Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

đề tài ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG THƢƠNGMẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.17 KB, 35 trang )

Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
Trường: Đại học Quang Trung
Lớp : K5.407
Khoa : KT - TCNH
BÀI TIỂU LUẬN:
Đề tài:
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2000 - 2010
1
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
PHẦN 1:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, thương mại quốc tế đóng vai
trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ,
tham gia có hiệu quả vào sự phân công lao động và trao đổi mậu dịch
quốc tế, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân cũng như các
lĩnh vực liên quan đến thương mại quốc tế.
Để đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam đã và đang thực hiện
những giải pháp tích cực để thực hiện đường lối phát triển và mở rộng
thương mại quốc tế, tiếp thu những kinh nghiệm thương mại, kinh tế
và khoa học, công nghệ tiên tiến của các nước, tạo điều kiện nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần đẩy mạnh công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách, chủ trương
nhằm thúc đẩy quá trình thương mại quốc tế diễn ra nhanh chóng và
có hiệu quả, bên cạnh đó vẫn còn nhiều sai sót cần được khắc phục và
thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.
Xuất phát từ những yêu cầu của hội nhập, chúng tôi nghiên cứu
đề tài “Đánh giá hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam giai đoạn


2000- 2010” nhằm khái quát hoạt động thương mại quốc tế của Việt
Nam trong những năm qua và có những biện pháp cụ thể cho thời gian
tới.
Kết cấu đề tài gồm 5 phần:
Phần 1: Đặt vấn đề
Phần 2: Tổng quan về thương mại quốc tế
Phần 3: Thực trạng về thương mại quốc tế của Việt nam giai
đoạn 2000- 2010
Phần 4: Một số biện pháp nhằm thúc đẩy ngoại thương Việt
Nam phát triển
Phần 5: Kết luận
2
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
PHẦN 2:
TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Khái niệm:
- Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu
hình và hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi
ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên. Đối với phần lớn các nước, nó
tương đương với một tỷ lệ lớn trong GDP.
- Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người
nhưng tầm quan trọng về kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý
đến một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây. Thương mại quốc tế phát
triển mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận
tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài.
Việc tăng cường thương mại quốc tế thường được xem như ý nghĩa cơ bản
của "toàn cầu hoá".
2. Nguyên nhân dẫn đến hoạt động thương mại quốc tế:
- Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên của các quốc gia.
- Sự đa dạng hóa về nhu cầu.

- Sự đa dạng hóa về giá cả, sở thích và nguồn cung cấp đầu vào giữa các
quốc gia.
3. Một số lý thuyết thương mại quốc tế điển hình:
- Chủ nghĩa trọng thương.
- Lý thuyết lợi thế tuyệt đối.
- Lý thuyết về lợi thế so sánh (David Ricardo).
- Lý thuyết thương mại tân cổ điển (Hecksher - Ohlin).
4. Đặc điểm của thương mại quốc tế:
- TMQT có xu hướng tăng nhanh, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền sản
xuất.
- Tốc độ tăng trưởng của TM “vô hình” tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng
của TM “hữu hình”.
- Cơ cấu hàng hóa trong TMQT có sự thay đổi sâu sắc theo hướng:
+ Giảm đáng kể tỉ trọng nhóm hàng lương thực, thực phẩm và đồ uống.
+ Giảm mạnh tỉ trọng của nhóm hàng nguyên liệu, tăng nhanh tỉ trọng của
nhóm hàng dầu mỏ và khí đốt.
+ Giảm tỉ trọng hàng thô, tăng nhanh tỉ trọng sản phẩm công nghiệp chế
tạo.
3
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
+ Giảm tỉ trọng những mặt hàng có hàm lượng lao động giản đơn, tăng
nhanh những mặt hàng có hàm lượng lao động thành thạo, phức tạp, vốn
lớn, công nghệ cao.
- Nền thương mại thế giới ngày càng mở rộng phạm vi và phương thức
cạnh tranh với nhiều công cụ khác nhau.
- Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày càng được rút ngắn, việc đổi
mới thiết bị, công nghệ, mẫu mã hàng hóa diễn ra liên tục.
- Sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế một mặt thúc đẩy tự do hóa
thương mại, mặt khác các hàng rào bảo hộ ngày càng tinh vi hơn.
5.Chức năng của thương mại quốc tế:

a) Đối với quá trình tái sản xuất xã hội:
- Tạo vốn cho quá trình mở rộng vốn đầu tư trong nước.
- Làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân được sản xuất trong nước thông qua việc xuất nhập khẩu nhằm đạt tới
cơ cấu trong nước tối ưu.
- Góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân do việc mở rộng thị
trường trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế của nền kinh tế trong nước trong
phân công lao động quốc tế.
b) Đối với quá trình lưu thông hàng hóa giữa trong nước với nước
ngoài:
- Tổ chức chủ yếu quá trình lưu thông hàng hóa với bên ngoài, thông qua
mua bán để nối liền một cách hữu cơ theo kế hoạch giữa thị trường trong
nước với thị trường nước ngoài, thỏa mãn nhu cầu của sản xuất và của
nhân dân về hàng hóa theo số lượng, chất lượng, mặt hàng, địa điểm và
thời gian phù hợp với chi phí ít nhất.
6. Nhiệm vụ của thương mại quốc tế:
- Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa đất
nước. Đây là nhiêm vụ quan trọng và bao quát của ngoại thương. Thông
qua hoạt động xuất, nhập khẩu góp phần vào việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa.
- Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất
nước: vốn, việc làm, công nghệ, sử dụng tài nguyên có hiệu quả.
- Đảm bảo sự thống nhất giữa kinh tế và chính trị trong hoạt động ngoại
thương
- Tổ chức quá trình lưu thông hàng hóa giữa trong nước với nước ngoài.
4
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
7. Các rào cản của hoạt động thương mại quốc tế:
a) Hàng rào thuế quan:
Đây là một loại thuế đánh vào hàng mậu dịch, phi mậu dịch khi hàng hóa

đi qua khu vực hải quan của một nước. Nhưng hiện nay, khi hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì các quốc gia tìm cách giảm dần và tiến tới
xóa bỏ hàng rào thuế quan.
b) Hàng rào phi thuế quan:
Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở
đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lí, khoa học hoặc bình
đẳng. Hàng rào phi thuế quan thường được áp dụng đối với hàng nhập
khẩu, hình thức của hàng rào phi thuế quan rất phong phú, bao gồm:
- Các biện pháp hạn chế định lượng.
- Các biện pháp quản lý giá.
- Các rào cản kỹ thuật.
- Các biện pháp liên quan đến hình thức doanh nghiệp.
- Các biện pháp quản liên quan đến đầu tư.
- Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời.
- Các biện pháp hành chính khác.
8. Các rủi ro trong thương mại quốc tế:
a) Rủi ro kinh tế:
- Rủi ro liên quan đến việc không có khả năng thanh toán của người mua.
- Rủi ro liên quan đến việc nợ quá hạn - người mua không thể thanh toán
tiền hàng 6 tháng kể từ ngày tới hạn.
- Rủi ro không chấp nhận hàng.
- Rủi ro từ bỏ chủ quyền kinh tế.
a) Rủi ro chính trị:
- Rủi ro liên quan đến việc hủy bỏ hoặc không gia hạn giấy phép xuất khẩu,
nhập khẩu.
- Rủi ro chiến tranh.
- Rủi ro liên quan đến tài sản của người nhập khẩu bị quốc hữu hóa hoặc
sung công.
- Rủi ro liên quan đến việc áp đặt lệnh cấm nhập khẩu sau khi hàng đang
trên đường vận chuyển.

