1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
LƯU HOÀI NAM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP
QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
HÀ NỘI - 2004
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
LƯU HOÀI NAM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP QUẢN
LÝ VÀ KINH DOANH HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐẶNG QUỐC BẢO
HÀ NỘI - 2004
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
ĐH
Đại học
ĐHDL
Đại học dân lập
ĐHCL
Đại học công lập
ĐNGV
Đội ngũ giảng viên
GD - ĐT
Giáo dục - Đào tạo
GV
Giảng viên
GVCH
Giảng viên cơ hữu
GVTG
Giảng viên thỉnh giảng
GDTC
Giáo dục thể chất
KHXH
Khoa học xã hội
HN
Hà Nội
NC
Nghiên cứu
QLGD
Quản lý giáo dục
QLDN
Quản lý doanh nghiệp
QL&KD
Quản lý và Kinh doanh
SV
Sinh viên
TT
Trung tâm
5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.2. Những tiếp cận lý luận của đề tài
1.3. Phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học
1.4. Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên – Một trong những nhiệm
vụ quan trọng đối với các trường ĐHDL
1.5. Nội dung của công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên
trong các trường đại học dân lập
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CỦA TRƢỜNG ĐẠI
HỌC DÂN LẬP QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH HÀ NỘI
2.1. Khái quát về phát triển ĐHDL ở Việt Nam
2 2. Quá trình hình thành và phát triển Trường ĐHDL QL&KD Hà Nội.
2.3. Thực trạng đội ngũ giảng viên trường ĐHDL QL&KD Hà Nội.
2.4. Thực trạng công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên của
trường ĐHDL QL&KD Hà Nội trong những năm qua.
2.5. Nhận xét chung về thực trạng đội ngũ giảng viên và công tác xây
dựng và phát triển đội ngũ giảng viên tại trường ĐHDL QL&KD Hà Nội
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN TRƢỜNG ĐHDL QL&KD HÀ NỘI
3.1. Định hướng phát triển trường ĐHDL QL&KD HN và những vấn đề
đặt ra cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên
3.2. Các biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giảng giảng viên của
trường ĐHDL QL&KD HN
3.3. Điều kiện để thực hiện các biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ
giảng viên trường ĐHDL QL&KD Hà Nội
3.4. Kiểm chứng sự nhận thức về tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
5
5
6
14
22
24
32
32
34
36
50
53
58
58
62
80
81
83
86
89
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng
và phát triển của mỗi quốc gia. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng
định: “Con người và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển đất nước
trong thời kỳ CNH-HĐH, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và
đào tạo”.
Luật giáo dục cũng đã nhấn mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục nhằm
nâng cao dân trí làm cơ sở để đào tạo nhân lực và là nguồn gốc để bồi dưỡng
nhân tài.
Trong giáo dục thì giáo dục đại học có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đó là nơi đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
cao, nơi tiếp cận tri thức ở mức cao nhất, nơi sản sinh ra tri thức mới, tư duy mới
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Giáo dục đại học cũng là nơi đào
tạo các nhà giáo cho các bậc học, các nhà khoa học, các nhà kinh tế.
Trong những năm qua, giáo dục đại học nước ta đã đạt được một bước
phát triển quan trọng nhưng cũng còn nhiều yếu kém, bất cập đặc biệt là hiệu
quả và chất lượng đào tạo. Chính vì vậy, giáo dục đại học đang thực thi những
giải pháp đồng bộ về đổi mới mục tiêu đào tạo, đổi mới thi cử, đổi mới nội
dung, phương pháp dạy học và việc đánh giá kiểm định chất lượng đào tạo…
trong đó khâu đột phá là đội ngũ giảng viên.
Đội ngũ giảng viên có vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng
và hiệu quả giáo dục đại học, đưa giáo dục đại học Việt Nam ngang tầm với khu
vực và thế giới. Các trường đại học trong hệ thống giáo dục nước ta cũng đã có
những biện pháp nhằm xây dựng và phát triển ĐNGV của trường mình. Tuy
nhiên, cho đến nay, ĐNGV vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra của chính
ngành giáo dục và của xã hội.
