Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

TIỂU LUẬN TÌM HIỂU SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.19 KB, 10 trang )

- 1 -
Tìm hiểu sự vận dụng và phát triển tư tưởng HCM về CNXH trong giai đoạn cách mạng
nước ta hiện nay:
1. Lời Mở Đầu:
Một nội dung cơ bản và nhất quán trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc
bằng con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
thành cách mạng XHCN. Ngay từ rất sớm Người đã nói rõ "ham muốn" tột bậc của
mình là làm sao cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân tộc được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Và qua 30 năm ra đi tìm
đường cứu nước, cuối cùng Người khẳng định, tin tưởng rằng: chỉ có CNXH mới là
con đường để "ham muốn" đó được thực hiện. Tư tưởng của Bác đã trở thành tư
tưởng hướng đạo cho cách mạng Việt Nam.
I: Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong giai đoạn cách mạng mới:
Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và sự
hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới là những thành quả rực rỡ của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ mãi là mặt trời chói lọi, soi sáng con đường đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Những năm gần
đây, đời sống chính trị - xã hội thế giới có nhiều biến động, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm
vào thoái trào. Các thế lực thù địch ra sức phê phán, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và
những người sáng lập. Thế nhưng, chủ nghĩa xã hội khoa học vẫn thu hút trái tim, khối óc
của hàng triệu nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình, đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc, giành hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Những nhân tố của
chủ nghĩa xã hội vẫn đang nảy sinh và phát triển ngay trong lòng nhiều nước tư bản và dù
con đường đi có khác nhau, có lâu dài, có những bước thăng trầm, nhưng lịch sử nhân
loại tất yếu dẫn tới chủ nghĩa cộng sản như lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ
ra.Đối với cách mạng Việt Nam, công ơn của Các Mác cao như núi, sâu như biển. Có chủ
nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam ta mới tìm được con đường
đi tới độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Cách đây nửa thế kỷ, lúc dân tộc Việt Nam phải sống trong ngục tù của chế độ thực dân,
phong kiến, cha ông ta đã nhiều lần nổi lên đấu tranh giành độc lập, nhưng các cuộc đấu


tranh ấy đều thất bại và bị dìm trong biển máu. Đi tìm con đường cứu nước, Hồ Chí Minh
là người cách mạng Việt Nam đầu tiên nhìn thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi
tỏ con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Đối với những người cách mạng
Việt Nam, tìm thấy chủ nghĩa Mác- Lênin tựa “như người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn” (Hồ Chí Minh: Cách mạng Tháng Mười và sự
nghiệp giải phóng các dân tộc phương Đông). Từ đó, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là ngọn
đuốc dẫn đường cách mạng Việt Nam đi đến mọi thắng lợi.Chủ nghĩa Mác - Lênin kết
hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào ngày 3 tháng 2 năm 1930, tạo ra một bước ngoặt vĩ đại của lịch
sử cách mạng Việt Nam.Từ khi ra đời đến nay, trải qua hơn 78 năm đấu tranh anh dũng,
Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch kính mến, luôn luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Đường lối cách mạng do
- 2 -
Đảng đề ra trong hơn 78 năm qua chính là sản phẩm của sự vận dụng một cách sáng tạo
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đó là
thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác
- Lênin ở một nước thuộc địa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi, giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng
là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam.Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành công cuộc đổi mới đất nước hơn 20 năm qua giành được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử. Bài học thứ nhất trong năm bài học lớn mà Đảng đã đúc kết trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng là: “Trong quá trình đổi mới phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà
làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả
hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và

