Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong tác phẩm Sửa Đổi lối làm việc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.19 KB, 20 trang )


MỤC LỤC


A. LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh – danh nhân văn hóa thế giới, vị lãnh tụ vĩ đại
của dân tộc Việt Nam. Người là tấm gương sáng về tinh thần cách mạng, chủ
nghĩa dân tộc thời đại, ý chí kiên cường, bất khuất; cả cuộc đời Người dành
toàn tâm toàn ý cống hiến cho Đảng, cho nhân dân và cho cách mạng. Người
tận tụy hy sinh suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng con người; vì độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân
tộc và vì chủ nghĩa xã hội cộng sản chân chính.
2
Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng
Sản Pháp năm 1920; là người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm
1930; là cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là
lãnh tụ của Đảng Cộng Sản Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn
luyện Đảng, đồng thời là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền
với sự tồn tại của Đảng; còn Đảng, còn hoạt động, còn cần phải tổ chức xây
dựng, chỉnh đốn. Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một
trong những công tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định
thành công tới toàn bộ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng.
Khi nào, nơi nào làm tốt công tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có
nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi, và ngược lại. Trong hoạt động cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để
có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam.
Để hiểu hơn tấm gương đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh và đặc biệt


là những bài học quí báu trong công tác xây dựng Đảng và tu dưỡng đạo đức
tác phong công tác đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chúng ta cùng nhau
“Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” ”.

Nhóm chúng em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô Phạm Mai
Duyên đã giúp đỡ chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Bài viết không
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô và các bạn…đóng góp ý kiến
để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn .
3

B. NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh ra đời
4
Tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc”
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
xong vào tháng 10/1947, ký tên với bút danh là X.Y.Z ; Nhà xuất bản Sự thật
xuất bản lần đầu tiên vào năm 1948.Tác phẩm được Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết vào lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược
đang ở giai đoạn gay go, quyết liệt, địch đang mở cuộc tấn công quy mô lên
căn cứ địa Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và lực lượng
chủ lực của ta. Các cơ quan của Đảng, Chính phủ, đoàn thể chuyển lên chiến
khu, hoạt động trong điều kiện chiến tranh, phân tán. Với bản chất xâm lược
và hiếu chiến, kẻ thù đã gửi 3 tối hậu thư trong 2 ngày, đòi chúng ta phải hạ
vũ khí; chúng đã buộc chúng ta phải cầm súng đứng lên bảo vệ nền độc lập.
Ta tiến hành kháng chiến chống Pháp trong điều kiện tự lực cánh sinh, dựa
vào sức mình là chính. Cuộc kháng chiến trường kì càng khó khăn, gian khổ
yêu cầu sức chiến đấu của Đảng ngày càng cao. Chính trong bối cảnh đó,
Người viết tác phẩm này nhằm vạch ra những sai lầm, khuyết điểm, lệch lạc
và chấn chỉnh lại tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo

đức, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của cách mạng. Về lý luận, tác phẩm là sự phát triển và vận dụng sáng tạo
5
các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chính Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân ở một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến giành
độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Về thực tiễn, tác phẩm là sự chỉ dẫn
cho hành động của Đảng ta trong quá trình kháng chiến và kiến quốc đến
thành công. Từ khi ra đời cho đến nay, tác phẩm đã trở nên quan trọng và cần
thiết đối với việc xây dựng Đảng ta thành một Đảng chân chính cách mạng.
Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” luôn là văn
kiện quan trọng về xây dựng Đảng. Được viết cách đây hơn 50 năm, nhưng
đến nay nội dung, tư tưởng tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị, là một trong
những tài liệu phục vụ cho việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc”
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh - kể từ khi bước chân ra đi tìm đường
cứu nước tới khi viết những dòng Di chúc cuối cùng – tất cả đều toát lên một
tư tưởng vĩ đại: vì nhân dân. Nhân dân trong tâm hồn Bác như một nỗi
thương cảm, nỗi day dứt, như mục tiêu sống của mình. Nhân dân Việt Nam
có lịch sử lâu dài nghìn năm, trong đó có thời gian dài với thân phận đau khổ
và “lép vế”. Bác đã thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ đau, sự bất hạnh và thân phận
“lép vế” của một dân tộc bị “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm” hoành hành.
Cuộc cách mạng mà Bác và Đảng lãnh đạo chính là vì độc lập tự do cho Tổ
quốc, vì dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân. Xuất phát từ tình cảm đó mà
trong “Sửa đổi lối làm việc” Bác đặt vấn đề cho những người phục vụ nhân
dân, “người lãnh đạo là người đầy tớ của nhân dân” phải có phẩm chất và
đạo đức cách mạng. Bác yêu cầu những cán bộ cách mạng phải trung thành
tuyệt đối với lý tưởng và mục tiêu của Đảng là suốt đời rèn luyện đạo đức
6