7
Với tư cách là một giảng viên Trường ĐHDL Quản lý và Kinh doanh Hà
Nội (ĐHDL QL&KD HN), trực tiếp tham gia trong đội ngũ giảng viên và hiểu
được nỗi trăn trở của lãnh đạo nhà trường, tác giả nhận thấy tầm quan trọng và
sự cần thiết phải xây dựng một ĐNGV đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, phù
hợp về cơ cấu đáp ứng yêu cầu giảng dạy của nhà trường. Vì vậy, tác giả chọn
đề tài “Một số biện pháp xây dựng và phát triển ĐNGV của trƣờng ĐHDL
Quản lý và Kinh doanh Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp khóa đào tạo Thạc sỹ
quản lý giáo dục tại Khoa Sư phạm - ĐH Quốc gia Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng ĐNGV của Trường ĐHDL QL&KD Hà
Nội, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất một số biện pháp xây dựng và phát triển
ĐNGV tại Trường ĐHDL QL&KD Hà Nội góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu: ĐNGV trong truờng ĐHDL.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu: ĐNGV của trường ĐHDL QL&KD Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học:
Đội ngũ GV đóng vai trò quan trọng trong hoạt động đào tạo của một
trường đại học. Do đó, nếu vận dụng đồng bộ những biện pháp quản lý, quán
triệt được các vấn đề về nhân sự để xây dựng và phát triển ĐNGV sẽ góp phần
đáp ứng yêu cầu dạy - học, nâng cao chất lượng GV và đảm bảo hiệu quả đào
tạo đại học nói chung và tại trường ĐHDL QL&KD Hà Nội nói riêng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
5.1. Xác định cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Phân tích, đánh giá thực trạng ĐNGV của trường ĐHDL QL&KD Hà
Nội.
8
5.3. Đề xuất một số biện pháp xây dựng và phát triển ĐNGV của trường
ĐHDL QL&KD Hà Nội.
6. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
6.1. Cơ sở phương pháp luận: dựa trên phương pháp luận về phát triển
nguồn nhân lực trong giáo dục.
6.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng
hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá nhằm tổng hợp cơ sở lý luận
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thu thập thông tin sẵn có, quan sát,
phỏng vấn, thảo luận, điều tra bằng phiếu hỏi, thống kê xử lý kết quả nghiên
cứu.
7. Giới hạn của đề tài:
- Phạm vi thời gian: số liệu dùng để phân tích thực trạng được khảo sát
trong niên học 2003-2004 và học kỳ I niên học 2004-2005.
- Phạm vi không gian: khảo sát ĐNGV hệ chính quy của trường.
8. Ý nghĩa khoa học của đề tài:
- Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ vị trí, vai trò của ĐNGV tại
các trường ĐHDL, việc cần thiết phải phát triển ĐNGV theo lý luận phát triển
nguồn nhân lực và vận dụng lý luận này vào khối các trường ĐHDL.
- Về thực tiễn: Luận văn đưa ra một số biện pháp có thể áp dụng để xây
dựng và phát triển ĐNGV của trường ĐHDL QL&KDHN nhằm đáp ứng yêu
cầu nâng cao chất lượng đào tạo của Trường.
9. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu (4 trang), và phần kết luận (3 trang), luận văn được
cấu trúc thành 3 chương:
9
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu (27 trang)
Chƣơng 2: Thực trạng đội ngũ giảng viên của trƣờng ĐHDL
QL&KD Hà Nội (26 trang)
Chƣơng 3: Một số biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giảng
viên của trƣờng ĐHDL QL&KD Hà Nội (25 trang)
Cuối luận văn là danh mục các tài liệu tham khảo và Phụ lục.
10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Trong tình hình hiện nay, nước ta đang đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và tiến hành đổi mới cơ chế kinh tế. Xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh
mẽ, khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng. Giáo dục và đào tạo đang
phải thực thi một trọng trách vô cùng to lớn là vừa phải phát triển nguồn nhân
lực xã hội đáp ứng yêu cầu mới, vừa phải phát triển nguồn nhân lực của chính
mình để đảm đương nhiệm vụ.
Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2010 đặt mục tiêu tăng cả
về quy mô và chất lượng đào tạo đại học. Do vậy, xây dựng và phát triển ĐNGV
đại học là một việc quan trọng và cấp bách trong tình hình hiện nay.
Đến nay, đã có nhiều quan điểm chỉ đạo, định hướng; nhiều công trình
nghiên cứu để giải quyết bài toán phát triển ĐNGV đại học nói chung.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng về giáo dục -
đào tạo: “Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm
cải thiện chế độ đãi ngộ. Bảo đảm về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc
gia và tỷ lệ giáo viên so với học sinh theo yêu cầu từng cấp học” [4,34]
Chiến lược phát triển giáo dục đại đến 2010 đặt ra mục tiêu “nâng tỷ lệ
GV làm việc trong các cơ sở đại học có bằng thạc sỹ trở lên từ khoảng 41,6%
như hiện nay lên 70% vào năm 2010”. Chiến lược cũng đã đề ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng ĐNGV như: “quy hoạch và phát triển đội ngũ GV
trên cơ sở các chuẩn mực đã được xác định nhằm sớm tạo ra ĐNGV đủ mạnh
cho sự nghiệp phát triển giáo dục đại học đến năm 2010 và những năm tiếp theo.
