Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TRIỂN KHAI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.2 KB, 35 trang )










BÁO CÁO
ĐÁNH GIÁ TRIỂN KHAI HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ 2012












0


MỤC LỤC

PHẦN I. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẤU
MỐI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG VIỆC TIẾP NHẬN, XỬ


LÝ VÀ TRIỂN KHAI CÁC VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ TẠI CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 – 2012
I. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ
1. Bối cảnh trong nước
2. Bối cảnh quốc tế
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẤU MỐI HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ TRONG VIỆC TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ TRIỂN KHAI
CÁC VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TẠI CÁC BỘ,
NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 – 2012
1. Tình hình tiếp nhận, xử lý và triển khai các vấn đề về HNKTQT ngoài
nước
2. Tình hình tiếp nhận, xử lý và triển khai các vấn đề về HNKTQT trong
nước
PHẦN II. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẦU MỐI
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG VIỆC TIẾP NHẬN, XỬ LÝ
VÀ TRIỂN KHAI CÁC VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
TẠI CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 – 2012
I. CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG TỰ ĐÁNH GIÁ
1. Ưu điểm
2. Tồn tại

1

II. ĐÁNH GIÁ CỦA ỦY BAN QUỐC GIA VỀ HỢP TÁC KINH TẾ
QUỐC TẾ
1. Những kết quả đạt được
2. Những tồn tại, hạn chế
3. Nguyên nhân của những tồn tại
PHẦN III. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TÁC ĐỘNG TỚI QUÁ
TRÌNH TRIÊN KHAI CÔNG TÁC HNKTQT VÀ PHƯƠNG HƯỚNG

NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ TRIỂN KHAI
CÁC VẤN ĐỀ VỀ HNKTQT TẠI CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG
I. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TÁC ĐỘNG TỚI QUÁ TRÌNH
TRIÊN KHAI CÔNG TÁC HNKTQT
1. Thuận lợi
2. Khó khăn
II. PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TIẾP NHẬN,
XỬ LÝ VÀ TRIỂN KHAI CÁC VẤN ĐỀ VỀ HNKTQT TẠI CÁC BỘ,
NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG
1. Kiến nghị của các Bộ, ngành, địa phương về phương hướng nâng cao
hiệu quả tiếp nhận, xử lý và triển khai các vấn đề về HNKTQT
2. Kiến nghị của Văn phòng Ủy ban quốc gia về Hợp tác Kinh tế quốc tế







2




PHẦN I. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẤU
MỐI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG VIỆC TIẾP NHẬN, XỬ
LÝ VÀ TRIỂN KHAI CÁC VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ TẠI CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 – 2012
I. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ
1. Bối cảnh trong nước

Giai đoạn 2010 – 2012 là giai đoạn cuối để nền kinh tế bước qua thời kỳ
5 năm đầu gia nhập Tổ chức Thế giới gia nhập WTO. Đây cũng là giai đoạn
nền kinh tế phải đương đầu với nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng bất lợi của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Trong năm 2010 mặc dù kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi sau khủng
hoảng tài chính toàn cầu và có những chuyển biến tích cực, song nhìn chung
chưa thực sự ổn định và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế
nước ta. Bên cạnh đó, năm 2010 là năm có ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng,
đây là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010
và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010. Kết quả hoạt động
sản xuất, kinh doanh của năm 2010 là cơ sở và đặt nền tảng cho việc xây dựng
và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2011, năm đầu của Kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội 10 năm 2011-2020.
Trong bối cảnh như vậy nên từ đầu năm, Trung ương Đảng, Quốc hội,
Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách cùng các giải
pháp và nhiệm vụ cụ thể, trong đó trọng tâm và trực tiếp là Nghị quyết số
03/NQ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2010 và Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06
tháng 4 năm 2010 của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện tốt

3

Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010. Đồng thời Đảng, Quốc hội và
Chính phủ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp, các địa phương
thực hiện nghiêm và đồng bộ các giải pháp, nỗ lực vượt qua khó khăn, huy
động hiệu quả các nguồn lực, tận dụng kịp thời và tối đa cơ hội, thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội năm 2010 là: “Nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh
tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất
lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an

sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế;
giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc
phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển
kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010”.
Với quyết tâm cao của cả nước, Việt Nam được đánh giá là một trong
những nước sớm vượt qua giai đoạn khó khăn và phục hồi nhanh sau khủng
hoảng tài chính toàn cầu
2. Bối cảnh quốc tế
Từ giữa năm 2007, kinh tế thế giới bắt đầu có những biểu hiện bất ổn.
Giá cả của nhiều mặt hàng, nhất là nguyên liệu, nhiên liệu, lương thực tăng
mạnh. Nguy cơ lạm phát có xu hướng lan tỏa khắp toàn cầu. Biến động giá cả
thế giới về năng lượng, lương thực, nguyên vật liệu đã tác động mạnh mẽ đến
nền kinh tế nước ta. Giá các mặt hàng trong nước tăng mạnh gây nên tình trạng
lạm phát cao. Năm 2007, chỉ số giá tiêu dùng tăng 12,6% so với năm 2006 và
tăng ở mức kỷ lục 23% (2008).
Bước sang năm 2008, nền kinh tế thế giới bắt đầu có những khó khăn và
diễn biến phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ vào
giữa năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm
trọng nhất kể từ cuộc đại suy thoái 1929 – 1933. Cuộc khủng hoảng này cùng
với các vấn đề toàn cầu khác như khủng hoảng năng lượng, thiếu thốn lương
thực, biến đổi khí hậu… đã và đang tác động đến môi trường an ninh và phát