kim chỉ nam cho hành động cách mạng”.
Kỷ niệm 190 năm Ngày sinh Các Mác là dịp để chúng ta đẩy mạnh nghiên cứu học tập,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam; làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, những
vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại; kiên
quyết đấu tranh với những khuynh hướng tư tưởng phản động và sai lầm để bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Để tỏ lòng biết ơn Các Mác, chúng ta hãy nâng cao lòng trung thành vô hạn với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
II.Tư tưởng hcm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN. Vận dụng
tư tưởng đó vào thực tiễn VN.
Tthcm về CNXH có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân ái và tư
tưởng cộng đồng làng xã VN, được hình thành từ lâu đời trong ls dựng nước và giữ nước
của dt.
HCM đã từng biết đến tt CNXH sơ khai ở phương Đông, qua "thuyết đại đồng của " Nho
giáo, chế độ công điền ở phương đông là cơ sở kinh tế tạo nên sự cố kết cộng đồng bền
chặt của người VN.
Khi ra nước ngoài khảo sát cách mạng thế giới, NAQ đã tìm thấy trong học thuyết Mác
về lý tưởng một xh nhân đạo, về con đường thực hiện ước mơ giải phóng các dt bị áp bức
- 3 -
khỏi ách nô lệ. Đến năm 1923, NAQ đến LX, lần đầu tiên biết đến "chính sách kt mới"
của Lênin, được nhìn thấy thành tự của nhân dân xô-viết trên co đường xây dựng xh mới.
1. Tthcm về CNXH
1.1-Cơ sở hình thành tthcm về CNXH ở VN
+ HCM tiếp cận tư tưởng CNXH từ quan điểm hình thái KT-XH của Mác. Luận điểm cơ
bản của Mác-ăngghen về 1 xh mới với những đặc trưng bản chất là xóa bỏ chế độ người

bóc lột người dựa trên tư hữu về tư liệu sx, xóa bỏ tình trạng bị áp bức về chính trị, nô
dịch về tinh thần. Lênin đã phát triển luận điểm về CNXH ở điều kiện CNTB đã chuyển
sang giai đoạn độc quyền, tức giai đoạn ĐQCN. CMT10 Nga năm 1917 đã làm cho lý
luận trở thành hiện thực: CNXH với tư cách là 1 xh mới, một bước phát triển cao và tốt
đẹp hơn so với CNTB. HCM khẳng định vai trò quyết định của sức sx đối với phát triển
của xh cũng như đối với sự chuyển biến từ xh nọ sang xh kia. Bác cũng khẳng định, trong
ls loài người có 5 hình thức quan hệ sx chính, và nhấn mạnh "không phải quốc gia dt nào
cũng đều trải qua các bước phát triển tuần tự như vậy". Bác sớm đến với tư tưởng quá độ
tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn TBCN.
+ HCM đã tiếp cận CNXH từ quan điểm duy vật ls khoa học, từ sự giác ngộ về sứ mệnh
ls của GCCN-giai cấp trung tâm của thời đại. NAQ trực tiếp tham gia phong trào công
nhân, khi trở thành người cộng sản Người đã tìm hiểu và viết nhiều bài về GCCN (ấn,
nhật, trung, thổ nhĩ kỳ ). Tuy hoạt động ở nước ngoài người vẫn theo dõi phong trào
công nhân ở VN. Năm 1922, lần đầu công nhân ở chợ lớn bãi công, NAQ coi đó là "dấu
hiệu chứng tỏ GCCN đã bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình" "chúng ta
phải ghi lấy dấu hiệu của thời đại". "GCCN ở chính quốc không phải chỉ tỏ tình đoàn kết
với những người anh em ở đấy bằng lời nói mà thôi, mà còn phải giác ngộ, giáo dục họ
về ý thức tổ chức và pp tổ chức".
+ HCM tiếp cận CNXH từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dt.
- Từ đặc điểm ls dt: nước ta không trải qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ mang đậm dấu ấn
phong kiến phương đông, mâu thuận giai cấp không gay gắt, quyết liệt, kéo dài, như ở
phương tây, do đó hình thành quốc gia dt từ sớm; ngày từ buổi đầu dựng nước, chúng ta
liên tục phải đấu tranh chống ngoại xâm, hình thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống; Là
nước nông nghiệp, lấy đất và nước làm nền tảng với chế độ công điền hình thành cộng
đồng thêm bền chặt. Tất cả điều này là giá trị cơ bản của tinh thần và tư tưởng XHCN ở
VN: tinh thần yêu nước, yêu thường đùm bọc trong họan nạn đấu tranh, cố kết cộng động
quốc gia dt.
- Từ truyền thống văn hóa lâu đời, bản sắc riêng: đó là nền văn hóa lấy nhân nghĩa làm
gốc, trừ độc, trừ tham, trọng đạo lý; nền văn hóa mang tính dân chủ; có tính chất khoan
dung; một dt trọng hiền tại; hiếu học

