Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.46 KB, 19 trang )

1/ Đặt vấn đề :
Phật giáo với cái đích là cứu con người thốt khỏi nỗi khổ mn đời, với cứu
cánh là giải thốt, nhìn bề ngồi nó chỉ bàn về nhân sinh, nhưng để cho những quan
niệm nhân sinh này tồn tại một cách vững chãi, trãi dài hơn 2500 năm thì chúng ta phải
dựa trên một cơ sở triết học, một nền tảng lý luận vơ cùng sâu sắc .
Phật giáo đã đến với người Việt Nam từ rất lâu đời, vào khoảng nửa cuối thế kỷ
thứ I Do bản chất từ bi , hỷ xã , đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và bám rễ
vững chắc trên mảnh đất này.
Từ khi vào Việt Nam, đạo Phật đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần
của người Việt nói chung, quần chúng nhân dân ở đồng bằng Sơng Cửu Long nói riêng.
Bởi vì các triết lý nhà Phật xuất phát từ tâm tư và nguyện vọng của người dân lao động,
nên số người theo đạo Phật tăng lên rất nhanh theo thời gian. Trong thời đại ngày nay,
Phật giáo cũng như nhiều tơn giáo khác đang có nhiều vấn đề đặt ra trong mối quan hệ
nội sinh, cũng như các quan hệ đối ngoại giữa các tơn giáo và giữa tơn giáo với Nhà
Nước. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về tơn giáo, tín ngưỡng tơn giáo, nhằm
thực hiện phương châm “tốt đời đẹp đạo”.
Đối với Đồng bằng sơng Cửu Long, từ thế kỷ XVII, các cư dân ở nhiều nơi đã
hội tụ về đây sinh sống. Cũng từ đây Phật giáo hình thành, phát triển, và có vai trò quan
trọng đến đời sống tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân ở Đồng bằng sơng
Cửu Long. Đề tài: “Ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống tinh thần của một
bộ phận quần chúng nhân dân ở Đồng bằng sơng Cửu Long” giúp người viết hiểu
hơn về một trường phái triết học lớn và tìm hiểu truyền thống văn hóa của tổ tiên để lại.
2/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo, ảnh
hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần.
Phạm vi nghiên cứu : chỉ nghiên cứu những tư tưởng triết học Phật giáo cơ bản và
sự ảnh hưởng của Phật giáo trong một lĩnh vực ( đời sống tinh thần ), trong phạm vi một
vùng ( Đồng bằng sơng Cửu Long ).
3/ Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp nghiên cứu tiểu luận là phương pháp tổng hợp các phương pháp của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử , đặc biệt là logic và phân


tích, tổng hợp gắn với lý luận thực tiễn để thực hiện đề tài.
Mặc dù đề tài đã được chuẩn bị khá cơng phu, nhưng chắc chắn vẫn có sơ suất,
rất mong có sự đóng góp của q thầy hướng dẫn và các bạn đồng nghiệp. Tác giả chân
thành biết ơn.
4/ Cấu trúc tiểu luận:
Chương I: Sự ra đời của Phật giáo và những tư tưởng của triết học Phật giáo.
Chương II: Ảnh hưởng của Phật giáo đối với một bộ phận dân cư ở Đồng
bằng sông Cửu Long.
- 1 -
PHẦN MỞ ĐẦU
DUNG
Chương I :
SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ
NHỮNG TƯ TƯỞNG CUÛA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
I- SỰ RA ĐỜI CUÛA PHẬT GIÁO :
1/ Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo :
Điều kiện thiên nhiên Ấn Độ rất phức tạp. Địa hình vừa có nhiều núi non, vừa có
nhiều sông ngòi với nhiều đồng bằng trù phú, có vùng nóng ẩm mưa nhiều, có vùng
lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng sa mạc khô cằn, nóng nực. Tính đa
dạng và khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng
lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét lên tâm trí người dân Ấn Độ cổ.
Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xã hội rất sớm, khoảng thế kỷ thứ XXV TCN đã xuất
hiện nền văn minh đầu tiên là văn minh sông Ấn . Đến thế kỷ XV TCN, có sự xâm nhập
của người Arya vào khu vực của người bản địa (người Dravida ) hình thành nên các
quốc gia Ấn Độ tạo nên nền văn hóa mới gọi là văn hóa Véda.
Đặc điểm nỗi bậc của nền kinh tế - xã hội Ấn Độ cổ là sự tồn tại rất sớm và kéo
dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình “Công xã nông thôn” mà đặc trưng của kết
cấu này là ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước của các Đế Vương , mà gắn liền
với nó là sự bần cùng hóa của người dân trong công xã. Xã hội thời kỳ này được phân
chia thành 4 đẳng cấp lớn là : Tăng lữ, Quý tộc, Bình dân tự do, Nô lệ cung đình. Sự

