Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Một số vấn đề về phương pháp tính và hạch toán thuế GTGT ở các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.89 KB, 29 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước. Nền kinh tế của nước ta không ngừng phát triển. Trong
sự phát triển mạnh mẽ này các doanh nghiệp trong nền kinh tế không chỉ chịu
tác động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường mà còn chịu sự tác
động, điều tiết quản lý của Nhà nước.
Một công cụ quan trọng giúp Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết, quản lý
của mình đó là thuế. Trong bước chuyển biến của nền kinh tế, các sắc thuế hiện
tại tỏ ra không còn phù hợp và cùng với xu thế hoà nhập khu vực và quốc tế cần
có những sắc thuế phù hợp. Do đó trong chương trình công tác cải cách thuế
bước hai (1998-2000) Bộ Tài chính đã đưa ra các loại thuế mới thay thế các sắc
thuế không còn phù hợp và đưa thêm các loại thuế mới phát sinh mà Nhà nước
cần phải thu.
Một trong những bước cải cách này đó là thuế doanh thu được thay thế
bằng thuế Giá trị gia tăng (GTGT) mà Quốc hội đã thông qua có hiệu lực thi
hành từ ngày 1-1-1999.
Đối với các doanh nghiệp, trong công tác hạch toán kế toán nói riêng, việc
áp dụng Luật thuế mới đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hầu hết các
phần hành của công tác kế toán. Sẽ không ít vấn đề nảy sinh trong quá trình thực
hiện và hoàn thiện về cách tính và hạch toán thuế GTGT. Chính vì vậy mà em
chọn đề tài:“Một số vấn đề về phương pháp tính và hạch toán thuế GTGT ở các
doanh nghiệp”.
1
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ VÀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
I. KHÁI NIỆM - BẢN CHẤT VÀ THỰC TRẠNG HỆ THỐNG
THUẾ NƯỚC TA
1. Khái niệm
Thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đóng góp
cho Nhà nước theo luật định để đáp ứng yêu cầu chi tiêu theo chức năng của nhà
nước; người đóng thuế được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn lại.


2. Bản chất của thuế
- Bản chất của thế thể hiện trước hết là một phần thu nhập của xã hội
được tập trung để phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
- Về bản chất giai cấp của thuế: Thuế ra đời là do sự ra đời của Nhà nước.
Nhà nước đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị xã hội, do đó bản chất
của nhà nước quyết định bản chất của thuế.
- Thuế còn thể hiện tính xã hội rất rộng rãi. Trước hết vì thuế có liên quan
đến mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội. Thuế gắn liền với Nhà nước. Thuế là
công cụ có hiệu lực được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng của mình
trong việc quản lý đối với toàn xã hội.
3. Thực trạng của hệ thống thuế nước ta
Hệ thống thuế nước ta đã được cải cách cơ bản từ cuối năm 1990, các
Luật và Pháp lệnh thuế mới đã lần lượt được ban hành và từng bước được thực
hiện đã có tác dụng điều tiết mạnh mẽ nền kinh tế thị trường đang phát triển,
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo ra những tiền đề cho
việc tiếp tục cải cách chính sách thuế của Nhà nước ta.
Những loại thuế chính chia làm ba nhóm: Các loại thuế đánh vào thu nhập
hay còn gọi là thuế trực tiếp, các loại đánh vào hàng tiêu dùng hay thuế gián
tiếp, các loại thuế đánh vào tài sản hay thuế của cải, áp dụng thống nhất cho mọi
thành phần kinh tế. Bao gồm các Luật và Pháp lệnh thuế như:
2
Luật thuế doanh thu; Luật thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật thuế xuất, nhập khẩu;
Luật thuế lợi tức; Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp; Luật thuế chuyển quyền sử
dụng đất; Pháp lệnh thuế thu nhập; Pháp lệnh thuế tài nguyên; Pháp lệnh thuế nhà
đất.
Và một loạt các loại thuế khác như thuế môn bài, thuế sát sinh, thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, lệ phí mang sắc thuế như lệ phí trước bạ, lệ phí
bay qua bầu trời, lệ phí giao thông như phí cầu, phà,...
Ở nước ta thời kỳ bao cấp, thuế thường chỉ mới bảo đảm được khoảng 50-
60% tổng số thu của Ngân sách Nhà nước, lúc đó còn phải dựa vào viện trợ, vay