cách mạng để phục vụ nhân dân. Chính vì nỗi lo lắng ấy, nên Bác đã đặt ra
vấn đề rèn luyện đạo đức đối với các đồng chí của mình.
Bằng tác phẩm này, Bác trang bị cho các đồng chí của mình các công
cụ và tiêu chuẩn đạo đức nhằm hai mục đích rất rõ ràng :Thứ nhất là, thu hút
sự ủng hộ của nhân dân để tiến hành một cách thuận lợi cuộc kháng chiến; và
thứ hai là, để cán bộ cách mạng sửa chữa những thói hư, tật xấu thường có
trong mỗi người để rèn luyện và nêu cao đạo đức cách mạng, nhất là trong
điều kiện Đảng cầm quyền. Bác quan niệm: Cán bộ cách mạng là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ, giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời báo cáo tình hình của dân cho Chính phủ rõ,
để đặt chính sách cho đúng. Từ định hướng đó, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
từng nêu những tư tưởng của mình về vai trò của con người và cán bộ trong
cách mạng. Người nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”;“công việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
1 . Những thiếu sót của cán bộ
Người đã chỉ ra và phê phán gay gắt những căn bệnh đã ăn sâu vào tác
phong làm việc của cán bộ ta như sau:
-Bệnh ba hoa;
- Bệnh địa phương;
- Bệnh ham danh vị;
- Bệnh thiếu kỷ luật( Gặp sao hay vậy);
- Bệnh xa quần chúng;
- Bệnh chủ quan;
- Bệnh hình thức;
- Bệnh ích kỷ; bệnh hủ hoá
- Bệnh thiếu ngăn nắp;Bệnh lười biếng .
7
Nó thể hiện cụ thể qua việc làm của cán bộ như : hám dùng người bà
con, anh em quen biết, hám dùng người nịnh hót, ghét người chính trực, hám
dùng những người hợp tính với mình, tránh những người không hợp ý mình.

“Lúc dùng cán bộ, nhiều người phạm vào những chứng bệnh sau đây:
-Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn
người ngoài.
- Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người chính
trực.
- Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính
tình không hợp với mình.
Vì những căn bệnh đó, kết quả là những người kia làm bậy mình cũng
cứ bao dung, che chở, bảo vệ, khiến cho chúng ngày càng hư hỏng. Đối với
những người chính trực thì bới lông tìm vết để trả thù. Thời gian gần đây
những bệnh này đã phát triển thành bệnh tham nhũng, bệnh quan liêu, bệnh
xa hoa lãng phí, bệnh vô cảm trước nỗi khổ của dân Thời gian gần đây những
bệnh này đã phát triển thành bệnh tham nhũng, bệnh quan liêu, bệnh xa hoa
lãng phí, bệnh vô cảm trước nỗi khổ của dân . Nhiều loại hình tổ chức cơ sở
đảng còn lúng túng trong hoạt động. Không ít cơ sở đảng sinh hoạt đảng và
quản lý đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê
bình yếu, xuê xoa, dĩ hoà vi quý, thậm chí tê liệt, mất sức chiến đấu.
Những khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ đã tồn tại từ lâu
chậm được khắc phục, nhất là việc giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng,
đạo đức, thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công tác. Tư tưởng
cá nhân, cục bộ, nể nang, né tránh trong công tác cán bộ còn nặng ở không ít
cấp uỷ; chậm khắc phục những biểu hiện mất dân chủ, độc đoán, cơ hội, hẫng
hụt cán bộ ở nhiều lĩnh vực, địa bàn, vị trí trọng yếu.
8
Tình trạng suy thoái, biến chất ở một bộ phận cán bộ, đảng viên đã ảnh
hưởng lớn đến uy tín, thanh danh của Đảng. Đây thực sự là nguy cơ “tự diễn
biến" không thể coi thường.
2. Những giải pháp Người đưa ra.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người phê bình những khuyết
điểm, yếu kém trong công tác cán bộ, đồng thời đề ra những quan điểm và

