Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA DÂN SỐ VIỆT NAM ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.08 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
I . LỜI MỞ ĐẦU 2
II . NỘI DUNG 3
1. Những đặc điểm nổi bật của dân số Việt Nam hiện nay 3
a. Quy mô dân số nước ta rất lớn và vẫn đang phát triển mạnh 3
b. Dân số nước ta đang bước vào giai đoạn cơ cấu “dân số vàng” 3
c. Tỷ lệ dân đô thị hiện thấp nhưng đang tăng mạnh 4
d. Chất lượng dân số chưa cao 4
e. Mất cân bằng giới tính 5
2. Những ảnh hưởng của dân số đến sự phát triển của xã hội
Việt Nam 5
a. Dân số và giáo dục 5
b. Dân số và y tế 7
c. Dân số và bình đẳng giới 8
d. Dân số và an sinh xã hội 9
3. Nâng cao chất lượng dân số 11
III. KẾT LUẬN 13
1
I. LỜI MỞ ĐẦU
Khi tìm hiểu tới một đất nước, ta thường nói ngay đến diện tích lãnh thổ và
dân số của đất nước đó. Tại sao vậy? Bởi vì dân số cũng như phân chia chất lượng
dân số có những ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền vững của một quốc gia,
dân tộc. Nhất là đối với Việt Nam, khi nước ta đang bước vào thời kỳ cơ cấu “dân
số vàng”. Đây là cơ hội mà tất cả các quốc gia đang phát triển đều mong đợi. Để
có một xã hội tiến bộ, một nền kinh tế vững mạnh thì sự phát triển dân số là một
trong những yếu tố quan trọng, cần quan tâm hàng đầu. Đó là lý em chọn đề tài :
“Ảnh hưởng của dân số đên sự phát triển xã hội Việt Nam”.
2
II. NỘI DUNG
1. Những đặc điểm nổi bật của dân số Việt Nam hiện nay
a. Quy mô dân số nước ta rất lớn và vẫn đang phát triển mạnh


Theo báo cáo Tình hình Dân số Thế giới 2010 của Liên Hiệp Quốc,
dân số Việt Nam 2010 là 89 triệu người. Việt Nam hiện đứng thứ 14 trong
số những nước đông dân nhất thế giới và là nước đông dân thứ hai tại khu
vực Đông Nam Á( đứng đầu là In-đô-nê-xi-a với dân số khoảng 237 triệu
người). Không những vậy mật độ dân số nước ta cũng rất cao, lên tới 258
người/km2. Mật độ dân số nước ta đã cao gấp hơn 5 lần mật độ chung của
thế giới và gấp 10 lần mật độ dân số của các nước đã phát triển. Có thể
khẳng định rằng: Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số rất lớn. Mặc dù
vậy, dân số nước ta vẫn tăng mạnh: trong 5 năm gần đây, mỗi năm dân số
nước ta vẫn tăng thêm khoảng 1,1 triệu người.
Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, năm 2024, dân số nước ta sẽ
vượt 100 triệu người, mật độ dân số sẽ lên tới 335 người/km2. Quy mô
dân số rất lớn, mật độ dân số rất cao và vẫn đang tăng mạnh, bên cạnh việc
tạo ra thị trường lớn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, có sức hấp dẫn đầu
tư, cũng góp phần không nhỏ làm trầm trọng thêm những khó khăn trong
giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện tình trạng y tế, giáo dục,
nhà ở, xóa bỏ tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông…
b. Dân số nước ta đang bước vào giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”
Việt Nam đang bước vào thời kỳ dân số vàng, tức là tổng số người
trong độ tuổi lao động lớn hơn tổng số người phụ thuộc (già và trẻ em),
hiện tỷ lệ người trong độ tuổi lao động chiếm hơn 60% dân số, theo phân
tích thì bình quân 2 người lao động nuôi 1 người phụ thuộc.
Rõ ràng Việt Nam đang có một cơ hội “vàng” khi sử dụng một lực
lượng lao động trẻ dồi dào trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế 2010-2020.
3
Kế hoạch hóa gia đình là điều cấp thiết trong điều kiện nước nghèo,
đất ít như Việt Nam. Sau nhiều năm đẩy mạnh chiến lược Kế hoạch hoá
gia đình “mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có 1-2 con”, tỷ lệ sinh ở Việt Nam đã
giảm mạnh và hiện ở mức sinh thấp 2,11 con/ người mẹ trong độ tuổi sinh
đẻ (bằng với mức sinh thay thế).

Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam cũng có bước tiến rõ rệt khi
tăng lên đến 73,1 tuổi và dự kiến đạt 75 tuổi vào năm 2020.
c. Tỷ lệ dân đô thị hiện thấp nhưng đang tăng mạnh
Mặc dù dân thành thị hiện chiếm 30% tổng dân số ở Việt Nam nhưng
lại đang tăng nhanh với tốc độ trung bình 3,4%/năm. Khu vực miền Đông
Nam Bộ là nơi có mức đô thị hóa cao nhất. Nguyên nhân chính là do thị
trường lao động mở rộng.
Mật độ dân số ở Việt Nam, theo Tổng cục Thống kê, có sự phân bố rất
chênh lệch và mức gia tăng không đồng đều. Khu vực đồng bằng sông
Hồng ở miền Bắc đông nhất trên cả nước (25 triệu người) trong khi vùng
Tây nguyên chỉ hơn 5 triệu người. Một số tỉnh như Nam Định, Thanh
Hóa tỉ lệ tăng dân số không đáng kể vì số người di cư vào các tỉnh thành
phía Nam (chủ yếu là Thành phố Hồ Chí Minh) để làm ăn sinh sống. Theo
ước tính trong năm năm 2004-2009 có tới 9,1 triệu người di cư.
Việc di cư từ nông thôn ra thành thị một mặt thúc đẩy nhanh quá trình
đô thị hóa nhưng mặt khác lại gây áp lực rất lớn lên hệ thống cơ sở hạ
tầng, dịch vụ xã hội , nhà ở, môi trường ở các đô thị lớn. Tình trạng kẹt
xe, ô nhiễm đã diễn ra ngày càng nhiều ở Thành phố Hồ Chí Minh (nơi
đông dân nhất nước với trên 7,1 triệu người) hay Hà Nội (6,5 triệu người).
d. Chất lượng dân số chưa cao
Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và
tinh thần của toàn bộ dân số.
Theo báo cáo Phát triển con người 2010 của Chương trình Phát triển
Liên hiệp quốc (UNDP), chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam
xếp thứ 128/187 quốc gia. Theo báo cáo của Viện dinh dưỡng quốc gia,
chiều cao của thanh niên Việt Nam 18 tuổi, tuy đã cải thiện (năm 2003:
Nam 163,7 cm, nữ 153cm) nhưng so với chuẩn quốc tế (nam 176,8 cm, nữ
163,7 cm) thì chiều cao của thanh niên Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều.
4
Tình trạng thừa cân, béo phì trong độ tuổi học đường có dấu hiệu gia tăng,

đặc biệt ở thành phố; tình trạng phá thai vẫn còn nhiều… Theo cảnh báo
của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc, chất lượng dân số thấp đang là yếu tố cản
trở sự phát triển và đặt Việt Nam trước nguy cơ tụt hậu. Do đó, nâng cao
chất lượng dân số là mục tiêu phấn đấu của cả cộng đồng và quốc gia.
e. Mất cân bằng giới tính
Để đánh giá mức độ cân bằng giữa số nam và số nữ, người ta dùng chỉ
tiêu “tỷ số giới tính”, tức là “số nam tương ứng với 100 nữ”. Năm 1979 tỷ
số giới tính khi sinh là 105 bé trai trên 100 bé gái thì năm 1989 là 106,
1999 là 107, năm 2009 là 110,5 và năm 2010 là 111.
Theo dự báo dân số, nếu không có các biện pháp can thiệp hiệu quả
hơn thì tỷ lệ mất cân bằng này sẽ tăng lên 113 bé trai/100 bé gái năm
2015 và đạt tới 115 năm 2020, tức là số lượng nam nhiều hơn nữ từ 2,3
đến 4,3 triệu người. Điều này sẽ dẫn đến hàng triệu nam giới có thể không
lấy được vợ, tạo ra nhiều vấn đề xã hội. Nếu không có những giải pháp
hiệu quả, thực trạng mất cân bằng giới tính sẽ ngày càng nghiêm trọng
hơn.
2. Những ảnh hưởng của dân số đến sự phát triển của xã hội Việt Nam
a. Dân số và giáo dục
• Giáo dục là gì ?
Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch nhằm
truyền cho lớp người mới những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất
những tri thức về tự nhiên, về xã hội và về tư duy, để họ có thể có đủ
khả năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội. Có nhiều loại giáo
dục khác nhau nhưng đều có mối quan hệ qua lại với dân số nhất là
giáo dục trong nhà trường.
Một nền giáo dục hiện đại tiến bộ thường được xem xét bởi các
đặc trưng sau:
- Tính đại chúng: nền giáo dục cho mọi người vì mọi người.
- Tính nhân văn, dân tộc và nhân loại.

