Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.88 KB, 100 trang )


Đại học quốc gia hà nội
khoa s- phạm







Đặng Thanh H-ơng








Các biện pháp quản lý hoạt động tự học
của sinh viên tr-ờng Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn - Đại học quốc gia hà nội
đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ







luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục










Hà Nội - 2008


Đại học quốc gia hà nội
khoa s- phạm





Đặng Thanh H-ơng








Các biện pháp quản lý hoạt động tự học
của sinh viên tr-ờng Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn - Đại học quốc gia hà nội

đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ





luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục

Chuyên ngành: Qun lý giỏo dc
Mã số: 60 14 05


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Quốc Bảo





Hà Nội - 2008


LỜI CẢM ƠN

Luận văn được thực hiện và hoàn thành với sự giúp đỡ và hướng dẫn của
tập thể giáo viên Khoa Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội, bạn bè đồng nghiệp,
gia đình, với sự quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các thầy giáo, cô giáo Khoa
Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội, lãnh đạo và chuyên viên các phòng ban của
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã

quan tâm động viên, tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu
và thực hiện luận văn.
Luận văn là sự thể hiện kết quả học tập nghiên cứu của tác giả và sự tận
tâm giảng dạy, giúp đỡ, động viên của quí thầy, cô giáo Khoa Sư phạm - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đặng
Quốc Bảo là người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song luận văn không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến chỉ dẫn của Quý thầy giáo,
cô giáo và đóng góp của các bạn đồng nghiệp.

Hà Nội, tháng 12 năm 2008
Tác giả




Đặng Thanh Hương



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU: ………………………… 1
1. Lý do chọn đề tài …………………………………………….………………… 1
2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………… …………… 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ………………………… 2
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ………………………… 3
5. Giả thuyết khoa học ………………………… 3

6. Phạm vi nghiên cứu ………………………… 3
7. Phương pháp nghiên cứu ………………………… 4
8. Giới hạn của đề tài ………………………… 4
9. Cấu trúc luận văn ………………………… 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 5
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 5
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài 7
1.2.1. Hoạt động tự học 7
1.2.2. Sinh viên 9
1.2.3. Quản lý 9
1.2.4. Học chế tín chỉ 14
1.3. Đặc trưng của việc tự học trong nhà trường Đại học 17
1.4. Quản lý dạy học theo học chế tín chỉ và sự thúc đẩy sinh viên có ý chí tự
học…………………………………………………………………………… 18
1.4.1. Phương pháp kiểm tra, đánh giá trong học chế tín chỉ 19
1.4.2. Quản lý dạy học theo học chế tín chỉ 20
1.5. Yêu cầu quản lý tự học theo học chế tín chỉ đối với sinh viên 29
1.5.1. Thực hiện đăng ký môn học của sinh viên có sự hướng dẫn cho sinh viên
chọn lựa môn học phù hợp nhu cầu - khả năng 30
1.5.2. Quản lý cung cấp học liệu phục vụ tự học theo môn học đăng ký ………… 31


1.5.3. Quản lý hoạt động của giảng viên, sinh viên ở trên lớp thực hiện sư phạm
cộng tác 32
1.5.4. Tổ chức đánh giá chất lượng học tập kịp thời 34
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH
VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 36
2.1. Tiến trình phát triển của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
trong Đại học Quốc gia Hà Nội……………………………………………………………………………. 36
2.1.1. Lịch sử phát triển 36

2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ 37
2.1.3. Mục tiêu chiến lược phát triển trong bối cảnh mới của Trường 38
2.1.4. Cơ cấu tổ chức 39
2.2. Phân tích quy mô và chất lượng đào tạo của Trường 40
2.2.1. Quy mô đào tạo 40
2.2.2. Chất lượng và hiệu quả đào tạo 40
2.3. Đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất sư phạm của trường 43
2.3.1. Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý 43
2.3.2. Cơ sở vật chất sư phạm của trường 44
2.4. Thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở trường Đại
học KHXH & NV trước xu hướng đào tạo theo học chế tín chỉ…………………….… 45
2.4.1. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên 46
2.4.2. Thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên trước xu
hướng đào tạo theo học chế tín chỉ 54
2.4.3. Đánh giá công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên trước xu hướng
đào tạo theo học chế tín chỉ 60
Chƣơng 3: CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA
SINH VIÊN THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 63
3.1. Phương hướng phát triển của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
trong giai đoạn hiện nay 63


