Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tiểu luận triết học MAC-LENIN lớp cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.58 KB, 40 trang )

Tiểu luận triết học Mác – Lênin
BÀI TIỂU LUẬN 1:
ĐỀ TÀI:
Việc học tập và nghiên cứu triết học có ý nghĩa gì với việc học tập và công
tác của anh chị? Hãy trình bày 1 nội dung cụ thể của triết học Mác - Lênin
mà anh chị tâm đắc nhất từ đó nêu lên ý nghĩa phương pháp luận đối với
hoạt động nhận thức -hoạt động lý luận.
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
1
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
Mở đầu :
Triết học, ngay từ khi mới nảy sinh và cho đến mãi tận nay, dù tồn tại ở phương
Đông hay phương Tây, dù dưới dạng các hệ thống, trào lưu, trường phái rất khác
nhau, nhưng nội.đung cất lõi của triết học bao giờ cũng bao gồm những quan điểm lý
luận chung nhất, những lời giải đáp có luận chứng (dù được tán thành hay không
được tán thành) cho những câu hỏi của con người về thế giới xung quanh mình, về vị
trí của con người trong thế giới đó, về quan hệ giữa con người với thiên nhiên và với
bản thân con người. Trong triết học, người ta luôn tìm thấy những biện luận, phán xét
suy tư, những băn khoăn, trăn trở cùng những lời giải đáp cho các câu hỏi về số phận
của cá nhân con người trước thiên nhiên bao la, về nguồn gốc cùng những bí ẩn của
thiên nhiên bao la ấy, những sức mạnh, những lực lượng chi phối nó và chi phối cuộc
sống của chính bản thân con người, về cuộc sống và cái chết của họ Những lời giải
đáp ấy, dù là khác nhau trong các hệ thống, trào lưu, trường phái triết học khác nhau
nhưng đều là những cách lý giải nhất định về thế giới mà trong đó con người đang
sống theo quan điểm của các hệ thống,tràolưu, trường phái triết học đó.
Song, bất cứ hệ thống lý luận nào cũng không bao giờ chỉ làm một nhiệm vụ là
lý giải về thế giới. Triết học cũng vậy. Trên cơ sở của sự lý giải ấy, triết học trở thành
cái đinh hướng cho con người trong hành động. Khi trở thành cái định hướng cho con
người trong hành động, triết học thực hiện một chức năng khác - chức năng phương
pháp luận. Về nguyên tắc, giá trị định hướng này của triết học không khác với giá trị
định hướng của các nguyên lý, quy luật, hệ thống lý luận của các bộ môn khoa học


chuyên ngành nào đấy về một lĩnh vực nhất định nào đó của hiện thực, chẳng hạn,
không khác với giá trị định hướng của định luật bảo toàn và chuyền hoá năng lượng,
của quy luật giá trị Cái khác chỉ là ở chỗ, vì các nguyên lý, các khẳng định của triết
học là kết quả nhận thức những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung nhất
của cả tự nhiên, xã hội lẫn tư duy, cho nên chúng có tác dụng định hướng không phải
chỉ trong một phạm vi nhất định nào đấy như trong trường hợp các nguyên lý, quy
luật do các khoa học chuyên ngành nêu lên, mà ở tất cả mọi lĩnh vực các nguyên lý,
các khẳng định triết học ấy giúp cho con người khi bắt tay vào nghiên cứu và hoạt
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
2
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
động cải biến sự vật bao giờ cũng có được một lập trường xuất phát nhất định. Lập
trường xuất phát ấy giúp cho chủ thể hành động thấy trước được phương hướng vận
động chung của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc nghiên cứu
hay hoạt động cải biến sự vật phải trải qua, nghĩa là nó giúp cho con người xác định
được về đại thể con đường cần đi, có được phương hướng đặt vấn đề cũng như giải
quyết vấn đề, tránh được những mò mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt
hết sức phức tạp mà không có tư tưởng dẫn đường. Xuất phát từ một lập trường triết
học nhất định, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn một phương hướng giải quyết vấn đề
theo một cách thức nhất định, và xuất phát từ những lập trường triết học khác nhau,
con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn những phương hướng và cách thức giải quyết vấn
đề một cách khác nhau. Điều đó có nghĩa là, việc chấp nhận hay không chấp nhận
một lập trường triết học nào đấy sẽ không chi đơn thuần là sự chấp nhận hay không
chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn
là sự chấp nhận hay không chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo
cho hành động.
Khẳng định trên đây cho thấy triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển
vông, ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn. Xuất phát
từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết
đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường

triết học sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể
hiện giá trị đinh hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp
luận của triết học.
Vấn đề thứ nhất : Triết học có ý nghĩa như thế nào ý nghĩa gì với việc học tập
và công tác của con người ?
Triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng trong hoạt động
nhận thức và cải tạo thế giới. Với nội dung thứ nhất này, có thể có người sẽ hỏi ngay,
phải chăng chỉ có triết học mới có thể cung cấp cho con người khả năng tư duy trừu
tượng, hay có một năng lực tư duy trừu tượng của riêng khoa học triết học? Năng lực
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
3
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
tư duy trừu tượng đó là gì? Trước khi đưa ra quan niệm và lời giải đáp, chúng ta thử
khảo sát khả năng nhận thức của con người trong lịch sử phát triển của nhận thức.
Ở thời cổ đại, trong bối cảnh kinh tế - xã hội còn thấp kém, lạc hậu, sự phát triển
của tri thức một phần dựa vào sự quan sát trực quan và phần khác vào những phỏng
đoán thiên tài trên cơ sở của trí tuệ sơ khai cũng như khát vọng xem xét thế giới trong
tính chỉnh thể của nó. Ngay từ thời đó, cái mà khoa học triết học hướng tới và nhờ
đó, vượt ra khỏi các khoa học khác chính là nhu cầu tìm ra quy luật chi phối tính
chỉnh thể trong sự tồn tại hỗn mang của thế giới cả trong thực tiễn lẫn sự tác động của
nó vào nhận thức. Để làm được điều đó, rõ ràng tri thức triết học, một mặt, phải dựa
vào kết quả nghiên cứu của các khoa học cụ thể; mặt khác, trên nền tảng của những
tri thức của các khoa học cụ thể, nó phải đưa ra sự luận giải của mình trước những
vấn đề mà đời sống con người đặt ra. Vậy là, ngay từ thời đó, một nghịch lý trong
nhận thức triết học đã được đặt ra và tồn tại cho đến tận ngày nay. Đó là, triết học
không giải quyết các vấn đề của khoa học cụ thể, nhưng sự phát triển của khoa học
triết học, ngoài lý do nội tại của chính khoa học đó còn có nguyên nhân căn bản và là
hệ quả của việc giải quyết các bế tắc của khoa học cụ thể. Vì thế, các quan niệm của
triết học ở tầng bậc phổ quát nhất luôn là con đường và chìa khoá cho các khoa học
cụ thể dựa vào, vận dụng nhằm vượt lên và phát triển.