giải pháp về vấn đề cán bộ, trong đó việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ trở thành những người có văn hóa, có tri thức và nghiệp vụ. Điều đó được
thể hiện:

2.1. Về việc đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ.
Vì cán bộ là cái "gốc" của mọi công việc, do đó, huấn luyện cán bộ là
công việc "gốc" của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ huấn luyện nghề
nghiệp cho cán bộ là khâu đầu tiên. Vì rằng, cán bộ làm nghề nào, ngành nào
cũng phải học cho thành thạo công việc ở ngành, nghề ấy. Đồng thời, phải
nghiên cứu những chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Chính phủ; học
tập những kinh nghiệm thành công và thất bại; học tập lịch sử truyền thống
cách mạng và sự phát triển trong từng thời kỳ Theo đó, việc huấn luyện
phải sắp xếp cách dạy và học, kiểm tra kết quả, sao cho cán bộ dần dần đi đến
thành thạo công việc; huấn luyện chính trị, môn nào cũng phải có; cần coi
trọng nâng cao kiến thức văn hóa.
2.3. Về bồi dưỡng và sử dụng cán bộ.
Mục tiêu cơ bản của đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức, kỹ năng và
hình thành thái độ cần thiết để làm việc; theo yêu cầu của công việc chứ
không chỉ là để đáp ứng tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra. Tiêu chuẩn, về
cơ bản là định hướng cho “đầu vào”, chứ không nên là cơ sở để đào tạo, bồi
dưỡng. Về mặt nguyên tắc, cơ quan quản lý, sử dụng chỉ tuyển dụng hoặc bổ
9
nhiệm những người đã đủ tiêu chuẩn quy định vào những vị trí, công việc đã
định. Việc “huấn luyện nghề nghiệp” cơ bản cần tập trung vào việc trang bị
những kiến thức, kỹ năng và thái độ mà chính vị trí công việc ấy đòi hỏi để
“thạo việc”, để làm việc tốt hơn, hiệu quả.
Đảng luôn nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây
cối quý báu; trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho
công việc chung của chúng ta.
Theo tư tưởng của Người, Đảng phải biết rõ cán bộ;… xem xét lại