- Tư duy triết học phương đông: coi trọng hòa đồng, đạo đức nhân nghĩa. HCM quan
niệm, CNXH là thống nhất với văn hóa, đạo đức, "CNXH là giai đoạn phát triển cảo hơn
so với CNTB về mặt văn hóa và giải phóng con người".
+ HCM tiếp cận CNXH từ yêu cầu thực tiễn của CMVN và xu hướng phát triển của thời
đại.
- CMVN đầu thế kỷ 20 đặt ra yêu cầu khách quan là tìm 1 ý thức hệ mới đủ sức vạch ra
đường lối và phương pháp CM đúng đắn đem lại thắng lợi cho CMVN. CMVN đòi hỏi
có 1 giai cấp tiên tiến đại diện cho phương thức sx mới, có hệ tư tưởng độc lập, có ý thức
tổ chức và trở thành giai cấp tự giác đứng lên làm cách mạng. HCM sớm nhìn thấy phong
trào yêu nước VN đang rơi vào khủng hoảng về đường lối, vì vậy cách mạng chưa đem
- 4 -
lại gpdt. Tư tưởng độc lập dt gắn liền với CNXH xuất phát từ thực tiễn CMVN.
- CMT10 Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện thực cho gpdt ở phương đông:
độc lập dt gắn liền với CNXH. NAQ đã bắt đầu truyền bá tư tưởng CNXH trong dân.
+ HCM đến với CNXH từ tư duy độc lập sáng tạo tự chủ. Đặc điểm của định hướng tư
duy tự chủ sáng tạo là: định hướng tư duy trên cơ sở thực tiễn; luôn tìm tận gốc của sự
vật, hiện tượng; kết hợp lý trí khoa học và tình cảm cách mạng. Tư duy của HCM là tư
duy rộng mở và văn hóa.
1.2-Quan điểm của HCM về đặc trưng, bản chất của CNXH.
- Về bản chất của CNXH:
Nêu khái quát luận giải của các nhà kinh điển về giai cấp thấp của CNXH.
Mác, Ăngghen dự kiến phác thảo về xh mới với 4 đặc trưng cơ bản. Lênin phát triển quan
điểm của Mác và nêu 2 giai đoạn phát triển của phương thức sx mới: giai đoạn thấp và
giai cấp cao.
Quan niệm của HCM về bản chất của CNXH thống nhất với các nhà kinh điển đã nêu.
Bằng thực tiễn chỉ đạo xây dựng CNXH ở nước ta, vào thời điểm khác nhau bác nêu bản
chất của CNXH là:
+ Làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, mọi người đều có công ăn việc làm,
được ấm no và sống 1 đời hạnh phúc. Mục tiêu là giải phóng nhân dân lao động khỏi
nghèo nàn, lạc hậu.