Xây dựng tiêu chuẩn ĐNGV của một trường đại học, cao đẳng, một khoa, bộ
môn về các mặt trình độ, chức danh, cơ cấu tuổi tác, giới tính…” [2,31-33]
11
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước KX-05-11 đã có phần phân tích
thực trạng của đội ngũ giáo viên (nói chung) và đưa ra những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ và nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ giáo viên
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra, còn có một số
luận văn thạc sỹ về khoa học giáo dục và quản lý giáo dục nghiên cứu vấn đề
đội ngũ giảng viên trường đại học.
Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào về đội ngũ giảng viên trường
ĐHDL được thực hiện một cách hệ thống, đặc biệt là nghiên cứu để đưa ra các
giải pháp đồng bộ nhằm khắc phục tình trạng GV ĐHDL vừa thiếu, vừa yếu vừa
mất ổn định như hiện nay. Do đó, chúng tôi thấy cần có một nghiên cứu nghiêm
túc về vấn đề này và tìm ra câu trả lời thích hợp để xây dựng và phát triển
ĐNGV ĐHDL đáp ứng yêu cầu giảng dạy, đồng thời thích ứng nhanh với sự
phát triển không ngừng của nền kinh tế - xã hội, của khoa học - công nghệ.
1.2. Những tiếp cận lý luận của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nguồn nhân lực
* Quản lý
Từ xa xưa, khi các hoạt động trong xã hội loài người còn tương đối đơn
giản với quy mô chưa lớn, công việc quản lý được thực hiện trên cơ sở kinh
nghiệm với sự linh hoạt, nhạy bén của người đứng đầu tổ chức. Kinh nghiệm
ngày càng phong phú và người ta rút ra những điều mang tính quy luật có thể
vận dụng trong nhiều tình huống tương tự. Ngày nay, quản lý vừa là một khoa
học, vừa là một nghệ thuật. Nó có vai trò quyết định đến sự thành công hay thất
bại trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Đề cập đến vấn đề quản lý, Các Mác đã viết: “Tất cả mọi lao động xã hội
trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít
nhiều cũng cần phải có một sự chỉ đạo, điều hoà những hoạt động cá nhân nhằm
thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể
12
sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người
độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng” [28,480]
Ngoài ra, từ cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, xuất hiện rất nhiều quan
điểm về quản lý, đặc biệt ở các nước Phương Tây.
F.W.Taylor cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì
cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất” [13]
Harold Koontz trong "Những vấn đề cốt yếu của quản lý" thì cho rằng:
"Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân
nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Với thời gian, tiền bạc vật chất và sự bất
mãn ít nhất”. [24,33]
Henry Fayol là người đầu tiên chỉ ra chức năng của quản lý gồm: "dự
đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra" [13,15]
Theo Nguyễn Ngọc Quang “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý đến những người lao động nói chung là khách thể quản lý
nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [32,47]
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: "Hoạt động
quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục
đích của tổ chức" [13,1]
Như vậy, dù định nghĩa bằng cách này hay cách khác thì các tác giả đều
thống nhất quan điểm: quản lý là một quá trình tác động có định hướng của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các
thành viên trong tổ chức hành động nhằm đạt tới mục tiêu với kết quả tốt nhất.
Trong lao động quản lý chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý
thông qua hệ thống các khâu hay dạng hoạt động xác định. Các hoạt động đó
được chuyên môn hóa gọi là chức năng quản lý. Chức năng quản lý là tổng hợp
13
vị trí vai trò các mặt hoạt động của hệ thống quản lý đối với môi trường bên
trong và bên ngoài nó. Chức năng quản lý sinh ra một cách khách quan từ chức
năng sản xuất của khách thể quản lý.
Khi xác định các chức năng quản lý có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên
được thống nhất ở bốn chức năng cơ bản sau:
- Lập kế hoạch: Xác định mục tiêu nội dung, biện pháp, thời gian và các
điều kiện đảm bảo tính khả thi của kế hoạch. Kế hoạch là nền tảng của quản lý.
- Tổ chức: Xác định các mối quan hệ, tính chất cách thức từ đó xắp sếp bố
trí con người, nguồn lực cho công việc. Đây là chức năng quan trọng nhất vì nó
phản ánh toàn bộ nội dung, mục tiêu quản lý.
- Lãnh đạo: Là quá trình tác động đến con người làm cho họ nhiệt tình, tự
giác, nỗ lực phấn đấu theo mục tiêu của tổ chức.
- Kiểm tra: Đo lường, đánh giá kết quả tìm ra ưu, khuyết điểm để sửa
chữa, điều chỉnh trong tổ chức thực hiện mục tiêu.
Trên thực tế, các chức năng trên diễn ra tuần hoàn theo một chu trình với
tính logic chặt chẽ. Tuy nhiên các chức năng kế tiếp và độc lập với nhau chỉ là
tương đối, tuỳ theo nội dung, thời điểm mà một số chức năng có thể tiến hành
đồng thời, đan xen với nhau.