4

triển của hầu hết các quốc gia. Tốc độ tăng trưởng GDP toàn thế giới giảm từ
3,8% (2007) xuống còn 1,9% (2008) và chỉ còn 0,5% (2009). Thương mại quốc
tế năm 2008 giảm 3,8% so với năm 2007, năm 2009 giảm 9% so với năm 2008.
Năm 2009, hầu hết các nước đều có mức tăng trưởng kinh tế âm, chỉ có 12 nền
kinh tế có mức tăng trưởng dương. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt
Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản, ASEAN bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng

hoảng, xuất khẩu của ta tăng trưởng âm cùng với nhu cầu nhập khẩu bị giảm
sút nghiêm trọng.
Từ cuối năm 2009, nền kinh tế thế giới bắt đầu có dấu hiệu phục hồi sau
những nỗ lực của các nước thông qua các gói kích thích kinh tế khổng lồ, đặc
biệt là các gói kích thích kinh tế của các nước như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,
Trung Quốc. Năm 2010, nền kinh tế thế giới đã có mức tăng trưởng cao trở lại,
đạt 4,5%. Hy vọng về sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới trong
những năm tiếp theo đang được sáng trở lại.
Thế nhưng, làn sóng nợ công tại khu vực đồng tiền chung Châu Âu đã
làm mờ đi các triển vọng phục hồi của kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng nợ
công bắt nguồn từ Hy Lạp, Ai Len đã lan rộng sang các quốc gia khác như
Italia, Tây Ban Nha…khiến cho cả Châu Âu chìm trong làn sóng nợ công ngày
càng nghiêm trọng, đe dọa tới sự thống nhất của khối kinh tế lớn nhất toàn cầu
cũng như sự tồn tại của đồng tiền chung Euro. Nợ công cũng đang gia tăng tại
nhiều nước, đặc biệt là Hoa Kỳ với mức nợ lên đến mức kỷ lục, trên 15.000 tỷ
USD vào năm 2011. Khủng hoảng nợ công tại Châu Âu và sự phục hồi chậm
chạp của nền kinh tế Hoa Kỳ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm
2011 xuống chỉ còn ở mức 3,2%, thấp hơn so với dự kiến là 3,8%. Ngoài khu
vực Châu Âu và Hoa Kỳ, các nền kinh tế khác cũng xuất hiện những dấu hiệu
bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát tăng cao, hệ thống ngân hàng yếu kém, thị
trường tài chính, bất động sản có nguy cơ đổ vỡ…
Trong bối cảnh đó, Vòng đàm phán Doha trong khuôn khổ Tổ chức
Thương mại thế giới WTO lâm vào bế tắc, các liên kết song phương và khu

5

vực đang có xu hương phát triển cùng với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch tại nhiều
nước. Các hiệp định thương mại tự do (FTA) và các thoả thuận thương mại khu
vực (RTA) xuất hiện ngày càng nhiều. Ở Đông Nam Á và Đông Á, liên kết khu
vực đang phát triển trên cả chiều rộng và chiều sâu. ASEAN đã thông qua Hiến

chương ASEAN (tháng 11năm 2007), tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAN
vào năm 2020 trên cở sở đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN. Một
hiệp định thương mại tự do theo mô hình ASEAN+3 (ASEAN - Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc) do Trung Quốc khởi xướng, ASEAN+6 (ASEAN -
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, NewZealand, Ấn Độ) do Nhật
Bản đề xuất đang được bàn thảo. Ý tưởng về việc thành lập một khu thương
mại tự do xuyên Thái Bình Dương (bao gồm các thành viên APEC) do Hoa Kỳ
đặt ra tới nay đã đi tới những chặng đường cuối để được hiện thực hoá…
Mặc dù kinh tế thế giới có nhiều biến động, gây ảnh hưởng tiêu cực đối
với nền kinh tế trong nước nhưng trong giai đoạn 2010 – 2012, Việt Nam vẫn
kiên trì theo đuổi chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó
là xu thế tất yếu, khách quan của thời đại. Với chủ trương đó, công tác hội nhập
kinh tế quốc tế (HNKTQT) đã được triển khai mạnh mẽ, rộng khắp ở tất cả các
ngành và lĩnh vực, từ cấp trung ương, Bộ, ngành đến tất cả các địa phương.
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẤU MỐI HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ TRONG VIỆC TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ TRIỂN KHAI
CÁC VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TẠI CÁC BỘ,
NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 – 2012
1. Tình hình tiếp nhận, xử lý và triển khai các vấn đề về HNKTQT ngoài nước
Với tinh thần chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, tham gia
tích cực vào tiến trình hợp tác kinh tế quốc tế và khu vực, việc tiếp nhận, xử lý
và triển khai các vấn đề về HNKTQT ngoài nước được các Bộ, ngành, địa
phương tập trung vào các phương diện sau:

6

1.1. Tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động, chương trình hợp
tác trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế quốc tế đa phương và khu vực.
Với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã

tham gia sâu hơn vào hệ thống thương mại đa phương. Bên cạnh đó, chúng ta
vẫn tiếp tục tham gia vào các hoạt động, chương trình hợp tác trong khuôn khổ
các tổ chức kinh tế quốc tế khu vực, bao gồm ASEAN, APEC, ASEM Cụ thể là:
1.1.1. Trong khuôn khổ WTO:
Với tư cách thành viên WTO, Việt Nam đã tích cực, chủ động thực hiện
các quyền và nghĩa vụ thành viên của tổ chức này. Đó là quyền được bình đẳng
tham gia vào các cuộc đàm phán trong WTO, sử dụng các cơ chế trong WTO
như cơ chế ra quyết định, cơ chế giải quyết tranh chấp…. Đồng thời, Việt Nam
đã nghiêm túc thực thi các cam kết, chấp hành các quy định và định chế của
WTO như cơ chế rà soát chính sách thương mại, chấp hành các phán quyết của
WTO…
Ngay sau khi gia nhập WTO, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Uỷ ban
Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế là cơ quan điều phối liên ngành về
HNKTQT đã tổ chức các đoàn công tác với thành viên là các Bộ, ngành tham
gia vào các cuộc đàm phán, các chương trình nghị sự của WTO. Các Bộ, ngành
đã tham gia vào các cuộc đàm phán trong khuôn khổ Vòng Doha ở các nội
dung có liên quan đến Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp, sở hữu trí
tuệ và đóng góp tiếng nói bảo vệ quyền và lợi ích của các nước đang phát
triển.
Bên cạnh việc tham gia vào đàm phán đa phương trong WTO, các Bộ,
ngành Việt Nam còn tham gia vào các cuộc đàm phán song phương với các
nước thành viên và các nước chưa là thành viên về mở cửa thị trường hàng hoá
và dịch vụ trong WTO, trong đó có đàm phán với Liên bang Nga và một số đối
tác kinh tế truyền thống của Việt Nam.