- Sự bình đẳng về cơ hội học tập và trình độ học vấn giữa các nhóm xã
hội.
5
Tại nước ta, hai chỉ tiêu: tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ tổng học
sinh đi học trong tổng sốtrẻ em từ 6-15 tuổi là những chỉ tiêu mà các
nước đang phát triển rất quan tâm. Chúng phản ánh trình độ và xu
hướng phát triển của một nền giáo dục và chính sách giáo dục của một
quốc gia.
• Ảnh hưởng của dân số đến giáo dục
i. Các tác động tích cực của dân số đến giáo dục
Quy mô dân số lớn là điều kiện để thúc đẩy mở rộng qui mô
của giáo dục. Ở nước ta, khoảng 20 năm cuối của thế kỷ XX, quy
mô dân số tăng nhanh nên số lượng học sinh phổ thông cũng
không ngừng tăng lên. Ví dụ từ năm 1980 đến năm 2001 dân số
tăng lên 148% thì số học sinh phổ thông tăng 154 %, và tỷ lệ đi
học tăng lên 104%.
Sự tăng nhanh dân số ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống,
mức thu nhập, từ đó ảnh hưởng đến đầu tư cho giáo dục cho con
cái nói chung và cho con trai, con gái nói riêng, ảnh hưởng đến
quy mô, chất lượng giáo dục và sự bình đẳng trong giáo dục .
Với một quốc gia dân số trẻ như nước ta, tỷ lệ dân số trong độ
tuổi đi học cao, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, do việc đẩy mạnh Kế hoạch hóa gia
đình, mức sinh giảm nên tỷ lệ dân số trong độ tuổi học sinh phổ
thông giảm từ 39,33% năm 1979 xuống còn 28,73% năm 2009. Số
dân trong độ tuổi này của cả nước cũng đã bắt đầu giảm, từ
26.507.676 người năm 1999 xuống còn 24.650.028 người năm
2009.
ii. Các tác động tiêu cực của dân số đến giáo dục
Dân số tăng, nhưng thu nhập bình quân chưa cao (năm

2011 là 1.300 USD/người/năm) nên tỉ lệ dân số được giáo dục
thấp, tỉ lệ mù chữ trong dân cư cao. Năm 2008 cả nước vẫn còn
1,7 triệu người mù chữ. Ở độ tuổi 15-25, số người mù chữ là
hơn 140.000 người, con số này ở độ tuổi 25-35 là gần 250.000
người, trên 36 tuổi là gần 1,3 triệu người.
6
Thiếu giáo viên và cơ sở vật chất do tỷ lệ dân số trong độ
tuổi đi học nhiều đòi hỏi phải đầu tư cho giáo dục. Chi phí cho
giáo dục của người dân ở Việt Nam lên tới 44% trong tổng chi
phí xã hội cho giáo dục, cao thứ hai ở các nước Á châu, chỉ sau
Campuchia.
Sự phân bố dân cư ảnh hưởng đến cơ hội được giáo dục của
người dân. Việt Nam có tỉ lệ trẻ em đến trường ở bậc tiểu học
gần như là phổ cập (95%). Tuy nhiên, nếu tính riêng ở khu vực
dân tộc thiểu số thì tỷ lệ trẻ em đến trường bậc tiểu học chỉ đạt
khoảng 80% và bậc trung học cơ sở là 77%.
Di cư nông thôn - thành thị có tác dụng thúc đẩy giáo dục
phát triển ở khu vực thành thị: Làm tăng số người có nhu cầu
đi học, tăng thêm giáo viên, cơ sở vật chất…tạo sức ép cho
giáo dục tại những thành phố có mật độ dân cư đông.
Bất bình đẳng giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp xã
hội, giữa nam nữ đang cũng gây ra sự mất cân bằng về giáo
dục. Tỉ lệ biết chữ ở Việt Nam tương đối cao (92% dân số).
Trong số 8% dân số mù chữ thì 80% sống ở vùng nông thôn,
trong đó 60% là phụ nữ.
Như vậy, để có một nền giáo dục phát triển thì việc phát
triển dân số đóng vai trò quan trọng. Mặt khác, chính giáo dục
cũng là nhân tố quyết định đến việc phát triển quy mô dân số
và chất lượng cuộc sống.
b. Dân số và y tế