* Quản lý giáo dục
Giáo dục là sự hình thành có mục đích và tổ chức những sức mạnh thể
chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị
hiếu thẩm mỹ cho con người. Hay nói cách khác, giáo dục là quá trình tác động
đến các đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất và nhân cách.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học,
14
giáo dục thế hệ trẻ giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái mới về chất”
[32,12]
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến các đối
tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục đạt tới mục đích đã định. Quan hệ
trong quản lý giáo dục là quan hệ của người quản lý với người dạy và người học
trong các hoạt động giáo dục.
Với nghĩa tổng quát hơn: “Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo các thế hệ trẻ đáp ứng
nhu cầu phát triển xã hội ngày một cao” [14]
Như vậy, khái niệm quản lý giáo dục hiện nay ở nước ta được mở rộng
không chỉ đơn thuần là các hoạt động quản lý trong ngành giáo dục - đào tạo mà
là các hoạt động phối hợp của toàn xã hội nhằm phát triển giáo dục đào tạo thực
hiện lời Bác Hồ “giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”
* Quản lý nguồn nhân lực
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý nguồn nhân lực là chức năng
quản lý giúp cho người quản lý tuyển mộ, lựa chọn, huấn luyện và phát triển các
thành viên của tổ chức”[25]
Quá trình quản lý nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động như: Kế hoạch
hoá nguồn nhân lực, tuyển mộ, lựa chọn, đào tạo và phát triển, định hướng, thẩm
định kết quả hoạt động, đề bạt hoặc thuyên chuyển, giáng cấp và sa thải.
Đối với ngành giáo dục thì quản lý nguồn nhân lực chính là quản lý đội
ngũ giáo viên, cán bộ, công nhân viên của ngành, trong đó cốt lõi là lực lượng
GV, giáo viên. Việc xây dựng một đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, mạnh về
chất lượng; đồng thời đào tạo, bồi dưỡng năng lực, trình độ cũng như phẩm chất
của đội ngũ đó để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nâng cao chất lượng giáo dục là
khâu trọng tâm trong quá trình quản lý nguồn nhân lực giáo dục.
1.2.2. Xây dựng, phát triển
15
* Xây dựng
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Xây dựng là tạo hoàn cảnh sống vật chất hay
tinh thần, hoặc cho một cộng đồng trên cơ sở một đường lối, chủ trương nhất
định, một hệ tư tưởng… hoặc cho cá nhân theo một ý định có suy nghĩ, cân
nhắc”. [17]
Xây dựng ĐNGV là tạo ra một tổ chức những người GV tương thân tương
ái, đoàn kết một lòng cùng thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình trên cơ sở
đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước và mục tiêu chung của nhà trường
* Phát triển
Theo từ điển Tiếng Việt thì “Phát triển là lớn lên về mặt kích thước, độ
rộng (số lượng) hay về mặt giá trị, tầm quan trọng (chất lượng)”. [17]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo trong bài giảng về Kinh tế học giáo dục thì:
"Phát triển là tăng cả về chất lượng và số lượng làm cho hệ giá trị được
cải tiến, được hoàn thiện"
Như vậy, phát triển ĐNGV là làm cho ĐNGV đủ về số lượng, mạnh về
chất lượng và phù hợp về cơ cấu.
1.2.3. Giảng viên, đội ngũ giảng viên
* Giảng viên:
Luật giáo dục nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tháng 12/1998)
tại Điều 61 nêu rõ khái niệm Nhà giáo "là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo
dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác.
Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
o Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt
o Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ
o Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp
16
o Lý lịch bản thân rõ ràng
Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp gọi là giáo viên, ở cơ sở giáo dục đại học và sau đại học gọi là
GV”[3]
Như vậy, GV chính là những nhà giáo làm công tác giảng dạy trong các
trường đại học, cao đẳng. Họ không chỉ có trách nhiệm truyền thụ kiến thức
khoa học, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho SV mà họ còn là những người “Dạy
cho học sinh, SV cách học và cách đưa ra sáng kiến trong công việc”; xây dựng
nhân cách cho SV nhằm đạt được mục tiêu giáo dục là “Đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
* Đội ngũ giảng viên:
Theo Từ điển Tiếng Việt, "đội ngũ là khối đông người cùng chức năng
nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng".[17]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, "đội ngũ là một tập thể người gắn kết với
nhau, cùng chung lý tưởng, mục đích, ràng buộc nhau về vật chất, tinh thần và
hoạt động theo một nguyên tắc" [6]
Với nhiều cách diễn đạt khác nhau, các định nghĩa đều nêu rõ đội ngũ là
một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực hiện một
hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nhau về công việc
nhưng cùng chung một mục đích nhất định và cùng hướng tới mục đích đó.
