Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận QUAN NIỆM CỦA HÊGEN VỀ BẢN CHẤT CỦATRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.22 KB, 23 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự hình thành triết học Mác là một tất yếu của lịch sử, một hiện tượng
hợp quy luật. Nó là kết tinh của tất cả những giá trị cao quý nhất của triết học,
văn học, khoa học của nhân loại. Đồng thời, cũng dựa trên những tiền đề cần
thiết về mặt kinh tế, xã hội, khoa học đạt được thời đó. Có thể nói, triết học
Mác ra đời là bước ngoặt cách mạng, là đỉnh cao trong sự phát triển lý luận
triết học, vừa là sự tiếp thu, kế thừa biện chứng những di sản triết học và khoa
học của nhân loại. Nói cách khác, sự hình thành và phát triển của triết học Mác
không nằm ngoài dòng lịch sử chung của tư duy khoa học và văn hóa thế giới.
Những năm 30 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào những
giai đoạn phát triển mới. Đặc biệt là những năm 40 của thế kỷ XIX, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh trở thành lực lượng kinh tế
thống trị của Anh, Pháp và một phần ở Đức. Sự phát triển của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong vốn có của nó
và biểu hiện xã hội là cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân chống các nhà tư
bản. Nhiều phong trào đấu tranh của công nhân đã trở thành khởi nghĩa vũ
trang. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản phát triển
đã đặt ra một nhu cầu khách quan là phải có một vũ khí lý luận sắc bén phản
ánh được một cách khoa học quá trình vận động của cách mạng của giai cấp
công nhân. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân các nước tư bản Tây
Âu những năm 30-40 còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức, do đó cấp thiết đòi
hỏi phải có một vũ khí lý luận khoa học. Mâu thuẫn của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt đã dẫn tới các phong trào đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân Tây Âu vào những năm 40 càng chứng tỏ vai trò
lịch sử của giai cấp tư sản về cơ bản đã hết. Và khi giai cấp công nhân trở
thành kẻ thù số một của giai cấp tư sản thì giai cấp tư sản lại thỏa hiệp với giai
cấp phong kiến để đàn áp giai cấp công nhân. Như vậy, các học thuyết kinh tế
tư sản trước đây có giá trị khoa học thì nay bị các lý luận gia tư sản khuôn theo
mục đích chính trị của giai cấp tư sản cầm quyền nên không còn giá trị khoa
học nữa. Vì thế, triết học Mác ra đời đã phản ánh đúng đắn lịch sử khách quan
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân toàn thế giới. Và với sự ra đời của


triết học Mác, giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó sức mạnh và vũ khí tinh
thần của mình. “Cũng giống như triết học thấy giai cấp công nhân là vũ khí vật
chất của mình, giai cấp vô sản thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình. Triết
học Mác ra đời như một học thuyết khoa học đã dẫn dắt phong trào công nhân
đi từ tự phát đến tự giác.
Tiền đề kinh tế xã hội là hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học
Mác nhưng đó chỉ là những tiền đề khách quan đặt ra các nhu cầu lịch sử và tạo
khả năng cho việc giải quyết các nhu cầu đó. Triết học Mác nói riêng và chủ
nghĩa Mác nói chung không phải là một trào lưu biệt phái, nó không tách rời
khỏi văn minh nhân loại. Nền văn minh đó, trực tiếp là những trào lưu tư tưởng
và lý luận ở châu Âu thế kỷ XIX: triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học
Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Triết học cổ điển Đức có vai trò
quan trọng về mặt lý luận đến sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng
của C.Mác và Ăngghen. C.Mác đã sử dụng những tư tưởng cách mạng phép
biện chứng của Heghen để luận giải những khát vọng dân chủ - cách mạng của
mình. Nhưng hai ông cũng phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm của Hêghen
trong học thuyết về “ý niệm tuyệt đối”. Trên cơ sở đấu tranh, phê phán chủ
nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện chứng của Hêghen khỏi tính chất thần bí,
C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật – hình thức cao
nhất của phép biện chứng. Một đại biểu khác của trong triết học cổ điển Đức có
ảnh hưởng lớn đến sự hình thành quan điểm triết học của C.Mác và Ăngghen là
Phoiơcbách. Những tư tưởng triết học duy vật và vô thần của Phoiơcbách tạo
tiền đề lý luận quan trọng trong bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ
nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản của
C.Mác và Ăngghen. Tuy C.Mác và Ăngghen chịu ảnh hưởng của triết học
Phoiơcbách nhưng C.Mác và Ăngghen đã tiếp thu ở đó một cách có phê phán.
Như vậy, sự ra đời của triết học Mác dựa trên nền tảng là phép biện chứng của
Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơcbách. Ngoài ra, nó còn là sự tiếp thu
những tinh hoa tư tưởng của nhân loại.
Ngoài tiền đề về kinh tế xã hội và tiền đề về lý luận, sự ra đời của triết

học Mác còn gắn với tiền đề về khoa học tự nhiên. Cuối XVIII đầu XIX, sự
phát triển của khoa học tự nhiên chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn khoa
học tự nhiên lý luận. Khoa học này đòi hỏi phải chuyển phương pháp siêu hình,
máy móc sang phương pháp biện chứng, nghĩa là trình bày sự phát triển của tự
nhiên như một quá trình vận động, liên hệ, thống nhất. Và ba phát minh lớn đã
có ý nghĩa đối với sự hình thành chủ nghĩa duy vật biện chứng: định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng, học thuyết tế bào, học thuyết tiến hóa. Phát
minh thứ nhất cho phép vạch ra được mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức
vận động khác nhau của thế giới vật chất. Phát minh thứ hai chứng minh cho sự
thống nhất, sự phát triển từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp. Phát minh
thứ ba giải thích tính chất biện chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của
các giống loài trong tự nhiên.
Như vậy, sự ra đời của triết học Mác không phải là kết quả của sự suy tư
cá nhân mà là sự suy tư mang tầm vóc đúc kết và khái quát lịch sử thời đại.
Các Mác đã để lại một di sản vô cùng lớn cho nhân loại nói chung và
giai cấp vô sản nói riêng. Nghiên cứu sự hình thành của chủ nghĩa Mác là một
trong những cách để tiếp cận với di sản đó. Chủ nghĩa Mác có nhiều nguồn gốc
khác nhau, và một trong những nguồn gốc đó là triết học cổ điển Đức. Nói đến
triết học cổ điển Đức thì phải nghiên cứu điều kiện kinh tế xã hội, đặc điểm
triết học của nó đối với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác.
QUAN NIỆM CỦA HÊGEN VỀ BẢN CHẤT CỦA
TRIẾT HỌC
Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất, không thể không kể tới Gióocgiơ
Vinhem Phriđrích Hêgen (1770-1831) - người đã cùng Lút vích Phoiơbăc và
các nhà triết học Đức đương thời khác tạo ra một trong những tiền đề lý luận
cần thiết cho việc hình thành chủ nghĩa Mác. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu
của nền triết học cổ điển Đức, Hêgen đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và
sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những luận cứ
sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hêgen đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và
phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và

qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học.
Gần 2 thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hêgen ra đời, song
ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần nhân loại vẫn không ngừng tăng lên.
Bởi lẽ, như Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Hệ thống Hêgen bao trùm một lĩnh
vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước kia, và phát triển, trong lĩnh
vực đó, một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc
nhiên Vì Hêgen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà
bác học có tri thức bách khoa nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại.
Nếu đi sâu hơn nữa vào trong toà nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong đó có vô số
những vật qúy giá đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng Nói
chung, với Hêgen, triết học đã đi đến điểm tận cùng, một mặt vì trong hệ thống
của ông, ông đã tổng kết một cách hết sức hùng vĩ toàn bộ sự phát triển của
triết học và mặt khác, vì Hêgen, dù không có ý thức, cũng đã chỉ cho chúng ta
con đường thoát khỏi cái mớ bòng bong những hệ thống triết học để đi tới sự
nhận thức thực sự tích cực về thế giới".
Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, nhân loại đã lập nên biết bao
chiến công hiển hách kể từ ngày Hêgen trở về cõi vĩnh hằng. song nó cũng đã
phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng nề. Một trong các nguyên nhân gây nên
những tôn thất ấy là do chúng ta đã hành động mà thiếu một tư duy tỉnh táo và
trước hết là thiếu một tư duy mang đậm sắc thái nhân văn - tư duy triết học, tư
duy luôn đặt con người, số phận và khát vọng về tự do của nó lên hàng đầu.
Điều đó cho thấy, nhân loại không thể sống thiếu triết học với bản chất nhân
đạo vốn có của nó. Và hơn ai hết, chính Hêgen là nhà triết học đầu tiên không
những đã ý thức được và nói rõ bản chất nhân đạo ấy của triết học, mà còn luận
chứng cho nó một cách sâu sắc và khoa học. Với Hêgen, đấu tranh cho triết học
là đấu tranh vì con người và ngược lại, phủ nhận hay khinh thường triết học là
triệu chứng của một căn bệnh hiểm nghèo - bệnh thiếu tinh thần.
VỀ CẶP PHẠM TRÙ “CÁI PHỔ QUÁT- CÁI ĐẶC
THÙ-CÁI ĐƠN NHẤT” TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG
CỦA HEGEN

Theo tiếng Nga, cặp phạm trù này dịch chính xác là "cái phổ quát" hoặc
"cái phổ biến", nó cấu thành từ hai cụm từ (tất cả, toàn thể, toàn bộ) và (cái
chung), là "cái đặc thù” là "cái đơn nhất". Dịch sát nghĩa, cặp phạm trù này
phải là "cái phổ quát" - "cái đặc thù” - "cái đơn nhất", hoặc phải là "cái phổ
biến" - "cái đặc thù” - "cái đơn nhất". Trong bản dịch Bút ký triết học, cặp
phạm trù này có lúc được dịch là "cái phổ biến" - "cái đặc thù”- "cái đơn nhất",
có lúc lại dịch là "cái phổ biến" - "cái đặc thù” - "cái cá biệt". Tuy nhiên, có thể
khẳng định chắc chắn rằng, trong số các dịch giả những tác phẩm triết học ngày
nay, khó tìm ra ai có khả năng dịch thật chính xác như các dịch giả đã dịch các
tác phẩm kinh điển của Mác, Ăngghen và Lênin. Nếu cặp phạm trù "cái chung"
- "cái đơn nhất"'- "cái riêng" (chẳng hạn, trong Giáo trình Triết học Mác -
Lênin) được rút ra từ Bút ký triết học của Lênin thì có thể nói, đó là cách rút tỉa
chưa thật thành công. Vì trong Bút ký triết học của Lênin (bản dịch của Nxb
Tiến bộ, Mátxcơva), chỗ dịch chuẩn xác nhất là "cái phổ biến" - "cái đặc thù” -
“cái đơn nhất". Ở trang 380 của Bút ký triết học, cái riêng mà Lênin nói đến
chính là cái đơn nhất: "Ivan là một người" - (lvan là cái đơn nhất, cái một, cái
cá thể - P.C.K). Như vậy, cặp phạm trù "cái chung" - "cái đơn nhất" - "cái
riêng” sẽ có sự trùng lặp (giữa cái đơn nhất và cái riêng) và do đó, nó có thể
được viết là "cái chung” - "cái đơn nhất" - "cái đơn nhất".
Theo tiếng Anh, cặp phạm trù này là "Universality (cái phổ quát) -
particularity (cái đặc thù) and individuality (cái cá thể)".
Cách hiểu của Hegel về các quy định (Hegel thường gọi là các quy định,
còn chúng ta thường gọi là các phạm trù) "cái phổ quát" - “cái đặc thù” - "cái
đơn nhất" rất khác với cách hiểu của chúng ta về cặp phạm trù "cái chung" -
“cái đặc thù” - "cái cá biệt" hoặc "cái chung” - "cái đơn nhất" - "cái cá biệt".
Theo Hegel , có thể xem xét thế giới dưới ba cấp độ và phép biện chứng
ở mỗi cấp độ là rất khác nhau:
1) Tồn tại: Đây là cái vỏ bề ngoài, trực tiếp, nông nhất mà chúng ta có
thể cảm giác được Các quy định (phạm trù) cơ bản của lĩnh vực này là chất -
lượng - độ. Phép biện chứng ở đây là "sự chuyển hoá thành mặt đối lập".

"Vương quốc" của "chất - lượng - đố" là thế giới vô cơ. Trong thế giới hữu cơ,
các quy luật của "chất - lượng - độ" chỉ giữ vai trò thứ yếu, phụ thuộc vào các
quy định "cái phổ quát” - “cái đặc thù” - "cái đơn nhất".
2) Bản chất: Cái tầng gián tiếp của thế giới, không nhận biết được bằng
trục quan, cảm tính. Các cặp phạm trù cơ bản ở đây là: "đồng nhất - khác biệt -
căn cứ", "hiện tượng - bản chất", "hình thức - nội dung”, "ngẫu nhiên - tất yếu”,
"khả năng - hiện thực" Phép biện chứng ở đây là "sự hiện hình của cái này
trong cái khác của nó" (ví dụ, bản chất hiện hình thông qua hiện tượng, hiện
tượng chỉ hiện hình với tư cách là hiện tượng thông qua mối quan hệ với bản
chất).
3) Khái niệm (hiện thân của nó là giới hữu cơ, sự sống): Sự thống nhất
của tồn tại và bản chất, cái vừa trực tiếp (có thể cảm giác được), vừa gián tiếp
(không cảm giác được). Các quy định chủ yếu của "khái niệm", sự sống là "cái
phổ quát" - “cái đặc thù” - "cái đơn nhất". Phép biện chứng ở đây không phải là
sự chuyển hoá thành mặt đối lập, không phải sự hiện hình của cái này trong cái
khác của nó mà là "sự phát triển". "Khái niệm" mà Hegel xem xét không phải
là khái niệm trong đầu chúng ta hay tồn tại ở một nơi nào đó tách khỏi sự vật,
mà là khái niệm tồn tại khách quan, gắn liền với sự vật. Khái niệm là “linh
hồn", "chương trình” phát triển của sự sống: "Trong tự nhiên, cấp độ khái niệm
tương ứng với cuộc sống hữu cơ. Ví dụ, thực vật phát triển từ bào thai của
mình. Bào thai chứa đựng trong đó toàn bộ thực vật, nhưng dưới dáng cái lý
tưởng. Tuy nhiên, chúng ta không được hiểu rằng các bộ phận khác nhau của
thực vật - rễ, thân, lá đã là cái thực tại, nhưng dưới dạng rất nhỏ bé trong bào
thai".
Theo Hegel , "khái niệm" là bản chất, là quy luật phát triển sống động và
cụ thể của sự sống. Nó không phải là sản phẩm của bộ não, không phải là cái
do chúng ta nghĩ ra và đem gán cho sự vật. Tư duy của chúng ta chỉ có thể
phản ánh về nó mà thôi. Chỉ có những khái niệm chủ quan, không đúng với bản
chất của sự vật mới là sản phẩm tư duy của chúng ta. Ông viết: "Thật là sai lầm
khi nghĩ rằng, lúc đầu, các sự vật tạo ra ở chúng ta các biểu tượng về chúng, rồi