- Rủi ro thanh toán - liên quan đến việc nước nhập khẩu áp đặt chính sách
kiểm soát ngoại hối do thiếu ngoại tệ.
- Rủi ro từ bỏ chủ quyền chính trị.
5
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
PHẦN 3:
THỰC TRẠNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2010
I. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2010:
1. Đường lối kinh tế xã hội và quan điểm phát triển của Việt Nam:
a) Đường lối của Đảng:
- Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định đường lối kinh tế của Việt
Nam là: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển
nhanh có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát
triển văn hóa, từng bướccải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc
phòng an ninh.”
- Mục đích chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ 2001
– 2010 là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và
công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được
tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được

hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
b) Quan điểm phát triển:
- Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
- Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ
nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết.
- Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát
huy mọi nguồn lực.
- Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế- xã hội với quốc phòng- an ninh.
6
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
2. Chiến lược phát triển thương mại quốc tế Việt Nam thời kì 2000-2010:
- Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa
phương hóa, đa dạng hóa; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình
phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết
trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC…
- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nâng cao năng lực canh tranh, phát triển
mạnh những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế; giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh
tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm; nâng dần tỷ
trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghiệp cao.
- Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản.
- Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập.
- Khuyến khích tiêu dùng hàng hóa trong nước.
- Thực hiện các chính sách bảo hộ đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
- Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ: du lịch, xuất khẩu
lao động, vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính tiền tệ, dịch vụ

kỹ thuật, tư vấn, thu hút kiều hối.
- Chủ động tích cực thâm nhập vào thị trường quốc tế, chú trọng các thị
trường trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên
các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới.
- Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, thông
tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp, kể cả các
cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức, các
cá nhân trong và ngoài nước tham gia các hoạt động môi giới, khai
thác thị trường quốc tế.
- Coi xuất nhập khập khẩu cùng các quan hệ kinh tế đối ngoại khác
không chỉ là nhân tố hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế quốc dân mà
còn là động lực phát triển kinh tế của đất nước.
- Chủ động cơ hội phát triển, đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu,nhanh chóng hình thành một số tập đoàn kinh tế thương mại.
- Coi trọng việc xuất khẩu có hàm lượng chế biến, sản phẩm có hàm lượng
trí tuệ và công nghệ cao; chú trọng xuất khẩu dịch vụ, tạo đà cho xuất khẩu
tăng tốc và đạt hiệu quả.
7
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
3. Các công cụ quản lý và điều tiết hoạt động ngoại thương của nhà
nước Việt Nam:
a) Nhà nước quản lý hoạt động ngoại thương bằng luật pháp:
- Thông qua hệ thống luật pháp, Nhà nước qui định rõ địa vị pháp lý của
các doanh nghiệp tham gia hoạt động ngoại thương, quy định các điều kiện
và thủ tục trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa Căn cứ vào môi
trường hành lang pháp lý đã được quy định, các doanh nghiệp tiến hành
hoạt động kinh doanh của mình dưới sự hướng dẫn, giám sát của Nhà
nước.
- Theo tinh thần nghị quyết Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam thì Việt
Nam phát triển theo mô hình kinh tế mở có sự điều tiết của nhà

nước. Chính sách ngoại thương đang áp dụng là chính sách hướng về xuất
khẩu. Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hiện nay của Việt Nam được điều
hành chủ yếu bởi Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày
14/6/2005, Nghị định 12/2006/NĐ-CP, ban hành ngày 23/1/2006 : “ Quy
định chi tiết thi hành luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu,
gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài “. Ngoài ra hoạt động
xuất nhập khẩu (XNK) còn chịu sự điều tiết bởi các luật khác như luật thuế
XNK, luật về thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp, luật
đầu tư nước ngoài và các luật khác.
b) Quản lý bằng công cụ kế hoạch hóa:
- Nhà nước quản lý ngoại thương bằng các kế hoạch định hướng, ví dụ như
các chỉ tiêu về kim ngạch xuất nhập khẩu, các mặt hàng xuất nhập khẩu
trong năm
- Thông qua việc sử dụng các công cụ kinh tế để điều tiết hoạt động ngoại
thương sao cho góp phần cân đối tổng cung tổng cầu nền kinh tế quốc dân.
c) Quản lý bằng công cụ tài chính:
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước tham gia hoạt động ngoại thương,
như các doanh nghiệp khác, nhà nước sẽ định hướng sử dụng vốn thông
qua các hoạt động phân tích “dự báo vĩ mô, các công cụ kinh tế tài chính,
hướng dẫn công tác kế toán, thống kê và kiểm tra việc thi hành pháp luật
trong tạo lập, quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp”.
- Thuế là công cụ tài chính quan trọng mà thông qua đó nhà nước có thể
điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung và đối với hoạt động ngoại thương nói
riêng. Trong thời kỳ này, nhà nước sẽ áp dụng bên cạnh thuế quan các loại
thuế khác như thuế chống phá giá, chống trợ cấp
d) Quản lý bằng các công cụ khác:
Nhà nước còn sử dụng hệ thống kho đệm và dự trữ quốc gia để can thiệp
vào thị trường. Đối với hoạt động ngoại thương có thể thấy rõ ràng nhất là
8
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung

việc dự trữ vàng, ngoại tệ mạnh Ngoài ra, có các dạng công cụ thuộc về
chính sách ngoại thương cũng cần được lưu ý như:
- Hạn ngạch nhập khẩu: Công cụ này trước nay đối với nước ta chưa được
phổ biến, tuy nhiên, trong giai đoạn 2001-2005, nhà nước sẽ sử dụng hạn
ngạch nhập khẩu một số mặt hàng như sản phẩm sữa, thịt
- Các hàng rào hành chính: Các điều kiện tiêu chuẩn về y tế, về an toàn và
các thủ tục hải quan Các công cụ quản lý ngoại thương ngày càng được
cải tiến để phù hợp với các hiệp định thương mại mà nước ta đã ký kết với
các nước cũng như theo thông lệ quốc tế, nhất là các thỏa ước theo WTO.
4. Chính sách ngoại thương của Việt Nam:
a) Quan điểm phát triển ngoại thương:
- Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương, có chính sách mở rộng giao
lưu hàng hóa với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình
đẳng cùng có lợi theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; khuyến khích
các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu theo quy định của pháp
luật; có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất
khẩu có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch vụ thương mại; hạn chế nhập
khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng
nhu cầu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết
bị, công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại để phát triển sản xuất, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Chính phủ quy định các chính sách cụ thể về ngoại thương trong từng thời
kỳ và chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia
phát triển ngoại thương
b) Về quyền hoạt động kinh doanh XNK của doanh nghiệp:
- Về hoạt động thương mại với nước ngoài được quy định tại luật Thương
mại “Thương nhân chỉ được hoạt động thương mại với nước ngoài nếu có
đủ các điều kiện do chính phủ quy định sau khi đã đăng ký với các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền”.
- Về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu được cụ thể hóa ở của Nghị định

12-2006/NĐ-CP: “ Thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” mà không phải xin phép XNK trừ
những mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu và những hàng hóa xuất nhập
khẩu có điều kiện. Đối với xuất khẩu thì khuyến khích thương nhân Việt
Nam thuộc mọi thành phần kinh tế xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa mà
pháp luật không cấm, không phụ thuộc vào ngành nghề đã đăng ký kinh
doanh.
9
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
c) Định hướng phát triển XK giai đoạn 2000 – 2010:
- Theo tinh thần chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ
tướng chính phủ về Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ thời kỳ 2001-2010 thì: “Mục tiêu hành động của thời kỳ này là tiếp
tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng có
chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu, góp
phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ thời kỳ 2001-2010 phải đạt mức tăng trưởng bình quân từ 15%
năm trở lên”
- Vì cơ cấu hàng xuất khẩu của chúng ta mặt hàng thô vẫn còn chiếm tỷ
trọng cao nên chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001 -2010 định ra rằng “Cơ
cấu xuất khẩu phải được chuyển dịch mạnh theo hướng tăng các sản phẩm
chế biến, chế tạo, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất
xám cao; bên cạnh đó phải quan tâm khai thác các mặt hàng chủ yếu sử
dụng nguyên, vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động mà thị trường trong,
cũng như ngoài nước có nhu cầu; đồng thời phải khai thác mọi nguồn
hàng có khả năng xuất khẩu”.
- Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2010 còn nêu lên các vấn đề về cơ
sở hạ tầng, về qui hoạch sản xuất và thị trường xuất khẩu như sau:
+ Chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản phẩm xuất