3.2. Đề xuất các nhóm biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên 65
3.2.1. Nhóm biện pháp 1: Nâng cao nhận thức, bồi dưỡng động cơ đúng đắn và ý
chí tự học cho sinh viên 65
3.2.2. Nhóm biện pháp 2: Tăng cường giúp đỡ sinh viên xây dựng kế hoạch tự
học bám sát vào sự đổi mới quy trình đào tạo theo học chế tín
chỉ 68
3.2.3. Nhóm biện pháp 3: Chỉ đạo giáo viên làm tốt việc hướng dẫn sinh viên

phương pháp/nội dung tự học theo học chế tín chỉ 72
3.2.4. Nhóm biện pháp 4: Tăng cường các điều kiện phục vụ tự học của sinh
viên 76
3.2.5. Nhóm biện pháp 5: Đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá thúc đẩy hoạt
động tự học của sinh viên để thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ
79
3.2.6. Nhóm biện pháp 6: Hoàn thiện công tác của phòng Đào tạo và các bộ phận
liên quan hướng vào việc nâng cao kết quả hoạt động tự học của sinh viên theo
học chế tín chỉ 82
3.3. Thăm dò sự nhận thức về tính cần thiết, tính khả thi của các nhóm biện pháp
đã đề xuất 85
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 88
1. Kết luận 88
2. Khuyến nghị 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
PHỤ LỤC



KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT




Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
BGD&ĐT
Bộ Giáo dục và Đào tạo
ĐHKHXH&NV
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

ĐHQGHN
Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐHTHHN
Đại học Tổng hợp Hà Nội
NCKH
Nghiên cứu khoa học
NCKH&ĐTSĐH
Nghiên cứu Khoa học và Đào tạo Sau đại học
SV
Sinh viên




- 1 -


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - Đảng cộng
sản Việt Nam đã khẳng định các nguồn lực tác động đến sự phát triển của xã
hội ta trong giai đoạn hiện nay gồm: nguồn lực con người Việt Nam; nguồn
tài nguyên thiên nhiên; cơ sở vật chất kỹ thuật; các nguồn lực ngoài nước.
Trong các nguồn lực đó, Đảng ta khẳng định nguồn lực con người là nguồn
lực quan trọng nhất và đóng vai trò then chốt.
Nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy sáng tạo, có ý
chí và có trí tuệ, biết sử dụng và vận dụng các nguồn lực khác, gắn kết chúng
lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng góp phần tác động vào quá
trình đổi mới đất nước. Các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác
cạn kiệt, trong khi đó trí tuệ con người là nguồn lực vô tận.

Đối với nước ta, phát triển nguồn nhân lực để thực hiện công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước đang là nhu cầu hết sức cấp bách, đòi hỏi chất
lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá. Trong xu
thế toàn cầu hoá kinh tế, vấn đề phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng xu
thế chuyển dần sang nền kinh tế tri thức đang được các nước ưu tiên. Trong
đó, lao động tri thức được coi là vốn nhân lực đóng vai trò hàng đầu của sự
phát triển kinh tế.
Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện mục
đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó tự học là phương thức cơ bản
để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về việc “lấy tự học làm gốc” đã được nhân dân ta luôn
coi trọng. Điều 5 của Luật Giáo dục (2005) quy định “Phương pháp giáo dục
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học;
bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên”; “đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học
- 2 -


sinh, phát triển phong trào tự học, tự đào tạo ”; “tạo ra năng lực tự học sáng
tạo của mỗi học sinh”.
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đang trong cơ chế
chuyển đổi từ phương thức đào tạo theo niên chế sang phương thức đào tạo
theo học chế tín chỉ, điều này vừa đồng thời tạo ra vừa đòi hỏi một sự thay đổi
lớn về công tác quản lý đào tạo của Nhà trường. Đối với phương thức đào tạo
theo học chế tín chỉ, việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên được coi là nhân
tố quan trọng, quyết định việc đẩy mạnh chất lượng đào tạo của trường. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy chất lượng đào tạo của trường chưa thực sự cao, chưa
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, điều này có thể do nhiều nguyên
nhân chủ quan, khách quan khác nhau, trong đó, các biện pháp quản lý có thể
là một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến chất lượng đào tạo. Lý

luận về khoa học quản lý cho thấy, hoạt động có ý thức của con người luôn
bao hàm ý nghĩa của quản lý. Để đạt được mục đích đề ra, các biện pháp,
phương thức quản lý luôn được xem là một nhân tố quan trọng. Xuất phát từ
cơ sở nhận thức đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Các biện pháp quản
lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ".
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận giáo dục đại học và thực tiễn quản lý của
Nhà trường, làm rõ và đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động tự học của sinh viên khi áp dụng phương thức đào tạo theo học
chế tín chỉ ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, góp phần nâng
cao nhận thức về công tác quản lý hoạt động tự học trong môi trường đại học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn xác định những nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
- 3 -


- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tự học và công tác quản lý
hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
- Đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động tự học
của sinh viên đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ ở trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn và một số trường đại học trên địa bàn Hà Nội.
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt
động tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ ở trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn.

5. Giả thuyết khoa học:
Nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên đáp ứng yêu cầu đào
tạo theo học chế tín chỉ ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là
điều cấp thiết. Nếu áp dụng đầy đủ, đồng bộ các biện pháp quản lý cùng với
sự đảm bảo điều kiện vật chất cần thiết thì hoạt động tự học của sinh viên khi
áp dụng phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ sẽ đạt được hiệu quả mong
muốn, đảm bảo chất lượng đào tạo của Nhà trường, góp phần nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
6. Phạm vi nghiên cứu:
- Căn cứ vào mục đích nghiên cứu đã đặt ra, nội dung luận văn tập
trung nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, nơi tác giả đã và đang trực
tiếp làm việc.
- Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng, tác giả đề xuất các biện
pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên theo học chế
tín chỉ ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong giai đoạn hiện
nay.