Từ đó cho thấy, ĐNGV là tập hợp những GV được tổ chức thành một lực
lượng có cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đặt ra.
Tập hợp GV của một trường đại học, cao đẳng nhất định thì được gọi là ĐNGV
của trường đó. Khi nói đến ĐNGV ta phải hiểu và xem xét trên quan điểm hệ
thống. Đó không phải là một tập hợp rời rạc, mà các thành tố trong đó có mối
quan hệ lẫn nhau, bị ràng buộc bởi những cơ chế nhất định nào đó. Vì vậy, mỗi
17
tác động vào một thành tố đơn lẻ của hệ thống vừa có ý nghĩa cục bộ, vừa có ý
nghĩa trên toàn thể.
1.2.4. Trường đại học, trường đại học dân lập
* Trường đại học:
Trường đại học trước hết được hiểu là nhà trường trong hệ thống giáo dục
quốc dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà trường trong hệ
thống giáo dục quốc dân bao gồm cả trường công lập, bán công, dân lập và tư
thục được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự
nghiệp giáo dục và chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý giáo dục
theo sự phân công, phân cấp của Chính phủ.
Theo Điều 53 Luật giáo dục Việt Nam, nhà trường có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
"1. Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục
tiêu, chương trình giáo dục;
2. Quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân viên;
3. Tuyển sinh và quản lý người học;
4. Quản lý, sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính theo quy
định
5. Phối hợp với gia đình người học, tổ chức, cá nhân trong hoạt động giáo
dục;
6. Tổ chức cho nhà giáo, cán bộ, nhân viên và người học tham gia các
hoạt động xã hội;
7. Các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật"
Nhà trường là một đơn vị sự nghiệp hành chính, được thiết lập theo thiết
chế xã hội – có quy tắc, có luật lệ; là một tổ chức có bộ máy, có nhân sự, hoạt
động theo những mục đích, mục tiêu đã được đặt ra. Nhà trường là cơ sở đào tạo
18
của ngành giáo dục, nơi trực tiếp giáo dục học sinh, SV; nơi thực thi mọi chủ
trương, đường lối, chính sách, nội dung, phương pháp giao dục; nơi diễn ra lao
động dạy của thầy, lao động học của trò và lao động của bộ máy quản lý trường
học.
Theo từ điển Giáo dục học: “Trường đại học là cơ sở giáo dục thuộc bậc
đại học đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, có thể đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ
khi được Thủ tướng Chính phủ giao” [23]
Khác với nhà trường phổ thông, trường đại học còn có nhiệm vụ và quyền
hạn trong nghiên cứu khoa học, phụ vụ xã hội như:
- Thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển
công nghệ, tham gia giải quyết những vấn đề về kinh tế - xã hội của địa phương
và đất nước;
- Thực hiện các dịch vụ khoa học, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh
doanh phù hợp với ngành nghề đào tạo theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, trường đại học còn có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong
việc xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy, học tập đối với các
ngành nghề được phép đào tạo; tổ chức tuyển sinh theo chỉ tiêu, tổ chức quá
trình đạo tạo, công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng theo thẩm quyền; tổ chức bộ
máy nhà trường; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực nhằm thực hiện mục
tiêu giáo dục; hợp tác với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hoá, thể dục, thể
thao, y tế, nghiên cứu khoa học trong nước và ngoài nước theo quy định của
Chính phủ.
* Trường Đại học dân lập:
Trường ĐHDL trước hết là một trường đại học, bình đẳng với các trường
đại học công lập về nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, của GV và SV,
trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo và
các quy định liên quan đến tuyển sinh, dạy và học, thi, kiểm tra công nhận tốt
19
nghiệp, cấp văn bằng.
Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn giữa trường ĐHDL và trường đại học công
lập theo quy chế trường ĐHDL là:
"Trường ĐHDL là cơ sở giáo dục đại học do tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế (gọi chung là tổ chức) xin thành lập và huy
động các nhà giáo, nhà khoa học, nhà đầu tư cùng đóng góp công sức, kinh phí
và cơ sở vật chất ban đầu từ nguồn ngoài ngân sách Nhà nước". Do vậy, "trường
ĐHDL là pháp nhân được tự chủ về tổ chức bộ máy, tuyển dụng lao động và tài
chính. Tài sản của trường thuộc quyền sở hữu tập thể của những người góp vốn
đầu tư, các GV, cán bộ và nhân viên nhà trường".
1.3. Phát triển đội ngũ giảng viên trong các trƣờng đại học
1.3.1. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của giảng viên
* Vị trí, vai trò của giảng viên
Dân tộc Việt Nam từ xa đã có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo.
