Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu hướng vận động của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.65 KB, 24 trang )

I - Lời mở đầu
Dới sự tác động của sự phát triển mạnh mẽ nh vũ bão của kỹ thuật
và công nghệ, ngày nay lực lợng sản xuất đã có bớc phát triển mạnh mẽ.
Lực lợng sản xuất thay đổi cả về tính chất và trình độ kéo theo sự thay đổi
về quan hệ sản xuất. Do đó mà trong các nớc chủ nghĩa t bản, bản chất của
nó cung mang những đặcđiểm mới.
Nhân dân ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nớc, xây dựng
nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, mong muốn làm
bạn với tất cả các nớc trên thế giới. Do vậy, tăng cờng quan hệ với hệ
thống kinh tế thế giới, tham gia phân công lao động và cạnh tranh quốc tế
đâng là đề tài quan trọngcần đợc làm sáng tỏ. Hiện nay các nớc t bản phát
triển vẫn đang giữ vị trí chi phối nền kinh tế thế giới. Trên phơng diện
chính trị thế giới cũng nh kinh tế thế giới, chủ nghĩa t bản hiện đại đang
chiếm u thế. Chúng ta kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh
quốc tế nh vậy nên việc hiểu thấu đáo về chủ nghĩa t bản hiện đại là diều
hết sức cần thiết.
Hơn thế nữa, chủ nghĩa xã hội không phải bỗng dng mà có và phát
triển. Dơng nhiên nó chỉ có thể làm nên những thành tựu của mình trên cơ
sở đúc kết bài học và kinh nghiệm lịch sử, trên cơ sở phát triển của xã hội
loài nguời. Nghiên cứu những thành bai, đợc mất của chủ nghĩa t bản hiện
đại, lấy cái tốt bỏ cái xấu của nó là để giúp Chúng ta xây dựng chế độ xã
hội chủ nghĩa tiến bộ hơn, u việt hơn t bản chủ nghĩa.
Do tính cấp thiết đó của đề tài, chúng em đã viết bài này. Mục đích
nghiên cứu của đề tài là làm rõ những đặc điểm của chủ nghĩa t bản
hiện đại ngày nay và xu hớng vận động của nó.
II - Đặc trng của chủ nghĩa t bản hiện đại ngày nay

1. Khái niệm về chủ nghĩa t bản hiện đại ngày nay
Chủ nghĩa t bản ngày nay là giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa t bản
độc quyền(chủ nghĩa t bản hiện đại)nằm trong phơng thức sản xuất t bản
chủ nghĩa, đợc phân tích kể tì sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay,


chủ yếu là từ những năm cuối của thế kỷ 20.
ở đây chủ nghĩa t bản hiẹn đại phản ánh một giai đoạn phát triển mới về
chất trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa t bản. Đó là giai đoạn chủ nghĩa
t bản độc quyền nhà nớc với nhiều đặc trng mới.
1
2. Sự biến đổi về lực lợng sản xuất
2.1. Chủ nghĩa t bản đang trong bớc quá độ từ cơ sở vật chất kỹ thuật
truyền thống sang cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn mới về chất -
đó là kinh tế trí thức.
Kinh tế tri thức có những đặc trng là:
Các tài sản vật thể (physical assets) nh đất đai, nhà máy, thiết bị
không còn đóng vai trò nh trớc. Chất xám, vốn con ngời có ý nghĩa
quyết định sức mạnh kinh tế. Trong trao đổi, phần mềm chiếm vị trí
quan trọng.
Các hoạt động kinh tế đều đợc số hoá và đợc vận hành trên các
siêu xa lộ thông tin, các mạng lới máy tính lan toả khắp nơi. Thông
tin sẽ đóng vai trò quyết định nhất và có vai trò nh bản vị của mọi
hoạt động kinh tế
Các quan niệm truyền thống và phơng thức sản xuất kinh doanh sẽ
thay đổi. Ví dụ, sở hữu trí tuệ đợc đề cao, quản lý theo mạng sẽ
thay thế phơng pháp quản lý theo thứ bậc
Tuy nhiên hiện nay loài ngời mới ở bớc quá độ. Những biểu hiện
cụ thể của bớc quá độ là sự thay thế từng bớc các t liệu sản xuất truyền
thống do cuộc cách mạng công nghiệp mang lại bằng các t liệu sản
xuất hiện đại dựa trên cơ sở của những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, mà tập trung ở các lĩnh vực điện tử, tin học, vật
liệu mới, công nghệ sinh học. . . thể hiện trong những thiết bị siêu nhỏ,
siêu nhẹ, siêu bền. . . tác động nhanh, hiệu quả cao, tiêu tốn ít năng l-
ợng. Các t liệu sản xuất này hết sức đa dạng, phong phú cả vế đối tợng
lao động lẫn t liệu lao động. Các công cụ thiết bị tự động hoá ngày

càng phát triển thay thế cho các công cụ, thiết bị cơ khí hoá. Có thể
nói khái quát là hiện đã có ba loại thiết bị biểu hiện chức năng tự động
hoá. Đó là:
+ Máy tự động trong quá trình hoạt động
+ Máy công cụ điều khiển bằng số
+ Ngời máy. Đặc biệt là ngời máy(Robot) đã từng bớc thay thế
phần công việc nặng nhọc, những công đoạn nguy hiểm, độc hại cho
ngời lao động, đồng thời đã xuất hiện những nhà máy tự động hoá do
ngời máy điều khiển những công đoạn cần thiết. Các quá trình lao
động trí óc cũng đã bớc đầu đợc thử nghiệm để ngời máy thay thế.
Tính cách mạng của t liệu sản xuất trớc hết thể hiện ở công cụ lao
động dây chuyền đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Do
vậy, phơng thức sản xuất của cải vật chất cũng có bớc nhảy vọt từ kỹ
thuật cơ khí sang bán tự động và tự động và các yếu tố cơ bản của nền
kinh tế tri thức đã xuất hiện.
Nguyên nhân của bớc quá độ này là do tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ. Chính cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ với những lĩnh vực mũi nhọn đợc tập trung là kỹ thuật điện
tử, công nghệ thông tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ
hải dơng. . . đã tạo ra những thành tựu mới và đợc chủ nghĩa t bản.
1. Hiện nay thế giới có khoảng 500000 ngời máy công nghiệp và đ-
ợc tập chung ở những nớc t bản phát triển. Tỷ lệ ngời máy trên một vạn
2
dân của Thụy Điển là 8, Nhật Bản: 6, Mỹ: 2, Cộng hoà liên bang Đức:
1, 5
2. Tỷ lệ này có sự khác nhau ở các nớc. Chẳn hạn ở Pháp số công
nhân làm việc trên máy hoàn toàn tự động chiếm 15, 7% tổng số công
nhân trong các ngành công nghiệp.
áp dụng một cách hiệu quả để tạo ra cái cốt vật chất mới thay cho
đại công nghiệp cơ khí. Vai trò khoa học ở đây rất to lớn. Nó đã thực

sự phát huy tác dụng khi trở thành lực lợng sản xuất nh C. Mác đã
khẳng định, và ngày nay vai trò đó đã đợc đánh giá cao. Chẳng hạn
theo đánh giá gần đây ngời ta cho rằng những đổi mới công nghệ đã
đóng góp tới 65% tăng trởng kinh tế của Nhật Bản, 73% kinh tế của
Anh va 76% kinh tế của Pháp và Cộng hoà liên bang Đức. Trong báo
cáo số hai về nền kinh tế số hoá đang xuất hiện (công bố tháng 6-
1999), Bộ thơng mại Mỹ đã khẳng định khu vực công nghệ thông tin
đã đóng góp tới 35% tăng trởng kinh tế của Mỹ.
2. 2 Sự biến đổi về cơ cấu lao động
Đội ngũ ngời lao động làm thuê lực lợng sản xuất cơ bản, cũng có
sự biến đổi cả về trình độ nghiệp vụ cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá trị
hàng hoá sức lao động để phù hợp với bớc nhảy vọt mang tính cách mạng
của t liệu sản xuất. Cho đến nay đội ngũ lao động ở các nớc t bản phát
triển đã đạt trình độ văn hoá chuyên môn nghiệp vụ cao. Cơ cấu lao động
đã có sự thay đổi theo chiều hứơng tiến bộ và các yếu tố tái sản xuất t bản
chủ nghĩa một cách có hiệu qủa.
-Về cơ cấu lao động :
Lao động dịch vụ đợc tập trung cao 70-75%, đồng thời đội ngũ
chuyên gia có tay nghề cao chủ yếu đợc tập trung ở khu vực này. Chẳng
hạn ở Mĩ thập kỉ 80, tỉ lệ lao động cổ trắng và cổ xanh là 50/32.
Đồng thời xuất hiện lực lợng công nhân cổ vàng. Đó là cán bộ có trình
độ chuyên môn đại học, trên đại học. Lực lợng lao động này đang ngày
càng tăng lên ở các nớc t bản phát triển.
Với nền sản xuất dần dần từng bớc chuyển sang nền sản xuất tri
thức, vai trò của nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng. Theo đánh giá
của ngân hàng thế giới ởNhật Bản nguồn lực con ngời chiếm 81% trong
tổng số các nguồn lực. Còn với Mĩ, Pháp, Đức, Italia lần lợt là 59%, 77%,
79%, 82%.
Để đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, các nớc t bản đã tăng cờng
đầu t vào việc nghiên cứu và triển khai, thực hiện hợp tác quốc tế trong

những chơng trình nghiên cứu các đề tài mang tính chiến lợc, thực hiện cải
cách giáo dục. . .
-Về tái sản xuất sức lao động :
Do sự đầu t vào con ngời để làm tăng các yếu tố tái sản xuất sức lao
động cả về vật chất lẫn tinh thần nhằm khơi dậy sự sáng tạo, phục vụ quá
trình tái sản xuất t bản chủ nghĩa trong điều kiện mới một cách tốt hơn
nên tốc độ tăng trởng kinh tế tăng, GDP bình quân đầu ngời cao, tuổi thọ
bình quân và tỉ lệ ngời biết chữ tăng, điều đó biểu hiện ở chỉ số HDI tăng.
Theo thống kê của LHQ, chỉ số HDI của các nớc t bản phát triển thập kỉ
90 khá cao, xấp xỉ 1. Chẳng hạn chỉ số HDI ở Nhật là 0, 98 và Canada là
0. 989.
3
Cùng với việc nâng cao trình độ nghề nghệp của ngời lao động, các
nớc t bản đã quan tâm đến các yếu tố cấu thành của gía trị hàng hoá sức
lao động, thực hiện nâng cao chất lợng cuộc sống. Chẳng hạn, thông qua
sự điều tiết kinh tế, can thiệp vào các điều kiện của quá trình tái sản xuất,
đảm bảo các điều kiện ăn, ở, sinh hoạt, đi lại, học hành, vui chơi giải trí
của bản thân và gia đình ngời lao động. Do đó xuất hiện tầng lớp trung lu (
bao gồm cả những ngời công nhân cổ trắng, cổ vàng ). Ngoài việc
thực hiện chính sách xã hội, nh chính sách việc làm, bảo hiểm, trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp gia đình đông con chăm sóc y tế ngời già, trẻ em, ngời tàn
tật. . . nhà nớc t sản còn sử dụng các công cụ điều tiết giá cả, lạm phát,
thuế, thực hiện điều tiết phân phối lạiđể ổn định tiền lơng, thu nhập.
Trong giai đoạn 1981 1990, tỉ lệ lạm phát ở các nớc t bản phát triển
trung bình 5, 5 % ( trong đó Mĩ 4, 5%, EU 6, 6%, Nhật Bản 1, 9%), giai
đoạn 1991-2000 tỉ lệ đó là 2, 2%, trong đó năm 1991 : 4, 5%, 1998: 1,
4%, 1999:1, 1%.
Sự quan tâm đến điều kiện tái sản xuất sức lao động của chủ nghĩa
t bản một mặt liên quan đến tiêu dùng có tính sản xuất và có thể nói nó
cũng giống nh sự quan tâm của nhà t bản đến máy móc thiết bị, vì đó là t