Đến thời cận đại, đã có lúc người ta hoài nghi về tính cần thiết của một năng lực
tư duy trừu tượng triết học, bởi sự phát triển của các khoa học cụ thể thời kỳ này, đặc
biệt là khoa học tự nhiên, tự nó đã đem đến một khả năng tư duy có thể thâu tóm sự
phát triển của hiện thực trong tầm kiểm soát của nhận thức con người. Cách tiếp cận
phân tích thế giới thành những bộ phận được chia nhỏ ra trong tính hệ thống, xem xét
nó ở trạng thái cụ thể và tĩnh tại giúp người ta có thể nghiên cứu các thành phần của
thế giới một cách chi tiết, nhờ đó có sự lý giải về sự tồn tại và phát triển của đối
tượng một cách chính xác. Việc nhận thức cơ thể sống, hay sự vận động của một nền
kinh tế, hay hoạt động của một bộ máy quản lý, bộ máy hành chính… như một “cỗ
máy” không phải không có lý và không chính xác trong những trạng thái xác định
của nó. Người ta thường nói cách tư duy này không đem lại cho nhận thức của con
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
4
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
người cách nhìn tổng thể về thế giới trong sự vận động, biến đổi, phát triển. Nhưng
theo tôi, chính việc cố tìm kiếm những mô hình chung được coi là xác định một cách
tương đối, không thay đổi về chất trong từng đối tượng, từng trạng thái riêng lẻ của
đối tượng hay cả trong quá trình phát triển của đối tượng chỉ là một cách tiếp cận
khác về chính đối tượng và về căn bản, nó cũng cho ta những hiểu biết đúng đắn về
đối tượng không khác lắm so với cách nhìn nhận thế giới trong sự vận động, phát
triển. Bởi, sự vận động không thể là những vận động chung chung, trừu tượng, mà
chính là sự vận động từ những trạng thái xác định tương đối này của đối tượng tới
những trạng thái xác định tương đối khác của nó.
Dường như sự phát triển của đối tượng trong thế giới đương đại cũng như những
nhận thức ngày càng sáng tỏ về chúng không trái lắm với khuynh hướng tư duy thời
kỳ này, bởi thế giới có biến động và phát triển không ngừng thì vẫn nằm trong lòng
một hệ thống tĩnh tại rộng lớn hơn so với cái mà chúng ta đã nhận thức được. Với
cách tiếp cận này, tư duy “siêu hình” không còn ở trạng thái luôn là cái đối lập, cái
phản tích cực so với tư duy biện chứng, mà nó chính là phương pháp sẽ làm sâu sắc
và đúng đắn hơn những nhận thức biện chứng từ cách nhìn đúng đắn từng bộ phận.

Khi tư duy đã vượt qua những quan sát và mô tả giản đơn để vươn tới khả năng có
thể “mô hình hoá”, “sơ đồ hoá” thế giới trong tính chỉnh thể, nó là một cách đặt vấn
đề mang tính phát triển. Bởi lẽ, chính việc đơn giản hoá các vấn đề phức tạp thông
qua các mô hình để nhận thức đúng chúng là phương án khả thi nhất cho đến thời
điểm này.
Quan niệm này càng tỏ ra có lý hơn khi bước vào thời kỳ hiện đại, các nhà khoa
học nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã từng nhận định rằng, dường như họ đang
dần nhận thức ra cái tuyệt đối tận cùng của hiện thực qua những phát minh khoa học
của thế kỷ: “Vật lý học đã và đang tìm kiếm được những lý thuyết đầy thuyết phục
nhằm thống nhất những quy luật vật lý quản lý toàn vũ trụ. Sinh học đã xây dựng
được bản đồ gien con người. Y học có khả năng thay thế tạo hoá bằng cách nhân bản
chính bản thân con người. Công nghệ nano (công nghệ mà độ chính xác đạt tới mức
một phần tỷ mét) có lẽ sẽ tạo được những rôbốt nguyên tử tự phân chia và làm được
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
5
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
mọi thứ, từ khai thông mạch máu tới diệt tế bào ung thư, từ đảo ngược quá trình trái
đất nóng lên tới chữa lành mọi bệnh tật. Máy tính từng vượt Kasparov, người được
coi là kỳ thủ vĩ đại nhất mọi thời đại trong trò chơi trí tuệ. Với tốc độ phát triển mạnh
mẽ như hiện nay, có lẽ ngày mà các rôbốt có khả năng trừu tượng hoá và khái quát
hoá cũng không còn xa nữa. Với những thành tựu mà một thế kỷ trước con người có
nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra, phải chăng tư duy của con người có khả
năng khám phá mọi bí ẩn của tự nhiên.
Đúng vào lúc mà những suy tư của con người tưởng như đã chạm tới chân lý
tuyệt đối thì một hiện thực mới lại mở ra, gần như làm đảo lộn tất cả những tri thức
từng được coi là đúng đắn, được tích luỹ và kiểm chứng qua nhiều thế kỷ, cái từng
chứng tỏ khả năng chinh phục thế giới của con người thông qua những thành tựu của
các khoa học cụ thể. Thế giới càng vận động, biến đổi, nhận thức con người ngày
càng tiến sâu hơn vào các tầng bậc bản chất khác nhau trong quá trình nhận thức thế
giới thì con người dường như ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với những nghịch lý

không chỉ tồn tại trong nhận thức, mà tồn tại cả trong chính hiện thực được phản ánh.
Hơn lúc nào hết, con người cảm thấy hoang mang, lúng túng, thậm chí là khủng
hoảng, bởi không thể lý giải những hiện tượng đang xảy ra trên nền tảng của toàn bộ
những tri thức đã được nhận thức trước đó. Những thành tựu của các ngành khoa học
cụ thể và phương pháp tư duy thống trị nó: phương pháp tư duy siêu hình thời cận đại
chấp nhận sự vượt bỏ bởi chân lý nằm ở chính những nguyên lý nền tảng của nó - tri
thức chỉ trở thành lý thuyết khoa học khi nó có thể chứng minh được và người ta có
thể dùng nó để luận giải các hiện tượng đã và đang diễn ra trong hiện thực. Quá trình
phát triển của nhận thức cho đến nay, một lần nữa, khẳng định chân lý tưởng đã bị
vượt qua bởi sự phát triển của khoa học và xã hội: tư duy trừu tượng là năng lực duy
nhất của con người không thể bị thay thế. Các khoa học cụ thể, do đặc thù của lĩnh
vực, của ngành nghiên cứu, không thể cung cấp khả năng trừu tượng và hệ thống ở
tầng bậc phổ quát nhất. Chỉ có triết học, bằng những nội dung tri thức đặc biệt của
mình, mới là khoa học có thể đảm trách nhiệm vụ này. Như vậy, triết học không phải
là khoa học đưa ra những lời giải cụ thể, cũng không cung cấp cho người ta cách thức
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
6
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
để tìm ra các lời giải cụ thể. Đó là khoa học cung cấp cho người ta năng lực tư duy
trừu tượng để tuỳ vào các lĩnh vực cụ thể mà các khoa học tìm ra chân lý của mình.
Cái năng lực tư duy trừu tượng đó khó có thể đong đếm bằng những định lượng về
tính hiệu quả, tính xác định , nhưng nếu thiếu nó, cái mà người ta nhận được chỉ là
sự thất bại trong hoạt động thực tiễn, hệ quả của sự thất bại trong nhận thức.
Vậy, nội dung của năng lực tư duy trừu tượng đó là gì? Lâu nay, chúng ta vẫn quan
niệm đó là việc xác định được thế giới quan (quan niệm về thế giới và vai trò, vị trí
của con người trong thế giới) và phương pháp luận (cách thức hành động đúng đắn
trên cơ sở của nhận thức) trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Vấn đề đặt ra
ở đây là, cái gì sẽ giúp người ta có được quan niệm đúng đắn và từ đó hành động có
hiệu quả, tức là cái có trước cả thế giới quan và phương pháp luận? Đó dường như
mới là cái mà người ta cần và chỉ có thể tìm thấy ở triết học.