7

Là thành viên mới gia nhập WTO, Việt Nam đã tham gia và tận dụng
đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên mới của WTO (RAMs)
như thực thi cơ chế giám sát trong việc ngăn chặn nguy cơ xuất hiện lại chủ

nghĩa bảo hộ thương mại trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang gặp khó
khăn, cơ chế rà soát chính sách thương mại của WTO, thực hiện nghiêm túc
nghĩa vụ thông báo với WTO. Tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 8, Việt
Nam đã có phát biểu chính thức khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc
HNKTQT, thực hiện nghiêm túc các quy định của WTO và ủng hộ việc tăng
cường vai trò của WTO trong thương mại quốc tế. Mặc dù gặp nhiều khó khăn
trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam đã tiếp tục cam
kết mở cửa cho thương mại, đầu tư và qua đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế. Ngoài ra, Việt Nam đã cùng các thành viên tuyên bố về việc chống lại chủ
nghĩa bảo hộ thương mại đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Việt Nam cũng đã và đang thực thi các nghĩa vụ đối với WTO mà đáng
chú ý là nghĩa vụ thông báo và rà soát chính sách thương mại theo quy định của
WTO và tham gia các Nhóm lợi ích trong WTO đặc biệt là Nhóm các nước
xuất khẩu nông sản (Nhóm Cairns). Hiện các Bộ, ngành đã và đang tích cực
chuẩn bị cho phiên rà soát chính sách thương mại lần đầu tiên của nước ta sẽ
diễn ra trong năm 2013.
1.1.2. Trong khuôn khổ ASEAN:
Sau 16 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN,
1995-2011), mối quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN ngày
càng phát triển toàn diện và có tác động sâu sắc tới đời sống kinh tế, xã hội và
chính trị của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn
đàn hợp tác khu vực và thế giới. Việt Nam và các nước thành viên đã thống
nhất thúc đẩy hơn nữa hội nhập trong khối, tiến tới xây dựng Cộng đồng
ASEAN vào năm 2020 trên ba trụ cột là an ninh- chính trị, kinh tế và văn hóa-
xã hội nhằm thiết lập một khu vực ASEAN hòa bình, ổn định, cùng phát triển
thịnh vượng.

8

Trong khuôn khổ triển khai các hoạt động hợp tác trong ASEAN, Uỷ ban

Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế đã phối hợp các Bộ, ngành liên quan tổ
chức thành công các hội nghị và hoạt động thuộc trụ cột kinh tế và chuẩn bị
cho các Hội nghị cấp cao ASEAN trong năm 2010 khi Việt Nam đảm nhiệm
vai trò Chủ tịch luân phiên của ASEAN; thực hiện các nhiệm vụ điều phối các
Bộ, ngành thành viên để giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương đảm đương vai trò
Chủ tịch trụ cột Hội đồng Cộng đồng kinh tế ASEAN.
Các Bộ, ngành của Việt Nam đã tích cực tham gia các chương trình hợp
tác nhằm thực hiện Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Riêng đối với trụ cột
kinh tế, một trong 3 trụ cột xây dựng Cộng đồng ASEAN mà Bộ Công Thương
là cơ quan đầu mối phụ trách của Việt Nam, Bộ Công Thương đã chủ trì chuẩn
bị phương án và tham gia thành công nhiều cuộc họp định kỳ của ASEAN,
trong đó có việc chuẩn bị phần kinh tế cho các Hội nghị Cấp cao ASEAN thứ
18 và 19; tham gia 3 Hội nghị Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, 2 hội
nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN, nhiều Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế giữa
ASEAN với các đối tác trong khuôn khổ +1, +3, +6, Đông Á, hợp tác tiểu
vùng, và nhiều hội nghị cấp thứ trưởng, cấp quan chức cao cấp và cấp chuyên
gia, trong lĩnh vực kinh tế và năng lượng của ASEAN.
Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN Việt Nam đã được thành lập theo
Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 31 tháng 01 năm 2009 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành quy chế làm việc và phối hợp giữa các cơ quan tham gia
hợp tác ASEAN của Việt Nam. Theo đó, Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN
của Việt Nam bao gồm 12 Bộ, ngành thành viên phụ trách các lĩnh vực ưu tiên
hội nhập trong ASEAN hiện nay.
Cho tới nay, Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ thực hiện cao
các biện pháp và sáng kiến đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng
kinh tế ASEAN. Hiện Việt Nam đang tiếp tục tiếp tục triển khai Kế hoạch tổng
thể và Lộ trình chiến lược thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) qua

9


các hoạt động như phối hợp với các nước ASEAN nghiên cứu xây dựng Biểu
đánh giá thực hiện AEC, Chương trình truyền thông AEC.
Việt Nam đã ban hành Biểu thuế CEPT/AFTA giai đoạn 2008-2013
nhằm đưa biểu thuế của Việt Nam phù hợp với danh mục hàng hoá được áp
dung chung trong ASEAN (AHTN2007) và tuân thủ cam kết của Việt Nam
trong ASEAN (đưa các mặt hàng công nghệ thông tin ITC và ô tô vào danh
mục cắt giảm).
1.1.3. Trong khuôn khổ APEC:
Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC
là khu vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn đầu tư
nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập khẩu, và 75% tổng số
khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến lược quan trọng
và các đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế thành
viên của APEC. Với tất cả những yếu tố trên, APEC ngày càng có vai trò quan
trọng trong chiến lược hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện cũng như quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Trên bình diện quan hệ song
phương với Việt Nam, các thành viên APEC là đối tác dành viện trợ phát triển
lớn nhất cho Việt Nam. Khu vực này cũng chiếm 69% tổng kim ngạch xuất
khẩu và 83% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2010.
Với trình độ phát triển còn thấp so với nhiều nền kinh tế APEC khác,
nhưng Việt Nam đã chủ động tham gia, đóng góp tích cực cho nhiều hoạt động
hợp tác của APEC với tinh thần trách nhiệm cao. Việt Nam đã tham gia một số
Kế hoạch hành động tập thể (CAPs) ở các lĩnh vực Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn
(SCSC), Thủ tục Hải quan, Kinh tế kỹ thuật (ECOTECH), Chương trình thẻ đi
lại của doanh nhân APEC (ABTC). Việt Nam đã góp phần củng cố và tăng
cường tình hữu nghị, hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa các thành viên, chia sẻ
kinh nghiệm, sử dụng hiệu quả các nguồn tài trợ, phát triển hạ tầng, chuyển
giao công nghệ. Việt Nam cũng đóng góp tích cực vào việc giải quyết những