bản và là tài sản của mình. Nhng mặt khác xã hội càng văn minh thì buộc
chủ nghĩa t bản cũng phải sử dụng các phơng pháp tinh tế trong việc giải
quyết các quan hệ xã hội. Do đó không thể không quan tâm đến tài
nguyên con ngời, nhân tố quyết định cuối cùng đến việc thắng hay thua
đối thủ cạnh tranh. Đó là một tất yếu khách quan mà nhà nớc với t cách là
ngời quản lí kinh tế và quản lí xã hội phải thực hiện.
Có thể nói trong điều kiện thời đại ngày nay, chủ nghĩa t bản độc
quyền nhà nớc đã tăng cờng điều tiết quá trình phân phối và phân phối lại.
Vì vậy mặc dù về cơ bản ngời lao động cũng chỉ nhận đợc phần V, còn
nhà t bản hởng phần m, song do quá trình điều tiết của nhà nớc một phần
nhỏ m cũng thuộc về ngời lao động dới hình thức quĩ phúc lợi xã hội và đ-
ợc hởng thụ thông qua việc tiêu dùng các giá trị sử dụng của công trình
do quĩ phúc lợi xã hội mang lại.
3. Sự biến đổi, điều chỉnh của quan hệ sản xuất
3.1 Sự biến đổi về các hình thức sở hữu
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay hình thức sở hữu của
chủ nghĩa t bản đã coc bớc biến đổi hết sức to lớn với những biểu hiện
quan trọng là :
a) Hình thức sở hữu đa dạng :
- Có nhiều chủ thể cùng sở hữu t liệu sản xuất trong một doanh nghiệp
cổ phần voí những tỉ lệ khác nhau trong đó có cả những nhà t bản lớn nhỏ
và kể cả ngời lao động cũng đóng góp cổ phần để đợc hởng lợi tức cổ
phần. Chẳng hạn ở Thuỵ Điển có tới 21% dân c có cổ phần trong các
doanh nghiệp. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng sở hữu của các nhà t bản
vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở hữu cổ phiếu của ngời lao động chỉ chiếm
một tỉ lệ nhỏ, không đáng kể và đợc chủ nghĩa t bản sử dụng nhmột công
cụ trong quản lí để thu hút sự quan tâm của ngơì lao động vào quá trình
sản xuất. Theo số liệu thống kê quốc tế toàn bộ cổ phần mà ngời lao động
ở Mĩ có đợc chỉ chiếm khoảng 1% toàn bộ giá trị cổ phiếu. Ví dụ ở Mĩ
một doanh nghiệp có số vốn hoạt động là 180 triệu USD, nhng giá trị mỗi

cổ phiếu bán ra cho ngời lao động chỉ là 2 USD. Nh vậy ngời lao động có
4
nắm nhiều cổ phiếu thế nào đi nữa cũng không đủ để giữ vị trí quan trọng
trong công ty .
Ngoài hình thứccổ đông hoá một cách rộng rãi trong các tầng lớp
dân c, hiện nay đã bớc đầu xuất hiện loại hình xí nghiệp do công nhân tự
quản. Chẳng hạn nhà nớc Mĩ đã quốc hữu hoá chi nhánh của GMC và
giao cho công nhân tự quản còn nhà nớc chỉ tham gia hỗ trợ thông qua
chính sách vĩ mô. Điều này không có nghĩa là các nhà t bản tự nguyện
chuyển quyền sở hữu cho ngời lao động và càng không có nghĩa là cuộc
cách mạng trong sở hữu t liệu sản xuất ở thời đại ngày nay sẽ diễn ra
theo cách tiến hoá nh một số ngời đã và đang cố tình nhầm lẫn và với ý đồ
muốn phê phán sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác theo cách nghĩ của họ.
- Trong chủ nghĩa t bản ngày nay, sở hữu không chỉ giới hạn trong
việc sở hữu t liệu sản xuất ( tức là sở hữu hiện vật) mà chủ yếu là sở hữu
về mặt giá trị ( vốn ) dới nhiều hình thức nh vốn tự có, vốn cổ phần, vốn
cho vay. Nếu nh thời kì đầu trong quá trình phát triển của chủ nghĩa t bản
quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền quản lí gắn làm một trong một chủ
sở hữu và khi xuất hiện t bản cho vay đã làm hai quyền đó tách rời( tức là
t bản sở hữu tách rời t bản chức năng ) thì trong chủ nghĩa t bản ngày nay
sự tách rời đó càng đợc đẩy mạnh và lao động quản lí đã trở thành một
nghề, giám đốc thực hiện chức năng quản lí thông qua hợp đồng là thuê.
Tuy nhiên ở đây không có nghĩa là nguyên lí về quyền sở hữu quyết định
quyền quản lí, vì thế không còn giá trị, mà trái lại điều đó chỉ thể hiện sự
biến thể do sự phát triển của phân công lao động xã hội ở trình độ mới,
còn vai trò quyết định cuối cùng của ngời sở hữu vẫn không có sự thay
đổi.
Cùng với quá trình đó còn xuât hiện nhiều hình thức sở hữu khác,
nh sở hữu trí tuệ, sở hữu các công trình khoa học, bằng phát minh sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thông tin. Các hình thức này, nhất là sở hữu

thông tin, đã ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế thị trờng hiện
đại và mang tính quyết định đối với sự tăng trởng kinh tế. Bởi vì chính trí
tuệ là nguồn gốc của việc sản sinh ra của cải xã hội. Rất nhiều nhà Khoa
học, trong đó có Các Mác, đã khẳng định và đề cao vai trò của tri thức
khoa học đối với sự phát triển kinh tế xã hội giống nh đôi đũa thần
làm giàu cho xã hội.
- Sở hữu t nhân đã có sự biến đổi lớn, tính độc lập tơng đối bị mất
dần, thay vào đó là sở hữu hỗn hợp. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh
các nhà t bản lớn đã từng bớc thôn tính các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lôi
cuốn chúng vào quĩ đạo hoạt động của mình dới những hình thức khác
nhau theo cơ chế tham dự. Các doanh nghiệp nhỏ này trở thành vệ tinh
nhận thầu và thầu lại của các doanh nghiệp lớn mà các doanh nghiệp lớn
đó thờng là doanh nghiệp độc quyền đợc tổ chức lại trong một cơ cấu mới.
Chẳng hạn Công ty GE một công ty hàng đầu thế giới của Mĩ về ngành
điện dân dụng, đã tập hợp quanh mình 3200 xí nghiệp thành viên (kể cả
các hộ gia đình) với những mối liên kết ở mức độ khác nhau, thực hiện
những chức năng khác nhau nh sản xuất từng bộ phận chi tiết, đảm nhận
từng công đoạn, từng khâu trong sản xuất, lu thông qua việc nhận thầu,
thầu lại theo những hợp đồng của công ty mẹ.
Điều cần nhấn mạnh là mặc dù với hệ thống tham dự mới trong đó có sự
tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, của các hộ gia đình và cả
những ngời công nhân lao động làm thuê, song có thể nói đó chủ yếu là sự
5
biến đổi trong cách thức tổ chức quản lí doang nghiệp nhằm nâng cao hiệu
suất của t bản chứ không có nghĩa là ngời công nhân trở thành chủ sở hữu
t liệu sản xuất, bởi vì giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu là quá thấp so với giai
cấp t bản nh đã nêu ở trên. Mặt khác với sở hữu đó ngời công nhân cha trở
thành ngời chủ sở hữu thực sự, mà chỉ mang tính hình thức nên chỉ là ngời
bán sức lao động, chứ không phải vừa lao động, vừa quản lí theo hình thức
tiểu chủ. Về mặt lí luận, cần phân biệt khi là chủ sở hữu thực sự thì phải

có thực quyền chi phối cái mà mình sở hữu ( với những mức độ nhát định).
Đồng thời cũng cần phân biệt về mặt lợng cũng nh mối quan hệ biện
chứng giữa lợng và chất.
Ngoài ra nguồn gốc của gía trị cổ phiếu mà họ có là do tiền lơng tiết
kiệm đợc chứ không phải từ nguồn gốc chiếm đoạt lao động của ngời
khác, những phần tiết kiệm đó lại chỉ bù đắp ( thậm chí không đủ bù đắp)
đợc phần mà họ mắc nợ do phải đứng ra mua chịu t bản cố định gia đình
do nhà nớc đứng ra điều tiết. Trên thực tế giá trị của cái gọi là t liệu sản
xuất mà họ sở hữu nằm trong hệ thống quản lí ngân hàng và sự khống chế
của t bản tài chính chứ họ không có quyền tự do sử dụng theo ý riêng của
mình.
Hình thức sở hữu độc quyền vẫn tồn tại nhng không còn độc quyền
thuần tuý mà là dạng hỗn hợp và dới hình thức sở hữu của các công ty
xuyên quốc gia, hoặc chủ nghĩa t bản độc quyền nhà nớc, t bản tài chính.
Đây là hình thức vận động rất mới mẻ của quan hệ sản xuất t bản
chủ nghĩa mà ở thời Lênin mối chỉ có mầm mống.
+Về hình thức sở hữu độc quyền xyên quốc gia
Do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đợc đẩy mạnh hơn nữa, dới tác
động của qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa t bản, cùng với những điều
kiện quốc tế hoá sản xuất, t bản và thông tin, các tổ chức độc quyền quốc
gia đã vợt biên giới quốc gia, thực hiện kinh doanh quốc tế dới nhiều hình
thức và trở thành các công ty xuyên quốc gia.
Khi ra ngoài biên giới quốc gia, các công ty này đã thực hiện sự liên
kết để bành trớng thế lực và khai thác tiềm năng của nớc chủ nhà. Thông
qua con đờng đó các công ty xuyên quốc gia ngày càng thâu tóm nhiều t
liệu sản xuất, vốn, trí tuệ quốc tế, tạo ra nhiều hình thức sở hữu hỗn hợp
mang tính quốc tế hoá. Hiện nay trên 70% các xí nghiệp chi nhánh của
các công ty xuyên quốc gia là các xí nghiệp liên doanh với tỉ lệ vốn góp
khác nhau, ít nhất là 2và thông thờng có 3-4 chủ sở hữu trong một xí
nghiệp. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia thờng tồn tại dới dạng

