Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Một số biện pháp cải tiến cơ chế quản lí tài chính đối với cơ quan sở giáo dục và đào tạo phân tích trường hợp Sở giáo dục và đào tạo thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 110 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM


ĐỖ HỒNG HẢI


Một số biện pháp cải tiến cơ chế quản lí tài chính
đối với cơ quan sở giáo dục và đào tạo




LUẬN VĂN THẠC SỸ



Người hướng dẫn: PGS.TS. Đặng Quốc Bảo




Hà nội - 2004









1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
8
1.1 Một số khái niệm và luận đề liên quan đến vấn đề nghiên cứu 8
1.2 Cơ chế quản lí Tài chính 26
1.3 Vai trò và ảnh hưởng của cơ chế quản lí tài chính cơ quan Sở Giáo dục
và Đào tạo với việc phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo địa phương
29
1.4 Yêu cầu đặt ra đối với cơ chế quản lí tài chính cơ quan Sở Giáo dục
và Đào tạo, nhằm thực hiện chức năng nhiệm vụ theo phân cấp hiện nay
35
Chƣơng 2: Thực trạng cơ chế quản lí tài chính tại cơ quan
Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng hiện nay 38
2.1 Những nét cơ bản về đặc điểm KT-XH thành phố Hải phòng
38
2.2 Thực trạng cơ chế quản lí tài chính tại cơ quan Sở Giáo dục và
Đào tạo Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay 43
2.3 Đánh giá về cơ chế quản lí tài chính cơ quan Sở Giáodục và
Đào tạo Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay 66
Chƣơng 3: Một số biện pháp cải tiến cơ chế quản lí tài chính
đối với cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hải Phòng
72


2
3.1 Những định hướng và chiến lược phát triển kinh tế xã hội, giáo dục
đào tạo thành phố từ nay đến năm 2010 và phương hướng cải tiến cơ chế
quản lí tài chính cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo giai đoạn hiện nay
72
3.2 Hệ thống các biện pháp cải tiến cơ chế quản lí tài chính
đối với cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hải Phòng
76
3.3 Kiểm chứng sự nhận thức về tính cần thiết và tính khả thi
của các biện pháp 94
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 97
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

















3


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang bước vào những năm đầu của thế kỉ 21, thế kỉ của nền văn
minh trí tuệ, xã hội thông tin và kinh tế tri thức- thế kỉ của hội nhập khu vực
và quốc tế. Trong mối quan hệ toàn cầu hóa, đa phương hoá thì lợi thế, cũng
như những hạn chế của một dân tộc, một đất nước luôn luôn ảnh hưởng trực
tiếp đến vị thế của dân tộc đó trên phạm vi toàn thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta đã dạy: "Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Tổng bí thư Nông Đức Mạnh cũng từng
khẳng định : "Lợi thế sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực trí tuệ
cao". Như vậy trong thời đại ngày nay nếu dân tộc nào, quốc gia nào trình độ
dân trí thấp sẽ rất thiệt thòi, chỉ đi làm đày tớ, "nô lệ kiểu mới" cho các quốc
gia, dân tộc có trình độ cao.
Đối với dân tộc ta, ngay từ xa xưa ông cha ta đã khẳng định: "Hiền tài là
nguyên khí quốc gia, nguyên khí mạnh thì thế nước lên và hưng thịnh,
nguyên khí yếu thì thế nước suy". Ngày nay đi vào thực tiễn, nghị quyết TW
2 khoá VIII đã giao trách nhiệm cho ngành giáo dục đào tạo là: "Nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài"; xác định vị trí, vai trò của giáo
dục đào tạo là "quốc sách hàng đầu" nhằm tạo cơ sở và động lực về mặt con
người, đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước, tiến tới
hội nhập với khu vực và quốc tế.
Chiến lược phát triển Giáo dục 10 năm xác định mục tiêu phát triển giáo
dục đào tạo cả nước đến năm 2010: giáo dục và đào tạo hướng vào mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nhằm nâng cao mặt
bằng dân trí, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, kĩ năng lao

4

động, đội ngũ công nhân lành nghề, các kĩ sư, chuyên gia, các nhà khoa học,
nhà văn hoá, nhà quản lí, kinh doanh đạt trình độ quốc tế, và khu vực. Phát
triển mạng lưới trường lớp, tăng cường chất lượng giảng dạy, thực hiện chuẩn
hóa, hiện đại hoá, và xã hội hoá trong giáo dục đào tạo.
Trong những năm vừa qua, giáo dục và đào tạo thành phố Hải Phòng đã
ổn định và có những bước phát triển mới. Chất lượng giáo dục đào tạo thể
hiện qua số học sinh tốt nghiệp của các ngành học, bậc học; các kì thi tuyển
sinh, thi học sinh giỏi các cấp tăng lên đáng kể cùng với số lượng học sinh các
bậc học ngày càng phát triển. Chất lượng đội ngũ giáo viên được nâng cao; cơ
sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học được cải tiến, đổi mới từng bước; đầu tư
cho giáo dục của thành phố tăng dần theo các năm, đáp ứng yêu cầu phát
triển giáo dục đào tạo trong tình hình hiện nay.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, giáo dục đào tạo thành phố Hải
Phòng còn bộc lộ nhiều yếu điểm, bất cập trước yêu cầu mới đặt ra như: Cơ
sở vật chất, phòng học, trang thiết bị dạy học tuy đã được đổi mới, nâng cấp
nhưng còn thiếu tính đồng bộ, hiện đại hoá do kinh phí đầu tư hạn chế, và ít
nhiều có sự phân tán; đội ngũ giáo viên tuy đã được chuẩn hoá và từng bước
nâng cao về trình độ nhưng còn chưa đồng bộ về cơ cấu; một bộ phận giáo
viên còn chưa đạt chuẩn về trình độ; đời sống giáo viên, đặc biệt là các vùng
ngoại thành, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn; công tác quản lí tài chính
trong các cơ quan quản lí giáo dục, trong nhà trường còn chưa đáp ứng được
yêu cầu đặt ra đối với tình hình hiện nay và các năm tiếp theo. Đặc biệt về cơ
chế quản lí tài chính trong nhà trường và các cơ quan quản lí giáo dục của
thành phố đôi lúc chưa thực sự sát hợp với thực tế công tác quản lí tài chính.
Chính điều đó đã ít nhiều làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác giáo dục và
các hoạt động khác diễn ra trong các đơn vị.