- 4 -


7. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội, trên cơ sở thế giới quan khoa học
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương
pháp nghiên cứu cơ bản được áp dụng gồm:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Nhóm phương pháp thống kê và phân tích số liệu
8. Giới hạn của đề tài:

- Do mục đích nghiên cứu đã xác định và sự chi phối của các điều kiện
khách quan về nhận thức, về cơ chế đảm bảo, nên luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu về thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong giai đoạn hiện nay và xây
dựng, đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự
học của sinh viên đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ ở trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn dưới dạng các kết quả nhận thức khoa học.
Khả năng áp dụng các biện pháp đề xuất là điều có thể. Tuy nhiên, để tiến
hành áp dụng vào thực tiễn một cách có hiệu quả đòi hỏi phải có thêm những
nghiên cứu chuyên sâu với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý
trong nước và quốc tế.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Chƣơng 3: Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên theo
học chế tín chỉ ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
- 5 -


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, tri thức có vai trò to lớn
thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội của mọi quốc gia
đều dựa trên nền tảng tri thức và muốn có tri thức thì phải phát triển giáo dục.
Ý thức sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của tri thức, Đảng và Nhà nước ta
luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, Trong giai đoạn hiện nay,

chúng ta đang nỗ lực xây dựng một xã hội học tập với phương hướng, con
đường thực hiện là kết hợp đến trường, giáo dục từ xa và tự học. Trong đó tự
học để trưởng thành là vô cùng quan trọng.
Một trong những đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội học
tập là tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “việc học không bao giờ là muộn”
(Ngạn ngữ), hay “Bác học không có nghĩa là ngừng học” (Đác-uyn). Quan
niệm tự học và học tập suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa
khoá mở cửa đi vào thế kỉ 21 - thế giới của nền kinh tế tri thức.
Nhằm đổi mới phương thức tổ chức đào tạo ở đại học trong điều kiện
Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sau Hội nghị Hiệu trưởng ở Vũng
Tàu năm 1988, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục
và Đào tạo) đã ban hành Qui chế tạm thời về quản lý đào tạo làm cơ sở cho
việc triển khai “qui trình đào tạo mới” theo học phần và sau một vài năm áp
dụng, qui chế này được chính thức hoá vào tháng 12 năm 1990.
Trên thế giới, đào tạo theo tín chỉ là một phương thức đào tạo không
mới. Nó ra đời vào nửa cuối thế kỷ thứ 19, bắt đầu ở Đại học Harvard (Hoa
Kỳ) xuất phát từ quan niệm xem sinh viên có thể tìm được cách học thích hợp
nhất cho mình, cũng như tư tưởng cho rằng đại học phải nhanh chóng thích
nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc sống. Trên cơ sở
những tư tưởng đó, vào năm 1872 Viện Đại học Harvard quyết định thay thế
hệ thống chương trình đào tạo cứng gắn với các lớp học cố định bằng hệ
- 6 -


thống chương trình mềm dẻo cấu thành bởi các modun mà mỗi sinh viên có
thể lựa chọn một cách phù hợp. Có thể xem sự kiện đó là mốc khai sinh hệ
thống tín chỉ. Đến đầu thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ được áp dụng rộng rãi trong
nhiều trường đại học ở Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước cũng lần lượt áp
dụng hệ thống này như các nước Bắc Mỹ, Nhật Bản, Philippin, Đài Loan,

Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc… Đây là phương thức đào tạo theo triết lý
“Tôn trọng người học, xem người học là trung tâm của quá trình đào tạo” và
hiện nay đang là một phương thức đào tạo khá phổ biến ở nhiều quốc gia trên
thế giới.
Ở Việt Nam, học chế tín chỉ được triển khai ở Trường Đại học Bách
Khoa TP Hồ Chí Minh vào năm 1993, sau đó là các trường ĐH Khoa học Tự
nhiên TP Hồ Chí Minh, Đại học Xây dựng Hà Nội, Trường Đại học Bách
Khoa Đà Nẵng, Đại học Thăng Long Hà Nội, Đại học Đà Lạt, Đại học Thuỷ
sản Nha Trang Trong “Chương trình hành động của chính phủ” thực hiện
nghị quyết số 37/2004/QH11 khoá XI, kỳ họp thứ sáu của Quốc hội về giáo
dục đã chỉ rõ: “Mở rộng, áp dụng học chế tín chỉ trong đào tạo đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp ” Tuy nhiên, cho đến nay, số trường Đại học
ở Việt Nam đào tạo theo hệ thống tín chỉ chưa phải là nhiều. Theo Vụ trưởng
Vụ Đại học và sau Đại học, Bộ GD&ĐT Trần Thị Hà, trong tổng số 200
trường Đại học Cao đẳng hiện nay, mới chỉ có 4% số trường chuyển sang
hình thức đào tạo này. Điều đó cho thấy phương thức đào tạo này vẫn còn khá
mới mẻ đối với hệ thống Đại học và Cao đẳng ở Việt Nam.
Chuyển sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ tạo ra sự thay
đổi lớn về phương cách, thói quen dạy - học của người dạy lẫn người học. Đối
với hình thức đào tạo này thì khối lượng giờ giảng trên lớp sẽ giảm đi, mà sẽ
tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Vì vậy khi áp dụng đào tạo
theo học chế tín chỉ, việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên có vai trò hết
sức quan trọng, mang tính quyết định hiệu quả chất lượng đào tạo.
- 7 -