sau đó, trên cơ sở trừu tượng hoá và liên kết cái chung giữa các sự vật, hoạt
động chủ quan của chúng ta sáng tạo ra khái niệm của chúng. Ngược lại, khái
niệm của sự vật là cái có trước (khái niệm của chúng ta về sự vật là cái có sau -
P.C.K), sự vật là sự vật nhờ hoạt động của khái niệm nội tại (quy luật phát triển
sống động nội tại - P.C.K), tự bộc lộ trong chính sự vật.
Khái niệm của sự sống, theo Hegel , khác với khái niệm của logic hình
thức: "Trong logic hình thức, khái niệm thường được xem xét chỉ như là hình
thức tư duy đơn giản và nói một cách chính xác hơn, là biểu tượng chung, liên
quan đến cách hiểu khái niệm ở tầm thấp này là sự khẳng định thường được
nhắc lại dưới góc độ cảm giác và trái tim rằng khái niệm dường như là cái gì đó
chết cứng, trống rỗng và trừu tượng. Trên thực tế, tất cả đều ngược lại, khái
niệm là nguyên lý của mọi cuộc sống và đồng thời cũng là cái hoàn toàn cụ
thể".
Hegel cho rằng, thế giới hữu cơ, sự sống kế thừa toàn bộ các quy định
của thế giới vô cơ nhưng chỉ với tư cách là các quy định thứ yếu. Ví dụ, trong
tồn tại vô cơ trực tiếp, cặp phạm trù "chất - lượng - độ” có vai trò thống soái,
quyết định toàn bộ sự thay đổi của sự vật. Tuy nhiên, trong thế giới hữu cơ, cặp
phạm trù "chất - lượng - độ" chỉ đóng vai trò thứ yếu, phụ thuộc hoàn toàn vào
cặp phạm trù "cái phổ quát - cái đặc thù - cái đơn nhất". Trong thế giới hữu cơ,
"lượng" phát triển không hợp lý, không phù hợp với tinh thần của mối quan hệ
"cái phổ quát cái đặc thù - cái đơn nhất", hay nói cách khác, không phù hợp với
"khái niệm" (quy luật vận động và phát triển cụ thể, sống động) của sự sống thì
không chỉ không dẫn đến sự phát triển, mà còn làm cho sụ sống bị suy thoái,
diệt vong.
Cái phổ quát, cái đặc thù và cái đơn nhất, theo Hegel , là ba thể của một
ngôi duy nhất là cơ thể sống, hay nói cách khác, cơ thể sống là cái "nhất ngôi
tam thể", và nếu thiếu một trong ba thể này thì cuộc sống không tồn tại: Đặc
trưng của cái đặc thù là sự phân hoá, khác biệt, đối lập. Cái đặc thù, sự phân
hoá, khác biệt, đối lập cũng là một "thể" cất yếu của cuộc sống. Nếu xoá hết sự
phân hoá, khác biệt, đối lập của cuộc sống thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc

làm cho cuộc sống bị huỷ diệt.
Đối với Hegel , cái phổ quát không phải là cái chung, mà là cái vô hạn,
sự thống nhất sống động chứa đựng cái hữu hạn, “mâu thuẫn” sự khác biệt, sự
đối lập trong chính bản thân mình, bảo tồn mình thông qua quá trình liên tục
đặt ra các giới hạn và phủ định, vượt qua các giới hạn đó. Cái vô hạn của thế
giới vô cơ, theo Hegel , là cái vô hạn "xấu”, cái vô hạn không bảo tồn được sự
vật trong quá trình biến đổi (trong thế giới vô cơ diễn ra quá trình vô hạn của
sự biến đổi: cái này biến thành cái khác, cái khác lại biến thành cái khác cho
đến vô tận). Trong thế giới hữu cơ, cái vô hạn của khái niệm, sự sống là cái vô
hạn bảo tồn được sự vật trong quá trình biến đổi, vượt giới hạn. Ví dụ, cái cây
trong quá trình phát triển, liên tục tự giới hạn và phủ định các giới hạn của
mình, nhưng vẫn bảo tồn được mình trong quá trình phủ định liên tục đó: từ cái
mầm, nhú ra một lá, rồi giới hạn này bị phủ định, sau đó, nhú ra một lá nữa rồi
giới hạn đó lại bị phủ định, cứ tiếp tục .như thế nhưng cái cây vẫn là cái cây
Hegel cho rằng, cái phổ quát là cái tự lấy mình làm trung gian cho sự phát triển
của chính mình. Các giới hạn của cái phổ quát chính là cái đặc thù. Đặc trưng
của cái đặc thù là sự đa dạng, khác biệt, đối lập. Quá trình phát triển của sự
sống là quá trình không ngừng đặt ra và phủ định cái đặc thù (đây chính là quy
luật phủ định của phủ định theo cách hiểu của Hegel ). Ông viết: "Khi nói về
khái niệm, trước con mắt trí tuệ của chúng ta, thông thường chỉ hiện ra cái phổ
quát trừu tượng và bởi vậy, khái niệm thường chỉ được xác định như là một
biểu tượng chung. Khi nói về khái niệm ánh sáng, thực vật, động vật người ta
cho rằng các khái niệm này được hình thành nhờ bỏ đi mọi cái đặc thù tạo ra sự
khác biệt giữa các loại ánh sáng, thực vật, động vật khác nhau và giữ lại cái
chung giữa chúng. Đó là cách hiểu trí tính (theo logic hình thức - chú giải của
tác giả) về khái niệm và ở đây nhận thức cảm tính hoàn toàn có lý khi tuyên bố
các khái niệm ấy chỉ là các sơ đồ, đường nét trần trụi, không có nội dung, trống
rỗng. Tuy nhiên, cái phổ quát của khái niệm không chỉ là cái chung đối lập với
cái đặc thù tồn tại tự thân, độc lập, ngược lại, đó là cái tự mình phân hoá, đặc
thù hoá chính mình và với một sự hiển nhiên không một chút mờ nhạt, nó bảo