5
Nghị quyết Đại hội đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XII đã xác
định các mục tiêu quan trọng đến năm 2010 là: "Năm 2001, toàn thành phố đã

phổ cập trung học cơ sở, đến năm 2010 phổ cập bậc trung học và nghề trên
toàn địa bàn thành phố, tăng tỉ lệ lao động được đào tạo từ 25% hiện nay lên
35% - 40% vào năm 2005, 65% - 70% vào năm 2010". Để góp phần thực hiện
mục tiêu phát triển thành phố đã nêu trong Nghị quyết đại hội đảng bộ Hải
Phòng lần thứ XII, giáo dục đào tạo thành phố cần phải nâng lên một bước,
bằng một chiến lược phát triển giáo dục đào tạo có tính khả thi, phù hợp với
từng giai đoạn, và tình hình thực tế của Hải Phòng.
Với mục đích đưa giáo dục thành phố phát triển nhanh, vững chắc trong
tình hình hiện nay, thì một trong những yếu tố quan trọng, có tính chất quyết
định cần được quan tâm đúng mức đó là việc huy động các nguồn lực tài
chính đầu tư cho giáo dục, và đặc biệt là vấn đề nâng cao hiệu quả quản lí
công tác tài chính trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Điều này có ảnh hưởng
không nhỏ đến việc tạo ra các điều kiện cần thiết để đảm bảo chất lượng giáo
dục trên cơ sở nâng cao chất lượng cơ sở vật chất trường học, đội ngũ giáo
viên và các điều kiện phụ trợ khác.
Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng là cơ quan đầu ngành của thành phố
trong lĩnh vực giáo dục đào tạo trực tiếp quản lí và điều hành mạng lưới các
trường, và các cơ quan quản lí giáo dục. Vì vậy nghiên cứu các biện pháp cải
tiến cơ chế quản lí tài chính cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng có
tầm quan trọng đặc biệt, và có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc phát triển sự
nghiệp giáo dục đào tạo của thành phố, đáp ứng yêu cầu của Đảng trong lĩnh
vực giáo dục đào tạo, đi vào "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá" . Đặc
biệt ở giai đoạn hiện nay khi Nhà nước ta đang thực hiện đổi mới cơ chế quản
lí hành chính nhà nước, trong đó có nội dung tài chính trong các đơn vị hành
chính và sự nghiệp có thu. Chính vì vậy tôi đã chọn nghiên cứu đề tài luận

6
văn thạc sỹ là: "Một số biện pháp cải tiến cơ chế quản lí tài chính đối với cơ
quan Sở Giáo dục và Đào tạo (phân tích trường hợp Sở Giáo dục và Đào tạo
Hải Phòng.)"

2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nêu ra một số biện pháp cải tiến cơ chế quản lí tài chính đối với
cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện
nay
3. Khách thể nghiên cứu
Việc quản lí tài chính cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo .
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Cơ chế quản lí tài chính đối với cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo trong
giai đoạn hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Hệ thống hoá cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
5.2 Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lí tài chính trong
giáo dục đào tạo thành phố Hải Phòng nói chung và cơ chế quản lí tài chính
tại Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng trong tình hình hiện nay.
5.3 Nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp cải tiến cơ chế quản lí tài chính đối
với cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hải Phòng.
6. Giả thuyết khoa học
Cơ chế quản lí tài chính tại Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hải
Phòng sẽ năng động và có hiệu quả, phát huy tác dụng nhiều hơn, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo thành phố trong tình hình
hiện nay và những năm tiếp theo nếu đề xuất các biện pháp cải tiến nó một

7
cách khoa học, hiện thực và khả thi bao quát các yêu cầu về tài chính và giáo
dục.
7. Các phƣơng pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
7.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận: Lí luận về tài chính; tài chính
trong giáo dục đào tạo và yêu cầu của quản lí tài chính trong giáo dục đào tạo.
Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh, thành
phố. Các qui định chung về phân cấp ngân sách, và quản lí tài chính tại cơ

quan quản lí giáo dục các cấp, và tại các Sở Giáo dục và Đào tạo
7.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát điều tra tình hình
thực tiễn; thu thập số liệu, tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu bổ trợ: phương pháp thống kê
8. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Tài chính, tài chính nhà nước, tài chính công và các vấn đề liên quan
đến cơ chế quản lí tài chính; cơ chế quản lí tài chính cơ quan Sở Giáo dục và
Đào tạo thành phố Hải Phòng và hệ thống các trường, các đơn vị trực thuộc
do Sở Giáo dục và Đào tạo quản lí về tài chính trong giai đoạn hiện nay.
9. Cấu trúc luận văn:
Luận văn bao gồm
Mở đầu: Trình bày một số vấn đề chung của luận văn.
Kết quả nghiên cứu: được bố trí thành 3 chương
Chƣơng 1: Khái quát cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
Chƣơng 2: Phân tích thực trạng cơ chế quản lí tài chính cơ quan Sở
Giáo dục và Đào tạo thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay.