concern và CM(conglomerate) mà concern và CM là những tổ hợp đa
ngành với những mức độ khác nhau. Điều đó phản ánh tính đa dạng, phức
tạp và tính hỗn hợp và sở hữu xuyên quốc gia.
Có thể nói hiệ tợng đa quốc gia hoá trong sở hữu ở các xí nghiệp chi
nhánh của các công ty xuyên quốc gia đã trở thành phổ biến, làm cho tính
hỗn hợp của sở hữu tăng lên mạnh mẽ.
Hình thức sở hữu độc quyền xuyên quốc gia là hình thức sở hữu hỗn
hợp và đã đợc quốc tế hoá. Đó cũng chính là hình thức sở hữu mang tính
khách quan do các tác động của quá trình xã hội hoá sản xuất dới hình
thức quốc tế trong điều kiện của chủ nghĩa t bản, nhất là trong thời đại
ngày nay.
+Về hình thức sở hữu t bản tài chính
6
T bản tài chính là hình thức hỗn hợp về t bản giữa t bản công ngiệp
và t bản ngân hàng do quá trình tích tụ sản xuất dẫn tới. Ngày nay mặc dù
hạt nhân của nó không thay đổi, nhng t bản tài chính đã lôi cuốn hầu nh
toàn bộ t bản ở các ngành sản xuất, lu thông và cơ cấu tổ chức của mình,
hình thành nên một cơ cấu mang tính hỗn hợp, trớc hết về mặt sở hữu.
Lênin khẳng định : t bản tài chính bao giờ cũng có tính quốc tế hoá trong
mọi hoạt động. Ngày nay đặc tính ấy biểu hiện rất rõ rệt và mang tính phổ
biến. Đó là trờng hợp khá điển hình về sự phát triển những đặc tính vốn có
của độc quyền và cũng là trơng hợp điển hình về tính hỗn hợp và tính quốc
tế hoá của hình thức sở hữu của chủ nghĩa t bản đơng đại kế thừa và
phát triển đặc tính của nó ở giai đoạn trớc giai đoạn chủ nghĩa t bản tự
do cạnh tranh thống trị.
+Hình thức sở hữu độc quyền nhà nớc
Xét về bản chất giai cấp của nhà nớc t sản, sở hữu nhà nớc chính là
sở hữu của t bản tập thể. Điều này đúng nh nhận xét của Ăng ghen rằng
nhà nớc t sản là nhà nớc của các nhà t bản, là nhà t bản tập thể lí tởng và
nhà nớc ấy càng chyển nhiều lực lợng sản xuất thành tài sản của nó bao

nhiêu thì nó lại biến thành nhà t bản tập thể thực sự bấy nhiêu.
Sở hữu độc quyền nhà nớc đợc hình thành thông qua nhiều con đ-
ờng khác nhau trong đó có quốc hữu hoá các xí nghiệp của t bản t nhân,
xây dựng mới bằng việc chi ngân sách nhà nớc, góp vốn cổ phần và mua
lại một phần xí nghiệp t bản t nhân trong trờng hợp cần thiết. Song ngay
trong trờng hợp quốc hữu hoá hoặc xây dựng mới bằng việc chi ngân sách
nhà nớc thì tính hỗn hợp của sở hữu không vì thế mà thay đổi, vì nhà nớc
t sản chẳng qua là nhà t bản tập thể hoặc chỉ là một công ty cổ phần
nh Ăng ghen đã nhận xét.
Sự biến đổi của hình thức sở hữu trong quan hệ sản xuất t bản chủ
nghĩa là một đặc trng rất cơ bản của chủ nghĩa t bản ngày nay bởi vì sở
hữu là quan hệ xã hội của nền sản xuất, là tổng thể các quan hệ kinh tế và
theo đó là tổng thể các quyền sử dụng, chi phối, quản lí, định đoạt gắn liền
với nó trong một xã hội nhất định. Đồng thời nó cũng chính là sự thốn
nhất biện chứng giữa điều kiện cần phái có của sản xuất với mặt kết quả
thực tế trong quá trình tái sản xuất. Việc biến đổi về hình thức quan hệ sở
hữu nêu trên là sự biến đổi dới tác động của qui luật về sự phù hợp giữa
lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Do tính chất xã hội hóa cao của lực lợng sản xuất, đòi hỏi quan hệ
sản xuất phải có sự biến đổi để thích ứng. Trong điều kiện của chủ nghĩa t
bản sự hỗn hợp hoá và quốc tế hoá theo kiểu t bản chủ nghĩa là một sự đáp
ứng đòi hỏi ấy. Đó chính là quá trình kinh tế mang tính khách quan ngoài
ý muốn chủ quan của nhà t bản.
Sự biến đổi của hình thức sở hữu trong quan hệ sản xuất t bản chủ
nghĩa để thích ứng với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất đã có tác
động trở lại nhất định đến sự phát triển của lực lợng sản xuất. Tuy sự tác
động này còn có tính hạn chế, song đây là quá trình mang tính khách quan
và là xu thế vận động cơ bản trong thời đại ngày nay. Đông thời sự biến
đổi cúa hình thức sở hữu cũng đã đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi quan hệ
quản lí và phân phối phải có sự biến đổi tơng ứng.

3.2 Sự điều chỉnh về quan hệ tổ chức quản lí
7
Sự biến đổi về tổ chức quản lý trong nền kinh tế của CNTB hiện đại
diễn ra cả trong lĩnh vực vi mô và vĩ mô, từ trong các công ty, xí nghiệp
đến hoạt động quản lý của nhà nớc t sản. Trên cơ sở những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin,
tự động hoá các thiết bị điều khiển chơng trình số, thiết kế và chế tạo với
sự giúp đỡ của máy tính điện tử, các hẹ thống sản xuất linh hoạt, ngời
máy. . . phơng thức tổ chức quản lý sản xuất vật chất có sự thay đổi từ sản
xuất lớn hàng loạt sang tổ chức quản lý theo loạt nhỏ hay đơn chiếc đáp
ứng yêu cầu thị hiếu đa dạng của khách hàng tức là thực hiện phi hàng
loạt hoá và đa dạng các sản phẩm: phi chuyên môn hoá sản xuất theo tổ
hợp các khối cấu kiện, phụ kiện chứ không phải từ những cấu kiện rời đợc
chuyên môn hoá nh trớc, phi tập trung hoá - quá trình sản xuất đợc phân
tán thành những đơn vị sản xuất nhỏ và vừa trên phạm vi rộng của cả quốc
gia và quốc tế; vi tiểu hình hoá sản phẩm với phơng châm nhỏ là đẹp.
Các sản phẩm sản xuất ra có kích cỡ ngày càng nhỏ, thậm chí nhỏ cỡ
nanomet nh Robot y học dùng trong chuẩn đoán và chữa bệnh. Thực hiện
tổ chức quản lý từ xa đợc thực hiện trên cơ sở xuất hiện các siêu lộ thông
tin cho phép điều khiển quá trình sản xuất trên diện rộng ở nhiều vùng
khác nhau, nền kinh tế mang tính chất toàn cầu và hoạt động nh một đơn
vị kinh tế cấp toàn cầu, vì vậy hoạt động quản lý cũng mang tính chất
quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Tất cả các biến đổi trên cho thấy, việc tổ chức
quản lý sản xuất và hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà, đợc
tiêu chuẩn hoá theo loạt lớn sang kiểu sản xuất loạt nhỏ và linh hoạt theo
đơn đặt hàng, cũng nh dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn đợc liên
kết theo chiều dọc sang phi liên kết theo chiều dọc và sang các mạng lới
theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nớc và ngoài nớc.
Trớc sự phát triển của khoa học công nghệ và phân công lao động
quốc tế hình thức quản lý chuyển đổi từ loại tập chung cao độ quyền lực

quản lý vào công ty mẹ theo kiểu kim tự tháp sang các công ty chi
nhánh, các đơn vị sản xuất theo kiểu màng lới. Nh A. Toffer nhận xét:
Tổ chức quản lý theo kiểu hình tháp, cồng kềnh và quan liêu, hiện đang
bị các công ty chạy đua giải thể đã làm cho các loại hình tổ chức mới
theo kiểu ma trận, nhóm dự án ngày càng đợc đề cao và a chuộng, đây sẽ
là loại hình tổ chức quản lý chủ yếu của xã hội dựa trên tri thức.
Bởi vì trong xã hội thông tin ngày nay, sự truyền đạt tin tức quản lý
phải đợc nhanh chóng, chính xác, trong khi mô hình quản lý cũ đã làm
chậm và mất tính chuẩn của tin do việc truyền tin qua nhiều tầng lớp trong
không gian từ trên xuống dới và ngợc lại, không linh hoạt, cồng kềnh kém
hiệu quả. Thể chế truyền thống đã tỏ ra bất cập trớc những vấn đề mới
phát sinh nh: tính nhất trí của lợi ích, sự khác nhau về văn hoá, tuổi thọ
sản phẩmThể chế quản lý màng lới không co trung tâm, mỗi một tầng
quản lý trong mạng lới, mỗi ngời quản lý đều là một trung tâm, giữa
chúng có mối liên hệ phức tạp giao chéo kiểu rẻ quạt. Mục tiêu quản lý
của nó không chỉ có quản lý kinh doanh, tiêu thụ, quản lý nhân viên, mà
còn cả việc thiết kế hình tợng xí nghiệp, với tôn chỉ là hoạt động có hiệu
quả nhất tàI năng và u thế của mỗi ngời trong mạng lới công ty. Trong
hình thức này, tin tức lan truyền nh hệ thống thần kinh, đảm bảo cho mọi
cấp quản lý đều nhận đợc thông tin mới nhất và hoàn chỉnh để đa ra quyết
sách, do đó mà có khả năng ứng phó với mọi điều kiện sản xuất tiêu thụ
sản phẩm trớc mọi biến động của thị trờng thế giới hiện nay.
8
Mô hình tổ chức quản lý của thể chế này có hai loại, theo quá trình
nằm ngang và theo kiểu tế bào sản xuất
Mô hình tổ chức quản lý theo quá trình nằm ngang đợc xây dựng là
nhằm khắc phục những khuyết tật của kiểu quản lý truyền thống,
giảm bớt nhiều tầng lớp trung gian, chuyển từ việc lấy chức năng
công việc làm hạt nhân sang quá trình làm hạt nhân để tổ chức nhân
viên. Nội dung chủ yếu của kết cấu tổ chức quản lý theo kiểu nằm

ngang là việc tập hợp những viên chức có kỹ năng khác nhau vào
một tế bào sản xuất để họ thấy đợc đầy đủ mục tiêu của một quả
trình tác nghiệp. Từ đó họ tự quản lý sản xuất, phát huy cao độ
tinh thần hợp tác và u thế của một tập thể hoàn chỉnh để giành
thắng lợi trong cạnh tranh. ở đây, đội sản xuất trỏ thành nền tảng và
đảm nhiệm một quá trình sản xuất, thực hiện tự kiểm soát, kiểm tra
chất lợng sản phẩm của mình, giảm đợc việc tổ chức giám sát, kiểm
tra và loại bỏ đợc mọi hoạt động không làm tăng giá trị của sản
phẩm, kích thích thi đua hợp tác của nhân viên, tăng khả năng tiếp
xúc, cuốn hút khách hàng, do vậy mà nó hiệu quả hơn.
Mô hình tổ chức quản lý kiểu tế bào sản xuất là kiểu tổ chức
quản lý trong đó công nhân đợc chia ra từng ca, kíp nhỏ (thờng từ
2-50 công nhân) có thể chế tạo, kiểm tra và hoàn thành toàn bộ sản
phẩm. Mỗi công nhân có thể làm nhiều việc và mỗi tế bào phảI
chịu trách nhiệm về chất lợng sản phẩm của mình. Tế bào sản
xuất là một quá trình hẹp nhựng lại rất linh hoạt, đáp ứng đợc
yêu cầu thay đổi kiểu dáng, mẫu mã của khách hàng một cách
nhanh chóng, đảm bảo cho việc sản xuất theo đơn đặt hàng phù hợp
với sự biến động mau lẹ của thị trờng. Mỗi tế bào sản xuất một sản
phẩm khác nhau, nếu rủi ro thì chỉ ảnh hởng tới tế bào đơng sự
tránh đợc rủi ro cho toàn xí nghiệp. Do đó, tế bào sản xuất mang
lại năng suất, chất lợng, hiệu quả cao hơn.
Nh vậy, một điều nổi rõ trong quá trình chuyển đổi hình thức tổ
chức quản lý là nhằm vào phát huy và sử dụng các nguồn lực của con
ngời - đó là hệ thống tổ chức sản xuất lấy con ngời làm trung tâm, định
hớng vào loại nhân lực có trình độ cao trong quá trình sản xuất, bồi d-
ỡng kiến thức và nâng cao trình độ chuyên môn một cách liên tục và có
hệ thống, với một đội ngũ công nhân năng động và cách thức tổ chức
linh hoạt từ trên xuống dới đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cả việc
trang bị các thiết bị hiện đại. Việc hoàn thiện công tác quản lý nguồn