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội cũng đang tổ chức thực hiện chuyển đổi hình thức đào tạo từ niên chế
sang hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ. Có thể thấy, trong nhiều tài liệu
nghiên cứu về hoạt động tự học, các nhà nghiên cứu đều khẳng định tự học

không phải là một đề tài mới lạ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu hoạt động tự học
trong học chế tín chỉ vẫn còn là vấn đề mới. Vì vậy trong luận văn này tác giả
tập trung vào việc xây dựng các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh
viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học, nâng cao chất lượng đào tạo
của nhà trường, theo học chế tín chỉ.
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
Để xác định rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, chúng ta sẽ tìm
hiểu nội hàm của một số khái niệm có liên quan đến đề tài.
1.2.1. Hoạt động tự học
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động học
Học là quá trình con người lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
và những phương thức hành vi mới, do vậy ta thấy học chính là hoạt động
nhằm tạo ra sự thay đổi kinh nghiệm của người học một cách bền vững. Để
lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội, con người có nhiều cách thức chiếm
lĩnh khác nhau. Đó có thể là do được người khác truyền thụ, do tự quan sát,
đúc kết từ lao động, môi trường sống… v.v.
Học có thể diễn ra một cách ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày và
nó diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Cách học này diễn ra khi tiến hành công việc
qua lao động sản xuất, hoạt động vui chơi…, cách học này không có chủ định
dẫn đến kết quả tri thức mà người học nắm được sẽ rời rạc và không có hệ
thống. Ở người học chỉ hình thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm
mang lại.
Nhưng thực tiễn để có thể tự cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con
người thì đòi hỏi con người phải nắm được các quy luật của tự nhiên, xã hội
- 8 -


và quy luật về sự hình thành, phát triển con người. Nói một cách khác, ngoài
việc lĩnh hội những tri thức mang tính kinh nghiệm ra, con người cần phải

nắm bắt được những tri thức khoa học, những năng lực thực tiễn mới mà cách
học ngẫu nhiên không tạo ra được. Để có được những năng lực đó người ta
tiến hành một hoạt động hướng vào để thực hiện mục tiêu đó là hoạt động học
(học có chủ định).
1.2.1.2. Khái niệm tự học
Tự học (self-learning) là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản
thân người học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích
nhất định.
Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề tự học ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới đây là một số quan điểm của các nhà nghiên cứu về vấn đề này:
Theo tác giả Lê Khánh Bằng: "Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất
định" [11, Tr.3].
Quan điểm này tác giả cho rằng tự học là việc học của chính bản thân
người học, chính họ phải huy động các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý
để chiếm lĩnh những tri thức khoa học của loài người và biến những tri thức
đó thành vốn kinh nghiệm của bản thân.
Theo tác giả Nguyễn Cảnh toàn, tự học là tự mình động não, suy nghĩ,
sử dụng các năng lực trí tuệ và có cả cơ bắp cùng các phẩm chất của mình, cả
động cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm một lĩnh vực hiểu
biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Việc tự
học sẽ được tiến hành khi người học có nhu cầu muốn hiểu biết một kiến thức
nào đó và bằng nỗ lực của bản thân cố gắng chiếm lĩnh được kiến thức đó
[24, Tr.59].
Như vậy tự học là hình thức hoạt động nhận thức của người học nhằm
chiếm lĩnh tri thức, tự mình luyện tập các thao tác, hành động để hình thành
kỹ năng kỹ xảo. Tự học giúp người học tự tìm ra tri thức mới, cách thức hành
- 9 -