8
Chƣơng 3: Đề xuất một số biện pháp cải tiến cơ chế quản lí tài chính
cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng
Kết luận và khuyến nghị
Cuối luận văn có: - Danh mục các tài liệu tham khảo.
- Các phụ lục.


9
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Quan điểm và khái niệm về quản lí
Xã hội loài người tồn tại và phát triển được, một trong những yếu tố

đóng vai trò quan trọng, đó là tính tổ chức. Để tổ chức có thể phát triển bình
thường, đòi hỏi phải có hoạt động quản lí dù dưới hình thức giản đơn nhất.
Có thể nói khi loài người xuất hiện, tồn tại và phát triển thì cũng là lúc
nhu cầu quản lí hình thành. Cùng với quá trình tiến hoá, phát triển thì trình độ
tổ chức, điều hành cũng được nâng lên. Theo C.Mác: "Mọi lao động trực tiếp
hay lao động chung nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng
cần tìm đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện
những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể khác với
sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một nghệ sĩ độc tấu vĩ cầm tự
mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng".
Như vậy để một tổ chức nào đó có thể hoạt động bình thường, tạo ra của
cải vật chất, dịch vụ chung cho xã hội thì nhất thiết phải có hoạt động quản lí.
Nó bắt nguồn từ sự phân công lao động xã hội, nhằm đạt được mục đích, hiệu
quả cao hơn, năng suất lao động ngày càng tăng. Theo quan điểm triết học thì
quản lí được xem như một quá trình liên kết thống nhất giữa cái chủ quan và
cái khách quan nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Theo quan điểm kinh tế
của F.Taylor (1856 - 1915) thì "quản lí là cải tạo mối quan hệ giữa người với
người, giữa người với máy móc quản lí là nghệ thuật biết rõ rằng, chính xác
cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất".
Theo Kamarốp, quản lí là tính toán, sử dụng hợp lí các nguồn lực (gồm
nhân lực, vật lực, tài lực) nhằm thực hiện các nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ,
với hiệu quả kinh tế tối ưu. Quản lí kinh tế là sự tác động liên tục, có tổ chức

10
của các chủ thể quản lí lên người lao động để sử dụng một cách tốt nhất những
tiềm năng, cơ hội nhằm đạt được các mục tiêu quản lí đề ra.
Theo cách đánh giá có tính tổng quát chung trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội có hoạt động quản lí thì "quản lí là sự tác động liên tục có tổ chức,
có định hướng của chủ thể (người quản lí, người tổ chức quản lí) lên khách thể
(đối tượng quản lí) về mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế, bằng một hệ

thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện
pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối
tượng."
Theo quan điểm thế giới quan Mác - Lê Nin thì cho rằng: toàn thể thế
giới vật chất đang tồn tại, mọi sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể, một hệ
thống trong đó vừa có sự thống nhất giữa các bộ phận, vừa chứa đựng những
mâu thuẫn nhất định. Trong các mặt công tác, điều hành xã hội thì quản lí cũng
được xác định là một hệ thống. Theo quan điểm này thì quản lí là một đơn vị
với tư cách là một hệ thống xã hội, là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ
thống, vào từng thành tố của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp nhằm
đạt mục tiêu đề ra trong quá trình hoạt động: "Quản lí là sự tác động có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí nhằm sử dụng có
hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt
ra trong điều kiện biến đổi môi trường".
Ngoài những quan điểm mang tính tổng quát nêu trên thì quản lí còn
được xem xét trên những khái niệm thường được đề cập đến như sau:
- Quản lí là biết chính xác điều mình muốn người khác làm và sau đó
thấy họ đã hoàn thành công việc tốt và rẻ.
- Quản lí là những hoạt động cần thiết được thực hiện khi con người kết
hợp với nhau trong một tổ chức, nhóm để đạt được mục tiêu.

11
Qua những khái niệm, những quan điểm nêu trên, có thể hiểu : quản lí là
sự tác động có tổ chức, có ý thức để điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã
hội, hành vi hoạt động của con người nhằm đạt đến những mục đích nhất định
phù hợp với ý chí của nhà quản lí và các yêu cầu khách quan.
Quản lí có thể chia thành hai phần cơ bản, đó là chủ thể quản lí, và
khách thể quản lí. Chủ thể quản lí là cá nhân hay tổ chức nào đó do con người
lập nên nhằm thực hiện hành động quản lí. Còn khách thể quản lí có thể là
người, tổ chức, lại có thể là sự vật, hiện tượng nào đó cần phải quản lí (như