• Sức khỏe và y tế
Sức khoẻ là một yếu tố quan trọng đảm bảo hạnh phúc cho mỗi
con người. Sức khoẻ tốt là cơ sở để lao động có năng suất cao, có tinh
thần trách nhiệm, tâm hồn lành mạnh, trong sáng và là mục tiêu quan
trọng của quá trình phát triển. Theo định nghĩa của Tổ chức y tế thế
giới "Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội,
chứ không chỉ bó hẹp trong nghĩa là không có bệnh tật hay thương
tật".
Y tế là hệ thống tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể, đặc biệt là
biện pháp kỹ thuật để dự phòng, chữa bệnh, phục hồi chức năng. Mối
7
quan hệ giữa dân số và y tế có tính chất tương hỗ. Một mặt , ngày nay
y tế tác động đến toàn bộ quá trình tái sản xuất dân số, mặt khác sự
"bùng nổ dân số" cũng đang tạo sức ép mạnh mẽ đối với ngành y tế.
• Tác động của dân số đối với y tế
Dân số tăng quá nhanh sẽ dẫn đến tỷ lệ tăng lên và do đó
làm cho số người khám bệnh tăng lên. Thật vậy, dân số tăng
nhanh lại tập trung ở nước nghèo, khả năng dinh dưỡng h ạn
chế, tỷ lệ mắc bệnh tăng lên, trước hết là bệnh suy dinh dưỡng.
Dân số đông và tăng quá nhanh dẫn đến nhà ở thêm chật chội,
vệ sinh không đảm bảo, nhất là nguồn nước sinh hoạt.
Quy mô dân số lớn tốc độ tăng dân số cao đòi hỏi quy mô
hệ thống y tế bệnh viện , số cơ sở y tế, số gường bệnh, số y bác
sỹ …cũng phải phát triển với tốc độ thích hợp để đảm bảo các
hoạt động khám và chữa bệnh cho người dân. Trên thực tế hiện
nay, những nước nghèo sự phát triển của hệ thống y tế không
theo kịp nhu cầu khám chữa bệnh do tốc độ tăng dân số cao.
Chính vì vậy chất lượng chăm sóc y tế thường thấp.
Phân bố dân số ảnh hưởng đến hệ thống y tế. Ở Các khu
vực địa lý khác nhau , như đồng bằng miền núi, thành thị, nông

thôn có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên , kinh tế xã hội lên
có cơ cấu bệnh tật khác nhau. Mật độ dân số cũng ảnh hưởng
đến hiệu quả ph ục vụ của hệ thống y tế. Ở những nơi có mật
độ dân số quá thấp, một cán bộ hay một cơ sở y tế chỉ phục vụ
được một số ít dân nên hiệu quả không cao. Ngược lại, nếu mật
độ dân số quá cao, không đủ cán bộ và các phương tiện y tế
cần thiết thì xảy ra tình trạ ng ngược lại. Nhiều bệnh nhân
không được chăm sóc đầy đủ dẫn đến tử vong tăng lên.
Có thể thấy sự gia tăng dân số đã làm thay đổi cơ cấu, hoạt
động và xu hướng phát triển của ngành y tế. Để có một hệ
thống y tế tốt, phục vụ được mọi nhu cầu của người dân thì các
chính sach phát triển dân số vô cùng cấp thiết, mà đây lại là
một trong những nhiệm vụ của ngành y tế.
8
c. Dân số và bình đẳng giới
Vấn đề dân số và phát triển với bình đẳng giới là hai vấn đề song hành có
những tác động qua lại lẫn nhau trong xu thế phát triển. Dân số ổn định, xã
hội phồn vinh, gia đình hạnh phúc là một mục tiêu của phát triển dân số; bình
đẳng giới trong xu thế phát triển cũng là một mục tiêu của phát triển dân số
bảo đảm quá trình phát triển con người công bằng, bình đẳng; đồng thời cũng
phát huy vai trò tích cực của mỗi giới trong sự phát triển của gia đình và đất
nước. Mỗi sự phát triển của dân số có tác động đến tình trạng bình đẳng giới.
Nét đặc trưng trong mối quan hệ giữa phát triển dân số và bình đẳng giới
trong xã hội ngày nay là sự tăng dân số quá nhanh dẫn đến hậu quả xấu cho
việc thực hiệnbình đẳng giới
Ở một số nước phương đông, trong đó có Việt Nam, tư tưởng trọng nam
khinh nữ gần như đã ăn sâu vào suy nghĩ. Quy mô gia đình lớn, đặc biệt là gia
đình nghèo, cha mẹ thường chỉ ưu tiên cho chăm sóc sức khỏe và giáo dục ở
nhà trường cho con trai. Vì vậy, con gái thường rơi vào cảnh thất học hoặc ít
học, đi làm và lấy chồng sớm, đẻ nhiều con. Kết quả là, so với nam giới, phụ