phân chia đẳng cấp đó làm cho xã hội xuất hiện những mâu thuẩn gay gắt dẫn đến cuộc
đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy , nhiều tôn
giáo và trường phái triết học đã ra đời , trong đó có Phật giáo.
Sự xuất hiện của Phật giáo vào thế kỷ VI trước CN không tách rời cuộc đấu tranh
ấy, cũng như không tách rời sự phát triển của xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Phật giáo ra đời
trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà-la-môn và chế độ đẳng cấp,. Phật giáo lý
giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên,
đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bà-la-môn, đặc biệt là
chống lại quan điểm của kinh Véda, nên Phật giáo được xem là dòng triết học không
chính thống.
Phật giáo ra đời trước bối cảnh lịch sử của Ấn Độ có một nền triết học chịu ảnh
hưởng lớn của tư tưởng tôn giáo và ít có cuộc cách mạng lớn trong triết học. Trong triết
học Ấn Độ, quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm thường đan xen với nhau trong
một hệ thống triết học cũng như trong tư tưởng của một nhà triết học.
Ở một phương diện khác, xã hội đã xuất hiện tư tưởng hoài nghi, phủ nhận tất cả
những giá trị tôn giáo, nhân quả, đạo đức. Các phong trào tư tưởng đó hoặc dung hòa,
hoặc xung đột lẫn nhau làm cho nền học thuyết triết học Ấn Độ lâm vào một tình trạng
rối ren. Sống dưới một xã hội có thể chế giai cấp đầy bất công, tư tưởng tôn giáo lại rối
ren, con người không biết tin tưởng, bám víu vào đâu. Giữa hoàn cảnh bế tắc ấy, Đức
Phật xuất hiện như một mặt trời sưởi ấm buổi ban mai, làm tan đi bóng tối đen dày đặc
đã từ lâu che phủ cuộc đời. Ngài không chỉ là vị cứu tinh cho xứ Ấn Độ thời bấy giờ,
mà còn là người vạch ra hướng đi mới cho nhân loại.

- 2 -
PHẦN NỘI DUNG
2/ Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca :
Người sáng lập ra Phật Giáo là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất Đạt Đa
(Siddhattha), họ là Cù Đàm ( Goutama ), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa sinh ngày 15
tháng 4 năm 563 trước CN, là thái tử của vua Tịnh Phạn, một nước nhỏ nằm ở Bắc Ấn
Độ ( nay thuộc vùng đất Nepan ).

Mặc dù sống trong cảnh cao sang quyền q, dòng dõi Đế Vương, vợ đẹp con
ngoan. Nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự bất lực của
con người trước khó khăn của cuộc đời. Năm 29 tuổi, ơng quyết định từ bỏ con đường
Vương giả xuất gia tu đạo. Sau 6 năm tu hành, năm 35 tuổi, Tất Đạt Đa đã giác ngộ tìm
ra chân lý “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân dun”, tìm ra con đường giải thốt nỗi khổ
cho chúng sinh. Từ đó Người đã đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình và ơng đã
trở thành người sáng lập ra tơn giáo mới là Đạo Phật. Về sau ơng được suy tơn với
nhiều danh hiệu khác nha: Đức Phật, Thích Ca Mâu Ni, Thánh Thích Ca…
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý khắp nước Ấn Độ, năm ơng 80
tuổi thì qua đời và để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật Giáo vơ cùng q
báu.
3/ Sự truyền bá Đạo phật vào Việt Nam và Đồng bằng sơng Cửu Long :
Việc xác định niên đại Phật giáo du nhập vào Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có
đủ tư liệu để biết chính xác. Sử liệu chỉ nói đến tình hình Phật giáo nước ta từ thế kỷ thứ
II SCN, lúc bấy giờ trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu (vùng Dâu - Thuận Thành – Hà Bắc)
đã khá thịnh đạt. Điều đó khiến ta có thể suy đốn rằng Phật giáo từ phía Nam Ấn Độ
qua đường biển vào Việt Nam khoảng thế kỷ thứ I SCN. Các vị sư đầu tiên là người n
Độ, nhưng về sau lại thấy xuất hiện tên nhiều vị sư Trung Á và Trung Hoa. Có thể nói
rằng, ngay từ thời rất xưa, Việt Nam đã được cao tăng Ấn Độ đi đến truyền giáo trực
tiếp. Trải qua các Triều đại từ Đinh, Lê, Lý, Trần… đặc biệt là dưới hai triều đại Lý ,
Trần, Phật giáo đã để lại dấu ấn một thời vàng son.
Thế kỷ thứ VI, với sự phân chia Đàng trong, Đàng ngồi, đã là một mốc quan
trọng có ảnh hưởng đến lịch sử Phật giáo. Một phần nào đó sự ảnh hưởng của phía Bắc
đã được xem như khơng còn tác dụng đối với vùng đất Đàng trong. Đây cũng là một
trong những dấu ấn tạo điều kiện cho Phật giáo Đàng trong mang những nét đặc trưng
mới trong q trình phát triển sau này.
Người Việt đã di dân vào khai phá vùng đất phía nam Tổ Quốc, vùng đất đạo phật
có mặt từ rất sớm. Mặc dù theo chân đồn di dân, Đạo Phật có mặt trên vùng đất mới tại
mỗi khu vực thời gian có khác nhau, nhưng có thể tìm thấy 4 hướng chủ yếu :
+ Hướng thứ nhất, từ miền Thuận - Quảng, đều do các nhà sư từ miền Trung vào