khẩu; giảm xuất khẩu hàng chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu
bằng công nghệ mới; giảm gia công, đẩy mạnh sản xuất hàng XK sử dụng
nguyên, vật liệu chất lượng cao trong nước với công nghệ mới; cải thiện cơ
sở hạ tầng cơ sở nuôi, trồng, sử dụng các loại giống cây, con có sản lượng,
chất lượng cao và công nghệ chế biến thích hợp đi đôi với các biện pháp
bảo vệ môi trường.
+ Phải có qui hoạch vùng nguyên liệu cho từng nhóm sản phẩm, từng bước
xây dựng tiêu chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng hóa xuất khẩu
với nhãn hiệu “sản xuất tại Việt Nam”.
- Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của thị
trường thế giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã hàng hóa. Mỗi
loại hàng hóa phải hình thành được thị trường chính, chủ lực và tập trung
khả năng mở rộng các thị trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang
các thị trường khác theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ buôn
bán; phải có đối sách cụ thể với từng thị trường và từng bước giảm dần
việc xuất khẩu qua các thị trường trung gian. Định hướng chung là tận
dụng mọi khả năng để duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường
đã có ở Châu Á, đặc biệt là thị trường Nhật, đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu
10
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
trực tiếp vào các thị trường sức mua lớn như Mỹ, Tâu Âu, thâm nhập, tăng
dần tỷ trọng XK vào các thị trường Đông Âu, Nga và khu vực Châu Mỹ,
Châu Phi.
d) Chính sách nhập khẩu của Việt Nam:
* Nguyên tắc của chính sách NK:
Vì nền công nghiệp của nước ta còn non trẻ, rất cần thiết phải có sự bảo hộ
của Nhà nước thông qua chính sách hạn chế nhập khẩu, nhưng việc gia
nhập ASEAN, APEC và đàm phán gia nhập WTO đòi hỏi chính sách nhập
khẩu phải đáp ứng yêu cầu mở cửa kinh tế đất nước của các tổ chức này,
việc mở cửa kinh tế sẽ giúp nước ta mau chóng hội nhập với tiến trình khu

vực hóa và quốc tế hóa kinh tế toàn cầu. Do đó việc NK phải được thực
hiện theo các nguyên tắc sau đây:
- Sử dụng ngoại tệ với tinh thần tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- Dành ưu tiên cho việc nhập khẩu tư liệu sản xuất đồng thời có chú ý thích
đáng nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân.
- Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất khẩu
- Kết hợp giữa nhập khẩu và xuất khẩu
- Xây dựng thị trường nhập khẩu ổn định vững chắc và lâu dài
* Chính sách NK của Việt Nam:
Chính sách NK của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010 được đề ra cụ thể như
sau:
- Nhập khẩu phải được định hướng chặt chẽ; tăng trưởng bình quân của
nhập khẩu cả thời kỳ 2001-2010 được duy trì ở mức 14% năm.
- Chú trọng nhập khẩu công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu của các
ngành chế biến nông, lâm, thủy hải sản và sản xuất hàng công nghiệp nhẹ;
đồng thời phải gắn với việc phát triển, sử dụng các công nghệ, giống cây
con và vật liệu mới được sản xuất trong nước.
- Về cơ cấu hàng NK:
+ Thiết bị máy móc: gồm máy móc, nguyên vật liệu, công nghệ được nhập
khẩu bảo đảm sự hoạt động hoàn chỉnh của một công trình. Nhập khẩu thiết
bị toàn bộ cần chú ý cả việc nhập khẩu bí quyết công nghệ, chuyên gia lắp
đặt và hướng dẫn sử dụng. Khi nhập khẩu thiết bị, phải cố gắng đạt được
yêu cầu theo thứ tự ưu tiên sau:
. Kỹ thuật tiên tiến, chất lượng tốt.
. Cho phép sản xuất sản phẩm xuất khẩu với khả năng cạnh tranh cao.
. Giá cả phải chăng, có điều kiện thanh toán thuận lợi.
. Phù hợp với điều kiện sản xuất và trình độ tay nghề của công nhân.
. Mang lại hiệu quả kinh tế cao.
11
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung

+ Nguyên nhiên vật liệu: Hàng năm tỉ trọng nhập khẩu nhóm ngành hàng
này rất cao vì để thỏa mãn 40-90% nhu cầu nguyên liệu trong nước: trên
90% xăng dầu, 80% phân bón, thuốc trừ sâu Nguyên nhiên vật liệu được
nhập khẩu dựa vào nhu cầu thực tế của sản xuất đồng thời phải theo quan
điểm tận dụng nguyên nhiên vật liệu trong nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu
quả.
+ Hàng tiêu dùng: nhập khẩu hàng tiêu dùng sẽ được thực hiện để đáp ứng
nhu cầu trong nước đồng thời cũng phải phù hợp với trình độ phát triển về
kinh tế, văn hóa và xã hội trong nước như sau:
. Cơ cấu hàng tiêu dùng trong toàn bộ kim ngạch nhập khẩu ở mức độ vừa
phải.
. Nhập khẩu có tác dụng khuyến khích và bảo vệ sản xuất hàng tiêu dùng
trong nước. Khuyến khích sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu
dùng là chiến lược kinh tế cơ bản của nhà nước ta.
. Cân nhắc mặt hàng tiêu dùng nhập. Chỉ nên nhập khẩu khi thật cần thiết,
chỉ nhập khẩu những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, không nhập
khẩu những hàng xa xỉ, không phù hợp với mức sống của nhân dân ta.
+ Ngoài ba nhóm ngành hàng nhập khẩu thường hay được sử dụng như
trên. Trong giai đoạn 2000 - 2010, để nền kinh tế có thể phát triển được
chúng ta cần phải nhập khẩu cả dịch vụ và bằng phát minh sáng chế nữa.
II. THỰC TRẠNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000 – 2010:
1. Giai đoạn 2000 – 2006 (trước khi gia nhập WTO):
- Về tổng hàng hóa xuất khẩu: được thể hiện qua bảng sau:
Năm Xuất khẩu (triệu USD)
2000 14482,7
2001 15029,2
2002 16706,1
2003 20149,3
2004 26485,0

2005 32447,1
2006 39826,2
+ Như vậy trong 10 năm, kể từ năm 1997 thì xuất khẩu của Việt Nam đã có
những bước tiến vượt bậc. Nếu từ năm 1997 đến 2003, phải mất đến 6 năm
thì kim ngạch xuất khẩu mới tăng gấp đôi thì chỉ cần 3 năm từ 2003
đến 2006, kim ngạch xuất khẩu của chúng ta lại tăng gấp đôi từ 20 tỷ
12
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
USD lên 40 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2006 được xem là cột mốc đánh dấu
bước phát triển mới củaViệt Nam về kinh tế. Đây cũng là năm đầu
tiên chúng ta có 09 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, đó
là: Dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, gạo, điện tử, đồ gỗ, cao su, cà phê.
+ Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hữu hình giai đoạn 2001-
2005 đạt bình quân 17.4% /năm và ngày càng chiếm tỷ trọng cao
trong GDP. Trong khi đó thì xuất khẩu về dịch vụ trong giai đoạn
này cũng tăng bình quân là 15,7% /năm.
+ Về thị trường xuất khẩu : giai đoạn này, chúng ta đã xuất đi trên
230 nuớc trên thế giới. Trong đó thị trường tiêu thụ chủ yếu là
châu Á với kim ngạch: 56,067 triệu USD chiếm 50.6% tổng lượng xuất
khẩu trong giai đoạn này, kế đến là thị trường châu Âu và châu Mỹ
với kim ngạch lần lượt là 22,765 triệu USD và 20,995 triệu USD.
+ Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tham gia mạnh
vào hoạt động xuất khẩu: các doanh nghiệp có vốn FDI năm
2004 xuất khẩu 14,486 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 54.6%), năm
2005 xuất khẩu 18,553 tỷ USD (chiếm57.6% kim ngạch xuất
khẩu). Hiện có trên 35.700 doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia
xuất khẩu, có doanh nghiệp tư nhân có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu
USD/năm.
- Về tổng hàng hóa nhập khẩu:
+ Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu không ổn