Trong dân gian đã truyền tụng câu ca dao: “Muốn khôn thì phải có thầy, Không
thầy dạy dỗ đố mày làm nên”; “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ
thì yêu lấy thầy” Đến nay, truyền thống đó không mất đi mà luôn được gìn giữ
và phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống hiếu
học, tôn sư trọng đạo, quý trọng thày giáo. Thày giáo là một nghề cao quý. Vì
lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
Bác mong các cô, các chú luôn xứng đáng với nghề thày giáo của mình".
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định: "Nhà giáo giữ vai trò quyết định
trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục”. Nhà giáo phải không ngừng học tập,
rèn luyện nêu gương tốt cho người học. Nhà nước tổ chức đào tạo bồi dưỡng nhà
giáo, có chính sách bảo đảm những điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần
để nhà giáo thực hiện nhiệm vụ của mình. Giữ gìn và phát huy truyền thống quý
20
trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học.
Dù trong thời điểm nào, nghề giáo vẫn luôn được tôn vinh và vị trí người
giáo viên luôn được đề cao. “Chúng ta có đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng
cốt trong sự nghiệp giáo dục; người thầy giáo là chiến sỹ cách mạng trên mặt
trận tư tưởng – văn hoá. Đó là những người truyền thụ cho thế hệ trẻ lý tưởng và
đạo đức cách mạng, bồi đắp cho các em nhân cách văn hoá đậm đà bản sắc dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, dạy cho các em có tri thức và kỹ năng
lao động nghề nghiệp, tạo nên lớp người có ích cho đất nước” [7,135]
Ngoài ra, trong công cuộc CNH-HĐH đất nước, người giáo viên nói
chung và người GV đại học nói riêng luôn đóng vai trò quan trọng, góp phần
nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia; xây dựng và phát triển nền văn
hoá đậm đà bản sắc dân tộc; đồng thời tham gia vào xây dựng kinh tế đất nước.
Chính vì vậy, trong tất cả các giai đoạn xây dựng và phát triển của lịch sử dân
tộc, vị trí người giáo viên nói chung và người GV đại học nói riêng luôn được
tôn vinh và quý trọng.
* Nhiệm vụ của giảng viên
GV trước hết là nhà giáo, họ có những nhiệm vụ được xác định trong điều
63 Luật Giáo dục:
“1. Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý, chương trình giáo dục.
2. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và
điều lệ của nhà trường.
3. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn vinh nhân cách
người học; đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng của người học.
4. Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, nêu gương tốt cho người học.
5. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật”.
21
Ngoài ra, tại điều 46 Điều lệ trường đại học ban hành theo quyết định số
153/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30 tháng 7 năm 2003, nhiệm
vụ và quyền hạn của GV được quy định một cách cụ thể và rõ ràng như sau:
* Nhiệm vụ:
- Hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học được quy định
theo giờ chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành với các chức danh và ngạch
tương ứng;
- Giảng dạy theo nội dung, chương trình đã được Bộ giáo dục và Đào tạo,
trường đại học quy định. Viết giáo trình, bài giảng, tài liệu phục vụ giảng dạy -
học tập theo sự phân công của các cấp quản lý;
- Không ngừng tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cải tiến phương pháp
giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo;
- Tham gia chủ trì các đề tài nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ,
dịch vụ khoa học và công nghệ và các hoạt động khoa học và công nghệ khác.
- Chịu sự giám sát của các cấp quản lý về chất lượng, nội dung, phương
pháp đào tạo và nghiên cứu khoa học;
- Hướng dẫn, giúp đỡ người học trong học tập, nghiên cứu khoa học, rèn
luyện tư tưởng, đạo đức, tác phong, lối sống.
* Quyền hạn:
- Được bảo đảm về mặt tổ chức và vật chất kỹ thuật cho các hoạt động
nghề nghiệp; được sử dụng các dịch vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và công
nghệ và dịch vụ công cộng của nhà trường;
- Được quyền lựa chọn giáo trình, tài liệu tham khảo, phương pháp và ph-
ương tiện giảng dạy nhằm phát huy năng lực cá nhân, bảo đảm nội dung, ch-
ương trình, chất lượng và hiệu quả của hoạt động đào tạo, khoa học và công
nghệ;
22
- Được ký hợp đồng giảng dạy, khoa học và công nghệ với các cơ sở đào
tạo, cơ sở nghiên cứu, cơ sở sản xuất và các tổ chức kinh tế khác theo quy định
của Bộ Luật Lao động, Quy chế thỉnh giảng và kiêm nhiệm do Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành và các quy định có liên quan của nhà nước sau khi đã được sự
đồng ý của các cấp có thẩm quyền theo quy định của Hiệu trưởng;
- Được đăng ký xét công nhận, được bổ nhiệm chức danh GS, PGS theo
quy định của nhà nước; được Nhà nước xét tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân,
Nhà giáo ưu tú;
- Được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm theo quy định của Bộ
GD-ĐT;
- Được tham dự các hội nghị, hội thảo khoa học trong và ngoài nước theo
quy định để công bố các công trình nghiên cứu khoa học, giáo dục”.