10


thách thức đang đặt ra cho APEC.
Năm 2009, các thành viên đã rà soát, đánh giá chính sách của Việt Nam
trong việc mở cửa thị trường, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư trên cơ sở
Kế hoạch Hành động Quốc gia (IAP) hàng năm của Việt Nam. Chúng ta đã
thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như Báo cáo về Chương
trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương trình Hành động tập
thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá thương mại, đầu tư
Sau khi tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh APEC năm 2006,
trong các năm tiếp theo, các Bộ, ngành, tuỳ theo lĩnh vực được phân công đã
tham gia vào các Hội nghị thường niên của APEC và có những đóng góp quan
trọng cho Diễn đàn. Chúng ta cũng đã đảm nhận vị trí Chủ tịch và điều hành
nhiều Nhóm công tác quan trọng như Nhóm Công tác Y tế, Nhóm công tác về
Đối phó với tình trạng khẩn cấp, Nhóm công tác về thương mại điện tử…
Ngoài việc cử cán bộ tham gia thường xuyên vào các cuộc họp của nhóm, các
Bộ chuyên ngành của Việt Nam cũng chủ động tham gia vào các sáng kiến như
sáng kiến về Hải quan một cửa (Single Window), Kết nối chuỗi cung ứng, bảo
mật dữ liệu điện tử, an toàn thực phẩm, thẻ đi lại của doanh nhân APEC
(ABTC)… Hiện Việt Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo
trợ hàng trăm sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác
kinh tế kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố Thông qua những
chương trình hợp tác trong APEC, các Bộ, ngành của Việt Nam đã học hỏi kinh
nghiệm, thông lệ tốt về hoạch định và thực thi chính sách trong nhiều lĩnh vực
liên quan, đồng thời tranh thủ hoạt động hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực
dưới dạng tham gia các hội thảo và các khóa đào tạo chuyên đề. Việt Nam đã
và đang được đánh giá là một trong những thành viên năng động, tham gia có
trách nhiệm vào tăng cường liên kết kinh tế và mở rộng thương mại trong APEC.
1.1.4. Trong khuôn khổ ASEM
Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, ASEM không chỉ là cầu nối cho quan hệ


11

đối tác mới giữa hai châu lục Á-Âu mà còn hướng tới mục tiêu đem lại những
đóng góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Thực hiện chính sách tích cực và chủ động hội nhập quốc tế và khu vực,
nhận thức rõ tiềm năng to lớn của ASEM nhất là về kinh tế, đầu tư, thương
mại, khoa học công nghệ và giáo dục, Việt Nam đã tham gia ASEM với tư cách
là thành viên sáng lập năm 1996 và đã có nhiều đóng góp cho tiến trình Hợp
tác Á-Âu. Thông qua quan hệ với các đối tác ASEM, ta đã tranh thủ thu hút các
nguồn lực quốc tế phục vụ phát triển đất nước. ASEM đã trở thành diễn đàn
góp phần quan trọng vào việc củng cố môi trường quốc tế hoà bình, ổn định,
nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế. Đặc biệt, việc tổ chức thành công
Hội nghị Cấp cao ASEM 5 năm 2004 với chủ đề “Tiến tới quan hệ đối tác Á-
Âu sống động và thực chất hơn” đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và
góp phần quảng bá hình ảnh một đất nước Việt Nam ổn định, năng động và
giàu tiềm năng phát triển.
Việt Nam là một trong những nước sử dụng hiệu quả nguồn tài trợ của
Quỹ Tín thác ASEM. Đến nay, Việt Nam đã triển khai 21 dự án với tổng giá trị
gần 13,35 triệu đô la, đã đưa ra nhiều sáng kiến về các lĩnh vực y tế, văn hoá,
công nghệ thông tin, năng lượng, du lịch và đều nhận được sự ủng hộ rộng rãi.
Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia đồng sáng kiến và cùng các thành viên triển
khai nhiều dự án về nông nghiệp, khoa học- công nghệ, giao thông vận tải, y tế,
văn hoá, giáo dục-đào tạo, môi trường…Và gần đây nhất, Việt Nam đã được
các thành viên tín nhiệm bầu làm Phó Giám đốc Điều hành Quỹ Á-Âu (ASEF),
là cơ quan thúc đẩy các hoạt động hợp tác văn hóa, xã hội trong ASEM.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực đề xuất và triển khai nhiều
sáng kiến, hoạt động của ASEM, nổi bật là việc tổ chức thành công "Hội thảo
về tăng cường hình ảnh ASEM thông qua các hoạt động văn hóa" (tại thành
phố Hạ Long, tháng 4-2010), "Hội thảo ASEM về vượt qua khủng hoảng- định

hình sự phát triển bền vững" (tại thành phố Nha Trang, tháng 4-2010), "Diễn
đàn ASEM về an ninh lương thực" (tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7-

12

2010), "Diễn đàn ASEM về biến đổi khí hậu" (tại thành phố Hạ Long, tháng 9-
2010). Việt Nam cũng đã tích cực tham dự Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEM 10 tháng 6/2011 và năm 2011 đã triển khai thành công 02 sáng kiến của
ta về Lưới An toàn Xã hội và về Tăng trưởng xanh, đồng thời vận động thành
công ASEM ủng hộ ta đăng cai Hội nghị Bộ trưởng ASEM về Lao động và
Việc làm lần thứ 4 trong năm nay 2012. Ta cũng đã đưa ra được 12 sáng kiến
và đồng tác giả 16 sáng kiến khác, trong đó có 14 sáng kiến đã được triển khai
chủ yếu trong các lĩnh vực về kinh tế, văn hóa, y tế, giao thông vận tải, an ninh
năng lượng, du lịch, khoa học - công nghệ.
Tuy đạt được một số kết quả nêu trên nhưng hợp tác ASEM vẫn còn
nhiều hạn chế so với những chương trình hợp tác trong ASEAN và APEC vì
các thành viên ASEM đặc biệt là phía EU cố ép để đưa vào chương trình/nội
dung khác liên quan đến chính trị hoặc lồng ghép yếu tố chính trị vào thương
mại và đầu tư.
1.2. Tích cực, chủ động tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do,
các thoả thuận hợp tác kinh tế quốc tế
Trong giai đoạn 2010-2012, các Bộ, ngành đã chủ động nghiên cứu
phương án đàm phán và tiến hành đàm phán với các đối tác về các hiệp định
thương mại tự do, thoả thuận hợp tác kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường
và thu hút đầu tư cho Việt Nam.
1.2.1. Các cuộc đàm phán trong khuôn khổ ASEAN và đối tác:
Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp
với các Bộ ngành, cùng với đoàn đàm phán của các nước ASEAN khác tiến
hành đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với các
đối tác bao gồm Úc, Niu Dilân và Ấn độ. Như vậy, cho tới thời điểm hiện nay,

chúng ta đã tham gia hiệp định thương mại tự do với 15 nước trong khuôn khổ
của 6 FTA khu vực gồm: Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung từ năm
1996; Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN – Trung Quốc (ACTIG) ký kết