một vật dụng cụ thể, một quá trình sản xuất tự động hoá, hệ thống cơ sở vật
chất của một nhà trường nào đó, hay môi trường thiên nhiên ).
Vì chủ thể quản lí luôn luôn phải là con người (hoạt động quản lí ở đây
được xem xét trên cơ sở là một hoạt động của con người), còn khách thể quản
lí có thể là con người, hay các sự vật hiện tượng, mà trong trường hợp khách
thể quản lí là con người thì khách thể đó có thể đồng thời là chủ thể của một
hoạt động quản lí cấp thấp hơn, hoặc hoạt động quản lí riêng biệt khác.
Giữa chủ thể và khách thể quản lí có mối quan hệ tác động qua lại,
tương hỗ nhau. "Chủ thể làm nảy sinh các tác động quản lí, còn khách thể thì
nảy sinh các giá trị vật chất và tinh thần có giá trị sử dụng, trực tiếp đáp ứng
nhu cầu của con người, thoả mãn mục đích của chủ thể quản lí."
Xét trong một quá trình nhất định thì hoạt động quản lí của con người
cũng nhằm phát huy tốt tiềm năng của những yếu tố mà nó tác động đến theo
những mục đích đã định sẵn. Muốn phát huy tiềm năng của đối tượng quản lí
(đặc biệt là con người) thì phải có cơ chế quản lí phù hợp. Cơ chế quản lí là
phương thức mà nhờ nó hoạt động quản lí được diễn ra, quan hệ tương tác giữa
chủ thể, và khách thể quản lí được thực hiện (vận hành và phát triển). Để thực

12
hiện quá trình quản lí, bên cạnh cơ chế, phải có các điều kiện, phương tiện
quản lí. Cụ thể là các máy móc kĩ thuật, phương tiện thông tin, nghe nhìn
và các công cụ vật chất quản lí khác. Ngoài ra một yếu tố không thể thiếu đó là
phẩm chất, năng lực của nhà quản lí. Hiệu quả quản lí là sản phẩm kép khi
được xem xét là phát huy tiềm năng của đối tượng quản lí và nâng cao năng
lực, phẩm chất đạo đức của nhà quản lí.








Sơ đồ 1.1: Quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lí
Bản chất của hoạt động quản lí: có thể thấy hoạt động quản lí là một hoạt
động riêng có của con người thoát ra khỏi bản năng, và thể hiện tính mục đích
rõ rệt. Nhưng nó chỉ thực sự hình thành và phát triển khi con người biết hợp tác
với nhau trong quá trình mưu sinh, đặc biệt khi xã hội xuất hiện ngày càng
nhiều những yếu tố khách quan, những quá trình phức tạp nhiều chiều, ảnh
hưởng đến đời sống con người. Khi lao động đạt đến một trình độ nhất định, có
sự phân công xã hội thì quản lí là một chức năng - đó là tất yếu khách quan.
Trong xã hội có giai cấp thì hoạt động quản lí có tính giai cấp rõ rệt, chủ
yếu phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị trong xã hội.
Hoạt động quản lí mang tính khoa học cao, bởi tác động giữa chủ thể
quản lí và khách thể quản lí thông qua các công cụ, phương tiện quản lí là
thành tựu của khoa học - kĩ thuật và hệ thống các phương pháp mang tính

Chủ thể quản lí

Cơ chế quản lí

Đối tượng quản lí

Mục tiêu quản lí

13
khách quan. Từ đó nó mới thực sự mang lại hiệu quả. Trong xã hội hiện đại,
quản lí được coi là một nghề. Những kĩ năng nghề nghiệp của người quản lí để
thực hiện công việc vừa mang tính tổng hợp, vừa đòi hỏi tính kĩ thuật, thể hiện
ở những thao tác nghề nghiệp của họ.
Hoạt động quản lí vừa mang tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Tính

nghệ thuật của hoạt động quản lí thể hiện ở những tác động hợp qui luật, hoàn
cảnh. Như vậy "hoạt động quản lí có tính khách quan vừa có tính chủ quan
thực hiện bởi người quản lí. Mặt khác, nó vừa có tính giai cấp vừa có tính kĩ
thuật, vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật, vừa có tính pháp luật nhà
nước lại vừa có tính xã hội rộng rãi Chúng là những mặt đối lập trong một
thể thống nhất. Đó là biện chứng, là bản chất của hoạt động quản lí".
Chức năng của quản lí :
Chức năng quản lí là những nội dung và phương pháp hoạt động cơ bản
mà nhờ đó chủ thể quản lí tác động đến đối tượng quản lí trong quá trình quản
lí, nhằm thực hiện mục tiêu quản lí.
Henry Fayol thì coi "Chức năng quản lí là nhóm hoạt động để hoàn
thành quản lí". "Chức năng quản lí là loại hình đặc biệt của hoạt động điều
hành, là sản phẩm của tiến trình phân công lao động và chuyên môn hóa việc
quản lí".
Chức năng quản lí được qui định một các khách quan bởi hoạt động của
khách thể quản lí. Có nhiều cách phân loại các chức năng quản lí. Henry Fayol
đưa ra 5 chức năng sau đây (mà người ta gọi là 5 yếu tố của quản lí), bao gồm :
Kế hoạch hoá; tổ chức; ra lệnh; phối hợp; kiểm tra và đánh giá.
Theo tác phẩm "Cơ sở của khoa học quản lí" của nhà xuất bản chính trị
quốc gia, năm 1997, có nêu ra các chức năng cơ bản của quản lí là: kế hoạch
hoá; tổ chức; phối hợp; điều chỉnh, kích thích; kiểm tra, hạch toán.

14
Như vậy theo cách hiểu mới nhất khi gộp một số chức năng lại, người ta
cho rằng quản lí bao gồm 4 chức năng cơ bản sau:
- Kế hoạch hoá: là việc thực hiện có kế hoạch trên diện rộng, một qui mô
lớn. Căn cứ vào thực trạng và dự định của tổ chức để xác định mục tiêu, mục
đích, xác định những biện pháp trong từng thời kì cần đạt được.
- Tổ chức: Là quá trình hình thành nên những cấu trúc quan hệ giữa các
thành viên, bộ phận nhằm đạt được mục tiêu, kế hoạch đề ra.

- Chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lí, lãnh đạo bao
hàm việc liên kết, liên hệ với các đối tác,cá nhân khác nhau, động viên khuyến
khích họ thực hiện và hoàn thành tốt công việc để đạt tới mục tiêu của tổ chức.
- Kiểm tra: Là thông qua một cá nhân, nhóm, hay tổ chức để xem xét
thực tế, theo dõi giám sát thành quả lao động; uốn nắn, sửa chữa những hành
động sai lệch. Đây chính là quá trình tự điều chỉnh của hoạt động quản lí.
Mục tiêu quản lí: thể hiện ý chí của người quản lí (chủ thể), đồng thời
phải phù hợp với sự vận động và phát triển của các yếu tố liên quan như :
- Yếu tố xã hội - môi trường: là những yếu tố về điều kiện tự nhiên, xã
hội, con người xung quanh đang diễn ra và có tác động đến mục tiêu quản lí.
- Yếu tố chính trị - pháp luật : bao gồm thể chế chính trị, chế độ sở hữu,
vấn đề giai cấp, hệ thống luật pháp liên quan, các điều kiện chi phối khác.
- Yếu tố tổ chức: Là khoa học thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận,
thành phần trong bộ máy, qui định quyền hạn, trách nhiệm, chức năng của các
bộ phận và thành phần . Trong đó tổ chức nhân sự vẫn là thành phần cốt lõi.
- Yếu tố quyền uy : Là quyền lực, uy tín của người làm công tác quản lí.
Đây là công cụ đặc biệt của nhà quản lí. Nó vừa do cơ chế quản lí, vừa do đạo
đức, nhân cách, tài năng và kinh nghiệm của người quản lí tạo nên.

15
- Yếu tố thông tin : Đó là những tin tức thu thập được từ nhiều nguồn
khác nhau giúp cho nhà quản lí đề ra các quyết định. Thông tin đầy đủ, kịp
thời, chính xác giúp cho công tác quản lí có hiệu quả.
Tóm lại, quản lí là sự tác động có ý thức, có phương pháp để điều khiển,
hướng dẫn các quá trình và các hoạt động của con người, nhằm đạt đến mục
đích đúng với ý chí của nhà quản lí và phù hợp với các qui luật khách quan.
Quản lí hành chính nhà nước là một trong những loại hình quản lí được
diễn ra trong lĩnh vực hành chính công, và các hoạt động hành chính khác của
nhà nước. Nó là loại hình quản lí mang tính quyền lực nhà nước, dùng để điều
chỉnh các quan hệ giữa con người cũng như các quan hệ khác trong xã hội.

1.1.2 Quản lí giáo dục
Quản lí giáo dục (hay quản lí nhà nước về giáo dục) là một trong những
nội dung của quản lí nhà nước nói chung được diễn ra trong lĩnh vực giáo dục
đào tạo và các lĩnh vực liên quan.
Nhà nước quản lí mọi hoạt động trong đó có giáo dục đào tạo. Vì vậy
quản lí giáo dục là tập hợp những tác động hợp qui luật được thể chế hoá bằng
pháp luật của chủ thể quản lí hướng tới các đối tượng quản lí để thực hiện mục
tiêu giáo dục đào tạo gắn với kết quả cuối cùng là chất lượng, hiệu quả.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lí giáo dục, nhưng cơ bản thống
nhất với nhau về nội dung và bản chất. Theo nghĩa tổng quát thì đó là hoạt
động điều hành, phối hợp với các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội.
Theo Kôndacốp thì: "Quản lí giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau đến tất

16
cả các mắt xích của hệ thống (từ bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo cho
việc hình thành nhân cách thế hệ trẻ"
Ngoài ra còn có những quan điểm khác của những nhà nghiên cứu giáo
dục nước ta, theo đó: "Quản lí giáo dục là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lí nhằm làm cho hệ vận hành
theo đường lối, nguyên lí của Đảng, thực hiện các tính chất của nhà trường xã
hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế
hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái về chất".
Hay "Quản lí giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí đến
khách thể quản lí nhằm đưa hoạt động giáo dục đến mục tiêu đã định, trên cơ
sở nhận thức và vận dụng đúng những qui luật khách quan của hệ thống giáo
dục quốc dân"
Quản lí giáo dục được cấu thành từ các bộ phận cơ bản :
- Chủ thể quản lí : bộ phận quản lí giáo dục các cấp

- Khách thể quản lí : hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học
- Quan hệ quản lí : đó là những mối quan hệ giữa người học và người dạy;
quan hệ giữa người quản lí và người dạy, người học; quan hệ giữa những
người dạy, cộng đồng xã hội và các mối quan hệ liên quan khác.
Xét về mặt bản chất, quản lí giáo dục là một hiện tượng xã hội :
- Quản lí giáo dục là một loại hình hoạt động, tuy chuyên biệt và có tính
đặc thù nhưng nó ảnh hưởng đến toàn xã hội. Mọi quyết định, sự thayđổi trong
lĩnh vực giáo dục đều ảnh hưởng đến đời sống xã hội.
- Quản lí giáo dục là loại hình quản lí được đông đảo thành viên tham gia.
- Bản thân hoạt động quản lí giáo dục là hoạt động mang tính xã hội, đòi
hỏi phải huy động nguồn nhân lực, vật lực lớn.