+ Muốn có CNXH thì phải làm ìg? Nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển sx. Sx là mặt
trận chính của chúng ta.
+ Nhấn mạnh tính chất sở hữu công cộng: lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng làm của chung.
+ CNXH là không có người bóc lột người, ai cũng phải lao động, có quyền lao động, thực
hiện công bằng, bình đẳng.
+ CNXH phải gắn với phát triển khoa học kỹ thuật và văn hóa của nhân dân.
+ CNXH là do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể khái quát bản chất của CNXH theo tthcm: Chế độ do nhân dân làm chủ; có nền kt
phát triển cao, dựa trên lực lượng sx hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sx; một xh
phát triển cao về văn hóa, đạo đức; một xh công bằng, hợp lý; là công trình tập thể của
nhân dân do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Quan niệm của HCM về mục tiêu và động lực của CNXH
Mục tiêu của CNXH:
+ Về chế độ chính trị: nhân dân làm chủ, quyền lực thuộc về dân, chính phủ là đầy tớ của
dân; dân có quyền và có nghĩa vụ làm chủ. "Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân
dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo".
+ Về kt: Xây dựng kt XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ
thuật tiên tiến; hình thành sở hữu nhà nước-nó phải lãnh đạo kt quốc dân. CNXH chỉ
thắng CNTB khi nào có năng suất lao động cao hơn hẳn. Công nghiệp hóa-hiện đại hóa là
quy luật tất yếu có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. "Làm trái với LX cũng là
Mác-xít".
+ Về văn hóa: có văn hóa phát triển cao (vừa mang tính chất XHCN, vừa mang tính chất
dt-tức là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dt). Đó là nền văn hóa lấy hạnh phúc của
đồng bào, dt làm cơ sở để phát triển, văn hóa "phải sửa đổi được thói tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ". "Phải làm cho ai cũng có lý tưởng, tự chủ, độc lập, tự do".
+ Về mối quan hệ xh: thực hiện công bằng, dân chủ; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa
người với người; quan tâm thực hiện chính sách xh.
- 5 -
+ Về con người XHCN, phải có phẩm chất cơ bản sau:
Con người có tinh thần và năng lực làm chủ; có đạo đức XHCN: cần, kiệm, liêm, chính,

chí công vô tư; có kiến thức khoa học kỹ thuật; có tinh thần sáng tạo, nhạy bén với cái
mới. Đó cũng là động lực quan trọng nhất để xây dựng thành công CNXH.
Phải quan tâm đến phụ nữ (1 nửa của xh), phải giải phóng phụ nữ, xây dựng bình đẳng
nam-nữ.
Về động lực của CNXH
+ Phát huy các nguồn động lực cho việc xây dựng CNXH: vốn, khoa học công nghệ, con
người (năng lực của con người); trong đó lấy con người làm động lực quyết định.
"CNXH chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng
chục triệu người".
Phát huy động lực con người trên cả hai phương diện: cộng đồng và cá nhân. Phát huy
động lực của cộng đồng là phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết- động lực chủ yếu để
phát triển đất nước. Phát huy sức mạnh của cá nhân trên cơ sở kích thích hành động gắn
liền với lợi ích vật chất chính đáng của người lao động; "phải chăm nom đến chỗ ăn, chỗ
ở, việc làm của nhân dân". "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân rét, đảng và
chính phủ có lỗi".
Tác động cả về chính trị và tinh thần trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động và ý thức làm chủ. Sau vấn đề dân chủ là thực hiện công bằng xh, đặc biệt là trong
phân phối phải theo nguyên tắc: "không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng". Tránh bình
quân, Bác nêu khẩu hiệu 3 khoán và 1 thưởng. Thưởng phạt công minh. "Khoán là 1 điều
kiện của CNXH ". Sử dụng vai trò điều chỉnh các nhân tố tinh thần khác như: văn hóa,
đạo đức, pháp luật đối với hoạt động của con người.
+ Khác phục lực cản:
Căn bệnh thoái hóa, biến chất của cán bộ;
Chống chủ nghĩa cá nhân; Bác coi đó là kẻ thù hung ác của CNXH.
Chống tham ô lãng phí; Bác coi đó là bạn đồng minh của thực dân phong kiến.
Chống bè phái mất đoàn kết nội bộ; chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều; chống lười
biếng Theo Bác các căn bệnh trên sẽ phá hoại đọa đức cách mạng, làm suy giảm uy tín
và ngăn trở sự nghiệp cách mạng của đảng, bác gọi đó là giặc nội xâm.
2. Tthcm về con đường đi lên CNXH ở VN
2.1- Về thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN.