13

năm 2004, thực hiện từ 1/7/2005; Hiệp định hàng hoá ASEAN-Hàn Quốc
(AKTIG) ký kết năm 2006, thực hiện từ 1/6/2007; Hiệp định đối tác Kinh tế
toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) ký kết năm 2003, thực hiện từ năm
1998; Hiệp định thương mại tự do và quan hệ kinh tế thân thiện toàn diện
ASEAN – Úc và Niu Dilân (AANZCERFTA), ký kết năm 2009, thực hiện từ
1/1/2010; Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN - Ấn độ (AITIG) ký kết
năm 2009, thực hiện từ 01/06 năm 2010.
1.2.2. Các cuộc đàm phán song phương ngoài khuôn khổ ASEAN:
Ngoài việc đàm phán, ký kết và tham gia các hiệp định thương mại tự do
với tư cách là thành viên khối ASEAN, chúng ta đã chủ động triển khai các
cuộc đàm phán các FTA song phương với các nước là đối tác quan trọng của
Việt Nam. FTA đầu tiên mà Việt Nam đàm phán, ký kết với tư cách là một bên
độc lập là Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (2008), tiếp đó là
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Chi Lê (2011). Hiện các Bộ, ngành
đang nghiên cứu tiền khả thi và triển khai đàm phán FTA với một số đối tác
như Nga, EU, Thổ Nhĩ Kỳ
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang tiến hành đàm phán Hiệp định Đầu tư
song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì), Hiệp định
Đối tác và Hợp tác Việt Nam – EU (Bộ Ngoại giao chủ trì.)
1.2.3. Đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (TPP):
Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) là
Hiệp định thương mại tự do với sự tham gia của nhiều bên bao gồm Singapore,
Chile, New Zealand, Brunei, Hoa Kỳ Ô-xtrây-lia, Pêru, Ma-lai-xia và Việt

Nam. Đầu năm 2009, Việt Nam được mời tham gia với tư cách thành viên liên
kết và đến tháng 11 năm 2010, Việt Nam chính thức tham gia đàm phán TPP.
Đến nay, TPP được coi là một hiệp định của thế kỷ XXI, không chỉ vì có nhiều
bên tham gia mà còn ở tầm vóc và ảnh hưởng của nó. Về phạm vi, so với các

14

FTA ký kết trước đó, TPP mở rộng hơn, bao gồm các lĩnh vực thương mại
hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ và cả các vấn đề phi
thương mại như mua sắm chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Xác định được tầm quan trọng của việc tham gia đàm phán TPP, Việt
Nam đã tham dự tất cả các phiên đàm phán gia nhập Hiệp định TPP kể từ khi là
thành viên liên kết của Hiệp định này. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia
đàm phán một thỏa thuận FTA toàn diện, có phạm vi cam kết rộng và mức độ
cam kết sâu. Rất nhiều vấn đề là mới đối với ta như đầu tư, tiêu chuẩn lao
động, môi trường, chính sách cạnh tranh, mua sắm công v.v. Tuy nhiên, với nỗ
lực cao độ của các Bộ, ngành, chỉ sau 6 tháng tham gia đàm phán, Việt Nam đã
đưa ra được bản chào ban đầu về thuế, dịch vụ, đầu tư, mua sắm công và tiêu
chuẩn lao động. Ngày 15/4/2011, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính
phủ Đề án tổng thể tham gia TPP tại công văn số 87/BCT-ĐB. Tại công văn số
638/VPCP-HTQT ngày 17/6/2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương
án đàm phán nêu tại Đề án này.
Hoạt động đàm phán về các hiệp định thương mại tự do và các thoả
thuận hợp tác quốc tế đã có sự tham gia và phối hợp chặt chẽ của các Bộ,
ngành đảm bảo được sự nhất quán trong các phương án đàm phán, cân bằng
được lợi ích tổng thể về kinh tế - chính trị, phù hợp với chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước ta.
Liên quan đến việc nghiên cứu, hỗ trợ tác đàm phán kinh tế thương mại
quốc tế, Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế đã tổ chức và phối hợp

với các Bộ, ngành thực hiện các nghiên cứu quan trọng như Đề án nghiên cứu
về việc Việt Nam tham gia đàm phán Hiệp định TPP; Chiến lược tham gia các
Hiệp định Thương mại tự do, Đề án nghiên cứu khả năng đàm phán FTA song
phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga/ Liên minh thuế quan Nga- Kazakhstan-
Belarus; đồng thời là đầu mối phối hợp tổ chức các cuộc đàm phán hiệp định

15

thương mại, đầu tư song phương giữa Việt Nam với các đối tác như Nhật Bản,
Hoa Kỳ, Chi Lê…
2. Tình hình tiếp nhận, xử lý và triển khai các vấn đề về HNKTQT trong nước
Trong giai đoạn 2010 - 2012, trên cơ sở thực hiện những chủ trương
chính sách của Đảng và Chính phủ về HNKTQT đặc biệt là Nghị quyết
16/2007/NQ-CP ngày 27 tháng 2 năm 2007 ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO, các Bộ, ngành,
địa phương đã tích cực chủ động triển khai các vấn đề liên quan đến HNKTQT
trong nước với các hoạt động cụ thể như sau:
2.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo, thông tin tuyên truyền, phổ biến
kiến thức và cam kết về HNKTQT
Công tác đào tạo, thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về
HNKTQT được tiến hành thường xuyên, liên tục ở các Bộ, ngành, địa phương
với nội dung và hình thức đa dạng phong phú như tổ chức các lớp học, khoá tập
huấn, hội nghị, hội thảo, biên tập và xuất bản các ấn phẩm, phối hợp xây dựng
các chương trình phát thanh, truyền hình giới thiệu về WTO, các cam kết
HNKTQT và các khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế khác mà Việt Nam tham
gia. Trung bình mỗi năm có hàng nghìn cán bộ quản lý Nhà nước và doanh
nghiệp được tham gia các hoạt động thông tin tuyên truyền về HNKTQT do Ủy
ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế phối hợp với các Bộ, ngành, địa

phương tổ chức. Bên cạnh đó, thông tin hướng dẫn triển khai thực hiện các cam
kết HNKTQT đã được Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế và các bộ,
ngành, địa phương biên soạn thành tài liệu phổ biến đến tận chính quyền cơ sở,
các hiệp hội và doanh nghiệp biết để tận dụng thời cơ và vươn lên vượt qua
thách thức khi Việt Nam thực hiện các cam kết này. Các thông tin về HNKTQT
thường xuyên được cập nhật và đăng tải trên trang web của Ủy ban cũng như
các trang web của các Bộ, ngành, địa phương. Bản tin Hội nhập của Uỷ ban