thế kỷ thứ XVII, XVIII và XIX.
+ Hướng thứ hai, theo đường thủy từ Trung Quốc, Đạo Phật đã được các nhà sư
đến tận vùng Đồng Nai, Gia Định, Mỹ Tho truyền đạo (năm 1697). Những ngơi chùa ở
Mỹ Tho, Cai Lậy và các Phật đường sau này xuất phát từ các nhà sư Trung Quốc này.
+ Hướng thứ ba, đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu người Quảng Đơng, tự Chân Lạp
sang vùng đất mới đặt tên là Hà Tiên, dựng chùa Tam Bảo.
+ Hướng thứ tư, năm 1938, Hộ Tơng truyền bá Phật giáo Nam tơng từ Campuchia
vào Nam Bộ.
Từ 4 hướng chính, Phật giáo đã vào Nam Bộ vào các thế kỷ XVII, XVIII, XIX và
nửa đầu thế kỷ XX.
- 3 -
Đồng bằng sơng Cửu Long là vùng đất mới đối với lịch sử lâu đời của đất nước.
Đây là vùng hoang vu, nhiều thú dữ, với hệ thống kênh rạch chằng chịt, nhiều cá sấu,
lắm rắn rít và ngay cả những con vật nhỏ như muỗi, đĩa cũng gây nhiều phiền hà, khó
khăn cho cuộc sống. Tuy nhiên, bên cạnh mặt hoang vu, thú dữ và sự khắc nghiệt của
thiên nhiên, vùng Đồng bằng Sơng Cửu Long là vùng đất “cò bay thẳng cánh”, bát ngát
ruộng đồng phì nhiêu màu mỡ. Cảnh vật vừa thơ mộng lại vừa mang vẻ kỳ bí, hấp dẫn,
lơi cuốn tâm hồn con người muốn khai phá, tìm tòi, “mời gọi” cư dân từ các nơi khác
đến sinh sống.
Từ thế kỷ XVII, Đồng bằng sơng Cửu Long đã tiếp nhận nhiều thành phần cư dân
từ khắp nơi đến sinh sống. Họ mang theo nhiều nguồn “hành trang” tơn giáo – tín
ngưỡng. Vì thế các hình thức tơn giáo – tín ngưỡng ở khu vực này cũng phong phú,
nhưng Phật giáo vẫn là tơn giáo chủ đạo của người Việt, người Hoa, người Khơ-me ở
Đồng Bằng Sơng Cửu Long.
II- NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO
Tư tưởng triết học Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó được viết thành văn
thể hiện trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, gồm 3 Tạng kinh điển là :
Tạng kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan điểm về thế giới và
con người.
1/ Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan :

Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của
ba cặp phạm trù: Vơ ngã, Vơ thường, và Dun.
1.1- Vơ ngã : Cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người khơng phải do một
vị thần nào sáng tạo ra, mà được cấu thành bởi sự kết hợp giữa hai yếu tố: “Sắc” và
“Danh”.
Sắc : là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm giác được. Còn “Danh” là yếu tố tinh
thần, khơng có hình chất mà chỉ có tên gọi. Chính cái “Danh” và “Sắc” đó hợp lại với
nhau tạo thành “Ngũ uẩn”: Sắc (vật chất), Thụ (cảm giá), Tưởng (ấn tượng), Hành (suy
lý) và Thức (ý thức). “Danh” và “Sắc” tác động qua lại tạo nên vạn vật và con người.
Nhưng sự tồn tại của vật chất chỉ là tạm thời, khơng có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi
mãi. Do đó cũng khơng có cái gọi là “Tơi”.
1.2- Vơ thường : Nghĩa là vạn vật biến đơi vơ cùng theo chu trình bất tận: sinh-
trụ-dị-diệt. Vậy thì “có có”-“khơng khơng” ln hồi bất tận, “thống có”-“thống
khơng”, cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
Đức Phật dạy, “ Tất cả những cái gì trong thế gian đó là biến đổi, hư hoại, đều là
vơ thường”. Vì vậy vơ thường nghĩa là khơng thường, khơng mãi ở n trong một trạng
thái nhất định, ln ln thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi
tan rã.
Có người sai lầm cho rằng: Đạo phật nói vơ thường, phải chăng gieo vào lòng mọi
người những quan niệm chán đời, thối chí? Vì vậy, sự vật đã vơ thường thì khơng làm gì
cả, có siêng năng hoạt động kinh doanh đến đâu sự nghiệp rồi cũng khơng đi đến đâu
cả.
Vơ thường của đạo phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, để bài trừ
những sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó chưa phải là thuyết tuyệt đối.
- 4 -
Vơ thường là một định luật chi phối tất cả sự vật từ thân tâm cho đến hồn cảnh. Hiểu lý
vơ thường, con người dễ giữ được bình tĩnh, thản nhiên trước cảnh đổi thay bất ngờ.
1.3- Dun : Là điều kiện giúp cho ngun nhân trở thành kết quả.
Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến cái lớn
nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân dun. Trong đó dun là điều kiện giúp cho

ngun nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có dun mà trở thành nhân khác,
nhân khác lại nhờ có dun mà trở thành kết quả mới. Cứ như vậy mà tạo nên sự biến
đổi khơng ngừng của các sự vật, tn theo quy luật Nhân-Quả :
Nhân là cái mầm, quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai
trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu khơng có nhân thì khơng thể có
quả, nếu khơng có quả thì khơng thể có nhân. Nhân thế nào thì quả thế ấy, nếu ta muốn
có quả cam thì ta phải ươm hạt giống cam, nếu ta muốn có quả xồi thì ta phải ươm hạt
giống xồi. Khơng bao giờ ta trồng cam mà được xồi, hay trồng xồi mà được
cam.Người học vẽ thì biết vẽ, bác sỹ thì chữa bệnh, thầy giáo thì dạy học. Nói cách
khác nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau, hễ nhân đổi thì quả đổi.
Một nhân khơng sinh ra quả, sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp của nhiều
nhân dun. Cho nên khơng có nhân nào tự tạo thành quả được nếu khơng có sự giúp đở
của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt đậu sinh ra cây đậu là một cách nói giản dị, dễ hiểu.
Chứ thực ra hạt đậu khơng thể sinh ra gì được nếu để nó một mình giữa trống khơng,
thiếu khơng khí, ánh sáng, đất, nước,. . .
Trong nhân có quả, trong quả có nhân, chính trong hiện tại đã hàm chứa cái quả vị
lai, cũng chính trong cái quả hiện tại đã có hình bóng của nhân q khứ. Một sự vật mà
ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển hình thành ra cái quả mà ta mong muốn chờ
đợi. Một sự vật mà ta gọi là quả, là khi nó biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta
mong đợi, ước muốn. Mỗi vật vì thế đếu có thể gọi là nhân hay là quả đều được cả. Đối
với q khứ thì nó là quả, đối với tương lai thì nó là nhân.
Sự biến chuyển từ nhân đến quả có khi nhanh khi chậm, chứ khơng phải bao giờ
cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất. Vì lý do đó, chúng ta khơng nên nóng nảy,
hấp tấp mà cho rằng cái luật nhân- quả khơng hồn tồn đúng, khi thấy có những cái
nhân chưa phát sinh ra quả ngay.
Tóm lại: Triết học phật giáo bát bỏ quan niệm duy tâm cho rằng thần thánh sáng
tạo ra con ngưòi và vũ trụ. Phật giáo thừa nhận con người và sự vật được cấu thành từ
các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế giới trong sự biến đổi khơng ngừng.
Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng
rất đang trân trọng.