17
- Giáo dục truyền đạt những giá trị kinh nghiệm, lịch sử xã hội tích luỹ qua
các thế hệ. Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải phát triển giáo dục.
Nội dung quản lí giáo dục bao gồm một số vấn đề cơ bản: xây dựng và
chỉ đạo thực hiện các chính sách chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển
giáo dục; ban hành tổ chức thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật về giáo
dục, tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu chuẩn về trang thiết bị cơ sở vật chất trường học;
tổ chức bộ máy quản lí giáo dục; tổ chức chỉ đạo việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ
quản lí, giáo viên; huy động quản lí, sử dụng các nguồn lực.
Trong quản lí giáo dục, việc xây dựng mục tiêu, mục đích giáo dục có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Nếu xác định không đúng sẽ gây ra những tổt thất
lớn lao cho nhiều thế hệ và để lại những hậu quả nặng nề.
Chức năng quản lí giáo dục: cũng như các hoạt động quản lí kinh tế - xã
hội khác, quản lí giáo dục có hai chức năng tổng quát sau:
- Chức năng ổn định và duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Chức năng đổi mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu tiến bộ của nền
kinh tế - xã hội. Như vậy quản lí giáo dục là hoạt động điều hành các nhà
trường để giáo dục vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế.

Những nội dung cụ thể liên quan đến chức năng của quản lí giáo dục là:
kế hoạch hoá; tổ chức; chỉ huy, điều hành; kiểm tra.
Hệ thống quản lí giáo dục nhà trường hoạt động trong động thái đa dạng,
phức tạp. Quản lí giáo dục là quản lí các mục tiêu vừa tường minh, vừa trong
mối tương tác của các yếu tố chỉ đạo:
- Mục tiêu đào tạo - Hình thức tổ chức đào tạo
- Nội dung đào tạo - Điều kiện đào tạo
- Phương pháp đào tạo - Môi trường đào tạo

18
- Lực lượng đào tạo - Qui chế đào tạo
- Đối tượng đào tạo - Bộ máy tổ chức đào tạo
Quản lí giáo dục là quá trình xử lí các tình huống phát sinh trong hoạt
động tương tác của các yếu tố trên, để nhà trường đạt tới chất lượng tổng thể
bền vững, làm cho giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh của nền kinh tế.
Trong quản lí giáo dục thì nhà trường, và quản lí nhà trường là hạt nhân
cơ bản của quá trình quản lí, là cơ sở của quá trình quản lí. Hoạt động quản lí
tại các cơ quan quản lí giáo dục cũng phải hướng tới hoạt động của nhà trường.
Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm trong nhà trường. Mọi hoạt động
đa dạng, phức tạp khác đều hướng vào hoạt động trung tâm này, và nó là một
trong những cơ sở quan trọng khi nghiên cứu hoạt động quản lí tại các cơ quan
Sở Giáo dục và Đào tạo.
1.1.3 Tài chính - Tài chính nhà nước - Tài chính công
Tài chính là một phạm trù kinh tế. Sự ra đời và phát triển của tài chính
gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hành hoá - tiền tệ. Trong sự
phát triển đi lên của nền văn minh nhân loại qua các thời đại, tài chính luôn có
một vị trí đặc biệt quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội ở tất cả các quốc
gia với bất kì chế độ chính trị nào.
Theo quá trình phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất và trao
đổi hàng hoá, từ đó phát sinh ra tiền tệ. Có thể nói sự xuất hiện của tiền tệ là

bước ngoặt vĩ đại trong lĩnh vực kinh tế. Từ đây mọi hoạt động sản xuất, tiêu
dùng đều lấy tiền tệ làm cơ sở để trao đổi, mua bán. Sự xuất hiện của tiền tệ đã
tạo nên cuộc cách mạng trong quan hệ phân phối, trao đổi sản phẩm hành hoá:
từ trao đổi bằng hiện vật (phi tài chính) sang phân phối, trao đổi bằng giá trị
qui ước (tài chính). Từ đây khái niệm tài chính đã ra đời .

19
Toàn bộ những vấn đề chi trả, thu nhập, ghi chép, tính toán, so sánh, vay
trả, hình thành quĩ, sử dụng quĩ bằng tiền được nhận thức và khái quát thành
khái niệm về tài chính
Theo từ điển tiếng Việt (1977) thì : "Tài chính là tiền nong và sự thu
chi"; "Tài chính là quản lí của cải vật chất của xã hội tính bằng tiền theo những
mục đích nhất định". Tài chính là hoạt động thu chi tiền tệ, thu chi tiền vốn để
duy trì và phát triển hoạt động cá nhân, gia đình, doanh nghiệp, tổ chức, của
một địa phương, vùng, khu vực hay một nhà nước.
Theo nghĩa rộng trong kinh tế chính trị học thì tài chính là những quan
hệ tiền tệ trong phân phối dưới hình thức giá trị, hình thành nên các quĩ tiền tệ.
Tài chính biểu hiện một cách tổng hợp giá trị tư liệu sản xuất và các tư liệu tiêu
dùng trong nền kinh tế. Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong lĩnh
vực hình thành và phân phối quĩ tiền tệ tập trung và không tập trung. Tài
chính gắn với các quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối và các quan hệ khác của
quan hệ sản xuất trong một chế độ xã hội. Tài chính thường được hiểu là một
phạm trù phân phối dưới hình thức giá trị. Không những thế nó còn được nhấn
mạnh: tài chính là một phạm trù chính của lĩnh vực giá trị, có thể đo lường giá
trị và biểu hiện giá trị. Chính vì vậy: "Tài chính tổng hợp các mối quan hệ kinh
tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua tạo lập hay sử dụng các
quĩ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể (pháp
nhân hay thể nhân) trong xã hội "
Các hoạt động tài chính nảy sinh cả trong hoạt động nhà nước, hoạt động
của các tổ chức xã hội, của dân cư, và các doanh nghiệp. Các quan hệ đó nó có