tồn chính nó trong cái khác của nó. Điều tối quan trọng đối với nhận thức cũng
như hành động thực tiễn là không được lẫn lộn cái chung trần trụi với cái phổ
quát đích thực".
Cái đơn nhất (cá thể), theo Hegel , không chỉ là một sự vật đơn lẻ mà
còn là một chủ thể, là cái tự sản sinh ra chính mình: "Cái đơn nhất của khái
niệm, nói một cách vô điều kiện, đó là tác nhân, nhưng tác động ở đây không
giống như nguyên nhân sản sinh ra một cái khác nào đó, cái đơn nhất của khái
niệm sản sinh ra chính mình". Cái đơn nhất là sự phản hồi phủ định của cái phổ
quát (trong quá trình liên tục phủ định khâu trung gian, quy luật phổ biến của
sự phát triển sẽ lộ ra). Cái phổ quát, cái đặc thù và cái đơn nhất đồng nhất với
nhau trên cơ sở phân hoá, khác biệt: không có cái phổ quát tách khỏi cái đặc
thù và cái đơn nhất, cái đặc thù và cái đơn nhất đồng thời cũng là cái phổ quát.
Tuy nhiên, cái phổ quát đồng thời lại cũng không phải là cái đặc thù hoặc cái
đơn nhất, cái đặc thù chỉ là khâu trung gian, một thời điểm (một thể) của cái
phổ quát, cái đơn nhất chỉ là một trong những chủ thể bị chi phối bởi sức mạnh
của quy luật phổ quát.
Cặp phạm trù "cái phổ quát - cái đặc thù - cái đơn nhất" lý giải tại sao
quy luật phủ định của phủ định, theo cách hiểu của Hegel , lại khác về cơ bản
so với cách hiểu của chúng ta. Cả Hegel và Mác đều cho rằng, nhờ sự phủ định
của phủ định, sự vật quay trở lại với chính mình nhưng ở một trình độ phát
triển cao hơn. Tuy nhiên, xem xét cách diễn giải của Hegel và Mác, chúng ta
thấy quan niệm của hai ông lại rất khác nhau. Đối với cách hiểu của Mác, quay
trở lại với chính mình là quay trở lại với hình thức ban đầu (nhưng ở trình độ
phát triển cao hơn): "Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là chế độ xã hội không có
giai cấp, không có bóc lột. Nó bị phủ định bởi các chế độ có giai cấp, có bóc
lột. Sau đó, các chế đồ có giai cấp, có bóc lột lại bị phủ định bởi chế độ cộng
sản chủ nghĩa không còn giai cấp, không còn bóc lột. Xét về mặt không có giai
cấp, không có bóc lột, xã hội cộng sản văn minh giống với xã hội cộng sản
nguyên thuỷ, nhưng xét về trình độ phát triển, hai xã hội đó có sự khác nhau
một trời một vực". Còn đối với cách hiểu của Hegel , quay trở lại với chính

mình đồng nghĩa với sự bảo tồn bản thân (nhưng ở trình độ phát triển cao hơn).
Ở Hegel , quy luật phủ định của phủ định là sự phủ định liên tục, không
ngừng đối với cái đặc thù mà ông thường gọi là sự phủ định tuyệt đối. Theo
Hegel , cái đơn nhất là sự phủ định lần thứ nhất. Sự ra đời của cái đơn nhất
đồng thời cũng là sự ra đời của cái đặc thù và cái phổ quát với tư cách là một
chính thể sống động (ba thể này không tách rời với nhau nhưng đồng thời cũng
khác biệt với nhau). Cái đặc thù là sự xác định, sự quy định cụ thể và cũng là
giới hạn của cái đơn nhất. Bản chất của cái đơn nhất là cái phổ quát, để vươn
tới cái phổ quát thì cái đơn nhất phải không ngừng phủ định, vượt bỏ các giới
hạn của bản thân. Cái đặc thù chính là giới hạn của cái đơn nhất và được Hegel
gọi là cái phủ định. Phủ định của phủ định, theo cách hiểu của Hegel , chính là
sự phủ định không ngừng, liên tục đối với cái đặc thù - khâu cơ cũng có sự hiện
diện của quy luật phủ định của phủ định. Trong quá trình phủ định này, không
chỉ cái phổ quát được củng cố và phát triển, còn cái đặc thù thì biến mất mà
ngược lại, cái đặc thù cũng càng ngày càng phát triển rực rỡ hơn, sự phát triển
của cái đặc thù là tiền đề cho sự phát triển của cái phổ quát và ngược lại, sự
phát triển của cái phổ quát là điều kiện để cái đặc thù phát triển. Ví dụ, cái cây
với tất cả các quy định đặc thù của nó (rễ, thân, lá, cành trong tất cả các giai
đoạn phát triển ) đã được chứa đựng trong cái hạt. Tuy nhiên, lúc ban đầu, ở
dạng cái hạt, cả cái đặc thù (rễ, thân, cành, lá ) và cái phổ quát (cái cây nhìn
tổng thể) đều mờ nhạt, nhưng trong quá trình phát triển của cái cây, cái đặc thù
liên tục được đặt ra và liên tục bị phủ định (cái mầm bị phủ định, lá nhú ra và
lại bị phủ định cứ thế tiếp diễn) . Nhờ quá trình phủ định liên tục này, cái cây
mới bảo tồn được nó với tư cách là cái cây, sự sống, cái phổ quát, nhưng cái
cây ở giai đoạn sau phát triển đến trình độ cao hơn cái cây ở giai đoạn trước.
Cái cây ở giai đoạn phát triển sung mãn nhất, chính là thời điểm cái đặc thù (sự
phân hoá, khác biệt, đối lập trong bản thân nó) bộc lộ rõ nhất. Quá trình phủ
định này cũng bao hàm sự kế thừa, nhưng cái được kế thừa bị thay đổi về vị trí
của mình (ví dụ, cái cành cao nhất của cái cây non, trong quá trình phát triển
của cái cây, không bị biến mất nhưng vị trí của nó không ngừng bị thay đổi, lùi