2/ Tư tưởng Phật giáo về nhân sinh quan :
2.1- Quan điểm triết học Phật giáo về nghiệp :
Nghiệp theo sát văn từ có nghĩa là hành động hay việc làm. Tư tưởng, lời nói hay
việc làm thường do ý muốn làm động cơ khởi xướng. Phật giáo gọi ý muốn hay ý chí ấy
là tác ý.
Nghiệp báo là một định luật nhân quả trong lĩnh vực ln lý, hay như người
phương Tây thường nói là “Ảnh hưởng của hành động”. Phật giáo khơng nhìn nhận có
một linh hồn trường cửu được tạo nên một cách ngẫu nhiên và độc đốn. Phật giáo tin
có định luật và cơng lý thiên nhiên, khơng phải do một đấng thượng đế tồn năng hay
một Đức phật đại từ đại bi tạo nên.
- 5 -
Có một vài người theo nhận thức riêng của mình, cho rằng thuyết nghiệp báo
trong Phật giáo là một loại nha phiến xoa dịu và ru ngủ con người xấu số. Đức phật
khơng hề dạy như vậy, thuyết nghiệp báo trong Phật giáo cũng khơng bao giờ chấp nhận
một cuộc sống phán xử sau kiếp sống.
Theo lý nghiệp báo, chúng ta khơng nhất định bị trói buộc trong một hồn cảnh
nào vì nghiệp báo khơng phải là số mạng cũng khơng phải là tiền định do một oai lực
quyền bí nào đã định đoạt cho ta một cách bất khả kháng. Chúng ta có đủ năng lực để
chuyển phần nào cái nghiệp của ta theo ý muốn.
Nghiệp khơng nhất thiết phải là hành động trong q khứ mà thơi. Nghiệp bao
trùm q khứ và hiện tại, là nơi trong q khứ chúng ta hành động như thế nào, và trong
tương lai chúng ta sẽ làm như thế nào cũng tùy nơi hành động chúng ta trong hiện tại.
Hiểu một cách khác nữa, ta phải thêm rằng, trong hiện tại chúng ta như thế nào khơng
hồn tồn bởi vì trong q khứ chúng ta đã như thế nào. Và trong tương lai chúng ta sẽ
như thế nào cũng khơng tùy thuộc nơi chúng ta như thế nào trong hiện tại. Hiện tại chắc
chắn là con đẻ của q khứ và là mẹ của tương lai. Nghiệp trong sự báo ứng vơ cùng
phức tạp, ta khơng thể nhìn hiện tại mà quả quyết q khứ và tương lai.
Tóm lại, tất cả nghiệp lực đều tùy thuộc nơi sự biến đổi của tâm lực và ln ln
sẵn sàng phát hiện trong mn ngàn hiện tượng mỗi khi có cơ hội. Nghiệp là một năng
lực cá biệt được chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Nghiệp thủ một vai trò quan trọng

trong việc cấu tạo tâm tính con người. Nghiệp giải thích những hiện tượng mà ta gọi là
vĩ nhân, thiên tài, thần đồng.
2.2- Quan điểm của phật giáo về thuyết “Tứ Diệu Đ ế” :
Nội dung triết lý nhân sinh của phật giáo đều thể hiện trong thuyết “Tứ Diệu Đế”,
được phật giáo coi là 4 chân lý vĩ đại. Thơng điệp Tứ Diệu Đế bao gồm cả hai mặt nhận
thức và hành động. Do đó con đường tu tập tứ đế khơng thể xét qua gốc độ nhận thức
mà vấn đề là mơ thức biện chứng của nó.
Đức phật trong suốt q trình đi tìm con đường giải thốt, những kinh nghiệm khổ
đau của bản thân đã trải qua là những kinh nghiệm sâu sắc. Do đó thuyết Tứ Diệu Đế
được xem như là một q trình biện chứng thực tại ngay trong đời sống của Người và
cái đỉnh cao tận cùng ấy được Đức phật giảng giải qua dạng thức của tứ đế trên cơ sở
tương quan nhân quả sinh vật, và đây chính là bằng chứng thực tại mà Đức phật đã di
qua. Vì thế nó khơng phải là mẫu thức lý tưởng, cũng khơng phải là bản sao chép từ
những ý niệm.
Tứ Diệu Đế được Đức phật giải minh thơng qua 4 tiền đề triết học cơ bản :
+ Tri ân thực tại ( khổ thánh đế )
+ Sự chuyển hướng tư duy ( tập thánh đế )
+ Sự chuyển hướng hai chiều ( diệt thánh đế )
+ Giai trình tư duy ( đạo thánh đế )
a/ Khổ Đế : Là thực trạng đau khổ của con người, triết lý về cuộc đời mỗi người
là một bể khổ, ràng buộc, hệ lụy, khơng có tự do. Có 8 cái khổ : sinh, lão, bệnh, tử, thụ
biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, sở cầu bất đắc, thụ ngũ uẩn. Khổ Đế là một chân lý, một
sự thật về bản chất cái khổ, ta có thể chia làm ba phương diện :
* Phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc, đau đớn. Con
người sinh ra đã khốn khổ, lớn lên già yếu, bệnh tật lại càng thêm khổ, và cuối cùng là
cái chết, sự tan rã cuối cùng của thể xác đem đến khổ thọ lớn lao.
- 6 -
* Phương diện tâm lý: Là sự đau khổ do khơng toại ý, khơng vừa lòng…, tạo nên
đau khổ. Những mất mác thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ.
* Phương diện Phật học : Khổ là thụ ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức). Khi