định. Từ năm 2000 đến 2003, tỉ lệ nhập siêu của nước ta liên tục gia tăng,
từ8% lên đến 25.3%, sau đó giảm dần còn 10.4% năm 2006. Được thể hiện
cụ thể qua bảng sau:
Năm Tỷ lệ nhập siêu (%)
2000 8,00
2001 7,90
2002 18,2
2003 25.3
2004 20,6
2005 14,4
2003 10,4
+ Nhập siêu đang gia tăng mạnh, nếu năm 2000 nhập siêu là 1.154
triệu USD thì năm 2002 là 3.040 triệu USD, năm 2003 đã lên tới 5.051
triệu USD,năm 2004 là 5520 triệu USD.
13
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
+ Theo các chuyên gia kinh tế, tình trạng nhập siêu là do VN thiếu ngành
công nghiệp phụ trợ. Vì trong cơ cấu nhập khẩu, nguyên vật liệu
sản xuất chiếm tỉ trọng lớn, đặc biệt là các ngành dệt may, da giày, điện
tử, gỗ phải nhập nguyên phụ liệu từ 70% - 90%.
+ Trong giai đoạn này, Việt Nam nhập khẩu từ khoảng 150 nước trên
thế giới. Các đối tác nước ta nhập khẩu nhiều nhất đều thuộc khu vực
Châu Á Thái Bình Dương gồm: Trung Quốc, Singapore, Đài Loan,
Nhật Bản, HànQuốc, Thái Lan, Malaysia, Hồng Kông (chiếm khoảng
74%).
+ Trong chính sách về cơ cấu nhập khẩu của nước ta trong thời kỳ này,
định hướng đề ra là: giảm tỷ trọng nhập khẩu từ các nước Châu Á xuống
còn 55% vào năm 2010. Chiến lược phát triển nhập khẩu thời kỳ 2001-
2010 còn đề cập tới việc gia tăng nhập khẩu từ các thị trường công nghệ
như Mỹ, EU, Nhật Bản lên 40% vào năm 2010.

2. Giai đoạn 2007 – 2010 (sau khi gia nhập WTO 4 năm):
- Gia nhập WTO là một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế và có tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế của Việt
Nam. Đây là thời cơ lớn cho nước ta trong hoạt động ngoại thương,
đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã có bước phát triển
mạnh mẽ. Bởi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt
động ngoại thương ở các nước nói chung và Việt Nam nói riêng.
- Sự phát triển của ngoại thương đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới; góp phần tăng tích luỹ nội bộ nền
kinh tế nhờ sử dụng hiệu quả lợi thế so sánh trong trao đổi quốc tế; là động
lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; nâng cao trình độ công nghệ và chuyển
dịch cơ cấu ngành nghề trong nước; tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện
đời sống cho người lao động…
- Sau 4 năm gia nhập WTO, hoạt động ngoại thương của Việt Nam có
nhiều thuận lợi để phát triển. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện tiếp
cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, những hạn chế và rào cản thuế đối với
hàng hoá Việt Nam được cắt giảm theo qui định khi gia nhập của các thành
viên mà không bị phân biệt đối xử; tăng cơ hội thâm nhập thị trường nước
ngoài cho các sản phẩm của nước ta.
+ Về xuất khẩu hàng hoá:
. Năm 2007, xuất khẩu đạt mức cao nhất từ trước đến nay và tăng
trưởng với tốc độ cao. Kim ngạch xuất khẩu đạt 47,7 tỷ USD, tăng 21% so
với năm 2006 (7,9 tỷ USD) và vượt 15,5% so với kế hoạch. Trong đó, khu
vực kinh tế trong nước chiếm 42% và tăng 22,3%; khu vực FDI chiếm 58%
và tăng 18,4%. Có 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD.
14
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
. Năm 2008, giá trị xuất khẩu hàng hoá ước đạt 65 tỷ USD, tương
đương 73% GDP, tăng 33,9% so với năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá của năm 2008 đạt mức cao gấp nhiều lần so với những năm trước

đó. Khu vực doanh nghiệp FDI đạt kim ngạch xuất khẩu 37,3 tỷ USD (kể
cả dầu khí), chiếm tỷ trọng 57,4% tổng kim ngạch cả nước và tăng 34,6%
so với năm 2007. Doanh nghiệp vốn trong nước chỉ đạt 27,7 tỷ USD,
chiếm tỷ trọng 42,6% tổng kim ngạch cả nước và tăng 36,5% so với năm
2007.
* Như vậy, năm 2007 – 2008, tốc độ xuất khẩu tăng nhanh hơn 2 lần
so với tốc độ tăng GDP; tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu cao gấp
1,6 lần so với tổng giá trị GDP. Gia nhập WTO, tạo nhiều điều kiện thuận
lợi cho Việt Nam duy trì và mở rộng cả thị trường truyền thống và thị
trường xuất nhập khẩu lớn của thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản, đến năm
2008 Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 230 nước trên thế giới, trong
đó hàng hoá của ta xuất sang 219 nước.
. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 đạt khoảng 56,6 tỷ
USD, giảm 9,7% so với năm 2008 và bằng 87,6% kế hoạch (kế hoạch điều
chỉnh tăng 3% của Quốc hội). Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,85 tỷ USD, chiếm 52,8% kim ngạch xuất khẩu
của cả nước, giảm 13,5% so với năm 2008; của khu vực doanh nghiệp
100% vốn trong nước đạt 26,7 tỷ USD, chiếm 47,2%. giảm 5,1%, so với
năm 2008. Kết quả, kim ngạch xuất khẩu bình quân năm 2009 ước tính đạt
gần 4,72 tỷ USD/tháng, thấp hơn 520 triệu USD so với mức bình quân năm
2008 (5,22 tỷ USD/tháng).
. Trong năm 2009, xuất khẩu của khu vực FDI vẫn giữ vị trí quan
trọng. Doanh nghiệp FDI tham gia xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chủ lực
và chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu nhiều mặt hàng, đặc biệt là nhóm
hàng công nghiệp chế biến. Một số mặt hàng khối FDI chiếm tỷ trọng lớn
là: túi xách, va li mũ ô dù, hàng dệt may, giày dép, điện tử, máy tính, máy
móc, thiết bị, dây cáp điện. Nhóm hàng công nghiệp chế biến là nhóm hàng
chiếm tỷ trọng cao nhất (63,5%) trong xuất khẩu của Việt Nam hiện nay và
tỷ trọng xuất khẩu của FDI cũng chiếm cao nhất.
. Cũng trong năm này, duy nhất xuất khẩu sang thị trường khu vực