+ Tính khách quan của thời kỳ quá độ:
Mác cho rằng: hình thức quá độ trực tiếp từ xh TBCN lên CNXH diễn ra ở các nước TB
phát triển nhất ở châu âu không thể là gì khác ngoài thực hiện CCVS.
Lênin cho rằng: quá độ gián tiếp không qua CNTB ở những nước tiểu nông cần có sự
giúp đỡ từ bên ngoài của 1 nước công nghiệp tiên tiến đã làm cách mạng XHCN thành
công và điều kiện bên trong phải có 1 chính Đảng vô sản lãnh đạo đất nước đi theo
CNXH. Sự sáng tạo của Lênin bổ xung cho học thuyết Mác, xuất phát từ thực tiễn nước
Nga, không chỉ là quá độ về chính trị.
+ HCM thống nhất với các nhà kinh điển và nhấn mạng hình thức quá độ "rút ngắn" áp
dụng cho VN.
- Cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm ls cụ thể của mỗi nước khi bước vào
thời kỳ quá độ: "tùy hoàn cảnh, mà các dt phát triển theo con đường khác nhau Có nước
thì đi thẳng tiến đến CNXH, có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên
CNXH".
- 6 -
- HCM xây dựng quan niệm quá độ gián tiếp căn cứ vào thực tiễn của VN:
HCM chỉ ra đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN: "Đặc điểm to
lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển TBCN". Đây là vấn đề mới cần nhận thức và
tìm giải pháp đúng đắn để có hình thức, bước đi phù hợp với VN.
"Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ" là mâu thuẫn giữa 1 bên là yêu cầu phải tiến lên
xây dựng 1 chế độ xh mới có "công, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến"
với 1 bên là tình trạng lạc hậu phải đối phó với bao thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu của
chúng ta."
Về độ dài của thời kỳ quá độ: lúc đầu dựa theo kinh nghiệm của LX và TQ, HCM dự
đoán "chắc đôi ba, bốn kế hoạch dài hạn " sau đó quan niệm được điều chỉnh: "xây dựng
CNXH là 1 cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài".
- Về nhiệm vụ ls của thời kỳ quá độ, Người nêu: phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ
thuật của CNXH , vừa cải tạo kt cũ vừa xây dựng kt mới, mà xây dựng là chủ yếu và lâu
dài. HCM chỉ ra nhiệm vụ cụ thể về chính trị, kt, văn hóa, xã hội.