nợ. Đến nay nguồn thu từ nước ngoài, nhất là các khoản viện trợ cho không đã
giảm nhiều. Quan hệ kinh tế đối ngoại đã chuyển dần sang cơ chế có vay có trả,
cả hai bên cùng có lợi. Thuế đã chiếm khoảng 80-90% tổng số thu Ngân sách
Nhà nước, đáp ứng được nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước, giảm tỉ
lệ bội chi, góp phần hạn chế và đẩy lùi lạm phát, bước đầu đã ổn định được giá
cả và tiền tệ và đã có phần tích luỹ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và trả
nợ,... Các kết quả đạt được của hệ thống thuế không chỉ thể hiện trong tổng thu
ngân sách mà nó còn được thể hiện qua các mặt kinh tế, xã hội khác.
Tuy nhiên bên cạnh đó, hệ thống thuế mới trong quá trình kiểm nghiệm
trong thực tế những năm qua cũng đã bộc lộ một số mặt tồn tại đó là: các sắc
thuế trong hệ thống được thiết kế tách rời, chưa gắn bó hỗ trợ lẫn nhau nên
không phát huy được tác dụng đồng bộ của hệ thống thuế. Mặt khác cơ cấu thuế
suất thường phức tạp, có nhiều thuế suất khác nhau, trong khi đó nội dung của
luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không quy định rõ ràng, cụ thể. Đặc biệt
với thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì biểu thuế còn quá nhiều mặt hàng và thuế suất
khác nhau. Do đó có thể thấy hệ thống thuế của ta vẫn còn phức tạp, chưa phù
hợp với điều kiện và trình độ của cán bộ quản lý thuế, chưa tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, chính sách thuế hiện hành còn chưa bao quát được hết các đối
tượng thu và nguồn thu, về cơ bản vẫn chưa khắc phục được tình trạng thu
chồng chéo, trùng lắp ở các khâu (thể hiện rõ ở thuế doanh thu), còn chưa công
3
bằng; phân biệt giữa kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, giữa đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài và còn chưa phù hợp với tình hình kinh tế xã hội đã
và đang biến đổi hiện nay.
Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế của Nhà nước ta là cần
thiết, việc thay đổi thuế Giá trị gia tăng cho thuế doanh thu điểm mốc đánh dấu
(được thực hiện từ ngày 1-1-1999) là một bước ngoặt lớn cho quá trình đổi mới
và hoàn thiện này.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA THUẾ GTGT