động mới bằng chính nỗ lực của bản thân mình. Tự học hình thành nên những
con người năng động sáng tạo.
1.2.2. Sinh viên
Thuật ngữ "sinh viên" có nguồn gốc từ tiếng Latinh “Student” có nghĩa
là người làm việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó
được dùng cùng nghĩa tương đương với từ “Student” trong tiếng Anh,
“Etudiant” trong tiếng Pháp và “Cmgenm” trong tiếng Nga. “Sinh viên” là để
chỉ những người theo học ở bậc đại học và phân biệt với học sinh đang theo
học ở bậc phổ thông .
Theo ngôn ngữ Hán Việt, từ “sinh viên” được diễn nghĩa ra là người
bước vào cuộc sống, cuộc đời. Còn theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “sinh
viên” được dùng để chỉ người học ở bậc đại học. (Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 1977). Theo Quy chế
công tác HSSV trong các trường đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì: “
sinh viên” là người đang theo học hệ đại học và cao đẳng.
Từ đó ta có thể hiểu : khái niệm "sinh viên" là những người đang học
tập tại các trường đại học, cao đẳng - nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu của xã hội.
1.2.3. Quản lý
1.2.3.1. Khái niệm quản lý
Hoạt động quản lý đã có từ xa xưa khi con người biết lao động theo
từng nhóm đòi hỏi có sự tổ chức, điều khiển và phối hợp hành động. Quản lý
là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi ngành khoa học
nghiên cứu quản lý từ góc độ riêng của mình và đưa ra những định nghĩa khác
nhau về quản lý. Chúng tôi sẽ trình bày dưới đây một số định nghĩa, quan
niệm về "Quản lý" của các nhà triết học, nhà khoa học quản lý như sau:
"Quản lý (cai trị) là công việc của các bậc đại nhân. Đó là biết tập hợp
quanh mình những người hiền". (Mặc Tử, Trung Hoa)
- 10 -



Theo H.Fayol (1841-1925) nhà tư tưởng Pháp: "Quản lý tức là lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra".
F.W. Taylor (1856-1915), người được coi là “cha đẻ của thuyết quản lý
khoa học” đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lý là: “Mỗi loại công việc dù
nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ”. Theo ông: “
Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế
nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”
Peter Drucker quan niệm: "Quản lý là một chức năng xã hội nhằm để
phát triển con người và xã hội với những hệ giá trị, nội dung, phương pháp
biến đổi không ngừng".
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: "Hoạt
động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức" [18, Tr.1].
Qua các định nghĩa và quan niệm về " Quản lý" như đã trình bày ở trên,
ta thấy rằng trong hoạt động quản lý luôn tồn tại hai thành tố đó là chủ thể
quản lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân hay một
nhóm người có chức năng quản lý, điều khiển tổ chức để tổ chức vận hành và
đạt được mục tiêu. Khách thể quản lý là những người chịu sự tác động, chỉ
đạo của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung.
Quản lý có nhiều loại khác nhau, trong đó quản lý xã hội là phức tạp
nhất. Bởi vì, xã hội một mặt là hệ thống trên của kinh tế, bao gồm toàn bộ các
hoạt động về kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, tinh thần…v.v nên nó chứa
đựng tất cả những sự phức tạp của các đối tượng phải quản lý; mặt khác trong
quá trình quản lý xã hội còn có những quan hệ phi kết cấu như quan hệ đạo
đức, quan hệ cá nhân, quan hệ xã hội nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp
luật. Hơn nữa, sự tác động qua lại giữa các đối tượng, các quan hệ làm cho
việc quản lý càng phức tạp và khó khăn hơn. Do vậy, quản lý vừa là khoa học
- 11 -



vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã hội ở tầm vĩ mô hay
vi mô.
1.2.3.2. Chức năng quản lý
Tiến trình quản lý là một phức hợp những kỹ năng có tính hệ thống rất
sinh động và phức tạp. Để quản lý, chủ thể quản lý phải thực hiện nhiều loại
công việc khác nhau. Những loại công việc quản lý này gọi là các chức năng
quản lý. Như vậy, các chức năng quản lý là tập hợp những nhiệm vụ quản lý
khác nhau, mang tính độc lập tương đối, được hình thành trong quá trình
chuyên môn hoá hoạt động quản lý. Có 4 chức năng cơ bản nhất đó là: lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
+ Chức năng lập kế hoạch:
Lập kế hoạch là việc xác định các mục tiêu và mục đích mà tổ chức
phải hoàn thành trong tương lai và quyết định về cách thức để đạt được những
mục tiêu , nhiệm vụ đó. Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên và cơ bản nhất
trong hệ thống chức năng quản lý theo giai đoạn, là cơ sở của các chức năng
còn lại. Để lập kế hoạch bao gồm có ba giai đoạn:
- Xác định các mục tiêu (phương hướng) cho tổ chức
- Nhận diện các nguồn lực của tổ chức để thực hiện các mục tiêu đó
- Quyết định về những hoạt động cần thiết để đạt được các mục tiêu đã
đề ra.
+ Chức năng tổ chức:
Tổ chức là sự kết hợp hoạt động của những bộ phận sao cho chúng liên
kết với nhau trong một cơ cấu chặt chẽ, hợp lý tạo thành một hệ thống thống
nhất như một cơ thể sống. Đó là sự liên kết những cá nhân, những quá trình,
những hoạt động trong hệ thống, thông qua đó để thực hiện các mục tiêu
chung của hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc quản lý. Bằng cách thiết lập
một tổ chức hoạt động hữu hiệu, các nhà quản lý có thể phối hợp, điều phối
tốt hơn các nguồn vật lực, nhân lực.