Chính trị, cuộc đấu tranh gay go giữa cái cũ đang suy tàn và cái mới đang nảy nở cho
nên sự nghiệp xây dựng CNXH khó khăn và phức tạp.
Kinh tế, tạo lập những yếu tố, những lực lượng đạt được ở thời kỳ tư bản nhưng sao cho
không đi chệch sang CNTB; sử dụng hình thức và phương tiện của CNTB để xây dựng
CNXH. Kẻ thù muốn đè bẹp ta về kt thay bằng quân sự, vì vậy ta phải phát triển kt.
Tư tưởng, văn hóa, xh: bác nêu phải khắc phục sự yếu kém về kiến thức, sự bấp bênh về
chính trị, sự trì trệ về kt, lạc hậu về văn hóa tất cả sẽ dẫn đến những biểu hiện xấu xa,
thoái hóa cán bộ, đảng viên là khe hở CNTB dễ dàng lợi dụng. HCM nhấn mạnh "muốn
cải tạo XHCN thì phải cải tạo chính mình, nếu không có tư tưởng XHCN thì không làm
việc XHCN được".
- Về nhân tố đảm bảo được thực hiện thắng lợi CNXH ở VN: phải giữ vững và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước; phát huy tính
tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị-xh; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng CNXH.
2.2- Tư tưởng HCM về quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB ở Việt Nam:
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người qua nhiều
thời kỳ khác nhau đã có những kiến giải thiết thực, dung dị mà sâu sắc về bản chất, mục
tiêu và động lực của CNXH. Phương pháp tiếp cận CNXH của Người cũng đầy tính sáng
tạo, đặc biệt là cách tiếp cận đạo đức học khi Người đặt CNXH đối lập với chủ nghĩa cá
nhân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân nhưng không bao giờ phủ nhận , xem thường
cá nhân về mặt lợi ích và vai trò của nó. Nguời cũng nhấn mạnh tới hệ giá trị cơ bản của
CNXH là Độc lập-Tự do và Hạnh phúc, coi mục đích cao nhất của CNXH là quyền sống,
hạnh phúc của dân, quyền tự do dân chủ và làm chủ, sự phát triển mọi năng lực sáng tạo
của nhân dân, từ mỗi người đến toàn thể cộng đồng.
Song vấn đề đặt ra là , nhận thức về con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thì
điều quan trọng không chỉ dừng lại ở nhận thức bản chất, mục tiêu, động lực của CNXH.
Điều quan trọng là phải có cách làm, buớc đi cho thích hợp, biện pháp phải sáng tạo để
- 7 -
CNXH từ một khả năng khách quan thành hiện thực sinh động trong đời sống của nhân
dân, do nhân dân sáng tạo làm nên.

Theo Hồ Chí Minh, đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nuớc
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN. Ở đây có hai điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, cần phải bỏ qua chế độ TBCN vì đó là một chế độ áp bức bóc lột, nô dịch con
người. CNTB đã ra đời như một kiểu chế độ xã hội tất yếu từ cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến. Do đó, CNTB đương nhiên cũng sẽ bị
CNXH phủ định về nguyên tắc trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai
cấp tư sản. Tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN vì thế là phù hợp với xu thế vận động
khách quan của lịch sử.
Thứ hai, “tiến thẳng” lên CNXH chỉ với nghĩa là bỏ qua tất cả những gì là mặt trái, là tiêu
cực của chế độ TBCN. Giai cấp vô sản nhất thiết phải tận dụng, phát huy những ưu việt,
tích cực đã có sẵn của CNTB. Với hoàn cảnh, điều kiện và trình độ phát triển của Việt
Nam, “tiến thẳng” lên CNXH đòi hỏi phải tiến dần từng bước, từ từ từng bước một,
không thể làm bừa, làm ẩu theo lối chủ quan, duy ý chí. Tại Đại hội II(1951) của Đảng,
Người đã xác định: phải chuẩn bị những điều kiện để hoàn thành Cách mạng dân tộc dân
chủ sau đó tiến dần lên CNXH.
Người hình dung tính chất phức tạp, lâu dài của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta:
xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ, lâu dài. Một chế
độ này biến đổi thành chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài
giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới.
Xây dựng CNXH do đó phải rất toàn diện, trên tất cả mọi lĩnh vực, riêng trong lĩnh vực
kinh tế thì vấn đề mấu chốt là phát triển lực lượng sản xuất. Trong lĩnh vực chính trị là
xây dựng chế độ, thể chế đảm bảo quyền làm chủ, dân chủ của dân, xây dựng Đảng cầm
quyền trong sạch, vững mạnh, đoàn kết; xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ của dân,
do dân và vì dân.
Mấu chốt của vấn đề xã hội là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào sự phát triển con
người. Và, mấu chốt của văn hoá là xây dựng con người có đạo đức cách mạng, con
người mới XHCN với đức-tài gắn bó hữu cơ với nhau, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân,
trung thành với sự nghiệp cách mạng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
Theo Hồ Chí Minh, cách làm tốt nhất là dựa vào dân, đem tài dân, sức dân mà mưu cầu