nhân tài và tìm nhân tài mới. Phải cất nhắc cán bộ cho đúng; cán bộ phải
được tập thể tin cậy, lại bố trí đúng ngành nghề đào tạo, huấn luyện. Một
trong những vấn đề Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, đó là đặt đúng người vào
đúng công việc thích hợp: Phải khéo dùng cán bộ. Chúng ta phải biết tùy tài
mà dùng người. Phải phân phối cán bộ cho đúng. Phải dùng người đúng chỗ,
đúng việc.
Khi đã đặt cán bộ thích hợp với công việc, cần tiếp tục giúp họ có điều
kiện hoàn thành công việc một cách có hiệu quả: luôn luôn dùng lòng thân ái
mà giúp đỡ, giúp họ sửa chữa những chỗ sai lầm; khen ngợi họ lúc làm được
việc tốt, và phải luôn kiểm soát cán bộ, giữ gìn cán bộ. Người nhấn mạnh, đối
với công tác cán bộ của Đảng ta, việc xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, cất nhắc và kiểm tra cán bộ là một quy trình liên hoàn và liên tục, yêu
cầu thực hiện nghiêm túc, triệt để. Cán bộ được đề bạt phải dựa vào cả quá
trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu. Sau khi nhận chức trách, lại tiếp tục
được tổ chức quan tâm theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra. Có như vậy, công tác cán
bộ của Đảng mới đem lại hiệu quả thiết thực cho sự nghiệp cách mạng.
2.3. Xây dựng cơ chế làm việc cho cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra có năm cách:
- Thứ nhất là chỉ đạo - tạo điều kiện cho họ làm, thử cho họ phụ trách, dù sai
10
lầm chút ít cũng không sợ. Nhưng phải luôn luôn tùy hoàn cảnh mà hướng
dẫn cho họ phương hướng, cách thức công tác để phát triển năng lực và sáng
kiến.
- Thứ hai là luôn bồi dưỡng cán bộ, nâng cao tư tưởng, trình độ lý luận và
cách làm việc cho họ. Việc đào tạo và sử dụng hợp lý đối với cán bộ có khéo,
có đúng thì mới thực hiện được nguyên tắc vấn đề cán bộ quyết định mọi
công việc.
- Thứ ba là thường xuyên kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa
khuyết điểm, phát triển ưu điểm.
- Thứ tư là khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục giúp họ sửa chữa, cải

tạo. - Thứ năm là giúp đỡ họ điều kiện sinh sống
đầy đủ để làm việc. Tùy hoàn cảnh mà
giúp họ khi ốm đau, khi gia đình họ gặp khó khăn. Những điều đó quan hệ rất
lớn tới tinh thần của cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong Đảng. Nghĩa là phải
quan tâm đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần của người cán bộ để họ có đủ điều
kiện hoạt động và phục vụ cách mạng.
2.4. Về chính sách cán bộ.
Bác chỉ ra cần phải hiểu biết cán bộ. Vấn đề nhận xét và đánh giá cán
bộ là vấn đề không đơn giản. Biết người cố nhiên là khó, tự biết mình cũng
không dễ. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ
người cán bộ tốt hay xấu. Người còn chỉ rõ các chứng bệnh của cán bộ ta
như: tự cao tự đại; ưa người ta nịnh mình; do lòng yêu, ghét của mình mà đối
với người khác thiếu khách quan. Không thể đem một cái khuôn khổ nhất
định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Phạm một trong bốn
bệnh đó “cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt
thật của những cái mình trông”. Vì vậy, nhận xét cán bộ không nên chỉ xét
ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn công việc của
cán bộ. Do đó, nhận xét đánh giá cán bộ phải xuất phát từ hiện thực khách
11
quan, với quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể. Qua đó mới biết chỗ tốt và
chỗ xấu của cán bộ. Từ đó mà nâng cao chỗ tốt, sửa chữa chỗ xấu, trong đó
Bác coi trọng nghệ thuật sử dụng cán bộ. Bác đề ra các yêu cầu như sau:
2.4.1. Khéo dùng cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Phải cân nhắc cán bộ cho đúng và
phải dùng cán bộ cho khéo”. Người viết: “ Khi cân nhắc cán bộ phải xét rõ
người đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng tin cậy mến phục
không”, nghĩa là phải xem xét uy tín cán bộ trước quần chúng đến mức độ
nào và phải xem người ấy xứng đáng với việc gì. “Nếu người có tài mà dùng
không đúng tài của họ, cũng không được việc”, “nếu cân nhắc không cẩn
thận không khỏi đem người chỉ nói mà không làm vào những địa vị lãnh đạo,