Châu Phi có mức tăng trưởng dương, ước khoảng 17,5% do tăng xuất khẩu
gạo sang thị trường Bờ biển Ngà và tái xuất khẩu vàng sang Nam Phi, còn
các thị trường khác đều giảm, giảm mạnh nhất là thị trường châu Đại
dương (khoảng 44,8%) do lượng dầu thô xuất khẩu sang Ôxtrâylia giảm, cụ
thể như sau:
15
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
Thị trường Châu Á đạt kim ngạch 25,27 tỷ USD, giảm 13,1% so với
năm 2008, trong đó: Thị trường Nhật Bản đạt 6,2 tỷ USD, giảm 27,4%, thị
trường ASEAN đạt 8,6 tỷ USD, giảm 16,2% so với năm 2008. Thị trường
Trung Quốc, Hàn Quốc và Hồng Kông tăng tương ứng 5,4%; 15,7% và
17%.
Thị trường châu Âu đạt 12,28 tỷ USD, giảm 0,9 % so với năm 2008,
trong đó: Khối EU đạt kim ngạch 9,2 tỷ USD, giảm 14,9%; khối các nước
Tây Âu, Bắc Âu và Đông Âu, tăng 98% do tái xuất khẩu vàng sang Thuỵ
sỹ trong những tháng đầu năm.
Thị trường châu Mỹ đạt 12,94 tỷ USD, giảm 7,2% so với năm 2008,
trong đó: Thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch 11,2 tỷ USD, giảm 5,5%;
Canada đạt 634 triệu USD, giảm 3,4%.
Thị trường Châu Phi đạt 986 triệu USD, tăng 17,5% so với năm
2008.
Thị trường Châu Đại dương đạt 2,27 tỷ USD, giảm 47,2% so với
năm 2008, chủ yếu do xuất khẩu dầu thô xuất khẩu sang Ôxtrâylia giảm
48%.
. Năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 71,6 tỷ
USD tăng 25,5% so với năm 2009, về giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng
14,5 tỷ USD. Năm 2010 là năm thành công của các doanh nghiệp xuất
khẩu có vốn đầu tư nước ngoài đạt 38,8 tỷ USD (tính cả dầu thô) tăng
27,8% so với năm 2009 và chiếm 54,2% tổng kim ngạch của cả nước, xuất
khẩu của các doanh nghiệp trong nước đạt 32,8 tỷ USD tăng 22,7% so với

năm 2009.
. Nhiều mặt hàng trong năm 2010 tăng mạnh về số lượng xuất khẩu,
giúp duy tăng trưởng xuất khẩu và thể hiện được quy mô mở rộng sản xuất.
Lượng hàng công nghiệp tăng lên đã góp phần bù đắp cho lượng hàng
khoán sản, dầu thô giảm mạnh (dầu thô và than đá giảm 3,8 tỷ USD). Giá
xuất khẩu năm 2010 của nhiều mặt hàng cũng tăng mạnh, trong đó nhiều
mặt hàng được hưởng lợi từ tăng giá thế giới như gạo, cà phê, cao su, dầu
thô, than….một số hàng hóa tăng giá khá do hàm lượng chế biến tăng lên
như dệt may, thủy sản, gỗ, dây và cáp điện,…
. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu năm 2010 có xu hướng tăng ở ngành
công nghiệp chế tạo và hàng hóa có hàm lượng chất xám cao. Tỷ trọng
hàng hóa ngành công nghiệp chế biến so với 2009 tăng mạnh từ 63,4% lên
67,9%, nhóm khoáng sản giảm từ 15,2% xuống 11,1%,…
+ Về nhập khẩu hàng hoá:
16
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
. Giai đoạn này, Việt nam nhập khẩu từ 151 nước trên thế giới. Năm
2007, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 60,8 tỷ USD, tăng 35,5% so
với năm 2006, đứng thứ 41 trên thế giới. Năm 2007 nhập siêu lên trên 13,1
tỷ USD, bằng 27,5% kim ngạh xuất khẩu. Có 3 mặt hàng nhập siêu lớn hơn
2 lần so với năm 2006 là ôtô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc và dầu
mỡ động thực vật, không có mặt hàng nào giảm so với năm 2006 về kim
ngạch.
. Kim ngạch nhập khẩu năm 2008 của Việt nam đạt 84 tỷ USD, tăng
34% so với năm 2007. Trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 28,5 tỷ USD, chiếm 33,9% tổng kim
ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 55,5
tỷ USD, chiếm 66,1% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước và tăng 35,5% so
với năm 2007.
. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc, thiết bị, phụ

tùng, xăng dầu, thép… Thị trường nhập khẩu năm 2008 tập trung chủ yếu
vào Châu Á, trong đó nổi bật là các thị trường Trung Quốc, Singapore, Đài
Loan, Hàn Quốc, Thái Lan…
.Thời gian này, chúng ta cũng đã thực hiện tích cực các biện pháp
kiềm chế nhập khẩu như tăng thuế nhập khẩu với một số mặt hàng như ôtô
và linh kiện ôtô, vàng; kiểm soát nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu; tiết giảm
tiêu dùng và cắt giảm đầu tư…đã góp phần kiềm chế nhập khẩu và giảm
nhập siêu một cách hiệu quả. Tuy việc nhập khẩu và tỷ lệ nhập siêu đang
được kiềm chế, nhưng vẫn ở mức cao. Cụ thể mức nhập siêu năm 2007:
14,3 tỷ USD, tăng 2,8 lần năm 2006; năm 2008: nhập siêu là 17,5 tỷ USD.
. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2009 khoảng 68,8 tỷ
USD, giảm 14,7% so với năm 2008 (năm 2008 so với 2007 tăng 28,7%),
trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87 tỷ USD,
chiếm tỷ trọng 36,1% tổng KNNK cả nước, giảm 10,8%; Kim ngạch nhập
khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 43,96 tỷ USD,
chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm 16,8% so với năm 2008.
. Nhập khẩu hàng hoá năm 2009 giảm chủ yếu do sản xuất trong
nước giảm và giá hàng hóa nhập khẩu cũng giảm hơn năm 2008, nhất là
trong những tháng đầu năm. Tuy nhiên, nhập khẩu đã tăng dần trong những
tháng cuối năm, do sự phục hồi của nền kinh tế và chính sách kích cầu của
Chính phủ có tác dụng, bên cạnh đó có tâm lý tranh thủ nhập khẩu để dự
trữ khi giá nhập khẩu thấp. Tính chung cả năm 2009 giá trị nhập khẩu của
hầu hết các nhóm mặt hàng là nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước và
xuất khẩu và một số mặt hàng tiêu dùng giảm so với năm 2008, như:
nguyên phụ liệu dệt may da giầy giảm 17,8%, gỗ và sản phẩm gỗ giảm
17
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
19,1%, chất dẻo nguyên liệu giảm 4,4%, dây điện và cáp điện giảm 20,8%,
thuỷ sản giảm 10,1%, dầu mỡ động thực vật giảm 27,4%, phôi thép giảm
37,4% Tuy nhiên, vẫn có một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng

cao, chủ yếu trong những tháng cuối năm như ô tô nguyên chiếc, rau quả
và việc nhập khẩu vàng đã làm cho tốc độ nhập khẩu tăng cao hơn tốc độ
xuất khẩu. Bên cạnh đó, nhập khẩu nhiều mặt hàng phục vụ nhu cầu sản
xuất, kinh doanh cũng tăng mạnh về lượng như: phân bón tăng 41,9%; thép
các loại tăng 13,8%; kim loại thường khác tăng 14,8%; sợi các loại tăng
19,5%; chất dẻo nguyên liệu tăng 25,8%; cao su tăng 64,7%; giấy tăng
15,8% đã làm tăng nhập siêu.
. Về thị trường nhập khẩu năm 2009, Châu Á vẫn chiếm tỉ trọng lớn
nhất là 77,8% kim ngạch nhập khẩu cả nước. Trong đó, từ ASEAN chiếm
hơn 19,8%, các nước Đông Á chiếm 53,9%, riêng Trung Quốc chiếm hơn
23,2%.
. Về nhập khẩu năm 2010 của cả nước ước đạt 84 tỷ USD, tăng 20%
so với năm 2009, về giá trị tương đương tăng 14 tỷ USD, trong đó doanh
nghiệp trong nước nhập khẩu 47,5 tỷ USD chiếm 56,6% tổng kim ngạch
tăng 8,3% so với năm 2009, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
nhập khẩu 36,5 tỷ USD chiếm 43,4% tổng kim ngạch và tăng 39,9% so với
năm 2009. Nhập siêu cả nước ước đạt khoảng 12,3 tỷ USD, thấp hơn so với
dự báo từ đầu năm 13,5 tỷ USD bằng 17,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước, đạt mục tiêu Chính phủ đã đề ra.
. Năm 2010, một số hàng hóa cần nhập khẩu giảm khá mạnh năm
qua là: xăng dầu giảm 28,6%, khí đốt hóa lỏng giảm 14%, phân bón giảm
22%, thép các loại giảm 10%, ô tô nguyên chiếc giảm 45%,…chủ yếu do
sản xuất trong nước phần nào đáp ứng được nhu cầu.
- Như vậy, 4 năm sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), thì đã 3 phải năm chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu (từ năm 2008 - 2010), chỉ có duy nhất một năm (2007) là thuận
lợi, tuy nhiên, những mặt "tích cực" và "tiêu cực" từ WTO cũng đã bắt đầu
bộc lộ.
+ Về thương mại, Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế - Bộ Công
Thương cho rằng: Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của