Đồng thời, triết học là khoa học cung cấp nội dung những tri thức triết học; nhờ
đó, tư duy con người có thể tạo ra một trí tưởng tượng tích cực trong hoạt động nhận
thức và cải tạo thế giới. Như vậy, trí tưởng tượng có được trước hết phải dựa trên cơ
sở nắm được những tri thức triết học để biết rằng, mọi kết quả đều có nguyên nhân,
nhưng không phải mọi sự kiện đều có thể tìm được nguyên nhân của nó. Ví như đến
một ngày người ta không thể dùng quan hệ nhân quả để giải thích các sự kiện thì lúc
đó, chỉ có năng lực trừu tượng của những suy tư triết học mới có thể và cần phải
tưởng tượng ra một chìa khoá vạn năng mới nhằm giải thích và hành động cho phù
hợp với hiện thực, chẳng hạn, trong trường hợp trên, cái cần tìm kiếm phải là một
quy luật rộng hơn tính nhân quả
Tóm lại, triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng và khả
năng tưởng tượng ra thế giới trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Để có
được điều này, trước hết người ta cần và phải có sự tích luỹ tri thức, đặc biệt là dựa
trên kết quả của các khoa học cụ thể. Nhưng phép cộng giản đơn trong các thành tựu
của khoa học cụ thể tự nó lại không thể tạo thành năng lực tư duy trừu tượng. Đó là
lý do các khoa học cụ thể không thể thay thế cho triết học và triết học cũng không thể
làm được công việc của các khoa học cụ thể. Chính nội dung của những tri thức triết
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
7
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
học và chỉ có nó mới làm sản sinh trong năng lực nhận thức của con người cách suy
nghĩ và hành động phù hợp với hiện thực được phản ánh. Đó là lý do giải thích tại
sao người ta cần đến triết học.
Vấn đề thứ hai:
Ý thức và vai trò của tri thức trong đời sống xã hội
I.LÝ LUẬN CHUNG CỦA TRIẾT HỌC VỀ Ý THỨC VÀ TRI THỨC
1.1- Quan niệm của triết học Mác- Lênin về ý thức.
1.1.1. Khái niệm về ý thức
Để đưa ra được định nghĩa về ý thức,con người đã trải qua một thời kỳ lịch sử
lâu dài,nó trải qua những tư tưởng từ thô sơ,sai lệch cho tới những định nghĩa có tính

khoa học.
Ngay từ thời cổ xưa,từ khi con người còn rất mơ hồ về cấu tạo của bản thân vì
chưa lý giải được các sự vật hiện tượng xung quanh mình. Do chưa giải thích được
giấc mơ là gì họ đã cho rằng: có một linh hồn nào đó cư trú trong cơ thể và có thể rời
bỏ cơ thể, linh hồn này không những điều khiển được suy nghĩ tình cảm của con
người mà còn điều khiển toàn bộ hoạt động của con người. Nếu linh hồn rời bỏ cơ thể
thì cơ thể sẽ trở thành cơ thể chết.
Tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm đã phát triển quan niệm linh hồn của con
người nguyên thủy thành quan niệm về vai trò sáng tạo của linh hồn đối với thế giới,
quan niệm về hồi tưởng của linh hồn bất tử và quan niệm về một linh hồn phổ biến
không chỉ ở trong con người mà cả trong các sự vật, hiện tượng, trong thế giới cõi
người và cõi thần, quan niệm về ý thức tuyệt đối, về lý tính thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì đồng nhất ý thức với cảm gíac và cho rằng
cảm giác của con người chi phối thế giới Như vậy, cả tôn giáo lẫn chủ nghĩa duy
tâm đều cho rằng ý thức tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài và là tính thứ nhất,
sáng tạo ra thế giới vật chất
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
8
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
Chủ nghĩa duy vật cổ đại thì cho rằng linh hồn không thể tách rời cơ thể và
cũng chết theo cơ thể, linh hồn do những hạt vật chất nhỏ tạo thành.
Khi khoa học tự nhiên phát triển, con người đã chứng minh được sự phụ thuộc
của các hiện tượng tinh thần, ý thức vào bộ óc con người thì một bộ phận nhà duy vật
theo chủ nghĩa duy vật máy móc cho rằng óc trực tiếp tiết ra ý thức như gan tiết ra
mật.
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII quan niệm ý thức bao gồm cả tâm lý,
tình cảm tri thức trí tuệ, tự ý thức và định nghĩa ý thức là sự phản ánh của thế giới
khách quan. Định nghĩa này chưa chỉ rõ được vai trò của xã hội, của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là đặc tính và sản phẩm của vật
chất, ý thức là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động và

ngôn ngữ. Theo triết học Mac-Lênin "ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới
khách quan vào bộ não của người thông qua lao động ngôn ngữ''
Nói vấn đề này Mác nhấn mạnh: tinh thần, ý thức chẳng qua nó chỉ là cái vật chất di
chuyển vào bộ óc con người và được cải biến đi trong đó.
ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức,
tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri tức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của
ý thức.
Tự ý thức là một yếu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy vật coi tự ý thức
là một thực thể độc lập, tự nó có sẵn trong các cá nhân, biểu hiện hướng về bản thân
mình, tự khẳng định "cái tôi" riêng biệt tách rời những quan hệ xã hội. Trái lại chủ
nghĩa duy vật biện chứng tự ý thức là ý thức hướng về bản thân mình thông qua quan
hệ với thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan, con người tự phân biệt
được mình, đối lập mình với thế giới đó và tự nhận thức mình như là một thực thể
hoạt động có cảm giác, có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội, đặc
biệt trong giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn đòi hỏi con người phải nhận thức rõ
bản thân mình, tự điều chỉnh mình tuân theo các tiêu chuẩn, quy tắc mà xã hội đặt ra.
Con người có thể đặt ra và trả lời các câu hỏi: Mình là ai? Mình phải làm gì? Mình
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
9
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
được làm gì? Làm như thế nào? Ngoài ra văn hóa cũng đóng vai trò là "gương soi"
giúp con người tự ý thức được bản thân.
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể có từ trước nhưng gần như đã trở thành
bản năng, kỹ năng nằm sâu trong ý thức của chủ thể. .
Tình cảm là những xúc động của con người trước thế giới xung quanh đối với
bản thân mình. Cảm gíac yêu ghét một cái gì đó, một người nào đó hay một sự vật,
hiện tượng xung quanh.
Tri thức là hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới. Nói đến tri thức là
nói đến học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình thành và phát
triển của ý thức có liên quan mật thiết với qúa trình con người nhận biết và cải tạo thế

giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý thức thật cao, càng đi
sâu vào bản chất sự vật và cải tạo thế giới có hiệu quả hơn. Tính năng động của ý
thức nhờ đó mà tăng lên. Nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý
thức có nghĩa là chống lại quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và
ý chí. Quan điểm đó là biểu hiện chủ quan, duy ý chí của sự tưởng tượng chủ quan.
Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình cảm, ý chí. Ngược lại nếu tri thức biến
thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con người hoạt đọng thì tự nó không có vai trò gì
đối với đời sống hiện thực.
Tóm lại, ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý chí
trong sự liên hệ tác đọng qua lại nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và luôn
hướng tới tri thức.
1.1.2- Nguồn gốc của ý thức.
1.1.2.1- Nguồn gốc tự nhiên
Cùng với sự tiến hóa của thế giới, vật chất có tính phân hóa cũng phát triển từ
thấp đến cao. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, ý thức ra đời là kết quả
của sự phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con người và bộ
óc con người. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung và trái đất
nói chung đã tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người, rằng hoạt động tâm lý của
con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của não bộ con người. Bộ
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
10
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
não bao gồm khoảng từ 15- 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này nhận vô số các mối
quan hệ thu nhận, xử lý, truyền dẫn và điều khiển toàn bộ các hoạt động của cơ thể
trong quan hệ đối với thế giới bên ngoài qua cơ chế phản xạ không điều kiện và phản
xạ có điều kiện.
Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh được thực hiện bởi sự tác
động qua lại của hệ thống vật chất. Đó là những năng lực tái hiện, ghi lại của hệ
thống vật chất những đặc điểm (dưới dạng đã thay đổi) của hệ thống vật chất khác.
Phản ánh quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.

chặt chẽ với nhau. Bộ não bị tổn thương thì hoạt động của của nhận thức sẽ bị rối
loạn.
Phản ánh cũng là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh được thực hiện bởi
sự tác động qua lại của hệ thống vật chất. Đó là những năng lực tái hiện, ghi lại của
hệ thống vật chất những đặc điểm (dưới dạng đã thay đổi) của hệ thống vật chát khác.
Phản ánh quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ thụ động
đến chủ động, có tổ chức, điều khiển và lựa chọn đối tượng phản ánh.
Trong thế giới vô cơ có hình thức phản ánh cơ học,vật lý, hóa học. Đây là phản
ánh đơn giản, thụ động không lựa chọn. Tất cả những biến đổi cơ lý hóa này tuy do
những tác động bên ngoài khác nhau gây ra và phụ thuộc vào các vật phản ánh khác
nhau, nhưng chúng đều là phản ánh của vật chất vô sinh.
Giới hữu sinh có tổ chức cao hơn giới vô sinh. Song bản thân giới hữu sinh lại
tồn tại những trình độ khác nhau tiến hóa từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp
nên hình thức phản ánh sinh vật cũng thể hiện ở trình độ khác nhau tương ứng. Tính
kích thích là hình thức phản ánh đặc trưng cho thế giới thực vật và các động vật bậc
thấp chưa có hệ thần kinh. Tính cảm ứng hay là năng lực có cảm giác là hình thức
phản ánh của các động vật có hệ thần kinh. Nét đặc trưng cho phản ánh này là ngay
trong quá trình hệ thần kinh điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể và môi trường bên
ngoài thông qua phản xạ bẩm sinh hay phản xạ riêng biệt. Do vậy, sinh vật phản ánh
có tính lựa chọn đối với các tính chất riêng biệt của sự vật thành các cảm giác khác
nhau rất đa dạng và phong phú.
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
11
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
Phản ánh tâm lý là hình hức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh trung
ương. Đây là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới động vật gắn liền với quá
trình hình thành các phản xạ có điều kiện. Phản ánh tâm lý đưa lại cho con vật thông
tin về các thuộc tính, quan hệ của sự vật bên ngoài và về cả ý nghĩ của chúng đối với
đời sống của con vật. Nhờ vậy mà nó có thể lường trước được tất cả những tình
huống có thể xảy ra và chủ động điều chỉnh, lựa chọn đưa ra hành động thích hợp

nhất. Phản ánh có ý thức là sự phản ánh cao nhất của sự phản ánh nó chỉ có khi xuất
hiện con người và xã hội loài người. Sự phản ánh này không thể hiện ở cấp độ cảm
tính như cảm gíac, tri giác, biểu tượng nhờ hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn thể hiện
ở cấp độ lý tính: khái niệm, phán đoán, suy lý nhờ tín hiệu thứ hai (ngôn ngữ). Sự
phản ánh của ý thức là sự phản ánh có mục đích, có kế hoạch, tự giác, chủ động tác
động vào sự vật hiện tượng buộc sự vật bộc lộ ra những đặc điểm của chúng. Sự phản
ánh ý thức luôn gắn liền với làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển xã
hội.
1.1.2.1- Nguồn gốc xã hội.
ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người là sự khác biệt về chất so
với động vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã hội, sự ra đời của ý thức gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của bộ óc người dưới ảnh hưởng của lao động, của
giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động là hoạt động vật chất có tính chất xã hội nhằm cải tạo tự nhiên,thỏa
mãn nhu cầu phục vụ mục đích cho bản thân con người. Chính nhờ lao động mà con
người và xã hội loài người mới hình thành, phát triển.
Khoa học đã chứng minh rằng tổ tiên của loài người là vượn, người nguyên
thủy sống thành bầy đàn, hình thức lao động ban đầu là hái lượm, săn bắt và ăn thức
ăn sống. Họ chỉ sử dụng các dụng cụ có sẵn trong tự nhiên, vượn người đã sáng tạo ra
các công cụ lao động mới cùng với sự phát triển bàn tay dần dần tiến hóa thành con
người. Lúc này thức ăn có nhiều hơn và quan trọng là tìm ra lửa để sinh hoạt và
nướng chín thức ăn đã làm cho bộ óc đặc biệt phát triển, bán ccầu não phát triển làm
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
12
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
tăng khả năng nhận biết, phản ứng trước các tình huống khách quan. Mặt khác, lao
động là hoạt động có tính toán, có phương pháp mục đích do đó mang tính chủ động.
Thêm vào đó, lao động là sự tác động chủ động của con người vào thế giới
khách quan để phản ánh thế giới đó, lao động buộc thế giới xung quanh phải bộc lộ
các thuộc tính, đặc điểm của nó. từ đó làm cho con người hiểu biết thêm về thế giới