nhân lực con ngời mang lại một tác động mạnh mẽ hơn nhiều mặt về
thành tựu so với việc mua sắm các kỹ thuật tiên tiến hơn từ các máy
cộng cụ điều khiển bằng chơng trình số cho tới các hệ thống sản xuất
linh hoạt.
Trớc hết, các xí nghiệp lớn ngày càng thực hiện chế độ cung ứng
(hoặc chế độ khoán), giao một số linh kiện hoặc giai đoạn nào đó của
sản phẩm cho các xí nghiệp khác hoàn thành. Cách làm này đã có từ
lâu. Chỗ khác nhau giữa chế độ cung ứng mới hiện nay và trớckia là ở
chỗ, chẳng những các hãng chế tạo lớn khoán việc sản xuất mà còn
khoán toàn bộ công tác nghiên cứu khoa học, chế tạp thử cho tới sản
xuất những linh kiện đó cho các xí nghiệp khác, từ đó hình thành nên
mạng lới xí nghiệp do hãng chế tạo lớn cầm đầu, có nhiều hãng nhận
khoán (hoặc hãng cung ứng) tham gia. Các xí nghiệp đều độc lập về
9
mặt pháp luật, nhng về sản xuất là một chỉnh thể, về hành động thì
nhất trí, mục tiêu và sự chú ý của họ đều tập chung vào việc làm thế
nào để sản phẩm có sức cạnh tranh lớn nhất.
Thứ đến, để nâng cao hiêu quả công tác, các xí nghiệp lớn đang cải
tiến cơ chế quản lý trớc đây là phân công ngành quá chi tiết, quá nhiều
tầng nấc. lần lợt giảm bớt các tầng nấc, xoá bỏ một số ngành chức
năng, hoặc phá bỏ rào chắn giữa chúng, thực hiện tổng hợp hoá chức
năng, cắt giảm hàng loạt nhân viên quản lý trung gian.
Tóm lại, sự thay đổi trên thể hiện thông qua: Thứ nhất, việc chuyển
từ chế độ dự dựa trên sở hữu cổ phiếu khống chhé đợc thay thế bằng
chế độ uỷ nhiệm, do việc phát hành cổ phiếu với mệnh giá nhỏ, khối l-
ợng lớn, bán rộng rãi để thu hút nguồn vốn rộng rãi trong dân c, làm
cho cổ phiếu của công ty bị phân tán, quyền lực khống chế của t bản
riêng biệt bằng sở hữ cổ phần đang bị lu mờ dần đi. Thứ hai, do mức
độ rủi ro trong đầu t ngày càng cao, t bản tiếp tục phân tán giải ra các
ngành, các công ty và cả các tập đoàn t bản khác nhau, quyền lực lớn

sở hữu bị suy yếu, độc quyền dựa trên ý chí một vài cá nhân t bản lớn
hầu nh không còn cơ sở để tồn tại. Thứ ba, sự phát triển của kết cấu
tập đoàn t bản tài chính mạng lới, tạo nên quan hệ thống nhất và mâu
thuẫn dựa trên mục tiêu, hiệu quả và lợi ích của t bản sở hữu và t bản
chức năng, là một hình thức quan hệ kinh tế mới của t bản tai chính.
Trong kết cấu này tồn tại nhiều thế lực có sức mạnh cân bằng và lợi ích
xoắn xuýt vào nhau, vì chúng có cổ phần đan xen nhau, các bên có sở
hữu cổ phần ngang nhau, không bên nào độc quyền chiếm cổ phần có
quyền khống chế. Từ đó mà hình thành ra một hình thức t bản tài
chính tập thể.
Quyền lực thực sự trong các tập đoànt bản tài chính đã chuyển dần
từ tay những t bản kếch sù cha truyền con nối, những ngời hoàn toàn
tách rờiquá trình sản xuất trực tiếp sang tay những ngời vạch đờng cho
doanh nghiệp phát triển và những ngời trực tiếp điều hành. Thống kê ở
Mỹ cho thấy, giám đốc và chủ tịch của 3500 công ty lớn đã kiểm soát
gần 1/2 tàI sản công nghiệp cả nớc, 1/2 tài sản ngân hàng, 1/2 tàI sản
ngành GTVT và khu vực công cộng, 1/3 tài sản ngành bảo hiểm.
Trong đó chie có 10% là con cháu các gia đình giàu có, còn lại là hàng
ngũ giám đốc kể từ bậc thấp nhất của nấc thanh chi phối xí nghiệp đến
vị trí ngai vàng quyền lực. Trong các nhà tỷ phú có rất nhiều ngời
thuộc hàng ngũ giám đốc đI lên bằng con đờng doanh nghiệp. Trong
khi 3/5 t bản có đợc từ lợi nhuận của công ty, 1/5 từ nguồn vay tín
dụng ngân hàng, 1/5 từ nguồn đầu t của các tổ chức ngoài ngành, và
các nhà đầu t cá thể tự do chỉ cung cấp có 5% thì tấtnhiên sẽ hình
thành hình thức sở hữu tập thể của t bản độc quyền thông qua hàng ngũ
giám đốc trực tiếp quản lý xí nghiệp, các nhà t bản độc quyền và hàng
ngũ giám đốc hoà làm một. Thực tế ở Nhật Bản, Cộng hoà liên bang
Đức, Anh, Pháp. . cũng diễn ra sự di chuyển quyền lực nh thế.
Giữa các bộ phận, các thành viên trong nội bộ tập đoàn tài chính có
quan hệ vừa cạnh trah với nhau, vừa phối hợp chặt chẽ với nhau vì lợi

ích hơn của tập đoàn. Quan hệ giữa chúng trớc tiên là quan hệ đối tác
đợc quyết định trên thị trờng và do các quy luật của thị trờng chi phối.
Song quan hệ cạnh tranh ở đây không phải là cạnh tranh thuần tuý, mà
là quan hệ cạnh tranh giữa các bộ phận có sự lệ thuộc lẫn nhau chịu sự
10
chỉ đạo điều khiển từ trung tâm, đảm bảo cho các bộ phận chóp bu của
tập đoàn khống chế đợc bộ phận ngoại vi để thu lợi nhuận cao hơn.
Mặt khác, nó còn bảo vệ cho các bộ phận đó không bị bóp chết trong
cạnh tranh, đợc nâng đỡ định hớng trong kinh doanh. Tuy vậy, các bộ
phận của tập đoàn cũng có tính độc lập tơng đối của nó với bộ phận
chóp bu, chúng cũng bị đào thải khi kinh doanh không hiệu quả, hoặc
trở thành bộ phận chủ đạo khi chúng kinh doanh có hiệu quả và phát
triển mạnh lên.
Việc kiểm soát trong tập đoàn của nhà t bản sở hữu lớn vừa có tính
trực tiếp, lại vừa có tính gián tiếp. Việc kiểm soát trực tiếp đợc thực
hiện bằng cách sử dụng cổ phần khống chế để can thiệp vào xí nghiệp
và các công ty thành viên. Việc kiểm soát gián tiếp thông qua cơ chế
thị trờng bằng cách chủ động tạo ra sự ổn định cho hoạt động của công
ty, hoặc bơm vào nó những đợt sóng xung đột lớn trên thị trờng chứng
khoán, để buộc các t bản chức năng phảI tuân theo ý chí của chủ sở
hữu t bản lớn.
Nh vậy, quyền lực thống trị của t bản tài chính đã có sự biến đổi cho
phù hợp với quá trình xã hội sản xuất ngày càng mở rộng. Dù cho cổ
phiếu có phân tán, t bản có đợc xã hội hoá, quyền lực khống chế trực
tiếp đối với t bản có chuyển vào tay các pháp nhân kinh tế, thì lợi ích
của t bản sở hữu không vì thế mà không đảm bảo. T bản tài chính ngày
càng mở rộng và bành trớng thế lực của mình ra toàn bộ nền kinh tế
thé giới.
Quyền lực của t bản tài chính còn đợc tăng cờng hơn nữa bởi có sự
dung hợp của nhà nớc với t bản tài chính, giữa sức mạnh của t bản tài

chính với sức mạnh của nhà nớc t sản, tạo nên hình thức mới là t bản
tài chính nhà nớc. Ngày nay t bản tài chính nhà nớc đã bao trùm hầu
nh toàn bộ nền kinh tế xã hội. Chúng khống chế cả theo chiều dọc và
chiều ngang, xuyên qua tất cả các xí nghiệp, các ngành, các khu kinh
tế và các quốc gia tạo thành một mạng lới liên hệ kinh tế chằng chịt
neo chặt những mảng kinh tế chủ yếu vào một khối thống nhất chịu sự
chi đạo của t bản tàI chính nhà nớc. Từ đó mà t bản tài chính ngày
càng bành trớng, nó tạo điều kiên thuận lợi để phát triển kinh tế - xã
hội, tạo ra thích ứng tơng đối giữa quan hệ sản xuất TBCN với sự phát
triển cao của sức sản xuất xã hội, đồng thời cũng làm tăng nguy cơ xảy
ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
3.3 Sự biến đổi trong quan hệ phân phối
Để thoát khỏi khủng hoảng, các nhà kinh tế học của CNTB, đại
biểu là J. M. Keynes đã chủ trơng kích cầu bằng cách nâng cao tiêu
dùng và tăng đầu t, việc nâng cao tiền lơng và cải thiện đời sống của
công nhân không những không tổn hại đến lợi nhuận của nhà t bản mà
nó còn có lợi cho quá trình tái sản xuất mở rộng TBCN, làm dịu mâu
thuẫn giữa t bản và lao động, thúc đẩy sản xuất có lợi cho nhà nớc t
bản, giữ môI trơng xã hội ổn định, củng cố chính trị.
Cách mạng khoa học công nghệ chẳng những tạo tiền đề để nâng
cao sức sản xuất mà còn tạo ra cơ sở vật chất để nâng cao mức sống
ngời lao động. Thực tế tại các nớc t bản phát triển chủ chốt cho thấy
tốc độ tăng lơng thực tế của ngời lao động nhanh hơn tốc độ tăng giá.
Trong vòng 30 năm, từ 1960 đến 1990 giá tiêu dùng của Mỹ tăng 4, 5
11
lần, tiền lơng giờ công nhân ngành chế tạo tăng 9, 5 lần; tơng tự nh vậy
ở các nớc Canada: 5 lần và 7, 3 lần, Nhật Bản: 3, 5 lần và 51, 4 lần,
Pháp: 7 lần và 19 lần. Cộn hoà liên bang Đức: 2, 7 lần và 28 lần, Italia:
13, 4 lần và 28, 9 lần, Anh: 10 lần và 16 lần.
Cùng với việc tăng lơng thực tế, đời sống của công nhân đợc nâng