như thế rất có hại”. Người phê phán “thường chúng ta không biết tuỳ tài mà
dùng người”, “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành
thử hai người đều lúng túng”. Người chỉ ra tác dụng của việc bố trí sử dụng
đúng người, đúng việc “nếu biết tùy tài mà dùng người” thì sẽ thành công.
Song song với việc chỉ ra tầm quan trọng của việc sử dụng đúng người, đúng
việc, đúng chỗ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: Cân nhắc và khéo dùng cán
bộ, dùng đúng cán bộ là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, bởi vì không đánh
giá, sử dụng đúng cán bộ sẽ dẫn đến sự lãng phí nhân tài là sự lãng phí lớn
nhất của đất nước. “Lãnh đạo khéo thì tài nhỏ có thể hoá ra tài to. Lãnh đạo
không khéo thì tài to hoá ra tài nhỏ”, “ cân nhắc cán bộ, phải vì công tác tài
năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế công việc nhất
định chạy”, “ nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang nhất định không
ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế có tội với Đảng, có tội
với đồng bào”.
2.4.2. Phải có gan cất nhắc cán bộ.
12
Phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái.
Như thế, công việc nhất định chạy. Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể
nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế
là có tội với Đảng, có tội với đồng bào. Trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận
xét rõ ràng, phải căn cứ vào kết quả công việc họ làm, cách nói, cách viết và
cách sinh hoạt của họ, v.v…
2.4.3. Thương yêu cán bộ.
Đảng phải thương yêu cán bộ nhưng thương yêu không phải là vỗ về,
nuông chiều, phó mặc, mà “thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ
thêm”, là “hễ thấy khuyết điểm là giúp họ sữa chữa ngay để vun trồng cái
thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ”. Theo Người thương yêu cán
bộ chính là ở thái độ thưởng phạt công minh, có thành tích thì khen, có
khuyết điểm phải phạt. Người nhấn mạnh nhiều lần “Người đời ai cũng có
chỗ tốt và chỗ xấu”, “ai cũng có khuyết điểm”, “ có làm việc thì có sai lầm”.

“Chúng ta không sợ sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu sữa chữa sai
lầm và khuyết điểm”. Chỉ sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng
để giúp cán bộ sữa chữa sai lầm và khuyết điểm. Phải biết cải tạo họ “ không
phải là một sai lầm to lớn, mà đã cho họ là cơ hội chủ nghĩa, đã cảnh cáo, đã
khai trừ. Những cách quá đáng như vậy đều không đúng, phải độ lượng và có
thái độ “thân thiết giúp họ tìm ra cái cớ vì sao sai lầm”. Người viết: “Cố
nhiên cần dùng cách giải quyết thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo… Song không
phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt”. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ nên theo
Người cũng phải xử phạt công minh “cần phải phân tích rõ ràng cái cớ sai
lầm, phải xét kỹ lượng việc nặng hay nhẹ, phải xử phạt cho đúng”.
2.4.4. Phê bình
Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mặc dù thời
gian cầm quyền của Đảng ta chưa nhiều nhưng cũng đã bộc lộ những thiếu
sót, khuyết điểm ở một bộ phận đảng viên, cán bộ. Là một đảng viên và trên
13
cương vị lãnh tụ cao nhất của Đảng, Hồ Chí Minh đã kiên quyết chỉ rõ những
khuyết điểm của Đảng cũng như của đảng viên, cán bộ, đồng thời, đặt vấn đề
phải tiến hành tự phê bình và phê bình trong Đảng.
-Vì sao phải phê bình, tự phê bình?
Trước những ý kiến cho rằng, tiến hành tự phê bình và phê bình là vô hình
trung vạch rõ khuyết điểm của Đảng, của Chính phủ, của mình cũng như
đồng chí mình, và như vậy kẻ địch sẽ lợi dụng để phá hoại Đảng, Hồ Chí
Minh lập luận: làm người khó ai tránh khỏi lỗi lầm, thiếu sót. Đảng ta là một
tổ chức chính trị tiên phong của giai cấp công nhân, tập hợp những chiến sĩ
trung kiên, thông minh, dũng cảm…, nhưng Đảng cũng từ trong xã hội mà ra,
không phải “trên trời rơi xuống” nên không tránh khỏi khuyết điểm, thiếu
sót. Người chỉ ra nhiều lý do khách quan, chủ quan dẫn tới nhiều thiếu sót,
khuyết điểm, thậm chí sai lầm của cán bộ, đảng viên. Điều đó là lẽ bình
thường, quan trọng là thái độ của những người cộng sản ra sao trước những
lỗi lầm mắc phải. Nếu “sợ mất oai tín và thể diện”, không quyết tâm sửa