dần xuống các vị trí thấp hơn). Không thấy ở đâu Hegel đưa ra các ví dụ về sự
phủ định kiểu "hạt thóc - cây lúa - bông thóc". Cách hiểu này của Hegel , tất
nhiên, sẽ không gặp mâu thuẫn đối với trường hợp phát triển của con bướm
(quá trình phủ định nhiều hơn ba bước).
Chúng ta có thể lấy rất nhiều ví dụ minh hoạ cho cách hiểu về quy luật
phủ định của phủ định này của Hegel . Ví dụ, sự ra đời của đứa trẻ, đó là sự
phủ định lần thứ nhất. Sự ra đời của cái đơn nhất (đứa trẻ sơ sinh cụ thể X)
đồng thời cũng là sự hiện diện của cái đặc thù và cái phổ quát. Trong sự phủ
định này, con người (cái phổ quát), trẻ sơ sinh (cái đặc thù, quy định cụ thể,
giới hạn hiện có của đứa trẻ) và đứa trẻ cụ thể X đó (cái đơn nhất cá thể) là một
thể thống nhất không tách rời nhau nhưng đồng thời cũng khác biệt với nhau.
Để vươn tới bản chất phổ quát (con người) của mình, đứa trẻ sơ sinh này phải
trải qua quá trình liên tục phủ định (vượt qua) các giới hạn cả về' thể xác và trí
tuệ của mình. Về mặt trí tuệ, theo năm tháng trôi đi, đứa trẻ phải không ngừng
phủ định (vượt qua) các giới hạn hiện có về mặt kiến thức (cái đặc thù về trí
tuệ) Của mình thì đó mới là con người đích thực (cái phổ quát). Phủ định của
phủ định là quá trình lấy mình làm trung gian bước quá độ cho sự phát triển
của chính mình. Trong quá trình này, các khâu trung gian, quá độ không ngừng
được đặt ra và được vượt bỏ, cái đơn nhất thông qua cái đặc thù để vươn tới cái
phổ quát.
Có thể lấy một ví dụ khác về quy luật phủ định của phủ định theo cách
hiểu của Hegel , đó là quan điểm của ông về quá trình phát triển của lịch sử
toàn thế giới. Theo Hegel , nhà nước là một cơ thể sống, quá trình phát triển
của xã hội loài người trải qua bốn hình thái nhà nước cơ bản nhất. Hình thái
nhà nước có tính lịch sử toàn thế giới đầu tiên là nhà nước phong kiến phương
Đông. Trong hình thái nhà nước này, cái phổ quát trừu tượng, sự đồng nhất
trừu tượng (lợi ích quốc gia đối lập với quyền tự do cá nhân của con người)
được khẳng định. Ở đó, cái đặc thù (các đòi hỏi cá nhân, quyền tự do cá nhân)
rất mờ nhạt, hay theo cách nói của Hegel , "bị nhấn chìm" trong cái phổ quát
lợi ích quốc gia, cộng đồng). Tuy nhiên, theo quy luật phát triển, cái đặc thù sẽ

"nhú lên" trong cái phổ quát và hình thái nhà nước có tính lịch sử toàn thế giới
tiếp theo sẽ là nhà nước chủ nô Hy Lạp. Trong nhà nước chủ nô Hy Lạp, cái
đặc thù (các đòi hỏi, quyền tự do cá nhân) mới chỉ "nhú lên". Nói cách khác, ở
đó mới chỉ có một bộ phận dân cư của xã hội (giới chủ nô) có được quyền tự
do cá nhân, phần đông đảo dân cư còn lại của xã hội (nô lệ) chưa có quyền này.
Cuối thời đại nô lệ, ý thức về quyền tự do cá nhân trỗi dậy, sự phân hoá
giữa ý thức về cái phổ quát lợi ích quốc gia) và ý thức về quyền của cái cá nhân
(đặc thù) diễn ra theo chiều hướng cực đoan: "Sự đối lập khởi đầu bởi sự xung
khắc giữa trực quan về cái phổ quát của tầng lớp qúy tộc và nguyên lý tự do cá
nhân dưới hình thức dân chủ. Khi sự đối lập tăng lên, tầng lớp quí tộc trở nên
mê muội, kiên quyết bám giữ lấy quyền lực ích kỷ, nhẫn tâm của mình còn
những người theo nguyên lý tự do cá nhân thì bị suy đồi liên tục cho tận đến
khi trở thành tiện dân. Cuối cùng, sự thống nhất bị phá vỡ, hệ quả là bất hạnh
tràn lan, cuộc sống luân lý bị huỷ diệt". Nhà nước có tính lịch sử toàn thế giới
tương ứng với thời kỳ này, theo Hegel , là nhà nước La Mã. Trong nhà nước
này, một số quyền cá nhân được thừa nhận nhưng chỉ là hình thức.
Nhà nước pháp quyền tư sản, theo Hegel , là kiểu hình thái nhà nước có
tính lịch sử toàn thế giới thay thế cho hình thái nhà nước kiểu La Mã. Trong
hình thái Nhà nước này, ý thức về sự thống nhất giữa lợi ích quốc gia (phổ
quát) và lợi ích cá nhân (đặc thù) được khẳng định, cái cá nhân (đặc thù) được
thừa nhận không chỉ về mặt hình thức mà còn về mặt thực chất, được tạo điều
kiện phát triển rực rỡ và do đó, nhà nước - với tư cách là lợi ích quốc gia (phổ
quát) cũng trở nên vững chắc. Trong nhà nước pháp quyền, cái đặc thù, các
khâu trung gian, quá độ được đặt ra và được phủ định kịp thời, hoàn toàn có có
ý thức, phù hợp với quy luật vận động của cái lý. Đây cũng là giai đoạn mà
trong đó, con người trở thành con người tự do, cuộc sống trở thành ý niệm
tuyệt đối (ý niệm tuyệt đối, theo Hegel , trước hết đó là sự thống nhất giữa ý
niệm lý luận và ý niệm nhận thức và do đó đồng thời cũng là sự thống nhất
giữa ý niệm cuộc sống và ý niệm nhận thức).
Bài viết này chỉ là một nỗ lực góp phần làm rõ một trong những cặp

phạm trù cơ bản của Hegel : "cái phổ quát - cái đặc thù - cái đơn nhất". Nếu
không hiểu được "bộ máy khái niệm" trong logic học của Hegel , đặc biệt là
cặp phạm trù "cái phổ quát - cái đặc thù - cái đơn nhất" thì cũng khó mà hiểu
được các tác phẩm khác của ông, như Hiện tượng học tinh thần, Triết học pháp
quyền Đây cũng là lý do để giải thích tại sao dưới ngòi bút của một số dịch
giả, các tư tưởng của Hegel lại trở nên tối nghĩa, lủng củng, mâu thuẫn, phi lý
và rất khó hiểu như vậy. Để hiểu đúng hơn về Mác, chúng ta rất cần nghiên cứu
nhiều hơn về Hegel . Vì, như câu cách ngôn của Lênin: "Không thể hoàn toàn
hiểu được "Tư bản" của Mác và đặc biệt là chương I của sách đó, nếu chưa
nghiên cứu kỹ và chưa hiểu toàn bộ logic của Hegel ".
Ý NGHĨA CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG HÊGEN
Nếu xem xét một cách cẩn thận và khoa học thì chúng ta thấy rằng các
phạm trù cơ bản của triết học vẫn giữ được ý nghĩa của chúng suốt nhiều thế kỷ
mặc dù nội dung của chúng có thể biến đổi và trở nên phong phú hơn rất nhiều.
Các tác phẩm triết học lớn đã tồn tại đã vượt qua được sự thẩm định hết sức
nghiêm khắc của các thời đại và cho đến hiện nay vẫn tiếp tục tỏ rõ vai trò của
chúng trong đời sống trí tuệ của nhân loại.
Lịch sử đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng từ trước đến nay các học thuyết
triết học có ảnh hưởng nhất vốn là kết quả của sự sáng tạo cá nhân của những
nhà triết học kiệt xuất bằng cách này hay cách khác ở mức độ này hay mức độ
khác đều được phục hồi ở các thời đại sau đó dù cho điều kiện lịch sử đã có
những thay đổi rất lớn chẳng hạn đó là học thuyết Platôn. học thuyết Arixtốt
học thuyết R.Đêcáctơ học thuyết I.Cantơ học thuyết G.Hêgen.v.v
Trong nghiên cứu triết học cần hết sức chú ý một điều là không nên đi
tìm hoặc quy ảnh hưởng của một học thuyết triết học nào đó chỉ ở hoặc về một
nhóm các đồ đệ trực tiếp của nó nghĩa là vào một trường phái xác định nào đó.
Và điều này cũng hoàn toàn đúng với học thuyết của Hêgen. Chúng ta không
cần phải mất công sức chứng minh việc triết học Hêgen đã có ảnh hưởng vượt
ra khỏi khuôn khổ của thuyết Hêgen ra sao tức là khuôn khổ của một trường
phái đã thừa nhận các tiền đề xuất phát của hệ thống triết học Hêgen.