cao, kết cấu tiêu dùng của công nhân cũng có sự thay đổi lớn, tỷ lệ chi
cho ăn, mặc giảm xuống, chi cho cải thiện đời sống tăng lên. Hiện nay
không còn hiện tợng thiếu ăn thiếu mặc (trừ những trờng hợp cá biệt
do nghiện ngập, bệnh tâm thần. ). Việc sử dùng hàng tiêu dùng lâu
bền nh điện thoại, vô tuyến, máy giặt, ô tô, nhà ở. . . đều tăng lên và đ-
ợc cảI thiện rất nhiều.
Tuy nhiên, tơng quan giữa việc nâng cao chất lợng cuộc sống của
ngời công nhân với việc nâng cao khối lợng lợi nhuận của nhà t bản là
tơng quan cùng chiều nhng không cùng mức độ. Thu nhập của nhà t
bản tăng nhanh hơn thu nhập thực tế của ngời lao động. Đức, trong
thời gian 1980 -1989 thu nhập tiền lơng của ngời lao động làm thuê
tăng bình quân hàng năm là 3, 7%, thu nhập kinh doanh xí nghiệp và
tài sản bình quân hàng năm tăng 7, 4%. Theo báo cáo tổng thống Mỹ
1992 cho thấy, thu nhập bình quân của 20% hộ ở bậc cao nhất so với
20% hộ ở bậc thấp nhất chênh lệch 44, 8 lần (trớc khi nhà nớc tái phân
phối) 34, 4 lần (sau khi điều tiết qua thuế) 6, 6 lần (sau khi điều tiết
qua thuế và các khoản trích nộp khác). ở Anh, khoảng chênh lệch giữa
các hộ giàu và hộ nghèo là 3, 8 lần. Mức độ chiếm dụng tài sản của các
hộ giàu ở Mỹ ngày càng tăng, năm 1963: 10% số hộ giàu chiếm 65%
toàn bộ của cải của tất cả các gia đình Mỹ năm đó, năm 1983 tỷ trọng
cảu cải của 10% hộ giàu chiếm 68, 8%. Và hiện nay 20% số ngời
nghèo nhất chiếm tổng thu nhập 3, 8% trong khi đó 30% số ngời giàu
nhất lại chiếm tới 48%.
Nh vậy, mặc dù đời sống của công nhân có đợc nâng lên, nhng
chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa công nhân và t bản càng tăng.
Việc tăng lơng thực tế, tăng mức sống của công nhân chỉ là nhằm tăng
lên mức cầu hiệu quả có lợi cho quá trình tái sản xuất của CNTB mà
thôi. Do vậy, trong lòng CNTB vẫn chứa đựng những xung đột lợi ích
gay gắt, vẫn chứa đựng khả năng khủng hoảng, đòi hỏi nhà nớc phải
trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối lợi ích, mới có thể cứu vãn

đợc CNTB.
Điều chỉnh quan hệ lợi ích của nhà nớc đợc diễn ra bắt đầu từ
những tác động vào thị trờng sức lao động, thông qua quan hệ mua bán
giữa ngời bán (ngời lao động) và ngời mua (nhà t bản). Đây là một thị
trờng luôn biến động bởi mối tơng quan giữa nhà t bản và ngời lao
động, giữa giới chủ và ngời thợ, là mối quan hệ vừa thống nhất vừa
mâu thuẫn không thể thay thế cho nhau đợc. Sự can thiệp của nhà nớc
vào các quan hệ trao đổi, mua bán này bằng cách quy định các mức tối
thiểu, độ dài ngày lao động, số ngày nghỉ việc trong năm, quy tắc sa
thải, quy chế làm việc trong doanh nghiệp, phơng tiện bảo hộ, bằng
các luật và các quy định pháp luật khác nhau.
Những biến đổi trong quan hệ lợi ích trong CNTB hiện đại đã và
đang đem lại những cải thiện mới đối với đời sống ngời lao động và
những tiến bộ xã hội nói chung. Sở dĩ có sự tăng thêm đó thì nói chung
vì sự trao đổi sản phẩm diễn ra ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi này
12
làm cho dân c ở thành thị và nông thôn, dân c ở các khu vực địa lý
khác nhau. . cũng tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Sở dĩ có sự tăng thêm
đó lại còn là vì mật độ và sự tập trung đông đúc giai cấp công nhân,
làm cho trình độ giác ngộ và ý thức về nhân phẩm của giai cấp đó đợc
nâng cao khiến họ có thể đấu tranh thắng lợi chống những xu hớng
tham tàn của chế độ TBCN.
Trong CNTB hiện đại, quan hệ sản xuất đã có sự điều chỉnh. Đây
là sự điều chỉnh theo hớng xã hội hoá sản xuất ngày càng tăng, là cách
thức giải quyết mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình
thức chiếm hữu t nhân TBCN. Quan hệ sở hữu đợc giải quyết theo h-
ớng xã hội hoá ngày càng nhiều, quản lý dân chủ hơn, phân phối lợi
ích đã chú ý tới ngời lao động và đợc coi là nguồn lực chủ yếu của sự
phát triển xã hội. Đặc biệt, hình thức t bản độc quyền nhà nớc là hình
thức vận động mới của quan hệ sản xuất TBCN, là kết quả của quá

trình xã hội hoá sản xuất là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ
nghĩa xã hội. Sự điều chỉnh này là một quá trình khách quan buộc các
nhà t sản phải đa ra những hình thức quan hệ sản xuất thích hợp, vừa là
để thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển, đảm bảo lợi ích của t bản độc
quyền, vừa là để làm dịu bớt những mâu thuẫn căng thẳng xã hội, duy
trì sự tồn tại và phát triển của CNTB.
4. Sự điều tiết kinh tế của nhà nớc t sản hiện đại, xu h-
ớng biến đổi cơ chế
Nguyên nhân sâu xa của việc tăng cờng vai trò điều chỉnh của nhà
nớc t bản bắt nguồn từ sự phát triển nhanh chóng của lực lợng sản xuất dới
tác động của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, khiến trình độ xã hội
hoá tăng lên một cách mạnh mẽ, làm cho độc quyền t nhân không thể
thích ứng nổi. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã đa tới sự ra đời
của nhiều ngành mới nh: điện tử, năng lợng, hàng không vũ trụ. Phát triển
những ngành này một mặt đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn, cơ sở hạ tầng
hiện đại, đội ngũ những ngời lao động lành nghề co tri thức cao đợc đào
tạo toàn diện, trong khi điều này các nhà t bản không thể tự giảI quyết dợc
và mặt khác, chính sự ra đời của những ngành sản xuất mới đòi hỏi các
quốc gia phải có chiến lợc kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ để định
hớng cho sự phát triển, đồng thời nó còn đòi hỏi những khoản đầu t lớn
cho việc nghiên cứu khai triển, đào tạo và đào tạo lại, xây dựng kết cấu hạ
tầng mới. Những việc này chỉ có nhà nớc mới giải quyết nổi. Quá trình
quốc tế hoá sản xuất và lu thông đợc đẩy mạnh, sự phân công hợp tác
quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm nảy sinh những mâu thuẫn mới mang
tính quốc tế, chỉ có nhà nớc mới đứng ra điều chỉnh, giải quyết và phối
hợp đợc các hoạt động mang tính quốc tế.
Ngoài ra, để đối phó với những biến động kinh tế, chính trị, xã hội,
diễn ra trong và ngoài nớc nh: khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh chạy
đua kinh tế và quốc phòng anh ninh trong việc đối đầu với phong trào giải
phóng dân tộc và đối phóvới những cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất

nghiệp và những khuyết tật của cơ chế thị trờng, không ngoài ai khác là
nhà nớc phải trực tiếp can thiệp vào các khâu của quá trình tái sản xuất xã
hội để đảm bảo cho sự vận động bình thờng của nền kinh tế.
Sự chuyển biến nền kinh tế của các nớc t bản từ nền kinh tế công
nghiệp sang nền kinh tế thông tin đã làm thay căn bản môi trờng hoạt
13
động của nhà nớc. Chính sách thuế khoá và những quy định về đầu t cũng
nh các chính sách kinh tế nói chung cần phải đáp ng đợc nhiều hơn bao
giờ hết các thông số của nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá. Sự phát triển
nh vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã mở ra những cơ hội
mới cho phép mở rộng vai trò của thị trờng. Những thay đổi này làm cho
chính phủ có một vai trò mới va khác biệt. Nó không còn là ngời đảm bảo
độc nhất nữa mà trở thành ngời tạo điều kiện và ngời điều tiết hoạt động
xã hội.
Cuộc cải cách hành chính đợc thực hiện trên cơ sở xác định lại vai
trò của nhà nớc. Mục tiêu của cuộc cải cách hành chính là thực hiện
chính phủ gọn nhẹ, cơ cấu lại bộ máy chính quyền trung ơng, thực hiện
phi tập trung hoá, phân cấp mạnh mẽ hơn cho chính quyền địa phơng.
Chính phủ trớc đây vừa là ngời cầm lái vừa là ngời bơi chèo con thuyền
quốc gia. Ngày nay, cầm lái và bơi chèo đợc tách riêng ra. Chính phủ cầm
lái chứ không phải là bơi chèo. Việc cầm lái đòi hỏi phải có những ngời
nhìn nhận đợc toàn bộ tổng thể các vấn đề và các khả năng có thể cân đối
đợc các yêu cầu trái ngợc nhau về nguồn lực. Việc bơi chèo đòi hỏi phải
có những ngời chú ý tập chung vào một nhiệm vụ và thực hiện tốt nhiệm
vụ đó. Các tổ chức cầm lái cần phải tìm ra những phơng pháp tốt nhất để
đạt đợc những mục tiêu của mình.
Xã hội hoá và t nhân hoá là con đờng làm giảm nhẹ gánh nặng của
nhà nớc trong việc cung ứng các dịch vụ xã hội, làm cho chính phủ gọn
nhẹ, chỉ tập chung vào việc cầm lái. Nhà nớc không teo đi mà trái lại,
mạnh mẽ, chắc chắn và năng động hơn. Nhà nớc thực hiện và thi hành

đợc thay bằng một nhà nớc cai trị mạnh vì nó chỉ làm cái việc quyết
định và lãnh đạo và việc thực hiện giao nhiệm vụ cho ngời khác.
Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế nhà nớc t bản độc quyền là nhằm khắc
phục những khuyết tật của kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa, định hớng cho
sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm tăng trởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của chủ nghĩa t bản, giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình phát triển, thúc đẩy cạnh tranh và kích thích cạnh tranh.
4. 1. Trớc hết, bắt đầu từ những năm 1980, các nớc phơng Tây lần lợt
bắt tay thực hiện t nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh.
Bởi vì hiệu quả phần lớn của xí nghiệp quốc doanh không cao, tài
chính quốc gia phải chịu gánh nặng; năng suất lao động của các xí nghiệp
quốc doanh thấp khó mà đơng đầu đợc cạnh tranh quốc tế gay gắt; trớc
trào lu thông tin hoá từ công nghệ đến quản lý, các xí nghiệp quốc doanh
đều tỏ ra rất lạc hậu. Họ cho rằng, con đờng duy nhất để cứu vãn cục diện
đó là thực hiện t nhân hoá.
4. 2. Thứ hai, nhà nớc chuyển từ kiểm soát sang điều tiết thận trọng
trong lĩnh vực tài chính theo hớng tự do hoá.
Khu vực tài chính đã thay đổi nhanh chóng. Sự phát triển theo chiều
sâu của khu vực tài chính của một nớc là nhân tố hùng mạnh quy định và
thúc đẩy sự phát triển. Tuy nhiên, tự do hoá trong khu vực tài chính không
giống với phi điều tiết. Có những lý do xác đáng để điều tiết ngân hàng.
Nhng mục tiêu điều tiết đã đợc thay đổi, trớc kia điều tiết ngân hàng là do
tín dụng chạy theo các kênh đợc yêu thích, còn nay là để bảo vệ sức mạnh
của hệ thống tài chính ngân hàng.
14
4. 3. Thứ ba, điều tiết mở rộng cạnh tranh các ngành dịch vụ công
cộng
Điều tiết của nhà nớc có vai trò nổi bật đối với vai trò của các ngành
dịch vụ công cộng. Điều đó là sự thay đổi có tích chất cách mạng về công
nghệ và tổ chức chứ không chỉ do những chuyển biến có ý thức về chính