16

Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế đã được phát triển thành Tạp chí Hội
nhập, cung cấp thông tin phong phú, đa chiều về tình hình hội nhập kinh tế
quốc tế trong nước và nước ngoài tới đông đảo các đối tượng bạn đọc.
Nhìn chung công tác tuyên truyền và phổ biến về WTO của Việt Nam
trong thời gian qua được thực hiện khá nghiêm túc và tích cực ở các Bộ, ngành,
địa phương, qua đó đã góp phần tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội về sự
cần thiết và ý nghĩa, cũng như thời cơ và thách thức của việc hội nhập và
thực thi các cam kết kinh tế quốc tế.
2.2. Triển khai thực hiện tốt các cam kết HNKTQT
Các Bộ, ngành, địa phương đã nghiêm túc triển khai các cam kết
HNKTQT thông qua việc rà soát, sửa đổi và xây dựng chính sách pháp luật,
ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện cam kết.
Tiếp theo giai đoạn trước, trong giai đoạn 2010-2012, các Bộ, ngành, địa
phương vẫn tiếp tục tích cực tiến hành công tác rà soát hệ thống pháp luật của
Việt Nam, chủ động trong việc quyết định nội dung chương trình, xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật trong những năm tiếp theo nhằm thực hiện lộ trình
HNKTQT của Việt Nam. Đồng thời tăng cường công tác xây dựng, sửa đổi, bổ
sung, ban hành các văn bản quy phạm mới thuộc thẩm quyền của Bộ, ngành
phụ trách; nâng cao chất lượng góp ý, thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật, đặc biệt chú trọng việc đảm bảo các văn bản quy phạm pháp luật

không trái với các cam kết quốc tế của Việt Nam
Bên cạnh đó, để triển khai các cam kết HNKTQT, các Bộ, ngành đã
khẩn trương ban hành nhiều văn bản hướng dẫn việc thi cam kết theo đúng yêu
cầu và lộ trình mở cửa trong các cam kết, đặc biệt là ban hành các văn bản liên
quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa, cấp phép đầu tư, mở cửa thị trường.
Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế và các Bộ, ngành và địa
phương đã hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các cam kết gia
nhập WTO và các thoả thuận hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam với các

17

đối tác; đã tiến hành rà soát hệ thống các văn bản còn hiệu lực của HĐND,
UBND các cấp để loại bỏ những quy định chồng chéo, không phù hợp với văn
bản cấp trên và cam kết WTO; ban hành các quy định mới về cơ chế, chính
sách nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện các hoạt
động kinh doanh và đầu tư; bãi bỏ cơ chế khuyến khích xuất khẩu trái với cam
kết trong WTO, chuyển sang biện pháp hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các
doanh nghiệp, ban hành cơ chế chính sách tài chính cho các khu, cụm công
nghiệp, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tham gia niêm yết trên thị trường chứng
khoán, hỗ trợ các doanh nghiệp đăng ký xây dựng quy trình quản lý chất lượng
sản phẩm…
Kết quả là trong vòng 5 trở lại đây, Việt Nam đã xây dựng mới và hoàn
thiện trên 30 bộ luật; hơn 400 văn bản pháp luật liên quan đến 300 loại giấy
phép kinh doanh dưới nhiều hình thức khác nhau đã được rà soát, đánh giá và
loại bỏ. Về cơ bản, các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành theo
đúng lộ trình cam kết và chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Có thể nói chưa bao giờ việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật lại được
tiến hành với cường độ cao như 5 năm qua. Nhìn chung, những điều bổ sung,
hoàn thiện đều phù hợp với những cam kết khi gia nhập và được thực hiện
nghiêm chỉnh.

2.3. Cụ thể hoá và triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết số 16/2007/NQ-CP của Chính phủ
Các Bộ, ngành, địa phương đã cụ thể hoá Chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP của Chính phủ bằng các Chương trình
hành động của từng Bộ, ngành và địa phương; tiến hành công tác xây dựng và
triển khai công tác quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, sản
phẩm phù hợp với tiến trình HNKTQT của đất nước, từng bước xây dựng và
phát triển các yếu tố của nền kinh tế thị trường. Các địa phương đã đưa vào
Chương trình hành động những nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ; đề cập đến việc phải xây dựng

18

hoặc điều chỉnh các quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn, xây dựng kế
hoạch phát triển các ngành hàng chủ lực trong bối cảnh hội nhập; phát triển các
ngành ứng dụng công nghệ hiện đại, bảo đảm khả năng cạnh tranh để định
hướng đầu tư cho doanh nghiệp; triển khai các chương trình và hoạt động hỗ
trợ doanh nghiệp đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, hỗ trợ hướng dẫn các
doanh nghiệp, các thương nhân thực hiện các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn
vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo đảm phù hợp với quy định quốc tế để bảo vệ thị
trường nội địa và quyền lợi người tiêu dùng.
Tổng hợp kết quả chung từ các Bộ, ngành, địa phương trong việc triển
khai thực hiện Chương trình hành động chung của Chính phủ theo Nghị quyết
số 16/2007/NQ-CP đã cho thấy toàn bộ hệ thống các cơ quan thuộc Chính phủ,
từ các Bộ, ngành ở Trung ương tới chính quyền ở các địa phương đều đã có sự
nỗ lực, cố gắng trong việc triển khai thực hiện những nội dung nhiệm vụ đặt ra
trong Chương trình hành động của mình nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực,
toàn diện đối với tất cả các mặt hoạt động, các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất
nước. Mặc dù, sự chuyển biến ở từng Bộ, ngành, từng địa phương có thể nhiều,
ít khác nhau song về cơ bản đều cho thấy quyết tâm và nỗ lực chung của toàn