Xét một cách thật chặt chẽ thì học thuyết Hêgen hiện nay không phải là
một trào lưu tư tưởng triết học đáng kể. Mặc dù vậy sự quan tâm tới triết học
Hêgen đặc biệt là số lượng các công trình nghiên cứu về triết học không những
không hề giảm bớt mà trái lại còn tăng lên liên tục. Hơn thế nữa có một điều
khá đặc biệt là các nhà nghiên cứu về di sản triết học của Hêgen thường lại
không phải là những người theo trường phái Hêgen. Một điều nổi bật khác ở
đây là cả các nhà duy tâm lẫn các nhà duy vật, cả những người bảo vệ chủ
nghĩa duy lý lẫn những người ủng hộ chủ nghĩa phi duy lý đều tích cực nghiên
cứu triết học Hêgen. Trong số các nhà triết học duy tâm lý giải triết học Hêgen
và cố gắng đồng hoá các tư tưởng của ông thì thậm chí chúng ta lại bắt gặp
những người cố gắng bảo vệ các khuynh hướng triết học hết sức xa lạ với học
thuyết Hêgen chẳng hạn chủ nghĩa hiện sinh. chủ nghĩa nhân cách triết học
phân tích thần học biện chứng.v.v
Vậy thì điều gì ở trong học thuyết Hêgen đã và đang có sức cuốn hút các
nhà tư tưởng vốn theo đuổi những định hướng triết, học rất khác nhau đó đến
như vậy?
So sánh cái nhìn của Hegel và Marx về thực tại
Theo chúng tôi đặt vấn đề này ra là cần thiết để nhận thức cho đúng
những nét đặc thù của các trào lưu triết học khác nhau đồng thời cũng là để
đánh giá chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hêgen đối với sự phát triển của tư
tưởng triết học nói chung một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm lịch sử từ lúc
xuất hiện triết học đó cho đến hôm nay.
Đương nhiên khi xem xét các quan điểm của những nhà triết học nổi
tiếng của các thời đại trước đây tuyệt nhiên chúng ta không được tô vẽ không
được hiện đại hoá các quan điểm đó của họ.
Đồng thời chúng ta cũng không được ca ngợi không được biện hộ một
chiều các quan điềm đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi nhừng điều kiện lịch sử
hoặc những thiên kiến đương thời. Muốn vậy phải biết phận biệt những gì là
giá trị trong di sản triết học với những sự xuyên tạc hoặc lý giải tuỳ tiện về di
sản đó. Một mặt, khi xem xét di sản của một nhà tư tưởng thì không bỏ qua

những hạn chế lịch sử những khiếm khuyết và sai lầm của nhà tư tưởng đó:
những mặt khác chúng ta cần rút ra và nhấn mạnh những gì trong di sản đó đã
vượt qua được thử thách ngặt nghèo của thời gian đã trở thành một khâu hữu
ích trong quá trình phát triển của tư tưởng triết học.
Làm tốt được điều trên đây đối với triết học Hêgen không phải là dễ
dàng. Bởi vì triết học Hêgen không những quá đồ sộ quá bách khoa quá uyên
bác về nhiều mặt mà còn chứa đựng trong mình nó không ít những mâu thuẫn
những xu hướng khác nhau kể cả các xu hướng bài trừ nhau. Những cái đó một
phần là nguyên cớ một phần cũng là căn cứ cho những cách lý giải hết sức
khác nhau đối với học thuyết, Hêgen.
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hêgen song
không thể phủ nhận được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất
trong triết học của ông chính là phép biện chứng mà thực chất đó là học thuyết
về sự phát triển toàn diện với tư cách là sự vận động tiến tới và sự chuyển hoá
về chất, với tư cách là sự đi lên theo thang bậc lôgíc có tuần tự về tính chất mâu
thuẫn của sự phát triển bao gồm sự tương tác giữa các mặt đối lập sự phủ định
tồn tại hiện có và đồng thời là sự giữ lại cái tích cực từ quá khứ.
Hệ vấn đề phép biện chứng hiện nay trở nên đặc biệt cấp bách là do tính
chất biện chứng trong sự phát triển của xã hội và của sự nhận thức khoa học
hiện đại ngày càng bộc lộ rõ nét hơn. Những chuyển biến mang tính lịch sử
toàn cầu và vô cùng đa dạng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong đời sống xã
hội trên khắp hành tinh chúng ta hiện nay. Bên cạnh đó trong sự phát triển của
mình khoa học tự nhiên hiện đại cũng đang vấp phải không ít các vấn đề biện
chứng của chính sự phát triển. Giờ đây sự tiến hoá của giới tự nhiên đang được
nghiên cứu ở mọi cấp độ cấu trúc. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đã
xâm nhập vào nhận thức khoa học tự nhiên cả ở mức độ vĩ mô lẫn mức độ vi
mô. Nguyên tắc phát triển thực sự đã trở thành nguyên tắc phổ biến trong
nghiên cứu khoa học.
Sự tiến bộ và những thành công tuyệt vời của sinh học mấy năm gần đây
đánh dấu bước ngoặt mới của sự xâm nhập ngày càng sâu hơn vào các bí mật

trong cấu trúc và trong sự phát triển của thế giới vật chất sống. Điều nổi bật
nhất về mặt này chính là ở chỗ sinh học phân tử ngày càng quay trở lại mạnh
hơn với tư tưởng về sự phát triển và sự tự phát triển.
Bí mật của sự tự phát triển của các cơ thể sống đang dần dần được mở ra
qua những thành công của kỹ thuật di truyền của công nghệ sinh học. Cơ sở
phân tử và dưới phân tử của sự phát triển cá thể và của sự tiến hoá nói chung vì
vậy đang thù hút mạnh mẽ trí tuệ của nhiều nhà sinh học và nhiều phòng thí
nghiệm lớn của thế giới. Hơn bao giờ hết nguyên tắc phát triển đang trở thành
nguyên tắc cơ bản của toàn bộ nhận thức sinh học hiệp đại. Vai trò to lớn của
của tư tưởng phát triển đối với sự tiến bộ của khoa sinh thái học và của thực
tiễn sinh thái ngày càng rõ nét hơn và hiển nhiên hơn. Cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm bộc lộ những mâu thuẫn của sự tiến
bộ mà trong quá khứ thường được xem như là sự làm chủ của con người đối
với các lực lượng tự phát của tự nhiên như là sự thống trị của con người đối với
giới tự nhiên. Tiếc rằng trên thực tế sự làm chủ đó sự thống trị đó không chỉ
đem lại toàn những cái hay những điều tốt mà còn gây nên cả những tổn thất
không nhỏ cho chính con người lẫn cho giới tự nhiên một khi con người không
kiểm soát được nó. Đồng thời: việc áp dụng hợp lý các thành tựu khoa học và
công nghệ mới nhằm góp phần bảo vệ giới tự nhiên phát triển bản thân con
người thúc đấy sự phát triển xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo chỉ có
thể thực hiện được một khi đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng. Chính sự
biến đổi sự cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội một cách hợp lý và trên cơ sở
nhân đạo là chiếc chìa khoá để giải quyết các vấn đề bức bách đang được đặt ra
trước nhân loại.
Rõ ràng là việc vai trò của phép biện chứng tawng lên một cách đặc biệt
không phụ thuộc vào bản thân triết học Hêgen. Tuy nhiên chính học thuyết của
Hêgen là thứ triết học đã biến phép biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân
đích thực của toàn bộ hệ vấn đề triết học. Phép biện chứng được Hêgen lý giải
là phương pháp đúng đắn để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư
duy biện chứng được ống nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có căn cứ vững