sách. Lập luận về sự điều tiết các ngành dịch vụ công cộng thờng thấy rõ
ràng. Các ngành dịch vụ có những độc quyền tự nhiên. Do đó, nếu chúng
không điều tiết thì các t nhân làm dịch vụ sẽ trở thành độc quyền, hạn chế
sản lợng và làm tăng giá cả, gây tác hại cho tính hiệu quả trong toàn bộ
nền kinh tế và việc phân phối thu nhập.
Những tài sản của một ngành dịch vụ là nhân tố quyết định đối với
hoạt động kinh doanh của ngành đó và không thể đợc tái triển khai sử
dụng cho những mục đích khác. Điều này khiến các ngành dịch vụ đặc
biệt dễ tổn thơng trớc các hoạt động điều tiết của nhả nớc.
4. 4. Thứ t, cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế
Chế độ xã hội cơ bản của các nớc phơng Tây là chế độ t bản chủ
nghĩa và nền kinh tế của nó là nền kinh tế thi trờng t bản chủ nghĩa phát
triển. Nhng tình hình các nớc không giống nhau, cơ chế kinh tế của họ
cũng có sự khác nhau, mô hình kinh tế của mỗi nớc có nét độc đáo riêng
của mình.
Giai đoạn CNTB độc quyền nhà nớc sau chiến tranh thế giới thứ hai,
chủ yếu do quan hệ nhà nớc và thị trờng, cũng nh do phơng châm, chính
sách, phơng thức và trọng điểm nhà nớc can thiệp vào kinh tế ở mỗi nớc
một khác, mà hình thành nên các mô hình kinh tế có đặc sắc riêng.
Nói chung ngời ta cho răng mô hình kinh tế thị trờng TBCN ở các n-
ớc phát triển hiện nay có thể chia ra làm mấy loại sau dây: mô hình Mỹ
hoặc gọi là mô hình thị trờng tự do; mô hình Nhật Bản hoặc gọi là mô
hình t bản pháp nhân, cũng có ngời gọi là mô hình t bản xã hội; mô hình
Đức hoặc gọi là mô hình kinh tế thị trờng xã hội; mô hình Bắc Âu hoặc
còn gọi là mô hình nhà nớc phúc lợi. Trong nửa thế kỷ sau chiến tranh thế
giới lần hai, các mô hình kinh tế thị trờng TBCN khác nhau này đều có vai
trò nhất định trong sự phát triển kinh tế xã hội của các nớc, đã thúc đẩy
kinh tế phát triển, làm dịu mâu thuẫn kinh tế và xã hội, giữ vững sự ổn
định tơng đối của xã hội. Nhng những mô hình này cũng tồn tại một số
khuyết điểm và hạn chế.

Nếu cải cách cơ chế quản lý xí nghiệp ở các nớc t bản là những biến
đổi nào đó đợc tiến hành nhằm làm cho quan hệ sản xuất thích ứng với lực
lợng sản xuất ở tầng vĩ mô, thì cải cách cơ chế kinh tế lại là cuộc cải cách
đợc tiến hành nhằm làm cho quan hệ sản xuất thích ứng sự phát triển mới
của lực lợng sản xuất trên tầng vĩ mô và giữa chúng có liên hệ qua lạivà
thúc đẩy lẫn nhau.
Cuộc cải cách cơ chế kinh tế của các nớc TBCN biểu hiện trên tất cả
các mặt. Trớc hết, t tởng chỉ đạo và phơng châm chính sách của sự can
thiệp và điều chỉnh của nhà nớc đối với kinh tế vĩ mô đã có sự thay đổi.
4. 5. Thứ năm, tiến hành cải cách thể chế kinh tế
Trọng điểm cũng nh bớc đi và biện pháp mà các nớc áp dụng không
giống nhau, nhng nói chung, ngoài việc cải cách xí nghiệp quốc doanh nh
15
đã nói trên còn cải cách hệ thống tài chính và thuế nhằm giảm bớt thâm
hụt ngân sách; cải cách hệ thống tiền tệ nhằm ổn định hệ thống tiền tệ, cải
cách chế độ tiền lơng lao động để hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp, cải cách chế
độ phúc lợi xã hội nhằm giảm nhẹ gánh nặng tài chính của nhà nớc, điều
chỉnh quan hệ giữa Trung ơng và địa phơng, giao nhiều quyền lực của
Trung ơng cho địa phơng, để địa phơng đảm nhiệm nhiều hơn các nhiệm
vụ y tế, giáo dục đào tạo. cải cách chế độ mậu dịch đối ngoại, giảm bớt
các rào chắn, thúc đẩy tụ do hoá.
Tất nhiên, để điều chỉnh, nhà nớc t bản độc quyền cũng đã cải cách
bộ máy và các công cụ điều tiết của mình.
Dới bộ máy còn có các tiểu ban đợc tổ chức theo những hình thức
khác nhau, thực hiện t vấn, khuyến nghị để lái đờng lối theo mục
tiêu riêng của các tổ chức độc quyền.
Cùng với bộ máy điều chỉnh, nhà nớc còn sử dụng các phơng tiện công cụ
điều tiết nh: khu vực kinh tế thuộc sở hữu của nhà nớc, các công cụ hành
chính pháp luật, các chính sách và các đòn bẩy kinh tế nhằm đạt đợc các
mục tiêu đã định.

Cơ chế điều chỉnh kinh tế của CNTB hiện đại chủ yếu đợc thể hiện
thông qua bốn yếu tố là: cơ chế thị trờng cạnh tranh tự do, cơ chế độc
quyền t nhân, cơ chế độc quyền nhà nớc, cơ chế hoạt động của các cộng
đồng tổ chức phi chính phủ. Trong đó cơ chế thị trờng cạnh tranh tự do là
sự điều tiết hoàn toàn.
4. 6. Thứ sáu, nhà nớc thực hiện điều tiết lĩnh vực xã hội thông qua
việc bù đắp tổn thất về thu nhập và mở rộng phúc lợi xã hội
Thông qua các chính sách về thuế thu nhập, cho vay tín dụng, cấp
phát, trợ giá nông sản khuyến khích đầu t để tăng việc làm, từ đó nâng cao
thu nhập của nời lao động, năng cao mức sống, giữ ổn định chính trị xã
hội.
Ngày nay, ở hầu hết các nớc t bản phát triển, hoạt động điều chỉnh
của nhà nớc đợc thực hiện thông qua các chơng trình xã hội nh: hệ thống
bảo hiểm thất nghiệp, hu trí, tuổi già ốm đau, tàn tật. . . Hệ thống này đợc
nhà nớc tổ chức và xây dựng trên cơ sở đóng góp của cả hai phía cung và
cầu sức lao động.
Rõ ràng là nhà nớc t bản hiệ đại can thiệp, điều tiết toàn bộ đời sống
kinh tế xã hội nhằm thích ứng với nhu cầu xã hội hoá cao độ của sức sản
xuất, thúc đẩy sức sản xuất phát triển, bảo đảm ổn định tình hình kinh tế
xã hội, duy trì chủ nghĩa t bản, đảm bảo cho các tập đoàn t bản độc quyền
thu đợc lợi nhuận cao. Chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà n-
ớc kết hợp chặt chẽ hơn, nhà nớc ngày càng thông qua chức năng xã hội
để duy trì chức năng gai cấp.
Nh vậy, điều chỉnh kinh tế xã hội của nhà nớc t bản, hoạt động của
t bản tài chính nhà nớc và sự biến đổi mô hình tổ chức quản lý nhà nớc và
sự biển đổi mô hình tổ chức quản lý trong các công ty, tập đoàn là những
xu hớng mới trong tổ chức quản lý trên cơ sở thích ứng với sự biến đổi về
mặt quan hệ sở hữu đã tạo ra những biến đổi to lớn của quan hệ sản xuất
TBCN.
5. Sự biến đổi trong hệ thống kinh tế thế giới t bản chủ

nghĩa ngày nay
16
Hệ thống kinh tế t bản chủ nghĩa thế giới là toàn bộ các quan hệ
kinh tế quốc tế của chủ nghĩa t bản độc quyền, là tổng thể các mối liên hệ
kinh tế giữa các nền kinh tế quốc dân của từng nớc t bản chủ nghĩa và nớc
phụ thuộc.
Trong hệ thông đó các nền kinh tế quốc gia có mối liên hệ với nhau
bởi sự phân công lao động quốc tế, thơng mại, tài chính, tiền tệ.
Hệ thống kinh tế t bản chủ nghĩa thế giới đợc hình thành cùng với
quá trình chủ nghĩa t bản chuyển sang giai đoạn độc quyền. Tuy nhiên
tiền đề đầu tiên của nó là do những phát kiến vĩ đại về địa lí và sự xâm
chiếm thuộc địa diễn ra, các nơc t bản chủ nghĩa chủ yếu ở phơng Tây bắt
đầu đa vào thuộc địa những hàng hoa công nghiệp và lấy ra từ đó những
nguyên vật liệu cần thiết. Các Mác đã cho rằng : Chính thị trờng thế giới
là cơ sở của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa . Mặt khác tính tất yếu
nội tại của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa là phải sản xuất trên một
qui mô không ngừng lớn hơn, thúc đẩy thị trờng thế giới phải không
ngừng bành trớng. Điều đó cũng có nghĩa là việc sản xuất bằng máy móc
lần đầu tiên đã tạo ra lịch sử toàn thế giới, sau khi đã xoá bỏ sự cách biệt
giữa các nớc đó và đặt sự thoả mãn nhu cầu của mỗi nớc công nghiệp văn
minh phụ thuộc vào thế giới. Trong thời đại chủ nghĩa t bản độc quyền,
các mối quan hệ đó đợc đẩy mạnh và Lênin đã rút ra nhận xét : chủ
nghĩa t bản đã phát triển thành một hệ thống có tính chất toàn thế giới
của một nhóm nhỏ các nớc tiên tiến đi áp bức thuộc địa và dùng tài chính
để bóp nghẹt đại đa số nhân dân thế giới .
Ngày nay, hệ thống kinh tế thế giới t bản chủ nghĩa đã có nhiều biến
đổi so với giai đoạn độc quyền. Những biến đổi đó là :
5.1. Sự phát triển không đều của các bộ phận cấu thành hệ thống
-Dới tác động của qui luật phát triển không đều nền kinh tế các nớc t
bản chủ nghĩa trong hệ thống kinh tế thế giới t bản chủ nghĩa đã phát triển

với nhịp độ và phơng hớng khác nhau, dẫn đến trình độ phát triển không
đồng đều.
+ Nền kinh tế Mĩ từ chỗ do điều kiện thuận lợi sau chiến tranh và lợi
nhuận thu đợc trong việc kinh doanh trên những khó khăn của các nớc
đồng minh nên đã trở thành nớc đứng đầu thế giới với sức mạnh kinh tế
tuyệt đối, hơn hẳn các nớc t bản phát triển khác.
Nhng càng về sau Mĩ càng gặp nhiều khó khăn. Những khó khăn đõ đ-
ợc biểu hiện ở một số khía cạnh nh tốc độ tăng trởng không ổn định.
Ví dụ : Năm 1994 : 3, 5%, năm 1995 : 2, 3%, năm 1996 : 3, 4%
Năm 1997 : 3, 9%, năm 1998 : 3, 9%, năm 1999: 3, 3%, năm 2000 : 2, 2
%
Lạm phát gia tăng và kèm theo giảm phát : năm 1997 : 1, 4%, năm
1998 : 1%,
năm 1999: 1%, năm 2000 ; 2%
Kinh tế khủng hoảng và trì trệ, đặc biệt là cuộc khủng hoảng 1974-
1975 ( có thể so sánh với 1929-1933). Năm 1990-1991 Mĩ cũng lâm vào
khủng hoảng song đã đợc hồi phục.
+ Nền kinh tế Nhật Bản từ sau chiến tranh đến năm 1973 bớc vào
giai đoạn phát triển thần kì các ngành kinh tế đợc hiện đại hoá, tốc độ tăng
trởng bình quân hàng năm 13%, sức cạnh tranh tăng lên.
17
+ Nền kinh tế Tây Âu nhìn chung có bớc phát triển mới, đặc biệt là
việc cải tổ cơ cấu kinh tế trong từng quốc gia thành viên và đặc biệt hơn là
những bớc tiến trong việc nhát thể hoá để hình thành EU đã mang lại một
sức mạnh mới cho các nớc này.
So với Tây Âu nền kinh tế Mĩ cũng mất dần u thế tuyệt đối. Tuy
nhiên cần đánh giá rằng mặc dù nền kinh tế Mĩ có sự suy giảm tơng đối so
với hai trung tâm Nhật Bản và EU, song trong những năm gần đây nền
kinh tế mĩ đã có sự phục hồi và khởi sắc. Đồng thời về tổng thể Mĩ vẫn
còn tiềm lực to lớn và là nền kinh tế đứng đầu thế giới. Theo dự đoán Mĩ,