- 12 -


Tiến trình tổ chức bao gồm việc thiết lập các bộ phận, phòng ban và
xây dựng các bản mô tả công việc. Vấn đề nhân sự cũng xuất phát trực tiếp từ
các chức năng lập kế hoạch và tổ chức.
+ Chức năng chỉ đạo:
Chỉ đạo là quá trình chủ thể quản lý sử dụng quyền lực quản lý của
mình để điều hành, tác động đến hành vi của các cá nhân, bộ phận trong hệ
thống một cách có chủ đích để họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu đạt được
các mục tiêu chung của tổ chức.
Nội dung cơ bản của chức năng chỉ đạo là chủ thể quản lý phải thực
hiện nhiệm vụ ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định đó. Quá trình
này bao gồm các hoạt động phân công, hướng dẫn, đôn đốc, động viên, thúc
đẩy họ hoàn thành nhiệm vụ.
+ Chức năng kiểm tra:
Kiểm tra là căn cứ vào kế hoạch và mục tiêu đã định để xem xét, đo
lường và đánh giá việc thực hiện nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, tìm ra
nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Đồng thời, kiểm tra cũng nhằm tìm
kiếm các cơ hội, các nguồn lực có thể khai thác để thúc đẩy hoạt động của tổ
chức. Trong hoạt động quản lý, chức năng kiểm tra có vai trò hết sức quan
trọng, thông qua chức năng kiểm tra một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ
chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động, nếu kết quả hoạt động không
đạt được đúng với mục tiêu, người quản lý sẽ tiến hành những biện pháp điều
chỉnh, sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Vì vậy, để đánh giá được hiệu quả
quản lý, người lãnh đạo cần phải thực hiện chức năng kiểm tra.
Kiểm tra theo lý thuyết hệ thống chính là thiết lập mối liên hệ ngược
trong quản lý. Có 3 yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra:
- Xây dựng chuẩn để thực hiện.
- Đánh giá việc thực hiện dựa trên chính sách so với chuẩn.

- 13 -


- Nếu kết quả hoạt động có sự chênh lệch so với chuẩn thì cần điều
chỉnh hoạt động để đạt được hiệu quả mong muốn.
Bốn chức năng của hoạt động quản lý có mối quan hệ mật thiết với
nhau tạo thành một chu trình quản lý. Chu trình quản lý bao gồm bốn giai
đoạn với sự tham gia của hai yếu tố vô cùng quan trọng đó là thông tin và
quyết định. Trong đó thông tin có vai trò là huyết mạch của hoạt động quản lý
đồng thời cũng là tiền đề của một quá trình quản lý tiếp theo.
Hình 1.1. Sơ đồ chức năng của quản lý









1.2.3.3. Vai trò quản lý
Quản lý có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Từ xa
xưa, vai trò của quản lý đã được thể hiện một cách giản dị qua câu nói dân
gian: “Một người biết lo bằng cả kho người hay làm”. Về sau Các Mác đã
khẳng định: “ Mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc lao động chung khi thực
hiện trên một quy mô tương đối lớn ở mức độ nhiều hay ít đều cần đến quản
lý”, và ông hình dung quản lý giống như công việc của người nhạc trưởng
trong một dàn hợp xướng.
Các nhà lý luận về khoa học quản lý như Taylor (1856-1915) của Mỹ,
Fayol (1841-1925) của Pháp và Max Weber (1864-1920) của Đức đều khẳng

Kế hoạch
Kiểm tra
Tổ chức
Chỉ đạo
Thông tin
- 14 -


định rằng quản lý là khoa học, đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển
xã hội.
Trong xã hội, mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống đều có hoạt động
quản lý, ví dụ như: quản lý giáo dục, quản lý kinh tế, quản lý văn hoá, quản lý
khoa học và công nghệ, v.v. Mỗi lĩnh vực quản lý sẽ có nét đặc thù riêng,
song tựu chung lại đều có những nét về bản chất và đặc trưng chung của hoạt
động quản lý và nó góp phần rất lớn vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả
nói chung của mỗi tổ chức cũng như công việc của từng con người nói riêng
trong một hệ thống nhất định.
Trong chiến lược phát triển giáo dục, các nhà chuyên môn đã đưa ra
giải pháp tăng cường công tác quản lý giáo dục như một biện pháp chiến lược
mang tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo.
Hiện nay, cùng với sự bùng nổ thông tin khoa học kỹ thuật, việc nghiên cứu
và áp dụng những thành tựu khoa học mới vào hoạt động quản lý sẽ làm tăng
hiệu quả quản lý. Vì thế, ở khía cạnh này có thể khẳng định rằng trong thực
tại “Quản lý còn được xem là công nghệ - công nghệ điều hành, phối hợp và
sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin của một tổ chức để
đạt được mục tiêu đề ra”.
Ngày nay mọi người đều thừa nhận tính tất yếu của quản lý. Đây là một
trong những hoạt động vừa khó khăn, phức tạp, vừa có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự tồn tại, diệt vong, suy thoái hay thịnh vượng của một tổ chức,
một quốc gia, một châu lục hay toàn cầu.