nữ thường có học vấn, thu nhập thấp hơn, ít hoạt động chính trị, xã hội ít hơn
hạn. Bất bình đẳng nam nữ là điều khó tránh khỏi.
Thực hiện tốt vấn đề bình đẳng giới trong gia đình, bởi gia đình là một tế
bào của xã hội, gia đình là nơi nuôi dưỡng giáo dục con người đầu tiên, là cầu
nối các thành viên trong gia đình với xã hội.
d. Dân số và an sinh xã hội
An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về
kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo
các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Có thể thấy tình trạng
dân số nói chung và dân số giai đoạn “cơ cấu vàng” nói riêng có tác động rất
lớn đến nhu cầu an sinh xã hội.
Ở Việt Nam, cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội gồm 5 trụ cột: Bảo hiểm
xã hội; Bảo hiểm y tế; Bảo hiểm thất nghiệp; Cứu trợ xã hội; Trợ giúp và ưu
đãi xã hội. Xét về thực chất, năm trụ cột này là nhằm thực hiện 3 chức năng
9
chiến lược của hệ thống an sinh xã hội: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro
và khắc phục rủi ro.
Cơ cấu dân số có ảnh hưởng trực tiếp tới các dịch vị an sinh xã hội. Một
quốc gia có dân số trẻ thì các vấn đề về an sinh sẽ nghiên về các dịch vụ cho
trẻ em như giáo dục, trường học, phát triển tầm vóc trong khi đó với cơ cấu
dân số già thi các dịch vụ y tế, trợ cấp lại càng quan trọng.
Việc dân số gia tăng nhanh, nhất là ở nhóm trong độ tuổi lao động cũng
tạo ra
thách thức về nâng cao chất lượng lao động và tạo việc làm. Theo Tổng
cục Thống kê,
năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp của cả nước là 2 ,88%, trong đó khu vực thành
thị là 4,29% và khu vực nông thôn là 2,3%. Bên cạnh đó tỷ lệ thiếu việc làm,
tương ứng cho các khu vực là 3,57%; 1,82 % và 4,26%. Điều này có nghĩa là