vẫn giữ u thế về kĩ thuật và thị trờng, đồng đô la Mĩ có suy giảm vai trò,
song hiện nay vẫn là đồng tiền quốc tế và có vai trò chủ đạo.
+ Các nớc đang phát triển có sự phân hoá mạnh, một số nớc tăng tr-
ởng nhanh đã và sẽ bớc vào nhóm các nớc công nghiệp phát triển, song về
tổng thể các nớc đang phát triển vẫn trong tình trạng lạc hậu và tiếp tục tụt
hậu so với các nóc t bản phát triển. Nhìn tổng thể, các nớc đang phát
triển còn thua kém nhiều so với cac nớc t bản chủ nghĩa, mà sự lạc hậu
thua kém đó đo bằng khoảng cách thời gian 928 năm.
Sự lạc hậu về kinh tế các nớc đang phát triển còn biểu hiện ở kết
cấu kinh tế xã hội của hầu hết các quốc gia này. Tỉ trọng nông nghiệp
vẫn ở mức 60-80 % GDP, trong đó trồng trọt chiếm 80-90%. Công nghiệp
chủ yếu là khai khoáng và sơ chế. Công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm
tỉ trọng nhỏ ( 20-30%). Thành phần kinh tế t bản t nhân nhỏ bé, kinh tế t
bản nhà nớc mới hình thành. . .
Cùng vời sự lạc hậu về kinh tế là sự trì trệ, bảo thủ của hệ thống
chính trị nên đã gây cản trở cho quá trình vận động theo xu hớng tiến bộ
xã hội. Hiện nay các nớc đang phát triển đang đứng trứơc những thách
thứo lớn : suy dinh dỡng trẻ em, không có khả năng thanh toán nhập khẩu
lơng thực, lạm phát ở mức ở mức hai con số, vấn đề về giáo dục, môi tr-
ờng. v. v.
Tình hình trên phản ánh sự phát triển không đồng đều giữa các bộ
phận cáu thành của hệ thống kinh tế thế giới t bản chủ nghĩa ngày nay
5.2. Các công ty xuyên quốc gia ngày càng đóng vai trò to lớn trong
nền kinh tế thế giới.
Các công ty xuyên quốc gia là sản phẩm của quá trình quốc tế hoá va
là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất trong điều kiện lực lợng
sản xuầt đã đợc quốc tế hoá sâu rộng. Chúng cũng chính là hình thức tổ
chức doanh nghiệp quốc tế trongnền kinh tế thị trờng va đang có vai trò to
lớn trong nền kinh tế thế giới.
Theo số liệu của liên hợp quốc, trên thế giới đã có hơn 60000 công ty

xuyên quốc gia thực thụ (cha kể các công ty mang hình thức hoạt động
xuyên quốc gia) với khoảng 50000 chi nhánh nớc ngoài có tổng doanh số
trên 10000 tỷ USD. Trong đó có 500 công ty đầu đàn trong ngân hàng và
500 công ty đầu đàn trong lĩnh vực dich vụ, mà Tạp chí Fortune thờng
phân loại hàng năm.
Các công ty xuyên quốc gia đang chiếm lĩnh vị trí then chốt trong
nền kinh tế thế giới. Chúng kiểm soát 80% hoạt động nghiên cứu và triển
khai(R&D), 60% buôn bán quốc tế, 40% sản lợng công nghiệp, 90% trong
lĩnh vực đầu t trực tiếp nớc ngoài. Với tiềm lực kinh tế to lớn, với hệ thống
chi nhánh trải rộng khắp thế giới, các công ty này đã gắn kết các bộ phận
18
cấu thành của nền kinh tế thế giới, thực hiện quốc tế hoá sản xuất và lu
thông một cách sâu rộng, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá
kinh tế, vừa cộng tác vừa cạnh tranh dới những hình thức mới phong phú,
đa dạng. Hợp tác và cạnh tranh là hai mặt của nền kinh tế hiện đại.
Cùng với sự thúc đẩy phát triển nền kinh tế thế giới, sự phát triển của
các công ty xuyên quốc gia lại làm gay gắt thêm các mâu thuẫn của chủ
nghĩa t bản trên phạn vi thế giới, mâu thuẫn gữa các nớc t bản phát triển,
giữa các nuớc phát triển và đang phát triển ngày càng mở rộng và sâu sắc
thêm.
5.3. Tốc độ tăng trởng của các nớc t bản nói chung co xu hớng giảm
sút, tàì chính -tiền tệ quốc tế không ổn định.
Trớc hết nền kinh tế Mỹ có tốc độ tăng trởng không ổn định.
Ví dụ:1980:4, 4%, 1990:1%, 1995:2, 3%, 1999:3, 3%, dự báo 2000:2, 2%
(Statistical Appendix, 1999, tr. 140).
Nền kinh tế Nhật Bản: Từ sau năm 1953 đến năm 1973 bớc vào gia
đoạn phát triển thần kỳ , các nghành kinh tế đợc hiện đại hoá, tốc độ
tăng trởng 13% bình quân hàng năm, sức cạnh tranh tăng lên. Từ đó đến
nay có những bớc chao đảo, đặc biệt là do tác động của cuộc khủng hoảng
tài

chính 1991 và 1997. Chẳng hạn tốc độ tăng trởng GDP trung bình 1981-
1990: 4%, 1995:1. 5%, năm 2000:0, 3%.
Nền kinh tế Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai có sự phục hồi
dần và bớc vào thập kỷ 70, 80, nhìn chung có những bớc phát triển mới,
nhng rồi tốc độ tăng trởng cũng giảm dần. Năm 1995, các nớc G7đều có
tốc độ tăng trởng hàng năm thấp: Cộng hoà liên bang Đức: 2, 6%, Pháp:2,
7%, Italia: 2, 8%. Tăng trởng kinh tế của 25 nớc OECD cũng chỉ ở mức 2,
5%.
Hệ thống ngân hàng bị trục trặc đặc biệt là cú sốc ngân hàng tháng
10- 1987 nhiều ngân hàng bị đóng cửa. Trong năm 1997, cuôc khủng
hoảng tài chính- tiền tệ khởi phát từ Thái Lan đã lan ra nhiều khu vực trên
thế giới. Nhiều trung tâm tài chính trên thế giới với hệ thống ngân hàng
cực mạnh đã tỏ ra không đứng vững trớc cuộc khủng hoảng.
Thâm hụt ngân sách vẫn lớn ở hầu hết các nớc. Ví dụ: Mỹ năm
1994 thâm hụt ngân sách 203, 3 tỷ USD, năm 1995 là 164 tỷ USD.
Lạm phát vẫn là nguy cơ đe doạ, nợ nần và trở thành gánh nặng đối
với nhiều nớc.
Hiện nay nền kinh tế nhiều nớc sau cuộc khủng hoảng tài chính-
tiền tệ năm 1997 đã phục hồi dần, nhng triển vọng tăng trởng kinh tế
không cao.
5.4. Xu hớng tăng cờng quân sự hoá trong thời kỳ hậu chiến tranh
lạnh
Ngoài nguyên nhân chính trị và an ninh thì tỷ xuất lợi nhuận cao
do độc quyền về các phơng tiện chiến tranh đã trở thành động lực dể các
ông chủ t bản kết hợp chặt chẽ với các quan chức cấp cao trong bộ quốc
phòng và bộ tham mu chiến tranh của các nớc đế quốc, hớng các chính
phủ đó theo đờng lối tăng cờng chạy đua vũ trang. Chi phí quốc phòng của
Mỹ trớc năm 1985 dới 150 tỷ USD, năm 1985 là 240 tỷ USD và năm 1989
là 320 tỷ USD, chiếm hơn 6% GNP, hiện nay tỷ lệ tăng còn cao hơn nhiều.
19

Quân sự hoá kinh tế đã đa lợi nhuận kếch sù cho các công ty độc
quyền và bọn lái súng nói chung. Song chính sách này dã dể lại hậu quả
hết sức bi thảm về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trờng sinh thái.
Đến nay thời kỳ chiến tranh lạnh đã kết thúc. Mỹ và Nga đã cùng
đi đến thoả thuận giảm chi phí quốc phòng, giảm số lợng quân đội, giải
toả bớt các căn cứ quân sự, giảm số vũ khí hạt nhân, đồng thời có kế
hoạch dân sự hoá các tổ hợp cộng nghiệp quân sự, hớng chúng sang các
mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng. Nhng việc này vẫn còn nhiều khó khăn,
vì trình độ cao trong công nghệ chiến tranh và sức mạnh quân sự là lợi
thế so sánh duy nhất mà Mỹ còn giữ đợc so với các khối Châu Âu và
Châu á, hơn nữa các tổ hợp công nghiệp- quân sự không dễ dàng từ bỏ
những lợi nhuận béo bở do việc sản xuất vũ khí đem lại. Mặt khác, việc
chuyển từ sản xuất hàng quân sự sang sản xuất hàng dân sự gặp khó khăn
về thay đổi thiết bị và thị trờng tiêu thụ. Năm 1994 chi phí quốc phòng
của Mỹ vẫn là 241 tỷ USD.
Sự bành trớng thế lực của các tổ hợp công nghiệp- quân sự Mỹ
buộc các cờng quốc t bản chủ nghĩa khác và cả các nớc đang phát triển
cũng phải tăng cờng chi phí quốc phòng. Theo tính toán, khoảng 20% số
nợ của các nớc đang phát triển là do khoản chi vào việc mua vũ khí. Từ
năm 1960, ngân sách quân sự của những nớc đang phát triển đã tăng gấp 5
lần, vợt từ 10% đến 20% của toàn cầu. Chính phủ của các nớc đó cho
rằng, việc mua vũ khí là để đảm bảo an ninh cho đất nớc, nhng thực ra là
làm giàu cho các nớc phát triển. Trong khi thế giới cần 180 tỷ USD để
giảm các thảm hoạ môi sinh đang đe doạ trái đất thì tổng chi phí quân sự
của thế giới hàng năm là khoảng 1000 tỷ USD.
5.5 Hệ thống kinh tế t bản chủ nghĩa thế giới còn hình thành
a)Hình thành hệ thống đa trung tâm của thế giới t bản chủ nghĩa :
Do sự phát triển không đồng đều giữa các bộ phận cấu thành của nền
kinh tế thế giới t bản chủ nghĩa đã dẫn đến sự hình thành các trung tâm
kinh tế thế giới.