hạnh phúc cho nhân dân, làm lợi cho nhân dân, tránh cho dân những điều hại, những sai
trái dù chỉ là một điều sai, một cái hại nhỏ.
Tiến nhanh, tiến mạnh nhưng phải đúng quy luật, không làm bừa, làm ẩu. Phải cụ thể,
thiết thực và tỷ mỷ. Phải điều tra, nghiên cứu để vạch kế hoạch, chương trình cho sát, cho
đúng, chớ đem chủ quan của mình thay thế cho điều kiện khách quan.
- 8 -
Kế hoạch mười phần, biện pháp phải cụ thể 20 phần, chỉ đạo sát sao phải 30 phần. Phải
luôn nhìn xa, trông rộng, chú trọng thiên thời, địa lợi, nhân hoà mà nhân dân là gốc, là
quyết định.
Nguyên tắc thì giữ vững, nhất quán, kiên định mà biện pháp phải uyển chuyển, linh hoạt,
mềm dẻo. Phải chăm chú học hỏi kinh nghiệm các nước anh em nhưng không được chủ
quan, máy móc, giáo điều. Phải có tinh thần độc lập, sáng tạo. Ta không thể giống Liên
Xô vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác. Ta có thể đi con
đường khác để tiến lên CNXH. Con đường đi lên CNXH ở nước ta, tiến trình xây dựng
CNXH ở nước ta luôn luôn phải gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữ gìn bản sắc truyền thống và vươn tới hiện
đại, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Nguời vạch ra một hệ thống những nhiệm vụ phải giải quyết trong công cuộc xây dựng
CNXH phù hợp với đặc điểm nước ta như:
- Ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô.
- Đảng và Nhà nước phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hoá, chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
- Cán bộ là khâu quyết định. Đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng.
- Thực hành dân chủ rộng rãi. Dân có quyền làm chủ thì cũng phải có nghĩa vụ của người
làm chủ.
- Đảng cầm quyền phải trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cho đạo đức, văn minh của dân
tộc.
- Ra sức thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
Tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường đi lên của nước ta, tuy khó khăn,
phức tạp nhưng nếu có cách làm đúng đắn, sáng tạo “đúng quy luật, thuận lòng dân, hợp

thời đại” thì sẽ thành công. Những kết quả, thành tựu phát triển khả quan của 20 năm đổi
mới vừa qua cũng đã chứng minh tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo đó của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đang tiếp tục soi sáng con đường đổi mới đi lên CNXH của chúng ta
2.3-Về bước đi, biện pháp và phương thức xây dựng CNXH ở VN.
- Phải học tập kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không áp dụng máy móc vì nước
ta có đặc điểm riêng của ta. "Ta không thể giống LX "
"Tất cả các dt đều tiến tới CNXH không phải 1 cách hoàn toàn giống nhau".
- Về bước đi: phải qua nhiều bước, "bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh, chớ ham
làm mau, ham rầm rộ Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần".
Bước đi nông nghiệp: từ cải cách ruộng đất, rồi lại đến hình thức hợp tác xã
Về bước đi công nghiệp, " Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ
công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng", "làm trái với LX cũng
là mác-xít"
- 9 -
- Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành: người nêu cao tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn phải tìm tòi cách riêng cho phù hợp với thực
tiễn của VN. "Muốn đỡ bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm thì phải học kinh nghiệm của các
nước anh em" nhưng "áp dụng kinh nghiệm ấy 1 cách sáng tạo", "ta không thể giống LX
vì LX có phong tục tập quán khác, có lịch sử khác "
Phương pháp xây dựng CNXH là "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá
giàu, người giàu thì giàu thêm", như vậy CNXH không đồng nhất với đói nghèo, không
bình quân, mà từng bước tiến lên cuộc sống sung túc, dồi dào".
Cách làm, là đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân. Chính phủ chỉ giúp đỡ kế hoạch, cổ
động. CNXH là do dân và vì dân. Người đề ra 4 chính sách: Công-tư đều lợi, chủ thợ đều
lợi, công-nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài. Chỉ tiêu 1, biện pháp 10, chính sách
20 có như thể mới hoàn thành kế hoạch.
3. Vận dụng tthcm về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở VN
1. Kiên trì mục tiêu độc lập dt và CNXH trên nền tảng CNMLN và tthcm.
2. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, khởi dậy mạnh mẽ các nguồn lực nhất là nguồn lực
nội sinh để công nghiệp hóa-hiện đại hóa.

