèn luyện cho HS năng lực tổng hợp, khái quát
vấn đề.
- Câu hỏi phải có khả năng gợi mở vấn đề nhằm kích thích tư duy sáng tạo
và góp phần hạn chế việc tiếp nhận kiến thức một cách máy móc, một chiều, hay
bất biến của HS. Trong quá trình giảng dạy, GV không nên quá chú trọng đến việc
cung cấp tri thức chất liệu và càng không nên buộc HS nghĩ theo cách nghĩ, làm
theo cách làm của mình, mà cần tạo cho HS thói quen tìm tòi khám phá tri thức
GV: Đỗ Thị Lê
20

mới. Trong văn chương việc kích thích tư duy sáng tạo phải được xuất phát từ sự
cảm thụ. Thật đáng phê phán, nếu cách giảng bài, cách đánh giá của GV làm cho
HS chỉ quen “nhai lại”, nghĩ theo, nói theo mình. Điều đó sẽ góp phần làm khả
năng cảm thụ của HS dần dần bị xơ cứng và khi đó họ dễ trở thành cái máy thu
phát những thông tin của GV. HS cảm thụ càng nhạy bén, tinh tế, thì càng phát
hiện được cái hay, cái đẹp của văn chương, càng thêm phần thú vị và thích khám
phá. Cho nên, trong mỗi giờ dạy học, GV cần chọn được vấn đề “đích đáng” nhất
để đặt câu hỏi nhằm tạo khả năng cuốn hút và nhằm làm cho HS không bằng lòng
với kiến thức đã tiếp nhận, giúp họ có khát vọng vươn đến trình độ cảm thụ cao

hơn, từ đó nhu cầu sáng tạo của họ sẽ nẩy sinh
2.3. Các bước dạy học chuyên đề chuyên sâu Ngữ văn
Muốn đề ra được phương pháp thích hợp để dạy học các chuyên đề chuyên
sâu, trong quá trình dạy học, GV cần xác định rõ đối tượng, tính chất và các nội
dung dạy học chuyên đề. Thuận lợi lớn nhất khi dạy các chuyên đề chuyên sâu ở
các lớp chuyên văn trong trường THPT Chuyên là đối tượng người học tương đối
thuần nhất, cùng loại. Đó là những HS khá giỏi, cùng sở thích, nguyện vọng vì
thế người dạy dễ vận dụng một loại phương pháp nào đó tương ứng, thích hợp.
Khó khăn lớn nhất của hình thức dạy học này là yêu cầu tính tự giác học tập của
HS. Về cơ bản, các chuyên đề nhằm hướng dẫn HS đọc và nghiên cứu ở nhà. Nội
dung kiến thức và kĩ năng tập trung vào một vấn đề nào đó nâng cao, tương đối
hoàn chỉnh, trọn vẹn nên dung lượng bài học khá lớn.
Nhìn chung các phương pháp dạy học chuyên đề về cơ bản thống nhất với
các phương pháp dùng trong những giờ học chính khoá. Tuy nhiên vấn đề quan
trọng là sử dụng các phương pháp ấy như thế nào. Điểm khác cơ bản là phải căn cứ
vào đối tượng người học, đặc điểm và tính chất của các loại chuyên đề mà lựa chọn
các phương pháp một cách phù hợp. Với đối tượng đã xác định, khi dạy các
chuyên đề này, GV nên giao cho HS chuẩn bị kĩ ở nhà, sau đó chủ yếu tổ chức cho
các em trình bày, thuyết trình các nội dung đã chuẩn bị; sau đó trao đổi, thảo luận,
bổ sung, chỉnh lí và HS tự rút ra những kết luận cần thiết. Từ thực tiễn dạy học các
GV: Đỗ Thị Lê
21

chuyên đề chuyên sâu, chúng tôi nhận thấy rằng hai nhóm phương pháp thường
được vận dụng ở đây là:
- Các phương pháp hướng dẫn HS làm bài tập nghiên cứu .
- Các phương pháp sưu tầm, phân loại, thu thập và tra cứu tư liệu…
Xuất phát từ đặc điểm và tính chất cơ bản của các chuyên đề, chúng tôi xin
nêu lên một số gợi ý về phương hướng dạy học các nội dung chuyên đề nâng cao
môn Ngữ văn trong trường THPT chuyên sau đây:

2.3.1. Những công việc chuẩn bị
Kết quả của bước chuẩn bị là xác định được một số điểm cần lưu ý về nội
dung kiến thức, kĩ năng và phương hướng tổ chức dạy học cho chuyên đề sẽ dạy
học. Muốn thế cần tiến hành một số công việc sau:
- GV đọc, nghiên cứu, thu thập tài liệu, biên soạn giáo án và chuẩn bị tư liệu
giảng dạy về chuyên đề.
- Hướng dẫn HS chuẩn bị, thu thập tư liệu, nghiên cứu nội dung chuyên đề
ở nhà bằng những chỉ dẫn cần thiết.
- Xác định đối tượng học và nội dung dạy học
- Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học chủ yếu: tổ chức cho HS trình bày và
trao đổi trên lớp; hướng dẫn HS làm bài tập nghiên cứu …
2.3.2. Các bước lên lớp một chuyên đề chuyên sâu
Bước 1: Giới thiệu mục đích, ý nghĩa và yêu cầu cần đạt của chuyên đề.
Bước 2: Tổ chức cho HS hoạt động học tập, trao đổi theo phần gợi ý thực
hiện đã nêu trong tài liệu học tập của HS.
Do nội dung kiến thức và kĩ năng của một chuyên đề thường rất nhiều, nên
GV cần chia ra và xác định công việc ở mỗi tiết học cho phù hợp. Phần gợi ý thực
hiện trong các chuyên đề thường đã được GV hướng dẫn qua hệ thống câu hỏi định
hướng và cách thức thực hiện, tài liệu tham khảo; vì thế căn cứ vào sự chuẩn bị của
GV: Đỗ Thị Lê
22

HS, GV có thể bổ sung hoặc điều chỉnh về nội sung và phương pháp dạy học trong
quá trình điều hành tiết học sao cho đạt được mục tiêu đề ra và đối tượng HS. Tinh
thần cơ bản của bước 2 là: Nêu vấn đề và yêu cầu HS làm việc trao đổi theo nhóm
(trước các vấn đề khó, phức tạp, có nhiều ý kiến khác nhau) hoặc trình bày ngay ý
kiến của mình đã suy nghĩ, chuẩn bị ở nhà. Thời lượng dành cho bước 2 là nhiều
nhất.
Bước 3: Tổng kết, rút kinh nghiệm sau khi học xong chuyên đề.
Do mỗi chuyên đề có dung lượng kiến thức và kĩ năng khá lớn, lại học thành

nhiều tiết vì thế mỗi chuyên đề cần dành một thời gian nhất định để tổng kết và
khắc sâu một số kiến thức và kĩ năng cần chú ý nhất qua hệ thống câu hỏi củng cố
hoặc sơ đồ, biểu bảng Cuối cùng là cần nêu những lưu ý, rút kinh nghiệm về
việc học tập của HS. Khuyến khích HS phát biểu ý kiến đóng góp về cách dạy,
cách học, cách kiểm tra đánh giá…
Đối với các trường Chuyên do điều kiện thiết bị dạy học và cơ sở vật chất
khá đầy đủ, GV cần tổ chức và hướng dẫn HS sử dụng máy tính, ứng dụng công
nghệ thông tin vào việc thu thập tư liệu trên mạng Internet, theo dõi các cuộc tranh
luận văn học, những vấn đề thời sự văn học GV cũng cần biết sử dụng máy tính
vào việc trình bày bài giảng bằng các phần mềm thông dụng (như Powerpoint),
biết khai thác kho tư liệu văn học vô cùng phong phú trên mạng bằng các công cụ
tìm kiếm như Google.com hoặc Vinaseek.com
2.4. Về đánh giá kết quả học tập của học sinh
Sau khi học hết một hay một nhóm chuyên đề cần phải có hình thức kiểm tra
đánh giá. Nhìn chung, hình thức kiểm tra đánh giá kết quả dạy học chuyên đề cũng
không có gì khác so với các hình thức của nội dung chính khóa. Tức là cũng có
những hình thức kiểm tra như sau :
- Kiểm tra bằng bài viết.
- Kiểm tra miệng.
- Chấm bài tập nghiên cứu và sổ tay ghi chép việc học ở nhà.
GV: Đỗ Thị Lê
23

Cần suy nghĩ để đổi mới không chỉ cách thức kiểm tra đánh giá mà cả nội
dung kiểm tra để có thể hạn chế được tính chủ quan, cảm tính của người đánh giá.
Cần phải nhận thức rằng nội dung và hình thức kiểm tra không chỉ là thước đo để
đánh giá kết quả học tập của HS mà còn là là tiêu chí để đánh giá phương pháp và
nội dung dạy học của GV, trên cơ sở đó GV có thể điều chỉnh, bổ sung nội dung
chương trình và phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đối tượng HS, đạt hiệu
quả cao nhất so với mục tiêu dạy học của các chuyên đề. Để có thể kiểm tra, đánh