Như vậy, đối với GV đại học, giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai
nhiệm vụ không thể thiếu, chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Mức độ cân bằng
giữa hai nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu cũng giao động tùy thuộc vào từng
trường đại học. Trong một số trường đại học nghiên cứu, tỷ lệ GV tham gia
giảng dạy sau đại học và nghiên cứu nhiều hơn ở một số trường đại học khác.
Ngược lại, ở một số trường đại học khoa học xã hội và nhân văn hay đại học
cộng đồng các GV được khuyến khích tăng cường công tác nghiên cứu hơn nữa.
Bên cạnh đó, GV cần phải có trách nhiệm quan tâm đúng mức đến quá trình học
tập và tiến bộ của SV và mở rộng môi trường làm việc của mình vượt khỏi phạm
vi nhà trường, với các trường đại học khác, với các địa phương khác, thậm chí
với các đồng nghiệp ở nước ngoài.
Một số quan điểm khác (Bowen & Schuster, 1989; Rhodes, 1990; Rice,
1991; Boyer, 1990) cho rằng nhiệm vụ của GV bao gồm 4 loại công việc như:.
- Giảng dạy
- Nghiên cứu
23
- Dịch vụ chuyên môn phục vụ cộng đồng
- Bổn phận công dân với tư cách là nhà khoa học
Cách xác định công việc của GV theo mô hình 4 phần này cũng chỉ mang
tính ước lệ và tương đối, bởi lẽ khó phân biệt rạch ròi giữa giảng dạy, nhất là
giảng dạy sau đại học và nghiên cứu, giữa nghiên cứu và dịch vụ phục vụ cộng
đồng và với thực hiện nghĩa vụ công dân. Cũng có một số công trình nghiên cứu
chỉ xem xét 3 yếu tố giảng dạy, nghiên cứu, phục vụ cộng đồng."[11,6]
Vậy, để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, nhà giáo phải vừa là
nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà hoạt động chính trị, xã hội giỏi. Đảng và nhà
nước ta phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo giỏi chuyên môn
nghiệp vụ, lương tâm nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức trong sáng, vừa "hồng"
vừa "chuyên". Mỗi nhà giáo phải phấn đấu, tu dưỡng học tập, rèn luyện toàn
diện, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cao quý, xứng đáng với sự tôn vinh của
nhân dân.
1.3.2. Những yêu cầu đối với giảng viên
Trong lịch sử phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam, người GV luôn đ-
ược tôn vinh là kỹ sư tâm hồn, là người có vai trò quyết định tới chất lượng của
giáo dục đào tạo. Vì vậy, người GV trước hết phải thực hiện tốt chức trách,
nhiệm vụ của mình được quy định rõ ràng trong Luật Giáo dục và các văn bản
pháp quy khác. Đó là nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học - hai nhiệm vụ
trọng tâm và hàng đầu của GV. Ngoài ra, theo quan điểm giáo dục hiện đại, ng-
ười GV còn phải là người tham gia các hoạt động đối với cộng đồng với tư cách
là nhà khoa học.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu trên, người GV ĐH phải đáp ứng đầy
đủ yêu cầu về kiến thức chuyên môn, năng lực sư phạm và phẩm chất đạo đức -
chính trị.
* Kiến thức chuyên môn
24
Theo từ điển giáo dục học, kiến thức “là những điều hiểu biết có được của
con người về thế giới tự nhiên và xã hội nhờ học tập trong trường và từng trải
trong thực tế cuộc sống”[17]
Kiến thức chuyên môn của GV là những điều hiểu biết của GV đó về một
hoặc một số môn học mà họ đảm nhận, thông qua học tập trong trường, nghiên
cứu sách vở và thực tiễn cuộc sống.
Tuy người GV không phải là nguồn kiến thức độc tôn đối với người học,
song nhiệm vụ quan trọng của họ vẫn là cung cấp kiến thức một cách chính xác,
có hệ thống, đồng thời giúp người học biết cách tự học, biết cách nghiên cứu
khoa học, tổng kết rút kinh nghiệm để hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
Do vậy, yêu cầu đầu tiên đối với một người GV khi bước lên bục giảng là họ
phải có một lượng tri thức tương đối rộng, học sâu một số môn chuyên ngành.
Bên cạnh đó, GV phải có kiến thức về một số môn học khác để phục vụ việc
hiểu biết sâu hơn những môn chuyên ngành và giải đáp thắc mắc của SV và lựa
chọn nội dung phù hợp với chương trình và mục tiêu đào tạo.