ta bám víu vào năm yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã của ta thì sự khổ đau có
mặt. ý niệm về “thân thể tơi”, “tình cảm tơi”, “tư tưởng tơi”, “nhận thức của tơi”… hình
thành một cái tơi ham muốn, vị kỷ, từ đó mọi đau khổ phát sinh đều gắn liền với ý niệm
về cái tơi ấy.
Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hồn
cảnh, sự khơng toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ đau là một
thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một chân lý khách quan hiện thực, khổ
hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân dun được tạo tác từ tâm thức. Như vậy
tri nhân thực tại là một cách trực tiêp đi vào soi sáng mọi hình thái khổ đau của con
người. Để thấu hiểu triệt để cái căn ngun của khổ đau, con người khơng thể dừng lại
ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội
tại của nó.
b/ Tập Đế : Nhân Đế
Triết lý về ngun nhân của sự khổ, có 12 ngun nhân gây ra sự đau khổ
( thập nhị nhân dun ) :
1. Vơ minh: Không sáng suốt, không nhận thức được chân lý.
2. Dun hành: là ý muốn thúc đẩy hành động. Nỗi khổ ý thức do hành động gây
ra, các cấu trúc thuộc hoạt động tác tạo của tâm lý thơng qua thân, miệng, ý.
3. Dun thức: Tri giác hiện hữu, tâm tư trong sáng trở nên u tối.
4. Dun danh sắc: Nổi khổ do sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần, danh
thuộc về tâm lý, sắc thuộc về vật lý. Sự hội tụ các yếu tố vật chấ và tinh thần sinh ra các
cơ quan cảm giác.
5. Dun lục nhập: Tiếp xúc thế giới xung quanh thơng qua các cơ quan cảm giác
và 6 trần cảnh ( hình thể, âm thanh, hương vị, mùi vị, xúc và pháp).
6. Dun xúc: Tiếp xúc thế giới xung quanh sinh ra các cơ quan cảm giác hay là
sự giao thoa căn, trần và thức.
7. Dun thụ: Sự kết hợp tất cả các yếu tố tạo nên con người.
8. Dun ái: Do u thích, luyến ái nảy sinh ham muốn, dục vọng.
9. Dun thủ: Do ham muốn rồi muốn chiếm thứ ấy của tâm, ý và thức.
10. Dun hữu: Nảy sinh hành động tạo nghiệp chiếm hữu hay tiến trình tương

dun để hình thành hiện hữu ( pháp ).
11. Dun sinh: Đã có tạo nghiệp, đã có nghiệp nhân ắt có nghiệp quả là sinh ra
ta.
12. Dun lão tử: Lão và tử là kết quả cuối cùng của q trình, đồng thời cũng là
ngun nhân của vòng ln hồi mới.
Như thế 12 nhân dun là hiện hữu của con người, đồng thời cũng là tiến trình
hiện hữu của con người từ sinh thành đến hủy diệt.Thập nhị nhân dun là triết lý về
ngun nhân của sự khổ, về nguồn gốc của sự khổ. Khi nhận thức được bản chất của sự
khổ một cách rõ ràng ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận khổ đau. Ngun nhân
của khổ có nguồn gốc sâu xa trong tâm tưởng của con người. Phật giáo cũng nhìn thấy
các ngun nhân đau khổ, có cái phát sinh từ vật chất hay hồn cảnh xã hội, nhưng
ngun nhân chính vẫn là tâm thức. Ngun nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vơ
- 7 -

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×