WTO, thương mại Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên cả 2 hướng xuất nhập
khẩu và thương mại nội địa. Số liệu từ Viện Quản lý Kinh tế Trung ương
đưa ra đầu tháng 4/2011 cho thấy, năm 2007 xuất khẩu của Việt Nam đạt
48,6 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006; tiếp đó năm 2008 xuất khẩu đạt
62,7 tỷ USD, tăng 29,1% so với năm 2007. Năm 2009, chịu tác động từ
khủng hoảng tài chính thế giới, xuất khẩu của Việt Nam đạt 57,1 tỷ USD,
18
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
giảm 8,9% so với năm 2008 nhưng vẫn cao hơn năm 2006 khi Việt Nam
chưa vào WTO là 45,8% và năm 2010 nhờ giá nhiều nhóm mặt hàng và
nhu cầu thế giới tăng trở lại nên xuất khẩu của Việt Nam lại tiếp tục tăng
trưởng 26,4%. Tuy nhiên, kết quả này chưa được như những mong muốn
và kỳ vọng trước đó, vì nhập siêu vẫn là vấn đề "nóng" cần được quan tâm.
Cụ thể, cũng theo số liệu từ Viện Quản lý Kinh tế Trung ương đưa cho
thấy, nếu như năm 2006 Việt Nam chỉ nhập siêu 5,5 tỷ USD thì đến năm
2007 (sau hơn 1 năm gia nhập WTO) nhập siêu của Việt Nam là 14,2 tỷ
USD và năm 2008 con số này đã là 18 tỷ USD, năm 2009 và 2010 mặc dù
đã có nhiều biện pháp kiềm chế nhập siêu nhưng kết quả nhập siêu vẫn lần
lượt là 12,8 và 12,6 tỷ USD.
+ Tích cực hơn so với xuất nhập khẩu là sự phát triển nhanh của thị trường
nội địa. Theo Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương: Kể từ
sau khi gia nhập WTO, dịch vụ phân phối tại Việt Nam đã đạt được mức
tăng trưởng đáng kể. Phân phối- bán lẻ đóng góp khoảng 14% GDP, sử
dụng hơn 5 triệu lao động, cao nhất trong các ngành dịch vụ. Mức lưu
chuyển hàng hoá bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam từ năm 2006-2008 đã
tăng 25%/ năm, cao hơn mức 18,3%/ năm của giai đoạn 2001-2005. Năm
2009 và 2010 là 2 năm có nhiều khó khăn do tác động khủng hoảng tài
chính toàn cầu, nhưng theo số liệu thống kê từ Tổng cục Thống kê (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) doanh số bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
của Việt Nam vẫn tăng lần lượt là 18,6% và 24,5% (nếu loại trừ yếu tố giá

thì tăng 12% vào năm 2009 và 14% vào năm 2010). Việt Nam cũng được
đánh giá là một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất trên thế giới.
Cùng với nó, sau khi gia nhập WTO, nhiều tập đoàn bán lẻ trên thế giới đã
đặt chân đến Việt Nam mang theo những thương hiệu nổi tiếng trên thế
giới, tạo ra một nguồn cung hàng hóa phong phú, đáp ứng tối đa nhu cầu
mua sắm của người dân. Thương mại tiêu dùng có sự chuyển dịch cơ cấu
truyền thống sang hiện đại, chuyển dịch từ đơn lựa chọn sang đa lựa chọn.
+ Với hình ảnh một Việt Nam phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng
GDP nhiều năm liền luôn ở mức cao, thu nhập GDP bình quân theo đầu
người của người dân Việt Nam cũng đã có những sự cải thiện đáng kể. Từ
704,37 USD/ người vào năm 2006 đến năm 2010 đã là 1.133,79 USD/
người. Việt Nam đã cơ bản thoát khỏi nước có thu nhập thấp và được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao về tốc độ xóa đói giảm nghèo.
- Bên cạnh những tác động thuận lợi khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng
gặp phải những thách thức như: Gia nhập WTO đòi hỏi tự do hoá thương
mại và áp dụng các nguyên tắc tối huệ quốc và đối xử quốc gia, điều này
tất yếu dẫn đến tình trạng cạnh tranh ngày càng quyết liệt ngay trên thị
19
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
trường nội địa. Đặc biệt các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã quen với việc
sản xuất những hàng hoá và dịch vụ phục vụ thị trường nội địa trong điều
kiện có bảo hộ bằng thuế quan hoặc các hàng rào phi thuế quan thì nay phải
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, đây là một thách thức vô cùng
lớn, nếu không có lợi thế tất yếu sẽ bị loại bỏ, trước hết là các doanh
nghiệp thương mại. Như vậy sẽ gia tăng sức ép cạnh tranh quốc tế khắc
nghiệt ngay trong thị trường nội địa. Các cơ sở xuất khẩu của Việt Nam
chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả với các rào cản thương mại và những
biến động khó lường của thị trường thế giới, bởi các rào cản thương mại
quốc tế được các nước nhập khẩu dựng lên ngày càng tinh vi, phức tạp và
tỷ giá hối đoái biến động trên thị trường thế giới theo hướng bất lợi cho

hoạt động xuất khẩu. Năng lực cạnh tranh phần lớn sản phẩm của ta là
thấp. Hiện nay các mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu hàng đầu của Việt
nam vẫn là các mặt hàng sử dụng tài nguyên thiên nhiên và công nghiệp
nhẹ, sử dụng lao động rẻ. Nhập siêu của Việt Nam hiện còn ở mức cao tác
động xấu đến cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế. Mức thuế
quan của Việt Nam còn tương đối cao so với các nước trong khu vực cũng
như thế giới. Theo nguyên tắc của WTO là chỉ sử dụng thuế quan để bảo
hộ sản xuất trong nước, do vậy Việt Nam phải xây dựng lộ trình cắt giảm
các hàng rào phi thuế quan một cách hợp lý, đây cũng là thách thức đối với
các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam…
3. Nhận định chung về kết quả đạt được của thương mại quốc tế Việt
Nam giai đoạn 2000 – 2010:
a) Những thành tựu đạt được:
- Trong vòng 10 năm giai đoạn 2000 đến nay, hoạt động ngoại thương của
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Việt Nam chính thức
trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại Thế Giới vào năm
2007.
+ Tỷ trọng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 10 năm qua tăng cao. Năm
2000, tổng giá trị xuất nhập khẩu mới chỉ là 30 tỷ USD (Xuất khẩu: 14,5 tỷ
USD) thì đến hết năm 2009, con số này đã lên tới 125 tỷ USD (trong đó
xuất khẩu là 56 tỷ USD).
+ Có rất nhiều mặt hàng đã đạt được con số trên 1 tỷ USD như: gạo, quần
áo, giày dép, dầu thô, than đá, thủy sản, cà phê, cao su, đồ gỗ…
+ Những thị trường mà Việt Nam có giao dịch ngày càng mở rộng, thể
hiện rõ xu hướng tìm kiếm thị trường mới của các doanh nghiệp Việt Nam.
+ Hệ thống các cửa khẩu quốc tế ngày cảng được mở rộng và hoàn thiện.
Tạo điều kiện tích cực trong quá trình xuất nhập khẩu. Hệ thống cơ sở hạ
tầng dần được hoàn thiện.
20
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung

+ Việc quản lý xuất nhập khẩu đã có những tiến bộ nhất định. Đặc biệt,
hiện nay đã áp dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý hải quan, giúp
giảm thời gian và nâng cao hiệu quả việc lưu thông hàng hóa.
b) Một số hạn chế:
Tuy trong giai đoạn 2000 đến nay, hoạt động ngoại thương của
Việt Nam đã có nhiều thành tựu đáng kể, nhưng cùng đi song song với
những thành tựu đạt được vẫn còn tồn đọng những mặt hạn chế. Cụ thể như
sau:
- Những hạn chế từ phía Nhà nước và chính sách:
+ Những năm gần đây hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đang gặp khá
nhiều vấn đề về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Cụ thể, chiến lược
cạnh tranh của đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều mang tính thụ động,
dựa vào các lợi thế có sẵn hay lợi thế "trời cho" như lao động, tài nguyên,
vị trí địa lý, vị trí độc quyền, trợ cấp riêng rẽ, lãi suất ưu đãi… Rất ít
doanh nghiệp dám theo đuổi một chiến lược chủ động. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là
nhiều chính sách ở tầm vĩ mô đã góp phần tạo nên tâm lý thụ động và ỷ lại
ở nhiều doanh nghiệp. Rõ ràng là không thể nói đến việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh khi môi trường kinh doanh do chính sách
vĩ mô tạo ra không có được những tiền đề thúc đẩy cạnh tranh phát triển.
+ Tài liệu tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam do UNIDO phối
hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư soạn thảo đã chỉ ra rất đúng rằng môi
trường kinh doanh hiện nay ở Việt Nam là "một môi trường kinh doanh
manh mún và kém phát triển, một cơ cấu kích thích bị bóp méo, sự hỗ trợ
và bảo hộ tràn lan của Chính phủ đối với nhiều doanh nghiệp và sức ép
cạnh tranh hạn chế".
+ Mọi biện pháp đều nhắm vào đẩy mạnh xuất khẩu:
Đồng ý rằng, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam chúng
ta thì xuất khẩu là một yếu tố quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Nhưng xuất khẩu bao nhiêu và xuất khẩu như thế nào mới là vấn đề

quyết định chứ không phải xuất khẩu theo quan điểm cho rằng: “tăng
trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với tăng trưởng xuất khẩu”, và để đạt tăng
trưởng cao thì cần thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn nữa.
• Bằng chứng thứ nhất nằm ở cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của ta. Xuất khẩu
đã tăng trưởng rất nhanh trong thời kỳ sau đổi mới, trung bình là 19%/năm.
Nhưng cơ cấu xuất khẩu lại hầu như không có thay đổi quan trọng trong
suốt thời gian đó, và chỉ thiên về sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến (như
lúa gạo, cà phê, thủy sản) và khoáng sản (chủ yếu là dầu thô). Những mặt
hàng nông nghiệp và khoáng sản thô này luôn có mặt trong nhóm mười
21
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta, và chiếm đến trên 50% tổng giá trị xuất
khẩu hơn 20 năm qua. Hàng công nghiệp chế biến lọt vào trong danh sách
này là ba sản phẩm may, dệt và giày dép, chiếm hơn 20% tổng giá trị xuất
khẩu. Cần lưu ý là các mặt hàng công nghiệp chế biến này có hàm lượng
giá trị gia tăng rất thấp. Các mặt hàng chủ yếu khác nằm ngoài tốp 10 này
cũng lại là các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến (như hạt điều, chè, cao
su) và than.
• Lý do thứ hai là các mối liên hệ ngược trở lại (backward linkages) giữa
khu vực xuất khẩu với phần còn lại của nền kinh tế còn rất yếu ở nước ta.
Trước tiên, cần thấy rằng ta đã thất bại trong việc xây dựng mạng lưới các
ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ trực tiếp cho các hoạt động sản xuất để
xuất khẩu. Một ví dụ dễ thấy về tình trạng này là trong ngành lúa gạo. Do
sự yếu kém của công nghiệp xay xát, chế biến, một tỷ trọng lớn gạo Việt
Nam xuất đi không được xử lý thích hợp nên giá gạo Việt Nam bao giờ
cũng thấp hơn giá gạo Thái Lan từ 15-20%. Trong các ngành khác như cà
phê, rau quả, thủy sản tình hình cũng tương tự. Giá xuất khẩu thấp hơn có
nghĩa là ta phải chịu thiệt thòi nhiều hơn cho cùng một lượng các nguồn lực
khan hiếm dùng trong quá trình sản xuất so với đối thủ.
• Lý do thứ ba nằm ở mối quan hệ lỏng lẻo giữa chủ trương khuyến khích

xuất khẩu và chủ trương công nghiệp hóa ở Việt Nam. Không giống như
các nước Đông Á khác, nơi mà tăng trưởng kinh tế gắn liền với và được
kéo đồng thời bởi cả hai quá trình tăng trưởng xuất khẩu và công nghiệp
hóa thì quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế Việt Nam diễn ra rất chậm
chạp. Mặc dù con số thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng công nghiệp là
khá cao, nhưng cần lưu ý rằng nó bị “kéo” chủ yếu bởi tốc độ tăng trưởng
của ngành khai khoáng (chủ yếu là dầu thô). Cần lưu ý thêm rằng chiến
lược công nghiệp hóa dựa quá nhiều vào khai thác dầu thường không thành
công, mà thí dụ điển hình là hai nước xuất khẩu dầu lửa lớn Nigeria và
Venezuela. Bên cạnh đó, các ngành dệt may, da giày, chế biến lương thực
và thực phẩm đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất so với các ngành công
nghiệp chế biến khác. Tuy nhiên, những ngành này sử dụng phần nhiều là
lao động phổ thông từ nông thôn, thường chỉ được học nghề tại chỗ trong
nhà máy trong một thời gian ngắn. Máy móc và thiết bị thường rất cũ kỹ,
lạc hậu (thí dụ trong ngành chế biến lương thực), với quy mô sản xuất nhỏ
bé. Vì vậy, chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề trong những ngành này, và
vì thế khó mà thuyết phục được rằng tăng trưởng nhanh của những ngành
này đã đóng góp quan trọng vào tốc độ công nghiệp hóa ở ta.
• Lý do cuối cùng nằm ở việc phân bổ không hợp lý các nguồn lực khan
hiếm sang cho khu vực sản xuất để xuất khẩu. Như đã nói, vai trò của xuất
22
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
khẩu dường như đã được đánh giá cao quá mức ở nước ta, thể hiện qua các
mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, năm sau thường phải cao hơn năm trước,
được thực hiện bằng tất cả các biện pháp khuyến khích có thể có, mà bỏ
quên việc phân tích lợi - hại đi kèm với quá trình khuyến khích xuất khẩu.
Chính việc khuyến khích và trợ cấp xuất khẩu như vậy đã bóp méo giá cả
là yếu tố phản ánh mức độ khan hiếm tương đối của các nguồn lực sản
xuất, tập trung sản xuất để xuất khẩu ở những ngành Việt Nam không hoàn
toàn có lợi thế, Dẫn đến làm giảm tổng phúc lợi trong xã hội vì các nguồn