cần bảo đảm an sinh xã hội cho 1.548.902 người thất nghiệp và 2.043.952
người thiếu việc làm, tổng số hai nhóm đối tượng này là 3.692.854 người.
Cơ cấu dân số Việt Nam, đặc biệt là cơ cấu dân số theo độ tuổi đang biến
đổi nhanh chóng. Phản ảnh thực trạng này vào chính sách phát triển kinh tế -
xã hội, chính sách an sinh xã hội là yêu cầu không thể thiếu hiện nay.
3. Nâng cao chất lượng dân số
Với những tác động to lớn đến mọi mặt của xã hội, việc quan tâm, đầu tư
nâng cao chất lượng dân số là mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia dân tộc.
Để nâng cao chất lượng sống của người dân cần có các chính sách đúng
đắn.
Thứ nhất, cần thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình và xây dựng quy
mô gia đình hợp lý ở đây không chỉ là việc của dân số học, mà nó liên quan
đến nhiều phạm vi kinh tế, xã hội, văn hóa. Bởi lẽ, gia đình là tế bào của xã
hội. Quan niệm truyền thống về gia đình cũng như mô hình gia đình đang có
những biến đổi, cần thực hiện chính sách pháp luật tạo điều kiện để xây dựng
gia đình 1-2 con; tạo cơ hội để mọi thành viên trong gia đình đều được tôn
trọng, xây dựng nếp sống văn hóa gia đình; đẩy mạnh dịch vụ kế hoạch hóa
gia đình, phòng tránh thai, tư vấn sức khỏe tình dục.
Dân số gắn với phát triển kinh tế bền vững, đảm bảo công bằng xã hội.
Các nội dung chính như giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp; Đẩy mạnh
10
chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm hơn là cho tiền của; Chăm sức
sức khỏe cộng đồng; Phát triển giáo dục.
Chính sách và chương trình cụ thể đối với những nhóm đặc thù như vị
thành niên, người già, người tàn tật (trong thập niên tới người già sẽ tăng 8-
25%), người dân tộc thiểu số.
Chính sách xã hội về di cư. Thực hiện di cư có quy hoạch, kế hoạch nằm
trong phương hướng chiến lược tái phân bố dân cư và lao động giảm sức ép
nơi quá đông dân.
Chính sách về đô thị hóa. Đô thị hóa là xu hướng tất yếu của quá trình

phát triển kinh tế xã hội là xu hướng chuyển đổi từ xã hội nông thôn là phổ
biến sang xã hội đô thị là phổ biến tại các nước phát triển và đang phát triển.
Đô thị hóa phải tiến hành trên cơ sở dữ liệu cụ thể, có phương án thực hiện
một cách thấu đáo; phải được thực hiện một cách đồng bộ, có đầy đủ các yếu
tố đảm bảo cho dân cư có cuộc sống ổn định, được hưởng các quyền lợi về
chăm sóc y tế, giáo dục, và văn hóa.
Sau năm 2005, cơ hội dân số sẽ bước vào giai đoạn hai: Nước ta tiến vào
kỷ nguyên dân số vàng của mình, kéo dài khoảng 30 năm. Nếu cơ hội dân số,
đặc biệt là giai đoạn dân số vàng diễn ra trùng với thời kỳ kinh tế ổn định và
cất cánh, đồng thời hệ thống giáo dục đã thực hiện tốt chức năng chuẩn bị tri
thức và nghề nghiệp cho lao động, nguồn lực lao động được qua đào tạo, có tri
thức, kỹ năng nghề nghiệp sẽ trở thành động lực mạnh của nền kinh tế (tăng
việc làm, thu nhập, tiết kiệm…). Ngược lại, nếu hệ thống kinh tế và giáo dục
yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu của sự bùng nổ nguồn nhân lực này, sẽ
dẫn đến tình trạng thất nghiệp trong xã hội tràn lan nhất là giới trẻ, vừa thiếu
việc làm, lại vừa thiếu nhân lực lao động kỹ thuật cao, dẫn đến tệ nạn và mất
ổn định xã hội. Cơ hội dân số đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách, lựa
chọn đúng để nắm bắt được nó.
11
III. KẾT LUẬN
Việc tìm hiểu đề tài “Ảnh hưởng của dân số đến sự phát triển xã hội Việt
Nam” đã giúp em hiểu thêm tầm quan trọng của sự gia tăng dân số và các
chính sách dân số của Nhà nước trong việc hương tới một xã hội phồn thịnh,
tiến bộ. Một dất nước giàu mạnh là một tập thể những con người có sức khỏe,
tinh thần và tri thức cao để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với nước ta, giai
đoạn trước mắt là một cơ hội vàng về dân số mà mọi quốc gia đều chờ đợi,
nhưng cũng là một thách thức đặt ra. Vì vậy, những quyết định của Đảng, Nhà
nước là hết sức quan trọng, nhưng bên cạnh đó cũng không thể thiếu ý thức
của từng người dân trong xã hội trong việc thực hiện các chính sách về Dân số
và Kế hoạch hóa gia đình để hướng tới những mục tiêu mà đất nước muốn

hướng tới.
Bài tiểu luận của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự đóng góp
của thầy cô !
Em xin chân thành cảm ơn !
12
13

×