chữa sai lầm, khuyết điểm, đó là điều bất bình thường. Người khẳng định:
“Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một
Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu
mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh
dạn, chắc chắn, chân chính”. Hồ Chí Minh cho rằng: khuyết điểm cũng như
chứng bệnh. Phê bình thì giống như uống thuốc. Nếu sợ phê bình thì cũng
khác nào là có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Như vậy thì bệnh
tình lại càng nặng thêm, không chết “cũng la lết quả dưa ”. Do vậy, đối với
đảng viên, cán bộ mà “nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa
vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà
không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết
điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho
mình”.
14
Đối với cán bộ sai lầm, chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm,
chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm.Và càng sợ,
những người lãnh đạo sẽ không biết tìm đúng cách để giúp cán bộ sửa chữa
sai lầm và khuyết điểm. Sự sửa chữa khuyết điểm, một phần cố nhiên là trách
nhiệm của cán bộ đó, nhưng cũng một phần trách nhiệm của người lãnh đạo.
Sửa chữa sai lầm cố nhiên cần dùng cách thuyết phục, giải thích, cảm hóa,
dạy bảo. Song, không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Nếu không xử
phạt, thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy,
phê bình cho đúng, chẳng những không làm giảm uy tín của cán bộ, của
Đảng, mà còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy
tín và thể diện càng tăng thêm.
III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ trong giai
đoạn hiện nay.
Thực tiễn đời sống chính trị cho thấy, trong cấu trúc của hệ thống quyền
lực, người và tổ chức chính trị càng cao, tác động tích cực hoặc tiêu cực của

nó tới các bậc thấp hơn càng mạnh mẽ, tác động lan toả của nó càng rộng lớn.
Do vậy, trong khi xem cấp cơ sở là nền tảng, cần thấy vai trò quyết định của
cấp cao. Công tác tổ chức, cán bộ của Đảng cần được bắt đầu từ đó. "Đầu có
xuôi, đuôi mới lọt".
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn
luyện, xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay,
đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta
15
phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ:
Về đội ngũ cán bộ: Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí minh và quan điểm,
đường lối của Đảng về công tác cán bộ, thời gian qua, chúng ta đã triển khai
tương đối đồng bộ các khâu như: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ, vì vậy sau hơn
20 năm đổi mới, công tác cán bộ của nước ta đã đạt được những thành tích
nhất định. Đội ngũ cán bộ có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt:
trình độ, kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngày càng
được nâng cao; cán bộ Đảng, Nhà nước và đoàn thể có bản lĩnh, kinh nghiệm
đã lãnh đạo, vận động nhân dân tích cực tiến hành đổi mới; cán bộ khoa học
có tâm huyết, có năng lực sáng tạo, tiếp thu nhanh khoa học công nghệ mới;
cán bộ quản lý kinh doanh năng động, thích ứng nhanh với nền kinh tế thị
trường; cán bộ chiến sỹ trong lực lượng vũ trang có ý thức cảnh giác cao,
chịu đựng gian khổ, vượt qua khó khăn giữ vững an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội…
Bên cạnh những ưu điểm trên, do ảnh hưởng bởi mặt trái của kinh tế