xung quanh, thấy sự vật hiện tượng xung quanh nhiều đặc tính mới mà lâu nay chưa
có. Từ đó sáng tạo ra các sự vật khác chưa từng có trong tự nhiên có thê mang thuộc
tính, đặc điểm của sự vật trước đó, điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một tự nhiên
mới.
Thêm vào đó lao động là qúa trình tác động lặp đi, lặp lại hàng nghìn, hàng
triệu lần phương pháp giống nhau nhờ vậy mà làm tăng năng lực tư duy trừu tượng
của con người.
Tóm lại, lao động có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển ý
thức. Con người thoát ra khỏi động vật là có lao động. Vì vậy mà người ta nói "Một
kiến trúc sư tồi còn hơn một con ong giỏi", bởi.vì trứơc khi xây một ngôi nhà người
kiến trúc sư đã phác thảo trong đầu anh ta hình ảnh ngôi nhà còn con ong chỉ là xây
tổ theo bản năng. Qua lao động bộ óc con người hình thành và hoàn thiện. Ăng ghen
nói" Sau lao đọng và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, nó là hai sức kích thích chủ
yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần chuyển biến thành
bộ óc người.''
Sau đây ta xét đến vai trò của ngôn ngữ trong việc hình thành nên ý thức. Ngôn
ngữ được coi là 'cái vỏ vật chất" của tư duy, khi mà con người có biểu hiện liên kết
với nhau để trao đổi kinh nghiệm, tổ chức lao động tất yếu dẫn đến nhu cầu " cần nói
với nhau một cái gì" đó chính là ngôn ngữ.Với sự xuất hiện của ngôn ngữ, tư tưởng
con người có khả năng biểu hiện thành "hiện thực trực tiếp", trở thành tín hiệu vật
chất tác động vào giác quan của con người, gây ra cảm giác. Do vậy, qua ngôn ngữ
con người có thể giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm cho nhau, từ đó
mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội và ngược lại ý thức xã hội thâm nhập vào
ý thức cá nhân. Nhờ ngôn ngữ mà phản ánh ý thức mới
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
13
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
có thể thực hiện như là sự phản ánh gián tiếp, khái quát và sáng tạo. Vì vậy ngôn ngữ
trở thành một phương tiện vật chất không thể thiếu được của sự trừu tượng hóa, khái
quát hóa hay nói cách kháclà của quá trình hình thành, thực hiện ý thức. Nhờ khả

năng trừu tượng hóa, khái quát hóa mà con người có thể đi sâu vào hơn vào thế giới
vật chất, sự vật hiện tượng? đồng thời tổng kết đúc rút kinh nghiệm trong toàn bộ
hoạt động của mình. Vậy ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý tư
duy và văn hóa con người và xã hội loài người.
1.1.3- Bản chất của ý thức.
1.1.3.1- Bản tính phản ánh và sáng tạo.
ý thức mang bản tính phản ánh, ý thức mang thông tin về thế giới bên ngoài, từ
vật gây tác động được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tín phản ánh quy định
tính khách quan của ý thức, túc là ý thức phải lấy tính khách quan làm tiền đề,bị cái
khách quan quy định và có nội dung phản ánh thế giới khách quan.
ý thức có bản tính sáng tạo do ý thức gắn liền với lao động. Bản thân lao đọng
là hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự nhiên của con người. ý thức không chụp
lạc một cách nguyên si, thụ động sự vật mà đã có cải biến, quá trình thu thập thông
tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả
năng phản ánh gían tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá trình chủ động tác đọng
vào thế giới để phản ánh thế giới đó. Bản tính sáng tạo quy định mặt chủ quan của ý
thức. ý thức chỉ có thể xuất hiện ở bộ óc người, gắn liền với hoạt động khái quát hóa,
trừu tượng hóa, có định hướng, có chọn lọc tồn tại dưới hình thức chủ quan, là hình
ảnh chủ quan phân biệt về nguyên tắc hiện thực khách quànva sự vật, hiện tượng, vật
chất, cảm tính.
Phản ánh và sáng tạo có liên quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hiện
thực cho thấy: không có phản ánh thì không có sáng tạo, vì phản ánh là điểm xuất
phát, là cơ sở của sáng tạo. Ngược lại không có sáng tạo thì không phải là sự phản
ánh của ý thức. Đó là mối liên hệ biện chứng giữa hai quá trình thu nhận và xử lý
thông tin, là sự thống nhất giữa các mặt khách quan và chủ quan trong ý thức. Vì vậy,
Mac đã gọi ý thức, ý niệm là hiện thực khách quan ( hay là cái vật chất) đã được di
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
14
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
chuyển vào bộ não người và được cải biến đi trong đó. Nói cách khác, ý thức là hình

ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Biểu hiện của sự phản ánh và sáng tạo, giữa
chủ quan và khách quan của ý thức là quá trình thực hiện hóa tư tưởng. Đó là quá
trình tư tưởng tìm cách tạo cho nó tính hiện thực trực tiếp dưới hình thức tính hiện
thực bên ngoài, tạo ra những sự vật hiện tượng mới, tự nhiên "mới" tự nhiên "thứ hai"
của con người.
1.1.3.2- Bản tính xã hội.
ý thức được hình thành trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con
người. Trong quá trình đó con người nhận ra rằng cần có nhu cầu liên kết với nhau để
trao đổi kinh nghiệm và các nhu cầu khác. Do đó mà khái niệm hoạt đọng xã hội ra
đời. ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, ý thức trước hết là tri thức của con
người về xã hội, về thế giới khách quan đang diễn ra xung quanh, về mối liên hệ giữa
người với người trong xã hội. Do đó ý thức xã hội được hình thành cùng ý thức cá
nhân, ý thức xã hội không thể tách rời ý thức cá nhân, ý thức cá nhân vừa có cái
chung của giai cấp của dân tộc và các mặt khác của xã hội vừa có những nét độc đáo
riêng do những điều kiện, hoàn cảnh riêng của cá nhân đó quy định. Như vậy, con
người suy nghĩ và hành động không chỉ bằng bàn tay khối óc của mình mà còn bị chi
phối bởi khối óc bàn tay của người khác, của xã hội của nhân loại nói chung. Tự tách
ra khỏi môi trường xã hội con người không thể có ý thức, tình cảm người thực sự.
Mỗi cá nhân phải tự nhận rõ vai trò của mình đối với bản thân và xã hội. Ta phải học
làm người qua môi trường xã hội lành mạnh.
Bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh và sáng tạo.
Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng đọng chủ quan của ý thức, ở quan hệ giữa vật
chất và ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới của con người.
1.1.4 – Sự tác động trở lại vật chất của ý thức
Vật chát quyết định nội dung của ý thức bởi vì ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan bên ngoài vào trong bộ óc của con người. Nhưng nếu chỉ thấy vai trò
quyết định của vật chất đối với ý thức mà không thấy được tính năng động tích cực
của ý thức đối với vật chất thì sẽ mắc phải khuyết điểm của chủ nghĩa duy vật siêu
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
15