1.2.4. Học chế tín chỉ
1.2.4.1. Khái niệm tín chỉ
Hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên đạt được văn bằng qua việc tích luỹ
các kiến thức, kỹ năng khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định,
căn cứ trên khối lượng lao động học tập trung bình của một sinh viên, gọi là
tín chỉ (credit).
- 15 -


Trong các từ điển bách khoa, các tài liệu về giáo dục đại học có nhiều
định nghĩa khác nhau về tín chỉ. Theo định nghĩa của James Quann (Đại học
Quốc gia Washington): tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian
bắt buộc của một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao
gồm: 1. thời gian lên lớp; 2. thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc
các phần việc khác đã được quy định ở thời khoá biểu; 3. thời gian dành cho
đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài…; đối với các
môn học lý thuyết 1 tín chỉ là một giờ học trên lớp (với 2 giờ chuẩn bị ở nhà)
trong 1 tuần và kéo dài trong 1 học kỳ 15 tuần; đối với các môn học ở studio
hay phòng thí nghiệm- ít nhất là 2 giờ trong 1 tuần (với 1 giờ chuẩn bị ở nhà);
đối với việc tự nghiên cứu - ít nhất là 3 giờ làm việc trong 1 tuần.
Quyết định 31/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt
nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ thì xác định: Tín
chỉ là đơn vị dùng để đo khối lượng kiến thức đồng thời là đơn vị để đánh giá
kết quả học tập của sinh viên dựa trên số lượng tín chỉ đã tích luỹ được. Mỗi
tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết. Để tiếp thu được 1 tiết học lý
thuyết, sinh viên cần ít nhất 2 tiết chuẩn bị cá nhân. Cứ 30 tiết thảo luận trên
lớp, bài tập thí nghiệm hoặc 45-60 tiết thực tập, kiến tập, làm tiểu luận, đồ
án, khoá luận tốt nghiệp được tính tương đương 1 tín chỉ [2].
1.2.4.2. Đặc điểm của học chế tín chỉ

- Kiến thức được cấu trúc thành các mô - đun (học phần).
- Quá trình học tập là sự tích luỹ kiến thức của người học theo từng học
phần.
- Đăng ký học vào đầu mỗi học kỳ, lớp học tổ chức theo từng học phần.
- Một năm học có thể gồm 2 học kỳ chính (15 tuần học và 3 tuần thi) và
có thể có một học kỳ hè (5 tuần học và 1 tuần thi), hay gồm 3 học kỳ (12 tuần
học và 3 tuần thi) hoặc chia làm 4 học kỳ (10 tuần học và 2 tuần thi).
- Đánh giá thường xuyên, thang điểm 4 bậc (A,B,C,D hay 4,3,2,1)
- 16 -


- Quy định khối lượng kiến thức phải tích luỹ cho từng văn bằng. Xếp
năm học của người học theo khối lượng tín chỉ đã tích luỹ. (Thông thường,
khi chuyển đổi, nếu quy định văn bằng cử nhân cần tích luỹ 120 tín chỉ thì :
tích luỹ được 0 đến 29.9 tín chỉ - năm thứ nhất, 30 đến 59.9 tín chỉ - năm thứ
2, 60 đến 89.9 tín chỉ - năm thứ 3, còn tích lũy từ 90 tín chỉ trở lên là năm thứ
4).
- Có hệ thống cố vấn học tập để tư vấn cho người học tự thiết kế
chương trình học tập của mình.
- Chương trình đào tạo mềm dẻo: cùng với các học phần bắt buộc còn
có các học phần tự chọn và tuỳ ý, cho phép sinh viên dễ dàng điều chỉnh
ngành nghề đào tạo trong quá trình học tập.
- Không có thi tốt nghiệp, không tổ chức bảo vệ khoá luận tốt nghiệp
đối với các chương trình cao đẳng hoặc đại học.
- Ổn định và công khai hoá chương trình đào tạo cho mỗi khoá học.
- Phương thức quản lý sinh viên sẽ thay đổi (theo hệ thống cố vấn học
tập, theo số chứng chỉ đã tích luỹ).
- Thu học phí tỷ lệ với khối lượng các học phần đăng ký học.
Hệ thống học chế tín chỉ sở dĩ được truyền bá nhanh và áp dụng rộng
rãi ở các trường đại học trên thế giới do có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với

hệ thống đào tạo theo niên chế. Theo GS. Lê Thạc Cán, nếu kế hoạch đào tạo
theo niên chế có thể ví như một tuyến đường đã được vạch sẵn cho tất cả sinh
viên (trong một khoá) đi theo trong suốt một khóa đào tạo thì kế hoạch đào
tạo theo học chế tín chỉ là một bản đồ học tập của một hệ thống các tri thức lý
luận và thực tiễn theo các ngành , chuyên ngành trên đó sinh viên có thể chọn
tuyến đi, cách đi, tốc độ đi tới mục đích của mình căn cứ vào mục đích, sở
thích, điểm mạnh, điểm yếu cụ thể. Lộ trình học tập này có thể giúp sinh viên
điều chỉnh tuyến đi lúc mục đích học tập của sinh viên thay đổi theo nguyện
vọng cá nhân, nhu cầu của thị trường nhân lực hoặc phát triển của khoa học
và công nghệ. Học chế này cho phép sinh viên có cơ hội linh hoạt chuyển đổi
- 17 -