thị trường dẫn đến tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, bệnh
cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu
trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện, phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ diễn ra nghiêm trọng và ngày càng có xu
hướng gia tăng rất đáng lo ngại nhưng chúng ta chậm có giải pháp hữu hiệu
để ngăn chặn và kịp thời xử lý, điều đó đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, với chế độ. Ngoài ra, chất lượng đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt yếu
kém; cơ cấu đội ngũ cán bộ mất cân đối, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý; thiếu
cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, cán bộ đầu ngành, cán bộ có trình độ cao, có
16
khả năng dự báo, xử lý tốt những vấn đề phức tạp nảy sinh; việc thực hiện
chiến lược cán bộ mới chỉ tập trung nhiều vào đối tượng cán bộ lãnh đạo
quản lý, chưa chú ý đúng mức, toàn diện đến các đối tượng cán bộ khác…
Về công tác cán bộ: Qua tổng kết công tác cán bộ của các địa phương, ban,
ngành và trong cả nước cho thấy, công tác này đã có nhiều chuyển biến tích
cực: công tác cán bộ bám sát nhiệm vụ chính trị, thể chế hóa, cụ thể hóa
được nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn đề ra trong chiến lược cán
bộ; nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính
trị về công tác cán bộ được giữ vững; Dân chủ, công khai trong cách đánh
giá cán bộ, đánh giá cán bộ không đơn thuần chỉ căn cứ vào quá trình công
tác, trình độ học vấn, thành phần lý lịch, mà đã chú trọng hơn về tiêu chuẩn
cán bộ, nhất là về phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức, năng lực, lấy hiệu
quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao trong điều kiện công tác cụ thể
làm thước đo chủ yếu.
Mặc dù công tác cán bộ của Đảng ta trong những năm qua đạt được
một số thành tựu đáng khích lệ nhưng nó vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm,
yếu kém. Đại hội Đảng toàn quốc lần X cũng nêu rõ: "Nhiều khuyết điểm,
yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục chậm đổi mới cơ chế,
phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với

cán bộ". Công tác đào tạo bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu và nhiệm vụ công
tác; nội dung chương trình và phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa gắn
với tổng kết thực tiễn của công cuộc đổi mới; việc chiêu sinh, thi tuyển ở một
số nơi còn hình thức và chưa đúng với khả năng của cán bộ; công tác quản lý
văn bằng, chứng chỉ, học hàm, học vị còn lỏng lẻo. Bên cạnh đó, những chính
sách đối với cán bộ, nhất là chính sách về tiền lương, nhà ở, phương tiện,
điều kiện làm việc còn nhiều bất cập, chưa được quan tâm đúng mức, thiếu
công bằng, thực hiện không thống nhất và đồng bộ. Do vậy, chưa tạo được
17
động lực làm việc và phát huy khả năng công tác của đội ngũ cán bộ, nhất là
những cán bộ có tài.
Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo chưa được cụ thể hóa; hệ thống
tổ chức làm công tác cán bộ còn phân tán, chồng chéo, chức năng và trách
nhiệm chưa rõ ràng; công tác quy hoạch cán bộ có nơi chưa dám nhìn thẳng
và né tránh thực trạng. Trong nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý
theo nhiệm kỳ hằng năm và cuối nhiệm kỳ, hay trước khi bổ nhiệm chưa căn
cứ vào nhiệm vụ chính trị, năng lực thực tế, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ,
phẩm chất đạo đức mà dựa vào ý chí chủ quan, tình cảm, nể nang. Có những
nơi cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt và cơ quan quản lý cấp trên
chưa sâu sát, chưa nắm chắc, thiếu thông tin nhưng đã tiến hành bổ nhiệm,
cất nhắc cán bộ; có những nơi hằng năm đều tiến hành nhận xét, đánh giá cán
bộ nhưng qua loa, chiếu lệ, không thực hiện dân chủ, công khai trong thảo
luận, bàn bạc, nhận xét cán bộ hoặc có tình trạng lợi dụng phê bình để hạ bệ,
bôi nhọ, công kích nhau, nhiều thông tin thiếu chuẩn xác, thậm chí đơm đặt
nhưng không được kịp thời điều tra xác minh đã làm lỡ nhịp hay cơ hội để đề
bạt sử dụng…Từ chỗ đánh giá, nhận xét cán bộ chưa chính xác, nên một số
cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm nhưng phát huy tác dụng không cao; cán bộ bất
tài, kém đức, cơ hội, trục lợi cá nhân chậm bị thay đổi, hoặc lại được điều
chuyển đến vị trí tốt hơn, thậm chí được nhanh chóng "thăng quan tiến chức",
còn những người thực đức, thực tài thì bị bỏ sót, không được trọng dụng,