Tiểu luận triết học Mác – Lênin
hình.chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng :”ý thức của con người không phải là sự
phản ánh giản đơn ,mà là sự phản ánh tích cực của thế giới vật chất “
Cùng với sự phát triển của hoạt động biến đổi thế giới ý thức con người phát triển
song song với quá trình đó và có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với vật
chất.Sự tác động trở lại vật chất của ý thức có thể là thúc dẩy hoặc ở một điều kiện
nào đó trong một phạm vi nào đó kìm hãm sự phát triển của các quá trình hiện thực.
Khi con người có những kiến thức khoa học thì sự tác động trở lại vật chất là tích
cực.Con người sẽ dựa vào những tri thức và những kiến thức khoa học để lập ra
những mực tiêu ,những kế hoạch hoạt động đúng đắn để cải tạo thế giớ vật chất, thúc
đẩy xã hội ngày một phát triển hơn.
Những tri thức sai lầm phản khoa học hoặc lỗi thời lạc hậu có thể kìm hãm sự
phát triển của thế giới vật chất.Do những tư tưởng ,đường lối sai lầm dẫn đến chiến ,
đến những chiến lược phát triển kinh tế không hiệu quả No kéo lùi sự phát triển của
xã hôị. ở một khía cạnh nào đó ta thấy những truyền thống ,những tâm tư tình cảm
của con người không phụ thuộc vào vật chẩt .Dựa vào đặc tính này của vật chất con
người có thể cố phấn đấu đi lên bắng lao động và học tập ,xây dựng đất nước và xã
hội giàu mạnh hơn ,công bằng hơn.
1.2 Tri thức khoa học và vai trò của nó trong sự phát triển xã hội.
1.2.1- Khái niệm về khoa học
Khoa học có nhiều định nghiã khác nhau. Với tính cách là một lĩnh vực đặc thù
của con người khoa học bao gồm hoạt động tinh thần, hoạt động vật chất, hoạt động
lý luận và hoạt động thực tiễn xã hội. Với tính cách là một hình thái xã hội, khoa học
là một hệ thống tri thức khái quát, được hình thành, phát triển và kiểm nghiệm trên cơ
sở thực tiễn. Khoa học phản ánh một cách chân thực các mối liên hệ bản chất, tất
nhiên, các quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Từ đó thấy rằng: Khoa học khác tôn giáo ở chỗ phản ánh một cách chân thực
hiện thực, sự hình thành, phát triển của thế giới khách quan và được kiểm nghiệm qua
thực tiễn; còn tôn giáo phản ánh hiện thực một cách hư ảo với niềm tin mù quáng xa
rời thực tiễn. Sự phản ánh của khoa học khác với các hình thái ý thức xã hội khác ở

Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
16
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
chỗ phản ánh đúng đắn, chân thực những gì đang diễn ra và đi sâu vào các mối liên
hệ bản chất, tất nhiên, các quy luật vận động phát triển của hiện thực. Hình thức biểu
hiện chủ yếu của khoa học là các khái niệm, phạm trù, quy luật.
Đối tượng nghiên cứu của khoa học bao hàm cả tự nhiên, xã hội và bản thân
con người, các lĩnh vực vật chất, tinh thần và cả các hình thái ý thức xã hội.
1.2.2- Vai trò của tri thức khoa học đối với sự phát triển của xã hội.
Khoa học hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất và hoạt động thực tiễn.
Vai trò của khoa học ngày càng tăng lên đối với sự phát triển của xã hội.
Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vai trò của nó thể
hiện ở chỗ khoa học trở thành điểm xuất phát, ra đời, những nghành sản xuất mới,
công nghệ mới, nguyên liệu mới. Khoa học trở thành yếu tố tri thức không thể thiếu
được của người lao động, biến người lao đọng thành người điều khiển kiểm tra quá
trình sản xuất. Đội ngũ các nhà khoa học, kỹ thuật viên trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất ngày một đông. Bản thân khoa học cũng trở thành một lĩnh vực hoạt
động sản xuất vật chất với quy mô ngày càng lớn.
Cùng với khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, các khoa học xã hội như
kinh tế học, luật học, xã hội học cũng không ngừng phát triển và đóng vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội. Khoa học không chỉ góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống mà còn giúp con người có đầu óc tư duy sáng tạo, tầm nhìn sâu
rộng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo vì phải nắm được cơ
sở khoa học thực tế thì mới hoạch định được chính sách, đường lối phát triển của
một tổ chức hay một quốc gia.
Tóm lại, có khoa học là bạn đồng hành thì xã hội ngày càng văn minh tiến bộ.
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
17
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
II. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC ĐỐI VỚI THỰC TIỄN NƯỚC TA

HIÊN NAY
2.1. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới, tri thức khoa học được xem là nền tảng và động lực
của sự phát triển đất nước. Những cơ sở khoa học cùng những luận cứ khoa học đã
giúp Đảng có một sự định hướng đúng đắn về đuường lối chính sách phát triển của
đất nước; vạch ra kế hoạch phát triển cho từng lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp, Nông
nghiệp, du lịch dịch vụ, Khoa học công nghệ Nói đến vai trò nền tảng và động lực
của tri thức Khoa học trong công cuộc đổi mới là nối đến con đường công nghiệp hoá
hiện đại hoá dựa trên cơ sở Khoa học và công nghệ, coi khoa học-công nghệ là lực
lượng sản xuất trực tiếp và hàng đầu. Quan điểm này cho tấy rõ sự quyết tâm và lựa
chọn sáng suốt của đảng ta trong đổi mới tư duy, đổi mới quan niệm và đổi mới
phương thức phát triển phù hợp với những đòi hởi phải tiến hành công nghiệp hoá đi
đôi với hiện đại hoá với tốc độ nhanh nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững trong những
thập niên đầu của thế kỷ 21.
Nhìn lại thế kỷ 20 đã qua chúng ta thấy có những đổi thay to lớn do khoa học-
công nghệ mang lại. Trên thế giới sự xuất hiện các nhóm nước mới công nghiệp hoá(
NIC ) sau chiến tranh thế giới tthứ 2 cũng không nằm ngoài ảnh hưởng lan toả của
các thành tựu khoa học - công nghệ thông qua quá trình chuyển giao công nghệ tiến
bộ bằng các chính sách công nghiệp và nông nghiệp khôn ngoan, các nước NIC đã
tận dụng được cơ hội tiếp thu nhanh chóng các công nghệ mới, thay đổi phương thức
sản xuất cũ vốn dựa trên lao động thủ công và tài nguyên chủ yếu để chuyển sang aps
dụng các kỹ thuật cơ khí hoá, tự động hoá theo hướng tạo ra các giá trị gia tăng cao
thúc đẩy sự phát triển, tăng trưởng kinh tế. Nhờ đi theo con đường công nghiệp hoá
dự hẳn vào Khoa học-công nghệ mà một số nước đã rút ngán được thời gian cần
thỉ\ết để làm tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người. Trước kia, nước Anh phải
mất 58 năm, Mỹ mất 47 năm thì giờ đây Braxin chỉ mất 18 năm, Hàn Quốc 11 năm
và Trung quốc chỉ trong vòng 10 năm. Ta có thể so sánh Hàn Quốc và Gana vào
những năm 60 và bây giờ. Điểm xuất phát hai nước đều có mức thu nhập bình quân
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
18