đặc điểm là bao giờ cũng gắn liền với việc sử dụng các quĩ tiền tệ nhất định.
Nói cách khác, " các quĩ tiền tệ tồn tại trong hiện thực tập hợp một số quan
hệ tài chính nhất định. Không có quan hệ tài chính nào không gắn với một quĩ

20
tiền tệ". Qua đó chúng ta thấy cần phải tìm ra những giải pháp nhằm khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính cho phát triển kinh tế nói chung và
trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói riêng.
Nói đến tài chính cho giáo dục đào tạo là chúng ta nói đến những khái
niệm con của tài chính, đó là tài chính nhà nước và tài chính công. Muốn thực
hiện được chức năng quản lí xã hội thì nhà nước phải có tiềm lực tài chính.
Thông qua quyền lực vốn có của mình (quyền lực công), nhà nước hiện đại qui
định những khoản thuế bắt buộc các tổ chức, dân cư phải đóng góp. từ đó tạo
nên các khoản thu của nhà nước. Đồng thời nhà nước cũng có những khoản chi
tiêu cần thiết để duy trì thiết chế, quyền lực của mình, cụ thể là để trang trải
các chi phí về quân đội, nhà tù, bộ máy quản lí các cấp, y tế, văn hoá, giáo dục
tạo nên các khoản chi của nhà nước. Từ đấy các phạm trù tài chính nhà nước
và tài chính công bắt đầu xuất hiện.
Trong điều kiện hiện nay nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lí của nhà nước, có thể hiểu tài chính nhà nước như sau:
"Tài chính nhà nước được đặc trưng bằng sự phân phối và phân phối lại
của cải xã hội (trong đó chủ yếu là sản phẩm thặng dư), mà nhà nước là chủ
thể, để tạo lập và sử dụng các quĩ tiền tệ của nhà nước, nhằm thực hiện các
chức năng kinh tế - xã hội của nhà nước."
Từ quan niệm trên về tài chính nhà nước, có thể thấy:
- Nội dung vật chất của tài chính nhà nước là các quĩ tiền tệ của nhà nước.
- Nội dung kinh tế xã hội của tài chính nhà nước là các quan hệ kinh tế nảy
sinh trong quá trình nhà nước phân phối của cải xã hội để tạo lập và sử dụng
các quĩ tiền tệ, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.


21
Tài chính công là một bộ phận cấu thành nên tài chính nhà nước, hơn nữa
nó là bộ phận quan trọng nhất của tài chính nhà nước, gắn liền với các hoạt
động thuộc chức năng điều hành, quản lí, phục vụ của nhà nước. Tài chính
công bao gồm hầu như toàn bộ nội dung của tài chính nhà nước chỉ trừ tài
chính của các doanh nghiệp nhà nước.
Sự khác nhau giữa tài chính công và tài chính nhà nước thể hiện ở hai
điểm sau: Tài chính công không gắn với các hoạt động mang tính chất kinh
doanh, thu lợi nhuận và phục vụ cho việc thực hiện các chức năng vốn có của
nhà nước, của bộ máy công quyền.
Từ sự so sánh trên có thể rút ra khái niệm: tài chính công là thuật ngữ
dùng để chỉ "Các hoạt động thu, chi bằng tiền của nhà nước, phản ánh hệ thống
các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng
các quĩ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng vốn
có (không nhằm mục tiêu lợi nhuận) của nhà nước đối với xã hội".
Tài chính công thuộc sở hữu và luôn gắn với quyền lực nhà nước, thể
hiện bằng hệ thống luật lệ do Nhà nước qui định đối với các khoản thu chi của
chính phủ. Nguồn thu chủ yếu hình thành nên các quĩ ở đây bao gồm thuế, các
loại phí, lệ phí do nhà nước đặt ra và tín dụng nhà nước
Cơ cấu tài chính công bao gồm ngân sách nhà nước từ Trung ương đến
địa phương; các quĩ dự trữ, tín dụng nhà nước, ngân hàng nhà nước, tài chính
các cơ quan hành chính nhà nước; tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước. Là
một bộ phận của tài chính nói chung và tài chính nhà nước nói riêng, tài chính
công gắn chặt với các hoạt động nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lí
của nhà nước, vì sự nghiệp chung, phục vụ cho cộng đồng.
Tài chính Nhà nước