thậm chí còn bị vùi dập…
KẾT LUẬN
18
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã ý thức rõ
việc dùng người là quốc sách. Nó không phải là nguyên nhân duy nhất nhưng
có tác dụng trực tiếp đến sự tồn vong của quốc gia, sự trường tồn và phát
triển của dân tộc. Phát huy truyền thống và phương sách dùng người của ông
cha ta để lại, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán
bộ, coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện xây dựng được một đội
ngũ cán bộ trung thành với Tổ quốc và dân tộc, tận tuỵ kiên cường hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ qua các thời kỳ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vì lợi
ích 10 năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Tư
tưởng của Người về cán bộ và sử dụng cán bộ là những di sản vô giá.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là
kết tinh truyền thống dùng người của ông cha ta trong lịch sử, là đỉnh cao của
“nghệ thuật” hay “phương sách” dùng người - bí quyết thành công của sự
nghiệp Cách mạng. Đó là tư tưởng vĩ đại đầy tính nhân văn và khoa học.
Ngày nay, những tư tưởng đó đã trở thành những bài học, những nguyên tắc
trong công tác cán bộ của Đảng. Nhờ đó mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tập hợp được hiền tài, đã thu hút được các nhân sỹ yêu nước, đã thu hút
được tất cả các lực lượng đoàn kết xung quanh Đảng, đưa đến thành công của
cách mạng Tháng Tám vĩ đại, thắng lợi Điện Biên chấn động địa cầu, đại
thắng Mùa xuân 1975 hào hùng và cả nước vững bước đi lên CNXH.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vai trò,
vị trí trọng yếu, cấp thiết, là “cái gốc” và “công việc gốc” của Đảng qua các
thời kỳ cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời người cán bộ và những người làm công tác
cán bộ. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay khi mà đội ngũ cán bộ nước ta có
bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt, cùng với đó Đảng và Nhà nước

19
đã thường xuyên thể chế hóa, cụ thể hóa nhiều chủ trương, quan điểm, giải
pháp lớn về công tác cán bộ đề ra trong chiến lược cán bộ Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đã đạt được, thì công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ hiện
nay vẫn còn bộc lộ một số mặt yếu kém như: chính sách, môi trường làm việc
của cán bộ chưa tạo động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự
cống hiến của cán bộ, thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, cán bộ đầu ngành,
cán bộ có trình độ cao, có khả năng dự báo, xử lý tốt những vấn đề phức tạp
nảy sinh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, làm giảm lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ
Chính vì vậy, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải thường xuyên tiến hành
đổi mới công tác cán bộ, phải “xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục,
vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ
mới”. Điều này thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng ta trong công tác cán bộ
và để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đó của Đảng, đòi hỏi chúng ta
phải không ngừng nghiên cứu học tập và vận dụng sáng tạo quan điểm, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, đây là
kho tàng lý luận vô cùng quý báu đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ ngang
tầm thời đại, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng hiện nay .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
20
-Tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” của Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, Tr.229-306.
- Hồ Chí Minh. Sđd.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
-Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành

Trung ương Khoá X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.241.
21

×