Tiểu luận triết học Mác – Lênin
đầu người như nhau, đều là các quốc gia chậm phát triển. Vậy mà ngày nay, thu nhập
đầu người của Hàn Quốc đã gấp 6 lần của Gana. vì sao có sự cách biệt lớn lao như
vậy? Đó là do Hàn Quốc đã thu nhận và sử dụng trí thức Khoa học sáng tạo và phù
hợp với thực tiễn hơn.
Thực tiễn trong những năm qua ở Việt Nam cho thấy: ở đâu có sự sáng tạo
trong công cuộc đổi mới các giải pháp về Khoa học-công nghệ thì ở đó có sự tiến bộ
vượt bậc. Thử hỏi nếu Việt Nam vẫn giữ nền kinh tế tập trung bao cấp chưa chuyển
sang nền kinh ế hàng hoá nhiều thành phần thì hiện giờ đất nước chúng ta sẽ ra sao.
Về Nông nghiệp sự sáng tạo của Đảng trong chính sách khoán áp dụng trong
nông nghiệp những năm 80 là một ví dụ điển hình cho thấy vai trò của chính sách
trong việc tạo ra mức tăng trưởng sản lượng kỷ lục về lương thực mà không có một
yếu tố sản xuất thông thường nào như: vốn, lao động, vật tư có thể mang lại. Chính
sách mới làm cho người lao động làm việc có trách nhiệm và năng nổ sáng tạo hơn.
Đảng đẩy mạnh và khuyến khích nông dân đưa khoa học-công nghệ vào sản xuất
như: sử dụng các loại giống mới, phân bón, máy móc sản xuất theo công nghệ cao
của thế giới; nâng cấp hệ thống thuỷ lợi bằng cách đầu tư, cải tạo, nâng cấp hệ thống
sông, đê ngăn chặn nước mặn lên biển. ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và vật liệu mới
trong thiết kế và thi công công trình là cho việc thực hiện công trình xảy ra nhanh
chóng đáp ứng kịp thời nhu cầu, lợi ích của bà con nông dân.
Về công nghiệp qua trình sáng tạo và triển khai chính sách mở cửa thu hút vốn
đầu tư nước ngoài đã dẫn tới sự ra đời của một khu vực kinh tế mới - Khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài rất năng động đang góp phần tạo ra trên 10% GDP, 30%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các công ty, xí nghiệp nhờ đi thẳng vào công nghệ
hiện đại mà đã đạt đước những thắng lợi ngoài cả sự mong đợi. Ví dụ điển hình là
công ty chế biến sữa Vinamilk từ tình trạng vô cùng khó khăn đã vươn lên sản xuất ra
được những sản phẩm cạnh tranh được với hàng nhập ngoại.
Trong các ngành, Bưu chính viễn thông, khia thác dầu khí và các ngành nghề
khác nhờ những quyết định táo bạo trong đầu tư vào Kỹ thuật công nghệ hiện đại mà
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17

19
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
đạt được mức tăng trưởng cao trong thời gian dài, ổn đinh. Văn hoá-giáo dục được
nâng cấp, đầu tư cơ sở một cách thoả đáng.
Thự tế cho thấy sau 15 năm đổi mới dựa vào tiềm năng của đất nước và sự trợ
giúp của Khoa học-Công nghệ chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Về kinh tế tổng sản lượng trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990.
Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình
trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay đã sản xuất đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của nhân dân. Nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế
thị trường định huqướng XHCN. Đời sống của nhân dân dần được cải thiện. Đất
nước đã ra khỏi khủng hoanmgr kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính
trị và sự hụt hẫng về thị trường. kinh tế tăng trưởng tương đối cao: Tổng sản phẩm
trong nước tăng bình quân 7% trong một năm; giá trị nông -lâm-ngư ngiệp tăng bình
quân 5,7%/ năm. trong đó: Nông nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4% và ngư nghiệp
tăng 8,9%. Công nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhịp độ tăng giá trị
sản xuất hàng năm 13,5%. Dầu tư sản xuất ra sản phẩm có triều sâu, đáp ứng được
nhu cầu trong nước và xuất khẩu. dịch vụ phát triển vứi giá trị trung bình là 6,8%/
năm. Lạm phát giảm đáng kể: Năm 1986 là 587,2% thì năm 1990 chỉ còn 52,8%.
Về chính trị xã hội nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn
1996-2000 đã có đóng góp tích cực trong phát triển lí luận và tổng kết thực tiễn xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thế kỷ 20. Nhờ kết quả nghiên cứu đã đóng
góp cho quá trình chuẩn bị các văn kiện hội nghị trung ương khoá VIII, xây dựng
chiến lược phát triển kinh tế xã hội những năm sau và đonmgs góp cho việc chenr bị
văn kiện Đại hội IX vừa qua. Khoa học xã hội còn đóng góp quan trọng và việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản dưới luật, các chính
sách và hiệp định quốc tế, trong đó có hiệp định thương mại Việt-Mỹ, khoa học xã
hội còn hướng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể bức xúc trong thực tiễn phát triển
kinh tế xã hội như: Vấn đề toàn cầu hoá, quốc tế hoá, công nghiệp hoá-hiện đại hoá
Các vấn đề tôn giáo, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ

quốc. Do vậy văn hoá phát triển lành mạnh với phương châm " Hoà nhập nhưng
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
20
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
không hoà tan ". Bên cạnh việc tiếp thu văn hoá thế giới chúng ta không quên giữ gìn
và phát huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Giáo dục ngày càng được
chú trọng. Các quốc gia phát triển đã rút ra một điểm quan trọng là: Giáo dục là con
đường ngắn nhất để phát triển để tiến tới nền kinh tế trí thức hay còn gọi là nền kinh
tế chất xám. ở Việt Nam từ năm 1997 đến nay, nhân lực Khoa học-Công nghệ cả
nước đã tăng 1,5 lần. Cán bộ Khoa học-Công nghệ có trình độ đại học đạt xấp xỉ 1,3
triệu và hàng năm bổ xung thêm khoảng 180 nghìn người. Cán bộ có trình độ tiến sĩ
đã tăng lên gần 13 nghìn vào năm 2000. Trình độ, năng lực cán bộ trong một số lĩnh
vực như nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, công trình điện, bưu chính viễn
thông, thăm dò và khai thác dầu khí đạt mức trung bình tiên tiến trong khu vực. Bắt
đầu từ năm 2000 chính phủ đã bố trí khoản ngân sách riêng để hàng năm chủ động
gửi sinh viên cán bộ Khoa học-Công nghệ có năng lực đi đào tạo dài hạn tại các nước
có nền Khoa học tiên tiến.
Khoa học-Công nghệ đã có khả năng làm chủ và thích nghi nhiều công nghệ
tiên tiến của nước ngoài trong các lĩnh vực như viễn thông, khai thác dầu khí, năng
lượng Nhiều vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đối với đất nước do thực tiễn
đặt ra được các lực lượng Khoa học-Công nghệ nghiên cứu và giải quyết như: Cơ sở
khoa học cho các phương án phòng chống thiên tai, các phương pháp sản xuất Vacxin
phòng bệnh
Rõ ràng, quan niệm về vai trò nền tảng và động lức phát triển của Khoa học -
Công nghệ đối với sự phát triển vừa có cơ sở thực tiễn trong nước vừa hợp với xu thế
phát triển chung của thế giới, khi lợi thế tương đối của các yếu tố lao động rẻ và tài
nguyên thiên nhiên đang chuyển dần sang các yếu tố tri thức Khoa học - Công nghệ.
2.2. Những yếu kém và hạn chế của Khoa học-Công nghệ ở nước ta hiện
nay.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được hoạt động Khoa học-Công nghệ ở nước