Đặc thù của giáo dục đại học là đào tạo ra những người lao động, có trình
độ từ cao đẳng trở lên, nắm vững kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.[36]. Chính vì vậy, giáo dục đại học phải
đảm bảo thống nhất giữa dạy lý thuyết và thực hành, gắn tri thức lý luận với
thực tiễn cuộc sống, làm cho SV trở thành người hiểu sâu, biết rộng, biết nói,
biết làm.
Vì vậy, GV không chỉ là người có kiến thức chuyên môn mang tính lý
luận, sách vở sâu, rộng mà còn phải có kinh nghiệm giải quyết những vấn đề nảy
sinh trong thực tiễn. Một người GV giỏi phải là người tinh thông lý luận, nhuần
nhuyễn thực tiễn, là điểm tựa cho SV.
* Năng lực sư phạm
Năng lực sư phạm là yếu tố cấu thành cơ bản tạo nên tư chất người GV.
25
Năng lực sư phạm là tổng hợp những đặc điểm tâm lý cá nhân đáp ứng nhu cầu
của hoạt động sư phạm và quyết định sự thành công trong việc nắm vững hoạt
động ấy. [35]
Năng lực sư phạm thể hiện trước hết ở khả năng truyền thụ kiến thức cho
người học. Tuy nhiên, theo lý luận dạy học hiện đại thì “Dạy là sự điều khiển tối
ưu hoá quá trình người học chiếm lĩnh nội dung học, trong và bằng cách đó phát
triển và hình thành nhân cách”. “Học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm
lĩnh khái niệm khoa học (nội dung học) dưới sự điều khiển sư phạm của giáo
viên” [10]
Như vậy, nhiệm vụ của GV không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn là
người biết gợi mở, hướng dẫn, dạy người học cách tìm kiếm và xử lý thông tin,
từ đó vận dụng chúng.
Theo GS. Nguyễn Đức Chính, năng lực sư phạm có thể được cụ thể hoá
bằng cách kỹ năng như:
- Kỹ năng lập kế hoạch, tổ chức và tiến hành dạy học
- Kỹ năng tổ chức, quản lý, tư vấn, giúp đỡ SV ngoài giờ học
- Kỹ năng giao tiếp
- Kỹ năng lập hồ sơ giảng dạy, hồ sơ học sinh, học liệu
- Kỹ năng đánh giá (tự đánh giá, đánh giá đồng nghiệp, đánh giá chương
trình đào tạo, đánh giá kết quả học tập của học sinh)
- Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông trong giảng dạy và
nghiên cứu khoa học
- Kỹ năng thích ứng với những thay đổi trong giáo dục cũng như đời sống
xã hội
- Kỹ năng tự học và học tập suốt đời.
* Phẩm chất chính trị, đạo đức
26
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức và lối sống trong sáng là tiêu
chuẩn đầu tiên và cơ bản của một GV đại học. Phẩm chất chính trị của nhà giáo
được chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao. Người cho rằng: “…có chuyên
môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi mấy dạy trẻ con cũng hỏng”.
Người phê phán tư tưởng bàng quan chính trị trong đội ngũ giáo viên: “Nếu thày
giáo, cô giáo bàng quan thì lại đúc ra một số công dân không tốt, cán bộ không
tốt”.
Với người GV, có nhận thức chính trị đúng chưa đủ mà còn phải có khả
năng xử lý được những tình huống chính trị và định hướng nhận thức chính trị -
xã hội cho SV, là tấm gương đạo đức cho SV noi theo. Đặc biệt trong nền kinh
tế thị trường, người GV càng cần gìn giữ phẩm chất chính trị, đạo đức nghề
nghiệp của mình.
1.3.3. Những yêu cầu đối với đội ngũ giảng viên
* Số lượng
Số lượng là biểu thị về mặt định lượng của ĐNGV. Mỗi trường đại học
phải có đủ số lượng GV tương ứng với số lượng SV và chương trình đào tạo của
trường theo một tỷ lệ nhất định. Dựa vào đó mà mỗi trường lập quy hoạch xây
dựng và phát triển ĐNGV của mình sao cho vừa đảm bảo chất lượng giảng dạy,
đảm bảo quy định của nhà nước về tỷ lệ SV/GV và vừa đảm bảo đời sống cho
GV.
Số lượng GV trong các trường đại học công lập bị điều chỉnh bởi chỉ tiêu
biên chế của Nhà nước; trong khi đó, các trường ngoài công lập (trong đó có các
trường ĐHDL) có quyền tự chủ hơn.
* Chất lượng
Chất lượng của ĐNGV là một trong những điều kiện quyết định chất
lượng đào tạo của một trường đại học. Chất lượng của ĐNGV bao hàm nhiều
yếu tố: trình độ đào tạo của từng thành viên trong đội ngũ, thâm niên làm việc