1. Khái niệm
Thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu cơ bản tính trên phần giá trị tăng
thêm của hàng hoá, dịch vụ khi qua mỗi công đoạn sản xuất, lưu thông hàng
hoá.
Thuế GTGT phải trả khi mua sản phẩm hoặc tiêu dùng, thuế GTGT trả
cho người cung cấp, nhà cung cấp có vai trò như một người thu hộ Chính phủ,
thuế GTGT được chuyển tới người tiêu dùng cuối cùng.
2. Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT trên thế giới
Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu, áp dụng từ
sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng góp
rộng rãi của quảng đại quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước,
để nhanh chóng hàn gắn vến thương chiến tranh. Thuế doanh thu được áp dụng
ở Pháp từ năm 1917. Thời kỳ đầu, thuế doanh thu chỉ đánh ở giai đoạn cuối
cùng của quá trình lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ), với thuế suất rất thấp. Đầu
năm 1920, thuế doanh thu được điều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá trình
sản xuất. Trong thực tế, cánh đánh thuế này đã phát sinh nhược điểm về tính
chất trùng lắp. Nói cách khác, quá trình sản xuất ra sản phẩm càng qua nhiều
khâu thì thuế càng cao và thuế chồng lên thuế. Để khắc phục nhược điểm này,
năm 1936, Pháp đã cải tiến thuế doanh thu qua hình thức đánh thuế một lần vào
công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất (từ là khi sản phẩm được đưa vào
lưu thông lần đầu). Như vậy, việc đánh thuế độc lập, một lần với độ dài của quá
trình sản xuất, khắc phục được hiện tặng đánh thuế trùng lắp trước đó. Tuy
4
nhiên, chính sách thuế này lại phát sinh nhược điểm là việc thu thuế bị chậm trễ
so với trước, vì chỉ khi sản phẩm được đưa vào khâu lưu thông lần đầu, Nhà
nước mới thu được thuế,...
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, thuế doanh thu vẫn còn nhược điểm nổi bật là
thuế thu chồng chéo, trùng lắp,... Đến năm 1954, Chính phủ Pháp đã ban hành loại
thuế mới với tên gọi là thuế giá trị gia tăng “theo tiếng Pháp là TAXE SUR LA
VALEUR AJOUTÉE (được viết tắt là T.V.A). Lúc đầu TVA được ban hành để áp

dụng trước đối với ngành sản xuất, chủ yếu nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo
qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp, với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ
khấu trừ thuế ở khâu trước đối với nguyên liệu, vật liệu. Quá trình thống nhất hoá
Châu Âu được thúc đẩy vào những năm 50 đã có tác dụng thuận lợi để TVA được
triển khai nhanh chóng ở các nước khác. Đến năm 1966, trong xu hướng cải tiến hệ
thống thuế “đơn giản và hiện đại” chung ở Châu Âu, TVA được ban hành chính thức
để thay thế một số sắc thuế gián thu.
Từ năm 1978, theo yêu cầu điều hoà luật pháp của các nước thành viên
Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC), nước Pháp điều chỉnh lại luật tài chính,
trong đó có phần quan trọng liên quan đến TVA. Năm 1986, TVA ở Pháp được
áp dụng rộng rãi đối với tất cả các ngành, nghề sản xuất, lưu thông hàng hoá,
dịch vụ, nhằm đáp ứng hai mục tiêu quan trọng: Bảo đảm số thu kịp thời,
thường xuyên cho ngân sách Nhà nước và khắc phục tình trạng thu thuế trùng
lắp của thuế doanh thu.
Khai sinh từ nước Pháp, thuế TGGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng
rãi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Đến nay đã có
trên 100 nước áp dụng thuế TGGT, chủ yếu là các nước Châu Phi, Châu Mỹ La
Tinh, các nước trong khối Cộng đồng Châu Âu (EC) và một số nước Châu Á.
Về tên gọi, có nhiều nơi gọi là thuế trị giá gia tăng như Pháp, Anh, Thuỵ
Điển,... Một số nước gọi là thuế hàng hoá và dịch vụ như Canada, Niu-Di-Lân,... Ở
một số nước Phần Lan, Áo, Đức là thuế doanh thu và họ cho rằng đây không phải là
sắc thuế mới mà vẫn là thuế doanh thu, chỉ được thay đổi nội dung và biện pháp thu.
5
3. Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam
Trong hệ thống thuế nước ta, loại thuế gián tiếp quan trọng nhất là thuế
doanh thu với tổng thu tương ứng khoảng 3-4% GDP mỗi năm. Nhưng thuế
doanh thu là một loại thuế phức tạp, có nhiều mức thuế suất khác nhau và biểu
hiện trong khoảng rộng trên cơ sở giá bao gồm cả thuể (trong đó có cả thuế nhập
khẩu). Do đó nó có một số tồn tại sau:
Thứ nhất, diện thu thuế bị thu hẹp và đánh thuế doanh thu với nhiều mức