chắc là phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác. Trong
triết học Hêgen phép biện chứng biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là hình
thức cao nhất của lôgíc học của tư duy lôgíc. Đồng thời nó cũng chế định một
thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin vào tính tất yếu của sự tiến bộ với
tư cách là kết, quả của sự phát triển hợp quy luật.
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hoà với
trật tự xã hội phổ hiện tồn thời đó mà Hêgen đã có những kết luận mâu thuẫn
và không nhất quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình. Hêgen đã đặt
ra một giới hạn cho sự phát triển của nhân loại kể cả cho sự phát triển của triết
học sau khi tuyên bố rằng học thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn
thiện của tư tưởng triết học.
Nhưng ngay cả những điều ấy cũng không làm mất đi ý nghĩa tiến bộ
của các nguyên tắc biện chứng xuất phát của Hêgen. Phù hợp với chúng Hêgen
quan niệm lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do. Cho dù bản
chất của tự do có được hiểu khác nhau xong việc thừa nhận nó vẫn trở thành
một trong những tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự công
bằng xã hội. Đó chính là lý do tại sao sự quan tâm của nhiều nhà triết học hiện
đại đến học thuyết Hêgen trở thành sự quan tâm có cơ sở sâu sắc và mang ý
nghĩa thiết thực.
Nhân đây cần phải nhắc đến sự đánh giá của C. Mác đối với phép biện
chứng của Hêgen vì chính C. Mác không những đã chỉ phê phán một cách sâu
sắc phép biện chứng của Hêgen mà còn cải tạo phép biện chứng đó xây dựng
nên phép biện chứng duy vật duy nhất và thực sự khoa học với mẫu mực tuyệt
vời của nó là tác phẩm chủ yếu của ông - bộ "Tư bản". C.Mác viết: "Tính chất
thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêgen tuyệt nhiên không
ngăn cản Hêgen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý
thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy ở Hêgen phép
biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện
được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần
Triết học duy vật biện chứng chính là giải pháp cho nhiệm vụ nghiên

cứu đã được C. Mác đặt ra đó C. Mác và Ph.Ăngghen không gán ghép hay hợp
nhất một cách đơn giản phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật
trước đó. trước hết là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc. Trên thực tế các ông
đã phải tiến hành một công việc hết sức phức tạp và đồ sộ là chỉnh lý cải tạo
một cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm của Hêgen: chỉnh lý và cải
tạo một cách biện chứng đối với chủ nghĩa duy vật máy móc và siêu hình.
Trong triết học Mác phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật không phải
là các bộ phận cấu thành riêng biệt tách rời nhau mà chúng chuyến hoá lẫn
nhau xâm nhập vào nhau và tạo thành một chỉnh thế hữu cơ. Chủ nghĩa duy vật
trong hệ thống triết họe mácxít không những là lý luận mà còn là phương pháp
nghiên cứu duy vật. Đồng thời phép biện chứng mác xít không chỉ là phương
pháp mà còn là lý luận hơn thế nữa là lý luận hoàn thiện nhất đầy đủ nhất toàn
diện nhất và không phiến diện nhất về sự phát triển.
Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
không bao giờ coi công việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách duy
vật đối với, phép biện chứng của Hêgen đã là hoàn tất. Trái lại cho đến tận cuối
đời các ông vẫn không ngừng nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên cứu
chuyên sâu và những khái quát mới về phép biện chứng Hêgen. Điều mà tiếc
thay các ông chưa kịp thực hiện.
Noi theo tấm gương của C. Mác và Ph. Ăngghen. V. I . Lênin cũng kiên
trì nhấn mạnh về sự cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một, cách duy vật
đối với phép biện chứng Hêgen. Trong bài viết "Về tác dụng của chủ nghĩa duy
vật chiến đấu" - tác phẩm được coi một cách xác đáng là di chúc triết học của
Lênin - ông kêu gọi thành lập "Hội những người bạn duy vật của phép biện
chứng Hêgen" để tiến hành công tác nghiên cứu giải thích và tuyên truyền phép
biện chứng của Hêgen: "Dựa vào cách của Mác đã vận dụng phép biện chứng
của Hêgen hiểu theo quan điểm duy vật chúng ta có thể và cần phải nghiên cứu
phép biện chứng đó trên tát cả các mặt".
Những chỉ dẫn rất: quan trọng và quý báu đó cũng đồng thời là những
kết, luận được chính Lênin rút ra từ các nghiên cứu riêng của ông về triết học

Hêgen và trước hết là về phép biện chứng Hêgen. Ngay từ giữa những năm 90
thế ký XIX Lênin đã vạch ra một cách sâu sắc ý nghĩa xã hội của phép biện
chứng Hêgen của mặt cách mạng của nó mà thậm chí phái Hêgen mới đã bỏ
qua trong bài viết nhan đề "Phriđrích Ăngghen" Lênin viết: "Lòng tin của
Hêgen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và nguyên lý
cơ bản của triết học Hêgen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá trình
liên tiếp biến hoá và phát triển đã dẫn những học trò của nhà triết học ở
Béclanh không muốn điều hoà với hiện trạng đến ý nghĩ cho rằng ngay cả cuộc
đấu tranh chống hiện trạng cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và
chống điều ác đang hoành hành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển
không ngừng. Nếu mọi cái đều phát triển nếu những thể chế này bị thể chế
khác thay thế vậy thì tại sao chế độ chuyên chế của vua phổ hay của Nga hoàng
việc một thiểu số rất nhỏ làm giàu trên lưng tuyệt đại đa số sự thống trị của giải
cấp tư sản đối với nhân dân lại cứ tồn tại mãi?". Như vậy tiềm năng cách mạng
trong phép biện chứng của Hêgen đã được Lênin vạch ra; tiềm năng đó biểu
hiện nội dung cơ bản của nó: tính có quy luật nội tại của sự phát triển sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập sự phủ định biện chứng với tư cách một bậc thang
tất yếu của sự phát triển.
Như mọi người đền biết trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ
nhất cho dù phải bận tâm với cuộc đấu tranh chính trị trực tiếp với việc phải
phân tích quá trình diễn tiến và sự chín muồi của cách mạng Nga. Lênin vẫn
tìm được thời gian để nghiên cứu một cách có hệ thống triết học Hêgen đặc biệt
là "Khoa học lôgíc" và "Những bài giảng về lịch sử triết học" của Hêgen. Các
bản tóm tắt sâu sắc và cô đọng về những tác phẩm thiên tài này tạo thành bộ
phán đáng kể và hơn nữa là bộ phận quan trọng nhất trong "Bút ký triết học"
nổi tiếng của V.I. Lênin. trong đó không những ông đã vạch rõ sự phong phú
tuyệt vời của các tác phẩm cơ bản của Hêgen mà còn đưa ra các kết luận triết
học mới góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa duy vật biện chứng. "Bút ký
triết học" của V.I. Lênin chứng tỏ đầy sức thuyết phục rằng công việc chỉnh lý
một cách duy vật đối với phép biện chứng Hêgen còn lâu mới hoàn tất rằng