giá đúng năng lực của HS, hiệu quả của các chuyên đề, GV cần phải có kế hoạch
dài hơi theo dõi HS trong suốt quá trình học tập. Mặt khác, mỗi đề bài kiểm tra
không chỉ có tác dụng kiểm tra, đánh giá một số phương diện về kỹ năng, kiến
thức mà còn đánh giá được sở trường, sở đoản của HS trong quá trình học tập;
kiểm tra được kỹ năng, tư duy, phát hiện được những năng lực tiềm ẩn của HS. Vì
thế, GV cần phải có sự chuẩn bị công phu, đa dạng hóa nội dung và đánh giá toàn
diện kiến thức, kỹ năng của học sinh.
Ví dụ, sau khi dạy học chuyên đề lý luận chuyên sâu, GV yêu cầu và hướng
dẫn HS vận dụng kiến thức vào luyện tập. Chẳng hạn như:
- Chuyên đề: Văn học – nhà văn – quá trình sáng tác.
Đề 1: Nhà thơ Nguyễn Duy từng gửi gắm tâm sự nghề văn qua những câu thơ
sau:
“Đãi khe suối, đãi dòng sông
Mồ hôi đãi vàng bốc hơi trên cát
Tôi đãi lại dọc triền cát bạc
Tìm ánh vàng trong muối mồ hôi.”
(Nguyễn Duy, Đãi cát tìm vàng)
Anh, chị hiểu những câu thơ trên như thế nào? Phân tích một số tác phẩm văn
học Việt Nam giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám – 1945 đến 1975 để làm sáng tỏ.
+ Đề 2: Nói về lao động nghệ thuật, nhà văn Áo Xtê-phan Xvai-gơ gọi đó là
“sự giải thoát và nỗi thống khổ”.
Anh, chị có đồng tình với ý kiến trên không?
GV: Đỗ Thị Lê
24

- Chuyên đề: Tiếp nhận văn học và các giá trị văn học
+ Đề 1: Tiếng nói tri âm trong văn chương qua hai bài thơ “Độc Tiểu Thanh
kí” (nguyễn Du) và “Đàn ghi ta của Lor-ca” (Thanh Thảo).
+ Đề 2: Ý kiến sau gợi cho anh, chị suy nghĩ gì: Trong lịch sử, tác phẩm ngày
càng tỏ ra cũ đi về chữ nghĩa nhưng lại được cắt nghĩa mới về nội dung.

Hay, sau khi dạy học chuyên đề làm văn chuyên sâu: Đề mở và cách luyện
tập viết bài văn theo đề mở, GV tổ chức và hướng dẫn HS vận dụng kiến thức
vào luyện tập qua một số đề bài như:
+ Đề 1: Suy nghĩ của anh (chị) từ bài thơ sau:
ĐƯỜNG TẮT
Luôn có một con đường ở trước bạn
Con đường dài mà bạn đang đi, hướng tới đích
Có một con đường ngắn hơn, cũng ở đó
Con đường nhỏ, ngắn và dễ đi hơn
Nó không dài, không tốn thời gian và không có một chướng ngại vật nào.
Nhưng
Con đường nhỏ ấy
Nó bỏ qua rất nhiều thứ
Nó không cho bạn một tí kinh nghiệm nào
Nó không làm cho bạn mạnh mẽ hơn
Nó không làm cho bạn tốt hơn
Và nó luôn là con đường sai.
Nhưng
Con người vẫn đi con đường nhỏ ấy
Những kẻ trộm đi con đường ấy để trở thành kẻ giàu
Những kẻ lừa dối đi con đường ấy để trở nên thành công
Chúng dễ dàng đạt được những thứ người khác đạt được một cách khó nhọc
Chúng trở nên thành công với nhưng ý nghĩ vô học
GV: Đỗ Thị Lê
25

Liệu chúng có thể tồn tại?
(Đặng Chân Nhân, sinh năm 1993)
+ Đề 2: Trong khi hàng ngàn bạn trẻ đang sôi sục vì hàng loạt sao Hàn "đổ
bộ" sang Việt Nam thì bài thơ “Hãy tiết kiệm thứ còn lại duy nhất” được nhà thơ

Đỗ Trung Quân chia sẻ trên trang Facebook cá nhân thu hút nhiều ý kiến khác
nhau trong cộng đồng mạng. Bài thơ như sau:
Ngày ấy bọn tôi hai mươi tuổi
Ria lún phún
Mắt cận lòi
Dân Sài Gòn tiểu tư sản, đọc sách triết, tóc hippie
Được phong tặng “thanh niên chậm tiến”
Thôi thì biết thân phận mình, đứa đi làm công nhân, đứa đi làm rẫy, đứa
thanh niên xung phong coi như trả món nợ dù chả vay ai thời tiền – hậu –
chiến
Ngày Polpot tràn qua An Giang, Ba Chúc thảm sát đồng bào
Tổ quốc lâm nguy
Bọn tôi sôi sục ra biên giới
Ngày Trung Quốc tấn công Việt Nam
Tổ quốc lại lâm nguy
Có thằng em khai gian tuổi
Vác balô lên đường
Gác mọi tranh chấp ý thức hệ
vệ quốc trước đã
Ai không tử sĩ
Ai không phế binh
Thì về
Đứa đạp xích lô. Đứa chạy xe ôm, đứa đi khuân vác
Bình thường.
Nói thật

×