thuế suất tuỳ theo nguồn doanh thu là một việc không thể thực hiện được, vì thế
cán bộ thu thuế phải dựa vào kinh nghiệm để xác định mức thuế dẫn tới hiện
tượng thương lượng thuế giữa cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế, khó tránh khỏi
tiêu cực.
Thứ hai, cơ chế thuế này đòi hỏi lưu trữ hồ sơ đầy đủ, đây là một vấn đề
khó khăn với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Thứ ba, vì thuế chồng chéo nhiều khi tạo khả năng cho người sản xuất tiến
hành liên kết ngang dọc để tránh một số khâu chịu thuế, gây ra hiện tượng trốn
thuế.
Thứ tư, thuế doanh thu trên thực tế hầu như không thể loại bỏ hoàn toàn
yếu tố cấu thành trong giá hàng xuất khẩu nền trong khuyến khích xuất khẩu.
Mặt khác, về nhập khẩu, thuế doanh thu không được thu ngay khi hàng nhập vào
cửa khẩu có thể dẫn tới tình trạng thất thu thuế, nhất là đối với công ty tư nhân.
Những tồn tại của thuế doanh thu có thể được giải quyết căn bản bằng thuế
GTGT.
Thuế GTGT là thuế đánh trên giá tự tăng thêm, tức là đánh trên giá trị
chênh lệch giữa các khoản bán ra của một doanh nghiệp với khoản mua vào về
chi phí vật chất và dịch vụ từ các doanh nghiệp khác. Thuế GTGT đã khắc phục
được các nhược điểm của thuế doanh thu, cụ thể là:
Thứ nhất, thuế GTGT đánh vào tiêu thụ nên nó được thu ở mọi khâu của
quá trình sản xuất cho nên việc thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra được việc nộp
thuế ở khâu trước nên hạn chế thất thu, lượng thuế thực thu sẽ tăng lên rất mạnh.
6
Thứ hai, về kỹ thuật tính toán, có thể tách thuế này ra khỏi giá thành hàng
xuất khẩu một cách dễ dàng và không những không phải hợp thuế GTGT ở khâu
xuất khẩu mà còn được thoái trả toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở các khâu trước
cho nên nó khuyến khích mạnh mẽ việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ ba, bản chất thuế GTGT là mang tính trung lập về mặt kinh tế. Các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chỉ là khâu trung gian, thu thuế hộ Nhà nước
rồi nộp vào kho bạc Nhà nước. Chính vì thế mà thuế GTGT khắc phục được

nhược điểm là thuế đánh chồng lên thuế của thuế doanh thu, tạo nên mặt bằng
cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp với nhau, từ đó thúc đẩy các doanh
nghiệp tích cực tổ chức cơ cấu lại bộ máy quản lý và dây chuyền công nghệ.
Thứ tư, thuế GTGT có diện bao quát rộng, bao gồm hầu như toàn bộ các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Vì vậy về lâu dài thuế GTGT
sẽ làm tăng thu ngân sách và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra, việc áp dụng thuế GTGT sẽ giảm bớt mức thuế suất (bốn mức thuế
suất). Khuyến khích các doanh nghiệp giữ sổ sách kế toán tốt hơn, kích thích mạnh
mẽ việc sử dụng hoá đơn, tạo điều kiện cho việc kiểm tra và thanh tra tài chính. Mặt
khác khi triển khai áp dụng thuế GTGT sẽ góp phần đổi mới tư duy về cơ chế thu
nộp thuế (tự động kê khai, tự động nộp thuế, thực hiện kiểm tra sau) và cho phép nền
kinh tế nước ta nói chung tiếng nói với các nước trong khu vực và thế giới trong lĩnh
vực thuế.
4. Đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế
Theo Điều 2 của Luật thuế GTGT: hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất,
kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT.
Theo Điều 3 của Luật thuế: tổ chức, cá nhân sản suất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập
khẩu hàng hoá chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế
GTGT. Đối tượng không chịu thuế GTGT gồm 26 loại hàng hoá, dịch vụ được quy
định rõ.
5. Căn cứ tính thuế GTGT
7
Căn cứ tính thuế GTGT là: số lượng hàng hoá, dịch vụ, giá tính thuế đơn vị và
thuế suất.
5.1. Giá tính thuế:
Đối với hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước, giá tính thuế GTGT là giá
bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hoá nhập khẩu, giá tính thuế GTGT là
giá nhập khẩu (giá CIF) cộng với thuế nhập khẩu.
Một số quy định cụ thể:

- Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp, giá tính thuế GTGT là
giá bán của hàng hoá tính theo giá bán trả một lần, không tính theo số tiền trả
từng kỳ.
- Đối với hoạt động gia tăng hàng hoá, giá tính thuế GTGT là giá gia
công.
- Các trường hợp khác như: hàng hoá mang trao đổi, biếu tặng, sử dụng
tiêu dùng nội bộ, giá tính thuế GTGT là giá tính thuế của hàng hoá cùng loại
tương đương, với hoạt động cho thuê tài sản giá tính thuế là số tiền thu từng kỳ.
- Giá tính thuế GTGT bao gồm cả khoản phụ thu, phối thu thêm mà cơ sở
kinh doanh không được hưởng.
5.2. Thuế suất
Thuế GTGT có 4 mức thuế suất là 0%, 5%, 10% và 20%. Trong đó:
- Mức thuế 0% đối với hàng xuẩt khẩu.
- Mức thuế suất 5% đối với các mặt hàng thiết yếu, hiện đang chịu thuế doanh
thu với thuế suất thấp như: nước, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh, thiết bị và
dụng cụ y tế, giáo cụ để giảng dạy và học tập, đồ chơi trẻ em, sản phẩm trồng trọt,
chăn nuôi,...
- Mức thuế suất 20% đối với hàng hoá, dịch vụ chưa khuyến khích tiêu
dùng hiện đang chịu thuế doanh thu với mức thuế suất cao như: vàng bạc, đá
quý, khách sạn, du lịch, ăn uống, đại lý tàu biển, môi giới,...
- Mức thuế suất 10% đối với hàng hoá, dịch vụ khác.
6. Hoàn thuế GTGT
Các trường hợp được hoàn thuế GTGT:
8
Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp
khấu trừ thuế, được xét hoàn thuế trong các trường hợp:
• Có số thuế đầu vào của các tháng trong quý thường xuyên lớn hơn số
thuế đầu ra phát sinh các tháng trong quý hoặc nếu có số kinh doanh.
• Xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng lần xuất khẩu với số
lượng lớn, nếu phát sinh số thuế đầu vào được khấu trừ lớn thì được xét hoàn

thuế GTGT theo từng kỳ hoặc tháng.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế nếu có đầu tư, mua sắm tài sản cố định, có số thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ lớn được hoàn thuế như sau:
• Đối với cơ sở đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế nhưng chưa có phát sinh
doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư một năm trở
lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Trường hợp số thuế GTGT đầu
vào lớn thì được xét hoàn thuế từng quý.
• Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số thuế
GTGT đầu vào của tài sản đầu tư đã khấu trừ trong 3 tháng (kể từ tháng phát
sinh thuế) mà chưa được khấu trừ hết thì được hoàn lại số thuế chưa được khấu
trừ này.
Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sát nhập, hợp nhất, chia tách, giải
thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn thuế.
Ngoài ra cơ sở kinh doanh còn được hoàn thuế trong trường hợp có quyết
định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật: Quyết định của Bộ
trưởng Bộ Tài chính yêu cầu phải hoàn trả lại thuế cho cơ sở kinh doanh.
9
CHƯƠNG II
MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN THIỆN VỀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH VÀ HẠCH
TOÁN THUẾ GTGT TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
I. PHƯƠNG PHÁP TÍNH THUẾ GTGT
1. Phương pháp tính thuế GTGT
Từ khái niệm về giá trị gia tăng và TGTGT, các nhà kinh tế đã đưa ra 4
phương pháp cơ bản của việc tính thuế GTGT:
- Phương pháp cộng trực tiếp: theo phương pháp này thì thuế GTGT phải
nộp được tính bằng cách lấy thuế suất (t) nhân với giá trị tăng thêm được hiểu là
tiền công và lợi nhuận. Cụ thể:
Thuế GTGT phải nộp = t x (tiền công + lợi nhuận)
- Phương pháp cộng gián tiếp: theo phương pháp này thuế GTGT phải