ta cũng còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội
trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và chưa thực sự
đóng vai trò động lực- nền tảng cho phát triển. Sau đây là một số biểu hiện:
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
21
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
- Tiềm lực Khoa học-Công nghệ vẫn còn ở mức thấp so với thế giới và khu vực
chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhu câù phát triển. Tỉ lệ cán bộ Khoa học - Công nghệ
trên tổng số dân chưa cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt,
còn thiếu rất nhiều chuyên gia đầu ngành, việc đào tạo và đào tạo lại tiến hành chậm,
nguy cơ hụt hẫng trong đội ngũ rất lớn, nhất là trong những ngành mũi nhọn như
công nghệ tin học, sinh học, cơ khí, chế tạo máy. Việc xếp loại các cơ quan Khoa
học-Công nghệ còn lúng túng, việc sử dụng đội ngũ trí thức còn lãng phí cơ sở vật
chất, trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học còn thấp xa so với nhu cầu thực tiễn.
- Cơ chế quản lí kinh tế chưa thực sự gắn kết các hoạt động Khoa học-Công
nghệ với kinh tế xã hội, tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi dào cho hoạt động
Khoa học-Công nghệ phát triển.
- Cơ chế quản lí Khoa học-Công nghệ chậm và chưa được đổi mới một cách
căn bản mặc dù tư tưởng đổi mới cơ chế quản lí đã xuất hiện từ rất sớm. Chưa có sự
liên thông giữa cơ chế quản lí kinh tế và cơ chế quản lí Khoa học - Công nghệ. Chưa
đảm bảo được quyền lợi vật chất và tôn vinh xứng đáng đối với các nhà khoa học có
cống hiến lớn. Cơ chế hình thành, quản lí, đánh giá các đề tài Khoa học-Công nghệ
vẫn còn nhiều khó khăn để có thể chuyển đổi theo tinh thần đổi mới của luật Khoa
học-Công nghệ.
- Thị trường Khoa học-Công nghệ còn manh nha chưa phát triển. Mặc dù giá
trị các hợp đồng kí kết giữa các cơ quan Khoa học-Công nghệ với các tổ chức kinh tế
xã hội, giữa trong nước và nước ngoài đang tăng lên nhưng vẫn chưa xứng đáng với
tiềm năng.
2.3. Những giải pháp cần thiết và cấp bách cho nền kinh tế Viêt Nam hiên
nay.

Việt Nam là nước đi sau có nhiều khả năng tiếp nhận những thành tựu Khoa
học-Công nghệ của thế giới. Do đó có thể rút ngắn được quá trình công nghiệp hoá-
hiện đại hoá đất nước ở các nước công nghiệp phát triển, kinh tế tri thức đang có
những bước phát triển mạnh. Việt Nam không chỉ phải tích cực chuẩn bị cho bước
phát triển này, mà cần phải tiếp nhận kinh tế tri thức ở những ngành, lĩnh vực mà ta
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
22
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
có khả năng, ưu thế. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực vừa đặt ra những thách thức
song cũng cho ta nhiều cơ hội để nâng cao trình độ Khoa học - Công nghệ và xây
dựng tiềm lực khoa học. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã vạch ra
chiến lược:
Phát triển đồng bộ các ngành khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất
kinh doanh, tạo điều kiện để Khoa học-Công nghệ thực sự là động lực phát triển, vừa
đảm bảo thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá vừa tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao. Đồng thời xây dựng tiềm lực Khoa học-Công nghệ, xây dựng cơ sở để từng
bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. cụ thể là một số giải pháp sau.
- Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến nghị quyết đại hội
IX của Đảng, nâng cao nhận thức toàn dân và các cấp, các ngành về vai trò nền tảng
và động lực của Khoa học-Công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá
đất nước.
- Hai là, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế quản lí kinh tế nhằm tạo lập môi
trường kinh tế-xã hội theo hướng tạo điều kiện, vừa khuyến khích, vừa ràng buộc các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào nghiên cứu đổi mới công
nghệ, đổi mới và nâng cao tính cạnh tranh thị trường trong nước và nước ngoài.
- Ba là, đưa luật Khoa học-Công nghệ vào cuộc sống rộng rãi hơn. Tiến hành
tổng kết thực tiễn hoạt động Khoa học-Công nghệ những năm qua và kịp thời thể chế
hoá những mô hình tốt, cách làm hay đã được thực tiễn thử thách và chứng minh.
Đồng thời tích cực đổi mới về cơ bản cơ chế quản lí Khoa học-Công nghệ ttheo tinh
thần luật Khoa học-Công nghệ để nhanh chongs nâng cao hiệu quả sử dụng các

nguồn lực Khoa học-Công nghệ.
- Bốn là, tháo gỡ các khó khăn, các ách tắc để mở rộng và phát triển khai thông
thị trường Khoa học-Công nghệ. đây là nhiệm vụ hết sức cấp bách, cơ bản và lâu dài,
để phát huy hết vai trò động lực của Khoa học-Công nghệ trong sự nghiệp công
nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
23
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
- Năm là, chú trọng và ưu tiên cho nghiên cứu và thực thi các chính sách sử
dụng và đãi ngộ nhân tài tri thức khoa học bên cạnh các biện pháp chăm lo đào tạo
nhân lực Khoa học-Công nghệ.
- Sáu là, Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng Khoa học-Công nghệ để nhanh
chóng hội nhập với thế giới và khu vực, đặc biệt là cơ sở hạ tầng về thông tin Khoa
học - Công nghệ, trang thiết bị nghiên cứu cho các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc
gia.
Đó là những giải pháp cho nền kinh tế nước ta hiện nay.
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
24
Tiểu luận triết học Mác – Lênin
KẾT LUẬN
Vật chất và ý thức ta thấy rằng chúng cũng có tính độc lâp và tác động qua lại
với nhau.Nếu ta áp dụng những tri thức khoa học để cải biến thế giới nó sẽ cho ta
những kết quả như ý muốn, những tri thức sai lầm luôn đưa ta đến thất bại.Vai trò của
tri thức khoa học ngày càng quan trọng. Đứng trước thế kỉ 21 - thế kỉ có nhiều biến
đổi sâu sắc và phổ biến trên tất cả các lĩnh vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Đây là thử thách đồng thời là thời cơ nghiệt ngã cho tất cả các quốc gia, dân
tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cả thế giới đang dần tiến tới xây dựng và
phát triển nền kinh tế tri thức. Nhờ áp dụng các kỹ thuật Khoa học-Công nghệ của thế
giới mà chúng ta có thể đi thẳng tới nền kinh tế tri thức mà không qua kinh tế công
nghiệp. Đó là sự lựa chọn hợp lí và đúng đắn. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng

nó để đưa tri thức khoa học vào tất cả các lĩnh vực hoạt động chứ không phải xây
dựng nền kinh tế tri thức riêng biệt cho một khu vực nào đó. Kinh tế tri thức theo
cách hiểu nào đó là của mọi người, nó phải được thẩm thấu vào trong mọi lĩnh vực
hoạt động kinh tế và xã hội. Đất nước Việt Nam đã đi qua chiến tranh thắng lợi rất vẻ
vang, vậy tại sao chúng ta không thể chiến thắng trong việc xây dựng và phát triển
đất nước? Nhất định chúng ta sẽ làm được và làm tốt bởi mang trong mình sức mạnh
đoàn kết dân tộc và bản tính thông minh lao động sáng tạo của con người Việt Nam.
Những thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Và bây giờ
nhiệm vụ của chúng ta là:
Tìm hiểu những tri thức mới, cập nhật và làm chủ những tiến bộ khoa học của
loài người.
Kiều Văn Thành – Lớp Cao học Đường ôtô & Thành phố K17
25

×