trong lĩnh vực này sẽ có những nghiên cứu khám phá và thành tựu mới. Trong
khuôn khổ bài viết này chúng tôi không thể xem xét một, cách thật sự có hệ
thống và thật đầy đủ sự phân tích của Lênin về "Khoa học lôgíc". Do vậy
chúng tôi chỉ đề cập đến sự đánh giá chung và khái quát của Lênin đối với học
thuyết lôgíc của Hêgen. Thực chất của sự đánh giá này là: dưới hình thức lộn
ngược học thuyết Hêgen phản ánh bức tranh khách quan về thế giới. Phân tích
quan niệm của Hêgen về “ý niệm mà rốt cuộc hoá ra là giới tự nhiên. Lênin
viết: "Hêgen đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của những
hiện tượng của thế giới của giới tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm".
Nói cách khác các quy luật phổ biến của sự phát triển của giới tự nhiên
của xã hội loài người và của sự nhận thức không thể được mô hình hoá chỉ phù
hợp với các quy luật của một mình sự nhận thức của một mình tư duy như hệ
thống Hêgen giả định. Không thể rút ra các quy luật của tồn tại từ tư duy. Từ
một thực tế là các quy luật của tồn tại được phản ánh trong tư duy. Hêgen đã
rút ra một kết luận sai lầm rằng tồn tại thực chất là tư duy. Quan hệ hiện thực
đã bị Hêgen thần bí hoá bị đặt lộn ngược chân lên đầu. Nhưng dù sao Hêgen
cũng đã luận chứng theo kiếu duy tâm luận điểm cho rằng các hình thức của tư
duy là sự phản ánh các mối quan hệ vốn có trong tự nhiên và trong xã hội
không phụ thuộc vào tư duy. Quay trở lại vấn đề này ở một chỗ khác. Lêmn
viết: "Hêgen đã chứng minh rằng những hình thức lôgíc và những quy luật
lôgíc không phải là một cái vỏ trống rỗng: mà là phản ánh của thế giới khách
quan. Nói đúng hơn không phải ông đã chứng minh như vậy mà đã đoán thấy
một cách tài tình như vậy" ,
Khi phân tích "Khoa học lôgíc" của Hêgen. Lênin thường xuyên đối
chiếu nó với "Tư bản" của Mác vì phương pháp luận của "Tư bản" là kết quả
của một việc làm đồ sộ là chỉnh lý theo cách duy vật đối với phép biện chứng
duy tâm của Hêgen. Trong tác phẩm cơ bản này của mình Mác đã nghiên cứu.
thứ nhất sự phát triển của chủ nghĩa tư bản; thứ hai sự phát triển của nhận thức
về kinh tế tư bản chủ nghĩa (lịch sử của kinh tế học chính trị) và thứ ba sự phát
triển của các phạm trù kinh tế học mà thông qua đó việc nghiên cứu quan hệ

sản xuất và trao đổi tư bản chủ nghĩa được thực hiện.
Vạch ra sự thống nhất của bả mặt cơ bản nay (bản 'thể luận nhận thức
luận và lôgíc học) trong việc nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Lênin đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng: "Mác không để lại cho
chúng ta "lôgíc học" (với chữ L. viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lôgíc
của "Tư bản" và cần phải tận dụng đầy đủ nhất lôgíc đó để giải quyết vấn đề
mà chúng ta đang nghiên cứu. Trong "Tư bản" Mác áp dụng lôgíc phép biện
chứng và lý luận nhận thức . . . của chủ nghĩa duy vật vào một khoa học duy
nhất: mà chủ nghĩa duy vật thì đã lấy ở Hêgen tất cả cái gì có giá trị và phát
triển thêm lên" Nhờ trí tuệ uyên bác của Mác mà phép biện chứng duy vật đã
được tạo ra và với tất cả sự đối lập với phương pháp Hêgen nó vẫn thừa nhận
và nhấn mạnh sự giống nhau của mình với phương pháp đó Như trên đã nói
cho đến nay sự quan tâm đối với di sản triết học của Hêgen vẫn không ngừng
tăng lên. Phải coi đây là hiện tượng tích cực vì về thực chất sự quan tâm ngày
một tăng lên này là sự quan tâm không những đối với thứ triết học đã tổng kết
về mặt lý luận lịch sử biện chứng đã có từ trước đó mà còn là sự quan tâm đối
với toàn bộ lịch sử nhận thức nói chung. Sẽ thật là ngây thơ nếu như không
nhận thấy rằng tuỳ thuộc vào định hướng khoa học và ý thức hệ mà các nhà
triết học sẽ có các cách tiếp cận khác nhau đối với việc nghiên cứu và đánh giá
phép biện chứng của Hêgen. Một số nhà triết học cố gắng nghiên cứu các tư
tưởng biện chứng thiên tài của Hêgen trên cơ sở các dữ liệu của khoa học hiện
đại và kinh nghiệm lịch sử mới của thời đại. Ngược lại có một số nhà triết học
khác lại tiến hành nghiên cứu phép biện chứng Hêgen chỉ để bác bỏ nó chỉ để
thuyết phục người khác tin rằng về nguyên tắc phép biện chứng không áp dụng
được vào thế giới khách quan mà chỉ có quan hệ với tư duy. Như vậy không thể
không nhận thấy rằng trong số những người nghiên cứu phép biện chứng
Hêgen thì một số là các nhà biện chứng còn số khác là kẻ thù của phép biện
chứng.
KẾT LUẬN
Mặc dù theo quan điểm triết học duy tâm, ngược lại với quan điểm duy

vật biện chứng của Mác nhưng Hegen đã đóng một vai trò hết sức quan trọng
đối với sự hình thành và phát triển của triết học Mác. Mác đã kế thừa những
luận điểm tiến bộ, đúng đắn của Hegen để luận giải những vấn đề của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Là những người ủng hộ sự phát triển sáng tạo phép biện chứng chúng ta
đánh giá cao công lao vĩ đại của Hêgen cho phép biện chứng và coi việc tiếp
tục tổng kết khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học và cửa thực tiễn
hiện đại đế làm giàu thêm phép biện chứng duy vật của C. Mác là nhiệm vụ
quan trọng và không bao giờ kết thúc.

×