bộ hệ thống để hướng tới hoàn thành những nội dung nhiệm vụ cơ bản được đề
ra trong Chương trình hành động chung của Chính phủ.
Trong quá trình theo dõi việc triển khai Chương trình hành động của
Chính phủ và Chương trình hành động của từng địa phương, Uỷ ban Quốc gia
về Hợp tác Kinh tế Quốc tế đã tổ chức các cuộc họp với đầu mối HNKTQT của
các Bộ, ngành, địa phương để kịp thời đánh giá, phát hiện những khó khăn,
vướng mắc và đề xuất phương hướng giải quyết lên Thủ tướng Chính phủ. Đặc
biệt, để hỗ trợ cho việc đánh giá công tác hội nhập trong nước nói chung và
công tác hội nhập của từng địa phương nói riêng, Ủy ban Quốc gia về hợp tác
kinh tế quốc tế đã có sáng kiến xây dựng và phát triển hệ thống Chỉ số Năng
lực hội nhập cấp địa phương và hiện đang trong quá trình hoàn thiện chỉ số.
Các Bộ, ngành, địa phương rất hoan nghênh và đánh giá cao chỉ số này.

19

PHẦN II.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẦU MỐI HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG VIỆC TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ TRIỂN
KHAI CÁC VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TẠI CÁC BỘ,
NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 – 2012
I. CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG TỰ ĐÁNH GIÁ:
Trên cơ sở báo cáo tình hình triển khai công tác HNKTQT của các đấu
mối hội nhập kinh tế quốc tế (các Ban HNKTQT) tại các Bộ, ngành, địa
phương giai đoạn 2010 – 2012, nhìn chung các đánh giá của các Ban HNKTQT
thống nhất ở những điểm chính sau:
1. Ưu điểm
- Các Ban HNKTQT đã quán triệt sâu sắc các chủ trương, đường lối của
Đảng và Chính phủ về Hội nhập kinh tế quốc tế
- Các Ban HNKTQT là hạt nhân, nòng cốt trong việc tiếp nhận, xử lý và
triển khai các vấn đề về HNKTQT

- Các Ban HNKTQT đã tham mưu cho Lãnh đạo các Bộ, ngành, địa
phương theo dõi, đôn đốc tình hình thực hiện các kế hoạch, chương trình về hội
nhập kinh tế quốc tế, đã tập hợp những vướng mắc trong quá trình triển khai
thực hiện và đề xuất các biện pháp nhằm thực hiện tốt các chương trình, kế
hoạch đề ra
- Các Ban HNKTQT đã chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra
tình hình thực hiện các Chương trình, kế hoạch về hội nhập kinh tế quốc tế
- Các Ban HNKTQT đã giữ mối liên hệ thường xuyên với Văn phòng
UBQG về HTKTQT và các đơn vị liên quan để tiếp thu đầy đủ các chỉ đạo, các
chính sách mới của Trung ương, đồng thời căn cứ tình hình thực tế của Bộ,
ngành, địa phương để tham mưu và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện kịp
thời đáp ứng yêu cầu hội nhập.

20

- Các Ban HNKTQT đã xây dựng báo cáo định kỳ hoặc đột xuất theo các
nội dung yêu cầu của Chính phủ và của UBQG về HTKTQT để phục vụ cho
công tác điều phối hội nhập của UBQG về HTKTQT.
2. Hạn chế
- Một số Ban HNKTQT còn bị hạn chế về nguồn nhân lực và tài chính
để triển khai các vấn đề liên quan đến HNKTQT
- Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cấp địa phương còn hạn chế, nhiều
yếu tố thành phần đánh giá năng lực HNKTQT của địa phương còn yếu kém
- Việc triển khai công tác HNKTQT ở một số địa phương còn thiếu tính
tổng thể, toàn diện, chưa được đầu tư thích đáng cả về nhân lực, vật lực để đi
vào chiều sâu để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hội nhập quốc tế.
- Nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền ở một số địa phương
chưa đầy đủ, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chưa thường xuyên;
- Sự phối hợp giữa các ngành, địa phương trong việc tiếp nhận, xử lý và
triển khai các vấn đề về HNKTQT chưa đồng bộ, thiếu toàn diện nên chưa phát

huy được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế trong cạnh tranh và hội nhập kinh
tế quốc tế
- Công tác đôn đốc, kiểm tra trong quá trình triển khai công tác HNKQT
chưa thường xuyên.
II. ĐÁNH GIÁ CỦA ỦY BAN QUỐC GIA VỀ HỢP TÁC KINH TẾ
QUỐC TẾ
1. Những kết quả đạt được
- Trong thời gian qua, công tác HNKTQT đã được triển khai sâu rộng
trên phạm vi cả nước, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng liên tục với tốc độ khá
so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, quy mô nền kinh tế tăng
lên, và nước ta đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển. Những thành tựu

21

mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được như xuất khẩu đạt mức kỷ lục gần 100 tỷ
USD (năm 2011), tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2007-2011 là 5% (cao
thứ nhì châu Á) … đã có sự đóng góp to lớn của những thành công gặt hái
được từ lĩnh vực HNKTQT. Điều này đã góp phần tạo ra niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng, triển vọng phát triển của đất nước sau khi gia nhập WTO cũng
như sự sẵn sàng của nền kinh tế đối mặt với những khó khăn, thách thức của
hội nhập trong thời gian tới.
- Việc tiếp nhận, xử lý và triển khai các vấn đề về HNKTQT của đầu mối
hội nhập kinh tế quốc tế/Ban HNKTQT tại các Bộ, ngành, địa phương thời gian
qua đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa việc triển khai công tác hội nhập trong
nước và công tác hội nhập với bên ngoài; được triển khai đồng đều và tích cực
trên nhiều lĩnh vực gồm: tuyên truyền phổ biến thông tin về HNKTQT, hướng
dẫn và triển khai thực hiện các cam kết HNKTQT, đàm phán các hiệp định
thương mại tự do và thoả thuận hợp tác kinh tế quốc tế, tham gia các chương
trình hợp tác trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế, đẩy mạnh cải cách trong

nước để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững sau khi gia nhập WTO.
- Các đầu mối hội nhập kinh tế quốc tế/Ban HNKTQT tại các Bộ, ngành,
địa phương trong quá trình triển khai công tác HNKTQT đã nhận được sự chỉ
đạo sâu sát của Chính phủ, tạo ra sự thống nhất, gắn kết cần thiết trong việc
triển khai công tác HNKTQT. Việc kịp thời ban hành Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 5 tháng 2 năm 2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới; Nghị quyết 16 ban hành chương trình hành động hậu gia
nhập WTO, các văn bản, chỉ thị của Chính phủ về HNKTQT chính là kim chỉ
nam cho công tác hội nhập đi đúng hướng.
- Việc triển khai công tác HNKTQT đã có sự phối hợp của các đầu mối
hội nhập kinh tế quốc tế tại các Bộ, ngành, địa phương cùng với vai trò điều
phối của Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế. Uỷ ban đã phối hợp các
Bộ, ngành, địa phương thực hiện các ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính

22

phủ và Chủ tịch Ủy ban về HNKTQT. Các phiên họp của Uỷ ban đã bám sát
chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Chính phủ về hội nhập trong từng
giai đoạn, kịp thời chỉ ra những nhiệm vụ quan trọng mà các Bộ, ngành địa
phương cần triển khai để thúc đẩy tiến trình hội nhập của đất nước. Dưới sự chỉ
đạo, điều phối của Chủ tịch Uỷ ban, các Bộ, ngành thành viên đã triển khai
nhiều hoạt động quan trọng như: tham gia các hoạt động trong khuôn khổ hợp
tác đa phương, khu vực và song phương, tiến hành đàm phán các hiệp định
thương mại tự do… Uỷ ban đã theo dõi, hướng dẫn việc triển khai công tác
HNKTQT của các Ban HNKTQT, thường xuyên tổng hợp báo cáo về tình hình
hội nhập của các Bộ, ngành địa phương, kịp thời báo cáo lên Lãnh đạo Uỷ ban
và Chính phủ. Các hoạt động của Ủy ban đã góp phần quan trọng trong việc
giúp các Ban HNKTQT triển khai công tác hội nhập, thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế xã hội ở địa phương.

2. Những tồn tại, hạn chế
Mặc dù việc tiếp nhận, xử lý và triển khai công tác HNKTQT của các
đầu mối HNKTQT tại các Bộ, ngành, địa phương thời gian qua đã đạt được
nhiều kết quả tích cực song vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như sau:
Thứ nhất, nhận thức về HNKTQT của một số tổ chức và cá nhân còn
chưa thấu đáo và nhất quán, dẫn tới việc nhìn nhận chưa thật đúng đắn về tính
tất yếu, cũng như các cơ hội và thách thức của mà HNKTQT đem lại. Trong
giai đoạn 2007 đến nửa đầu năm 2008, sau khi chúng ta vừa gia nhập WTO lại
phải đối diện ngay với những tác động bất lợi khách quan từ cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới nên đã xuất hiện một số ý kiến thể hiện sự hoài nghi, lo âu, đổ
lỗi cho hội nhập. Tuy nhiên, đến giai đoạn 2010 – 2012, nền kinh tế tăng
trưởng khá, xuất khẩu đạt kỷ lục đã cho thấy hội nhập kinh tế gắn liền với phát
huy nội lực sẽ giúp chúng ta vượt qua thách thức. Nếu như trong giai đoạn vừa
qua, chúng ta không kiên trì mở cửa nền kinh tế, tích cực tham gia vào các hợp
tác đa phương, khu vực và song phương, tiếp tục đàm phán, ký kết các hiệp
định thương mại để mở rộng thị trường, tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho các

23

doanh nghiệp thì chắc chắn nền kinh tế sẽ càng lún sâu vào khủng hoảng.
Những thăng trầm vừa qua chứng tỏ HNKTQT là tất yếu, khách quan; chủ
trương đẩy mạnh hội nhập là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên để hội nhập đem
lại kết quả như mong muốn thì phải gắn liền hội nhập với nỗ lực cải cách trong
nước, cần phải kết hợp bộ giữa hội nhập với bên ngoài với triển khai hội nhập
trong nước thì hội nhập mới thực sự hiệu quả.
Thứ hai, tính đồng bộ, gắn kết giữa các ngành, lĩnh vực chưa cao, nhiều
vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng chưa được xử lý, thực hiện tốt, ảnh
hưởng tới kết quả triển khai công tác hội nhập. Bản thân HNKTQT là một vấn
đề liên ngành song trên thực tế trong nhiều trường hợp công tác HNKTQT vẫn
được các Bộ, ngành, địa phương triển khai một cách riêng rẽ, chỉ giới hạn cục

bộ trong khuôn khổ ngành, lĩnh vực, địa phương mình mà chưa đặt trong mối
liên hệ tổng thể với các ngành, lĩnh vực, địa phương khác. Do vậy một số vấn
đề như xây dựng các đề án, chương trình quy hoạch, phát triển vùng miền vẫn
bị vênh nhau giữa các địa phương.
Thứ ba, một số bộ phận đầu mối HNKTQT tại các Bộ, ngành, địa
phương còn lúng túng trong việc cụ thể hoá và triển khai thực hiện những chủ
trương, chính sách về HNKTQT. Từ đó dẫn tới 2 trường hợp: kế hoạch hội
nhập chỉ nêu các đầu việc chung chung hoặc dụng máy móc dập khuôn Chương
trình hành động của Chính phủ mà không căn cứ vào đặc điểm riêng của Bộ,
ngành địa phương mình. Do vậy, một số kế hoạch chương trình hành động chỉ
mang tính hình thức mà không phát huy hiệu quả trong thực tế.
Thứ tư, việc triển khai công tác HNKTQT tại một số bộ phận đầu mối
HNKTQT trong nhiều trường hợp còn thụ động, trông chờ vào chỉ đạo của cấp
trung ương mà không có sự chủ động, sáng tạo cho từng ngành, từng địa
phương. Việc triển khai công tác hội nhập của địa phương đa số mới chỉ tập
trung vào công tác thông tin tuyên truyền nhưng công tác này cũng chưa thật sự
đi vào chiều sâu. Nhiều địa phương có kiến nghị được Ủy ban Quốc gia về Hợp
tác Kinh tế Quốc tế hướng dẫn, hỗ trợ xây dựng kế hoạch về hội nhập song

24

×