nộp được tính căn cứ vào từng thành phần riêng biệt của giá trị tăng thêm.
Thuế GTGT phải nộp t x tiền công + t x lợi nhuận
- Phương pháp trừ trực tiếp: theo phương pháp này thuế GTGT phải nộp được
tính dựa trên cơ sở tính trị giá tăng thêm là chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào,
cụ thể là:
Thuế GTGT phải nộp = t x (giá đầu ra - giá đầu vào)
- Phương pháp trừ gián tiếp: còn gọi là phương pháp hoá đơn hoặc
phương pháp khấu trừ. Theo phương pháp này, thuế GTGT phải nộp được xác
định trên cơ sở lấy thuế tính trên giá đầu ra trừ đi thuế tính trên giá đầu vào, cụ
thể:
Thuế GTGT phải nộp = (t x giá đầu ra) - (t x giá đầu vào)
Trong 4 phương pháp tính thuế GTGT nói trên thì 3 phương pháp đầu hầu
như chỉ tồn tại trên lý thuyết, ít được áp dụng trong thực tế. Riêng phương pháp
trừ gián tiếp (hay phương pháp khấu trừ) được áp dụng phổ biến vì việc tính
thuế phải nộp dựa vào hoá đơn - bằng chứng của nghiệp vụ kinh doanh - gắn
nghĩa vụ nộp thuế với nghiệp vụ kinh doanh của cơ sở cho nên có ưu điểm nổi
trội hơn hẳn những phương pháp khác về mặt kỹ thuật và luật pháp. Mặt khác
10
phương pháp tính thuế dựa vào hoá đơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự theo
dõi, kiểm tra của cơ quan quản lý, thu thuế và người ta có thể tính được nghĩa vụ
nộp thuế một cách kịp thời và tương đối chính xác cho một năm tài chính.
Ở nước ta, theo thông tư số 89/1998/TT-BTC hướng dẫn thi hành chi tiết
luật thuế giá trị giá tăng thì việc tính thuế giá trị gia tăng phải nộp được áp dụng
theo 2 phương pháp: phương pháp trừ gián tiếp (hay phương pháp khấu trừ) và
phương pháp trừ trực tiếp.
Theo phương pháp trừ:
Số thu GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Trong đó:
= x
Theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT:

= -
Trong đó:
= -
Việc tính thuế GTGT theo từng phương pháp được áp dụng đối với từng đối
tượng cụ thể: phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng đối với cơ sở kinh doanh đã
thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, mua bán hàng có hoá đơn, còn phương pháp
tính trực tiếp trên giá trị gia tăng được áp dụng với cơ sở kinh doanh chưa thực hiện
đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn và các cơ sở kinh doanh mua bán vàng
bạc, đá quý.
2. Chứng từ kế toán:
Để thực hiện kế toán thuế GTGT các cơ sở kinh doanh phải thực hiện chế
độ hoá đơn chứng từ theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính. Dưới đây là một
số hoá đơn, chứng từ có liên quan:
Hoá đơn giá trị gia tăng: Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng
“Hoá đơn giá trị gia tăng” do Bộ Tài chính phát hành (trừ trường hợp được dùng
chứng từ ghi giá thanh toán là giá có thuế GTGT). Khi lập hoá đơn bán hàng hoá,
dịch vụ cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ các yếu tố quy định và ghi rõ: giá bán
11

×