Trong thời kì chiến tranh lạnh, đặc biệt sau chiến tranh thế giới thứ hai,
nền kinh tế thế giới t bản chủ nghĩa có một trung tâm duy nhất. Đó là Mĩ.
Với sức mạnh kinh tế ( kể cả quân sự) Mĩ đã xác lập đợc quyền thống trị
của mình đối với thế giới. Nhng cuối thập kỉ 80 với sự suy giảm tơng đối,
Mĩ đã mất vai trò trung tâm duy nhất, và thế giới hình thành nhiều trung
tâm ( hoặc đa trung tâm ). ở khu vực châu Mĩ, có sự liên kết giữa Mĩ với
các nớc Mĩ latinh và do Mĩ chi phối. ở khu vực châu Âu, hình thành EU và
thu hút sự liên kết quanh EU với vai trò trung tâm của Đức ngày càng
tăng. ở châu á - Thái Bình Dơng, vai trò trung tâm của Nhật Bản đợc thể
hiện khá rõ nét bên cạnh vai trò của Mĩ. Tuy nhiên, vai trò và chiến lợc
toàn cầu của Mĩ vẫn không thay đổi. Mĩ vẫn có vai trò quan trọng trong
mọi hoạt động của nền kinh tế thế giới t bản chủ nghĩa nói riêng và kinh tế
thế giới nói chung. Với sự phát triển nhanh chóng của Nics, đặc biệt là
Nics châu á đã hình thành nhiều trung tâm tài chính khu vực. Tuy vai trò
của Nics cha cao nhng trong tơng lai chắc chắn còn có sự thay đổi ( kể cả
với Trung Quốc- một nớc đông dân nhất thế giới, có hệ thống Hoa Kiều
rộng lớn và hiện tại nền kinh tế đã có sự phát triển mạnh mẽ thu hút sự
quan tâm của thế giới ).
20
Sự hình thành ba trung tâm đã tạo nên quan hệ gắn bó hơn giữa các
quốc gia trong khu vực cũng nh giữa các khu vực với nhau tạo ra thời cơ
mới cho những nớc đi sau trên bớc đờng phát triển của mình. Song lại nảy
sinh mâu thuẫn và bất đông mới phức tạp hơn, trong đó những quốc gia trẻ
phát triển về sau này vẫn tiếp tục cạnh tranh để giành vị trí xứng đáng của
mình trong khu vực.
b)Mâu thuẫn gay gắt và cuộc đấu tranh không thể dung hoà một sớm
một chiều giữa các nớc phát triển và các nớc đang phát triển :
Mâu thuẫn cơ bản nói trên đợc biểu hiện là mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc.
Ngày nay, mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các n-

ớc chậm phát triển bị lệ thuộc với những nớc đế quốc thành mâu thuẫn
giữa các nớc và tầng lớp thợng lu giàu có phơng Bắc với các nớc và tầng
lớp nghèo khổ ở phơng Nam. Nếu so sánh thu nhập thời kì 1930-1993 ta
thấy khoảng cách giàu nghèo của hai nhóm nớc này tăng 280%. GDP của
550 triệu dân châu Phi chỉ bằng GDP nớc Bỉ (10 triệu dân). Nhiều tài liệu
công bố trên các phơng tiện truyền thông đã chỉ rõ các nớc thứ ba không
những bị vơ vét cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà còn mắc nợ
không thể nào trả đợc. Hàng năm, các nớc chậm phát triển vay nợ phải trả
cho các nớc chủ nợ số tiền lãi từ 130 150 tỉ USD. Điển hình là Braxin,
nợ nớc ngoài đã lên tới 274 tỉUSD, trong những năm 1972 1988 đã phải
trả lãi 176 tỉUSD, nghĩa là vợt tổng số nợ 52 tỉ USD.
Chính vì thế trong những năm 80 của thế kỉ 20, thế giới thứ ba bị trì
trệ, suy thoái. Điều này cũng đã đợc ngân hàng thế giới khẳng định: ở
châu Phi, Mĩ latinh, hàng trăm triệu ngời đã nhận thấy, đi cùng với tăng tr-
ởng là sự suy tàn về kinh tế, phát triển nhờng chỗ cho suy thoái. ở một vài
nớc Mĩ latinh, GNP theo đầu ngời hiện nay thấp hơn so với 10 năm trớc
đây. Trong nhiều nớc châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây 20 năm. Một
thế giới mà trong đó từ 20 năm nay ở châu Phi, từ 9 năm nay ở Mĩ latinh
mức sống không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vung khác
tiếp tục tăng lên tuy có chậm hơn. Đó là điều hoàn toàn không thể chấp
nhận đợc(Một thế giới không thể chấp nhận đợc Rơnê Đuymông
Học viện Nguyễn ái Quốc xuất bản).
Hiện nay số nợ của các nớc đang phát triển đã lên tới 2100 tỉ USD
vào quí I năm 2000.
c) Mâu thuẫn giã các nớc t bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa
ba trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu các nớc t bản, giữa các tập đoàn t
bản xuyên quốc gia :
Mâu thuẫn nay có phần dịu đi trong thời kì còn tồn tại sự đối đầu
giữa hai hệ thống thế giới t bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, nay có
chiều hớng diễn biến phức tạp sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Một mặt,

sự phát triển của xu thế toàn cầu hoá của cách mạng khoa học và công
nghệ khiến các nớc đó phải liên kết với nhau. Mặt khác, do tác động của
qui luật phát triển không đều và lợi ích cục bộ của giai cấp thống trị ở mỗi
nớc, các nớc đó đã trở thành đối thủ cạnh tranh với nhau, tranh giành
quyền lực và phạm vi ảnh hởng trên thế giới, nhất là giữa ba trung tâm Mĩ,
Nhật Bản và Tây Âu. Biểu hiện của mâu thuẫn giữa các nớc ấy trớc hết là
cuộc chiến tranh thơng mại, chiến tranh về đầu t kĩ thuật, tài chính cũng
nh sự cạnh tranh giữa các công ty xuyên quốc gia (TNCs) dới nhiều hình
thức.
21
TNCs là sản phẩm của quá trình tích tụ và tập trung t bản sản xuất
trong điều kiện quốc tế hoá.
TNCs hiện có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thế giới. Chúng là
hình thức tổ chức doanh nghiệp quốc tế trong nền kinh tế thị trờng.
5.6Hợp tác và cạnh tranh phát triển lên nấc thang mới và có tính
quốc tế
Hợp tác và cạnh tranh là một đặc trng cơ bản của chủ nghĩa t bản độc
quyền, hiện nay nó có những đặc điểm sau:
- Sự phát triển không đều giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế
giới, làm cho cạnh tranh và mâu thuẫn giữa chúng diễn ra gay gắt.
- Sự phát triển của lực lợng sản xuất, quá trình toàn cầu hoá là điều kiện
để nền kinh tế thế giới hợp tác với nhau.
- Cạnh tranh quốc tế biểu hiện dới nhiều hình thức. Ưu thế thờng thuộc
về TNCs, các trung tâm t bản chủ nghĩa.
- Hợp tác quốc tế diển ra dới nhiều hình thức khác nhau( hội nghị cấp
cao, liên minh kinh tế khu vực. . )
- Hợp tác và cạnh tranh luôn diễn ra đan xen nhau và là hai mặt của nền
kinh tế thế giới nói chung, thế giới t bản chủ nghĩa nói riêng.
III kết luận
Những đặc trng kinh tế của chủ nghĩa t bản ngày nay chỉ là sự phát

triển kế tiếp những đặc trng kinh tế vốn có của chủ nghĩa t bản, nó hoàn
toàn không phải là những đặc trng mới phi t sản, song trong bối cảnh
toàn cầu hoá, những đặc trng đó cũng mang tính quốc tế.
Những đặc trng kinh tế của chủ nghĩa t bản mà Lênin nêu ra cũng
chính là những đặc trng có nguồn gốc từ bản chất kinh tế của chủ nghĩa t
bản và đã xuất hiện mầm mống từ chủ nghĩa t bản tự do cạnh tranh
( độc quyền sinh ra từ tự do cạnh tranh ). Những đặc trng đó không hề
phủ định tính chất t bản chủ nghĩa của chủ nghĩa t bản tự do cạnh tranh,
cũng nh đặc điểm của chủ nghĩa t bản độc quyền. Trái lại độc quyền vẫn
22
là đặc trng cơ bản của chủ nghĩa t bản ngày nay và là cái trục xuyên suốt
quá trình vận động.
Mục đích nghiên cứu những đặc trng kinh tế của chủ nghĩa t bản
ngày nay để làm bộc lộ tiềm năng phát triển và sẽ còn tiếp tục phát triển,
song chủ nghĩa t bản ngày nay không tránh khỏi những giới hạn nằm ngay
trong bản chất của nó. Càng phát triển, chủ nghĩa t bản càng tạo ra ngay
trong lòng nó những nhân tố tự phủ định. Sớm hay muộn nó cũng sẽ bị
một xã hội khác tiến bộ hơn u việt hơn - xã hội mà toàn thể nhân loại
đang hớng tới thay thế, đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Là một chế độ xã hội tồn tại song song với chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam, nghiên cứu về những đặc trng của chủ nghĩa t bản ngày nay
là cần thiết.

Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX.
2. PGS TS Nguyễn Khắc Thân :
-Tập bài giảng về chủ nghĩa t bản hiện đại
( NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội 2002)
-Các công ty xuyên quốc gia hiện đại

( NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội 1995)
3. Lê Văn Sang:
Chủ nghĩa t bản hiện đại tập I, II, III
(NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội 1995)
4. PGS-TS Đỗ Lộc Diệp :
Chủ nghĩa t bản ngày nay mâu thuẫn nội tại, xu thế, triển vọng
(NXB KH-XH 2003)
5. Rơnê Đuymông:
Một thế giới không thể chấp nhận đợc
(Học viện Nguyễn ái quốc xuất bản)
23
Mục lục
Trang
I - Lời mở đầu 1
II - Đặc trng cơ bản của chủ nghĩa t bản ngày nay 2 1.
Khái niệm về chủ nghĩa t bản ngày nay 2
2. Sự biến đổi về lực lợng sản xuất 2
2.1 Sự biến đổi của các yếu tố vật chất của lực lợng sản xuất 2
2.2 Sự biến đổi cơ cấu lao động 4
3. Sự biến đổi, điều chỉnh các quan hệ sản xuất 5
3. 1 Sự biến đổi về các hình thức sở hữu 5
3. 2 Sự điều chỉnh về quan hệ tổ chức quản lí
9
3. 3 Sự biến đổi trong quan hệ phân phối 14
4. Sự điều tiết kinh tế của nhà nớc t sản hiện đại, xu hớng biến
đổi cơ chế 16
4. 1 T nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh 17
4.2 Tự do hoá lĩnh vực tài chính 18
4.3 Điều tiết mở rộng cạnh tranh các ngành dịch vụ công cộng 18
4.4 Cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế 18

4.5 Tiến hành cải cách thể chế kinh tế 19
4.6 Nhà nớc thực hiện điều tiết lĩnh vực xã hội 20
5. Sự biến đổi trong hệ thống kinh tế thế giới t bản chủ nghĩa
ngày nay 20
5. 1 Sự phát triển không đồng đều giữa các bộ phận cấu thành 21
5. 2 Các công ty xuyên quốc gia ngày càng đóng vai trò to lớn
trong nền kinh tế thế giới 22
5. 3 Tốc độ tăng trởng của các nớc t bản nói chung có xu
hớng giảm sút, tài chính tiền tệ quốc tế không ổn định 23
5. 4 Xu hớng tăng cờng quân sự hoát thời kì hậu chiến tranh lạnh 24
5. 5 Hệ thống kinh tế t bản thế giới còn hình thành 25
a) Hệ thống đa trung tâm
b) Mâu thuẫn gay gắt giữa các nớc t bản với nhau
c) Mâu thuẫn giữa các công ty xuyên quốc gia
5. 6 Hợp tác và cạnh tranh quốc tế phát triển lên nấc thang mới 27
III- Kết luận 28
24

×