Tài chính tư nhân



22
Tài chính công

Tài chính
doanh nghiệp


Tài chính các
tổ chức xã hội
Sơ đồ 1.2: Quan hệ giữa tài chính công với
tài chính nhà nước với các chủ thể khác.
Đặc điểm về tính chủ thể của tài chính công: cơ quan quyền lực của nhà
nước là quốc hội quyết định những chính sách trong đó có tiền tệ, tài chính.
Mặt khác chi tiêu của tài chính công chủ yếu tập trung cho xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế- xã hội, đầu tư cho một số ngành mũi nhọn, những công
trình quan trọng của quốc gia; thực hiện chiến lược phát triển và bảo vệ con
người. Các khoản chi thì chủ yếu mang tính chất cấp phát không hoàn lại như
kinh phí nhà nước cấp bằng hạn mức kinh phí, dự toán kinh phí trong lĩnh vực
hành chính sự nghiệp ( chi cho y tế, văn hoá, giáo dục, )
Trong giáo dục đào tạo kinh phí nhà nước cấp không hoàn lại là chủ
yếu, nguồn kinh phí ngân sách cấp theo dự toán có tính quyết định đến nội
dung, định hướng chi trong giáo dục đào tạo. Đây là nguồn kinh phí đóng vai
trò quan trọng nhất nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính trị của ngành.
*Chức năng tài chính, tài chính công:
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay thì tài chính nhà nước nói chung và tài
chính công có các chức năng cơ bản sau:
- Chức năng tạo lập vốn: Là chức năng vốn có của tài chính. Trong nền
kinh tế thị trường, vốn bằng tiền là tiền đề và cũng là yếu tố cần thiết đầu tiên
cho mọi hoạt động kinh tế- xã hội. Lấy ví dụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,

chúng ta thấy ngay được để phát triển một loại hình giáo dục đào tạo mới, xây

23
dựng thêm trường học, hay mở rộng qui mô giáo dục đào tạo đều phải có
tiền. Đó là đòi hỏi khách quan. Chỉ có tài chính mới có thể đáp ứng được cho
các chi phí quản lí hành chính, các hoạt động sự nghiệp, và chi duy trì, phát
triển bộ máy quản lí.
Tạo lập vốn tiền tệ thể hiện ở những nguồn tài chính được hình thành từ
quá trình vận động trong nền kinh tế theo những mục đích nhất định. Sau đó nó
lại được tham gia vào các chu kì vận động tiếp theo nhằm thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội và dân sinh khác. Qua các quá trình đó, các nguồn tài
chính cũng thay đổi và lớn lên.
Hoạt động tài chính là phần cốt lõi, quan trọng của các hoạt động kinh tế
- xã hội, và đáp ứng các hoạt động đó. Trong hệ thống giáo dục đào tạo nói
chung và các cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo nói riêng hiện nay thường có các
nguồn kinh phí để chi sự nghiệp và chi bộ máy hành chính nhà nước, đó là các
nguồn vốn, nguồn tài chính như : nguồn kinh phí ngân sách cấp; các nguồn
kinh phí ngoài ngân sách; các khoản thu khác trong nhà trường.
- Chức năng phân phối: tài chính xuất hiện trong chức năng này với tư
cách là một bộ phận quan trọng trong một khâu của quá trình tái sản xuất xã
hội (sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng). Mục tiêu, phương hướng cơ bản
của hoạt động tài chính là phục vụ và thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội
diễn ra bình thường.
Quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế thị trường diễn ra như thế nào là
chịu sự chi phối của lượng vốn bằng tiền và quá trình luân chuyển tiền tệ trên
thị trường. Tài chính được xem là khâu phân phối của quá trình tái sản xuất.
Giáo dục đào tạo là một lĩnh vực quan trọng và phổ biến trong đời sống
xã hội. Đó cũng là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội trên phạm vi
toàn xã hội, đối tượng phân phối của tài chính là phân phối tổng sản phẩm


24
quốc gia (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tài chính nhà nước cho
giáo dục và đào tạo được phân phối từ GDP, và chiếm một tỷ lệ ngày càng
tăng. Các nội dung chi hành chính công trong giáo dục đào tạo được phân vào
các nhóm mục chi ngân sách tuỳ theo tính chất chi, cụ thể:
Nhóm chi cho con người (gồm chi lương, phụ cấp lương, tiền công, bảo
hiểm, khen thưởng, và chi hỗ trợ cho cá nhân), từ mục 100 đến mục 108
Nhóm chi thường xuyên (bao gồm chi hành chính cơ quan, nhà điện
nước, điện thoại, vật tư văn phòng, sửa chữa nhỏ, và chi nghiệp vụ chuyên môn
cơ quan) từ mục 109 đến mục 119
Nhóm chi khác (gồm các nội dung chi trong cơ quan không xếp vào các
nội dung đã nêu, như chi các loại phí theo qui định, chi ngày lễ lớn, chi tiếp
khách, ) chi vào mục 134
Nhóm chi đầu tư xây dựng cơ bản (gồm các khoản chi cho sửa chữa lớn
nhà cơ quan, trường học, chi mua sắm tài sản cống định vô hình, hữu hình),
gồm các mục 118, mục 144, mục 145
- Chức năng đảm bảo vốn và thúc đẩy sự vận động liên tục của vốn
(chức năng điều chỉnh vĩ mô của tài chính):
Phân phối được thực hiện theo các mục tiêu đã định hướng. nhưng phân
phối tự thân nó không đưa vốn tới mục đích sử dụng cuối cùng vì điều đó còn
phụ thuộc vào quá trình vận động, biến đổi của đồng vốn. Tài chính công phục
vụ lợi ích công cộng đảm bảo sự phát triển và ổn định xã hội, đụng chạm đến
những lợi ích tổng thể về cả mặt hình thành lẫn sử dụng các quĩ tài chính.
Tài chính công phải phát huy chức năng điều chỉnh vĩ mô đối với sự
phát triển và ổn định xã hội. Đó là lợi ích giữa tích tụ và tập trung, giữa tích
luỹ và tiêu dùng, giữa tổng thể với các địa phương, vùng lãnh thổ, giữa nơi

×