lực đã bị sử dụng không hiệu quả.
• Hơn nữa cần phải tỉnh táo nhìn nhận lại con số tăng trưởng ngoạn mục
của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong thời gian qua. Hầu như các
nhà làm chính sách đều bỏ qua hoặc xem nhẹ thực tế là những mặt hàng
xuất khẩu này, như da giày, may mặc, đều có giá trị gia tăng rất thấp, chủ
yếu nằm ở tiền công gia công, vốn đã ở mức rẻ nhất trong khu vực. Có một
phân tích cho thấy, Việt Nam chỉ được hưởng tổng cộng khoảng 5% lợi
nhuận của một cái áo sơ mi xuất khẩu. Như vậy, nếu xét đến giá trị gia tăng
thì đóng góp từ tăng trưởng xuất khẩu lên tăng trưởng kinh tế trên thực tế
sẽ nhỏ hơn nhiều so với những gì vẫn tưởng nếu chỉ dựa vào doanh số xuất
khẩu danh nghĩa. Và điều quan trọng hơn ở đây là, vì tỷ lệ giá trị gia tăng
thấp nên Việt Nam buộc phải duy trì tăng trưởng xuất khẩu mạnh các mặt
hàng này nhằm tăng tỷ trọng giá trị gia tăng của chúng góp vào GDP. Mà
điều này có nghĩa là ta phải xuất khẩu ồ ạt (bằng các biện pháp trợ cấp xuất
khẩu chẳng hạn) các mặt hàng giày dép, quần áo vào các thị trường chính
quốc tế như Mỹ và EU, tức là sẽ luôn đối mặt với hàng rào tự vệ thương
mại do các nước này dựng lên.
* Nói tóm lại, việc đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương đúng đắn. Tuy
nhiên, Nhà nước cần có các biện pháp đi kèm để đảm bảo việc xuất khẩu
tận dụng tối đa và không gây lãng phí nguồn lực của xã hội, đồng thời hỗ
trợ các ngành nghề trực tiếp, gián tiếp liên quan đến quá trình xuất khẩu
được phát triển. Có như vậy, tăng trưởng xuất khẩu mới có đầy đủ ý nghĩa
nhất.
+ Về chính sách tiền tệ và tỷ giá của nước ta:
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là nhằm trợ giúp vốn đồng thời hỗ trợ
rủi ro cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Sự hỗ trợ trong việc đảm bảo tài
chính tín dụng được thể hiện qua các hình thức:
• Thực hiện biện pháp cấp tín dụng xuất khẩu:
Vốn bỏ ra cho việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu thường rất lớn. Người
xuất khẩu phải có vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện hợp đồng

xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cần phải có vốn để kéo dài khoản tín
23
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
dụng ngắn hạn dành cho khách hàng. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vấn đề vốn đang là vấn đề rất khó khăn nên cần có sự cung cấp
tín dụng của nhà nước với lãi suất ưu đãi. Cấp tín dụng trực tiếp cho doanh
nghiệp không chỉ đơn thuần là trợ giúp để thực hiện xuất khẩu mà còn giúp
đỡ doanh nghiệp giảm chi phí về vốn cho hàng xuất khẩu và giảm giá thành
xuất khẩu.
• Biện pháp bảo lãnh tín dụng:
Trong điều kiện cho phép, để chiếm lĩnh thị trường một số doanh nghiệp đã
thực hiện bán chịu - trả chậm cho nước ngoài. Việc bán chịu như vậy
thường có rủi ro dẫn đến mất vốn. Trong trường hợp này, để hỗ trợ xuất
khẩu, Nhà nước cần phải phát huy cao hơn hiệu quả của dịch vụ bảo hiểm
xuất khẩu nhằm thực hiện đền bù vốn đã mất của doanh nghiệp để họ yên
tâm hoạt động và giảm được rủi ro. Tuy nhiên, có một số yếu tố tác động
không có lợi cho hoạt động xuất khẩu vẫn tiếp tục tồn tại là:
Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là một trong các yếu tố quyết định
sự thành công của xuất khẩu, thế nhưng ở nước ta việc cung cấp các tín
dụng này, đặc biệt là cung cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu gặp
nhiều trở ngại. Những trở ngại này liên quan tới những thủ tục vay vốn
phiền hà, những quy chế phức tạp về thế chấp, nhất là trong điều kiện thị
trường bất động sản hoạt động rất kém, sự phân biệt đối xử đối với các loại
hình doanh nghiệp, và chưa có cơ chế tái chiết khấu các thương phiếu
• Lãi suất trần ở nước ta đối với vốn lưu động do ngân hàng nhà nước quy
định còn cao hơn so với các nước khác.
• Việc quy định bắt buộc doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải bán ngoại tệ
cho ngân hàng Nhà nước trong điều kiện tỷ giá hối đoái biến động đã
không kích thích được doanh nghiệp.
• Tỷ giá giữa đồng VN với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều

lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao và đã tác động tiêu cực
đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường thế giới.
• Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do trong khi
tổng giá trị xuất nhập khẩu của nước ta đã bằng 160% GDP (số liệu 2008)
thì đây là một vấn đề rất bất lợi vì các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của
ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém
thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền
của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép
ngân hàng cấp…
+ Về cơ sở hạ tầng và thủ tục hải quan:
Cơ sở hạ tầng: Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại
là các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế,
24
Thương mại Quốc tế Việt Nam GV: Giáp Thị Thùy Dung
các đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ
thống liên lạc, viễn thông, cung cấp điện
• Về cảng biển, theo các chuyên gia nước ngoài, hiệu suất cảng biển Việt
Nam được xếp thứ bảy trong số 9 nước Đông Á mà họ đánh giá, Việt Nam
xếp sau Singapo, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, chỉ xếp trên
Trung Quốc và Indonexia. Phải nói thêm là phần lớn hàng xuất khẩu của
Trung Quốc đều qua cảng Hông Kông, nên Việt Nam chỉ hơn Indonexia.
Các hãng vận tải biển nước ngoài xếp cảng Việt Nam vào nhóm độc quyền
vì tất cả các cảng do nhà nước sở hữu và vận hành. Nước ta chưa có cảng
trung chuyển quốc tế, nên hàng xuất khẩu của ta phải trung chuyển qua các
cảng Hồng Kông, Singapo, làm tăng thêm chi phí khoảng 20-30%. Phí
cảng của ta do Ban vật giá chính phủ định hiện là rất cao, trong khi công
nghệ bốc dỡ kém, quản lý lạc hậu, thời gian giải phóng tàu lâu, càng làm
tăng thêm chi phí cho người xuất khẩu.
• Về hàng không, ta có 2 sân bay quốc tế ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh, nhưng đều kém các sân bay quốc tế trong khu vực. Giá vé máy bay

của ta hiện còn cao so với khu vực, cùng với tình trạng luôn phải chậm giờ
bay, hoãn chuyến càng làm giảm sức hấp dẫn của hàng không Việt Nam.
• Về đường cao tốc, nước ta mới có được vài trăm km đường cao tốc - một
con số quá bé nhỏ so với các quốc gia trong khu vực. Số lượng đường cao
tốc ít ỏi đã làm cho hàng hoá chậm đến cảng và sân bay quốc tế, làm tăng
thêm chi phí và thời gian.
• Về cung cấp điện, tiêu dùng điện theo đầu người ở nước ta hiện vào
khoảng 232 Kwh, dưới mức trung bình của các nước có thu nhập thấp
(363 Kwh), dưới xa mức trung bình của các nước khu vực châu Á - Thái
Bình Dương (787 Kwh). Tình trạng bị cắt điện và tăng giảm điện áp đã gây
thiệt hại đáng kể cho các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu. Giá điện của
Việt Nam bán cho các nhà sản xuất được xếp vào loại cao so với khu vực.
• Về liên lạc, viễn thông, tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng còn những hạn chế
sau: giá dịch vụ viễn thông đắt so với khu vực, giá thuê bao đường truyền
được quốc tế đánh giá là cao với nhiều thủ tục phiền hà, tốc độ truy cập
Internet còn chậm, thương mại điện tử kém phát triển.
Mặc dù Nhà nước đã đầu tư nhiều cho phát triển cơ sở hạ tầng nhằm
phục vụ cho tập trung kinh tế và hoạt động xuất khẩu nhưng cơ sở hạ tầng
của nước ta còn kém, chỉ ở mức trung bình của các nước có thu nhập thấp.
Trong một cuộc điều tra, có tới 87,8% doanh nghiệp nước ngoài và
83% doanh nghiệp trong nước được hỏi cho rằng chất lượng cơ sở hạ tầng
là kém và rất kém. Cơ sở hạ tầng yếu kém làm chi phí vận chuyển hàng hóa
tăng cao gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu.
25

×