3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dt với sức mạnh thời đại.
4. Xd đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH
Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và CNXH là cơ
sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không giành được độc lập dân tộc thì không
có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch
của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh
phúc của nhân dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã hội XHCN. Chính nhờ
sự kiên định nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt Nam anh hùng với những mốc son chói lọi:
Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước và đi lên xây dựng CNXH. Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật,
hợp lòng dân đó đã được Đảng quán triệt xuyên suốt trong cả tiến trình cách mạng, đặc
biệt là trong quá trình đổi mới.
Đại hội lần thứ VI (12-1986) của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước đã khẳng định:
"Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và
lực lượng tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công CNXH và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhấn mạnh:
"Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách
mạng nước ta".
Tiếp tục dòng chảy xuyên suốt và thống nhất đó, Báo cáo chính trị được thông qua tại
Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định bài học quan trọng đầu tiên đối với cách mạng Việt
- 10 -
Nam trong giai đoạn mới là: "Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá
trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì
chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh".
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4-2001) - Đại hội đầu tiên của thế kỷ XXI, đại hội
của dân chủ, trí tuệ, đoàn kết và đổi mới đã tiếp tục khẳng định: "Trong quá trình đổi
mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa

Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Như vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH trên thực tế đã trở thành dòng chủ lưu, là tư tưởng xuyên suốt, được quán triệt và
đề cao trong sự nghiệp đổi mới mà toàn dân ta đang tiến hành.
Chính nhờ sự kiên định đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng mà nhân
dân ta đã đứng vững và tiếp tục kiên trì mục tiêu CNXH trong khi Liên Xô và các nước
XHCN ở Đông Âu đã lâm vào thoái trào, tan rã; tạo cơ sở khẳng định vị thế và sức mạnh
của cách mạng Việt Nam trên trường quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong lòng nhân dân
ngày càng được củng cố, tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để
hơn của thời kỳ CNH-HĐH.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã hội bức xúc và gay
gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự phát triển của tệ nạn xã hội, sự
khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là
nguy cơ chệch hướng XHCN, tụt hậu xa hơn về kinh tế, "diễn biến hòa bình" và tệ quan
liêu tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến
phức tạp thì việc giữ vững định hướng, mục tiêu XHCN càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết.
Hơn 70 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được một phần sứ mệnh
lịch sử: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Song con đường phía trước không
hoàn toàn bằng phẳng, trơn tru. Sự đan xen sâu sắc giữa những thời cơ và thách thức mà
thời đại đặt ra, buộc dân tộc ta, Đảng ta và bản thân mỗi người dân Việt Nam chúng ta
phải "lớn" hơn ngày hôm qua. Trên bệ phóng của những thành công rực rỡ mà cha ông đã
xây dựng, thế hệ trẻ Việt Nam khát khao được là người kế nghiệp xứng đáng. Thiết nghĩ,
để khát khao ấy được thắp sáng, điểm xuất phát trước hết phải là sự trung thành đối với
Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân dân, kiên định lập trường cách mạng, thấm
nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đặc biệt là
nhất quyết thực hiện sứ mệnh: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, xây dựng thành
công CNXH.

×