ngành học, tạo ra một “ngôn ngữ chung” giữa các trường Đại học, tạo điều
kiện cho việc chuyển đổi sinh viên giữa các trường trong nước và trên thế
giới, rất thuận lợi trong các chương trình đào tạo liên kết.
1.3. Đặc trƣng của việc tự học trong trƣờng Đại học
Hoạt động chủ đạo của sinh viên là hoạt động học tập. Nhưng so với
hoạt động học tập của học sinh phổ thông, việc học tập của sinh viên có nhiều
điểm khác. Trước hết hoạt động học tập của học sinh, sinh viên cũng là quá
trình nhận thức nhằm chiếm lĩnh những tri thức trong kho tàng trí tuệ của
nhân loại. Điểm khác nhau là khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên
không thể chỉ nhận thức thông thường mà tiến hành hoạt động nhận thức
mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở
mức độ cao để chuẩn bị cho một ngành nghề nhất định có chuyên môn năng
lực cao. Vì vậy, hoạt động học tập của sinh viên còn gọi là hoạt động học tập
nghề nghiệp. Vốn học vấn tiếp thu được trong quá trình này hết sức quan
trọng vì nó là công cụ để họ tiến hành tham gia vào lĩnh vực nghề nghiệp sau
này và là nền tảng cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu.
Một điều khác nữa so với hoạt động học tập của học sinh phổ thông thì

hoạt động học tập của sinh viên mang tính tự giác, tích cực chủ động hơn.
Sinh viên ngoài giờ lên lớp theo chương trình chính khoá, họ còn phải tích
cực đọc thêm sách và tài liệu tham khảo để tự phát triển kiến thức cho mình,
tranh thủ sự giúp đỡ của giảng viên để đào sâu kiến thức chuyên môn. Có như
vậy, sau khi ra trường họ mới vững vàng trong công việc của mình. Chính sự
khác biệt này đòi hỏi, sinh viên phải có sự thay đổi lớn về nhận thức, tư duy.
Do vậy, khác với giáo dục phổ thông, yêu cầu về chất lượng kiến thức thì ở
đại học không chỉ học sự kiện hay hiện tượng, không chỉ học biết, học hiểu và
học vận dụng mà còn học phân tích, học tổng hợp, học đánh giá và nhất là
học phương pháp học tập, đó là học có kế hoạch, học có tư duy và học có
sáng tạo để học một biết mười, để có năng lực học suốt đời.
- 18 -


Theo quan niệm của UNESCO về yêu cầu đối với sản phẩm đại học
trong thời đại hiện nay là:
- Có năng lực trí tuệ và có khả năng sáng tạo và thích ứng.
- Có khả năng hành động (các kỹ năng sống) để có thể lập nghiệp.
- Có năng lực tự học, tự nghiên cứu để có thể học thường xuyên, suốt
đời.
- Có năng lực quốc tế (Ngoại ngữ, văn hoá toàn cầu…) để có khả năng
hội nhập.
Ở các trường đại học, tự học là cần thiết và là cách học ở đại học. Đó là
một hình thức tổ chức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm chiếm lĩnh hệ
thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành. Khi sinh
viên tự mình huy động mọi phẩm chất, năng lực của bản thân để tiến hành các
hoạt động tìm tòi, khám phá độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh tri thức là họ
tiến hành hoạt động tự học.
Tóm lại, quá trình học tập của sinh viên ở các trường đại học về bản
chất là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu. Mỗi sinh viên tự mình

chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học
tập, sinh viên không chỉ phải có năng lực nhận thức thông thường mà cần tiến
hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư
duy độc lập, sáng tạo phát triển ở mức độ cao. Có nghĩa là, dưới vai trò chủ
đạo của thầy, sinh viên không nhận thức một cách máy móc chân lý có sẵn
mà còn đào sâu hoặc mở rộng kiến thức. Để có được những năng lực, khả
năng này, người học ở bậc đại học phải có cách học chủ động, khả năng tự
lực tìm kiếm và xử lí thông tin, năng lực tự học và khao khát sáng tạo. Do vậy
cũng có thể nói " học đại học là tự học".
1.4. Quản lý dạy học theo học chế tín chỉ và sự thúc đẩy sinh viên ý chí tự
học
Việc định lượng cụ thể và chính xác các nội dung yêu cầu tự học là vấn
đề rất phức tạp. Xét ở bình diện chung nhất, các yêu cầu của tự học là những
đòi hỏi, mục tiêu mà người học cần phải đạt được ở một mức độ nhất định.

×