Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Ôn thi tốt nghiệp môn Kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.37 KB, 17 trang )

1
CÂU1: Trình bày những yếu tố sản xuất cơ bản của nền sản xuất xã hội: Các quy luật về tái sản
sản xuất ý nghĩa thự tiển các yếu tố đó.
Bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, kể cả nền sản xuất hiện đại, đều bao gồm ba yếu tố cơ
bản là: sức lao động của con người, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
-Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người, là điều kiện cơ bản của sản
xuất ơ bất kỳ xã hội nào. Nói cách khác, sức lao động là những năng lực của con người để
hình thành khả năng lao động sản xuất tạo ra những của cải vật chất và tinh thần cho đời
sống xã hội. Khi sức lao động hoạt động thì trở thành lao động. Lao động là hoạt động riêng
của loài người, nó khác về cơ bản với hoạt động bản năng của động vật …
Năng lực đó gồm hai loại: thứ nhất được gọi là thể lực, đó là năng lực để duy trì lao
động có tính thể lực của con người, nó bao gồm thể chất và khí chất. Trong đó thể chất là
năng lực nội sinh của con người đảm bảo năng lượng cần thiết cho người trong quá trình lao
động, thường được biểu hiện ra bằng tình trạng sức khỏe của mỗi người. Khí chất là năng
lực về mặt tâm lý để hình thành cá tính của mỗi người trong hoạt động. Thứ hai là trí lực,
đó là năng lực sáng tạo của con người, là cơ sở cho hoạt động trí tuệ, thường bao gồm những
kinh nghiệm, những tri thức đã được tích lũy cùng với khả năng vận dụng những kinh
nghiệm và tri thức đó trong quá trình hoạt động.
Yếu tố thể lực không thể thiếu đối với sức lao động, nhưng là yếu tố có giới hạn cả về
mặt tự nhiên cũng như về mặt xã hội. Năng lực sáng tạo của con người khác với yếu tố sản
xuất vật chất khác ở chỗ nó không mất dần đi trong quá trình sử dụng mà chỉ mất đàn đi khi
không được sử dụng. Càng sử dụng lại càng có năng lực cao hơn. Không những thế, chính
năng lực sáng tạo của con người mới làm cho quá trình lao động của con người khác với
những hoạt động có tính bản năng của thế giới sinh vật.
Thể lực và trí lực của một sức lao động nào đó phải thỏa mãn được những yêu cầu về
trình độ ở mỗi một giai đoạn pháùt triển thì mới được coi là một sức lao động thực sự trên
thực tế.
- Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động vào nhằm cải
biến chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đối tượng lao động gồm có: Loại có sẵn trong tự
nhiên mà lao động của con người chỉ cần tách nó khỏi môi trường tồn tại của nó là có thể sử
dụng được, như gỗ trong rừng nguyên thủy, cá ngoài biển, than ở mỏ… Loại đã có sự tác


động của lao động gọi là nguyên liệu, như thép thỏi trong nhà máy cơ khí, gỗ ở xưởng mộc
… Với sự pháùt triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, con người ngày càng tạo ra nhiều đối
tượng lao động có chất lượng mới.
- Tư liệu lao động là toàn bộ là những vật mà con người dùng để tác động vào đối tượng
lao động, để truyền dẫn lao động của mình tới đối tượng lao động làm biến đổi chúng theo
yêu cầu của mình. Tư liệu lao động gồm: Công cụ lao động là bộ phận quan trọng nhất của
2
tư liệu lao động, nó tác động trực tiếp với đối tượng lao động, quyết đònh trực tiếp năng suất
lao động. Trình độ công cụ lao động là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại
kinh tế. Hệ thống các yếu tố vật chất phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất như băng
chuyền, ống dẫn, cần trục, bể chứa… Những yếu tố vật chất khác không tham gia trực tiếp
quá trình sản xuất, nhưng có tác dụng quan trọng đến toàn bộ nền sản xuất xã hội, như
đường sá, các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, … gọi chung là kết cấu hạ
tầng của sản xuất xã hội. Nên sản xuất càng hiện đại, càng đòi hỏi kết cấu hạ tầng sản xuất
pháùt triển và hoàn thiện.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động là các yếu tố vật chất của quá trình sản xuất;
chúng hợp thành tư liệu sản xuất. Quá trình lao động là quá trình kết hợp và tác động của
các yếu tố sản xuất nói trên, tức của sức lao động và tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất là đối tượng chiếm hữu quan trọng nhất, vì ai là người chiếm hữu
những tư liệu sản xuất thì người đó là người chủ của quá trình kinh tế và nền kinh tế.
Đối tượng lao động có thể là những yếu tố vật chất, phi vật chất; có thể do con người
tạo ra hoặc tự nhiên tạo ra và một yếu tố nào đó có thể là đối tượng lao động của nhiều
ngành sản xuất khác nhau.
Trong tư liệu lao động, hệ thống máy móc công cụ được xác đònh có vai trò quan trọng
nhất, nó được phân biệt các thời đại kinh tế với nhau, theo thời gian chúng sẽ ngày càng
hiện đại, nhờ đó mà quá trình lao động của con người ngày càng gián tiếp hơn và năng suất
lao động ngày càng cao hơn. Nhưng dù đạt tới trình độ hiện đại như thế nào, lao động bao
giờ cũng là lao động của con người, con người sử dụng máy móc chứ không phải máy móc
sử dụng con người.
Sự phân biệt đối tượng lao động và tư liệu lao động cần phải đặt chúng trong những

quan hệ nhất đònh, vì yếu tố nào đó có thể trong trường hợp này là đối tượng lao động,
nhưng trong trường hợp khác có thể là tư liệu lao động.
Sự pháùt triển của nền sản xuất xã hội gắn liền với sự pháùt triển của hoàn thiện của các
yếu tố sản xuất. Quá trình chuyển biến nền sản xuất nhỏ, lạc hậu sang nền sản xuất lớn,
hiện đại đòi hỏi pháùt triển đồng bộ cả ba yếu tố sản xuất của mục tiêu cuối cùng là trang bò
công nghệ hiện đại, tiên tiến trong các lónh vực của nền sản xuất xã hội.
Trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, sức lao động luôn luôn là yếu tố cơ bản,
có tính chất quyết đònh. Tuy nhiên, bản thân sức lao động có sự biến đổi căn bản về chất
lượng phù hợp với trình độ của tư liệu sản xuất. Nếu trong nền sản xuất thủ công, trình độ
sức lao động chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và sức cơ bắp thì trong nền sản xuất hiện đại,
trình độ sức lao động dựa vào trí tuệ, tri thức và “chất xám” nói chung. Trong nền sản xuất
hiện đại, kho tàng trí tuệ trở thành tài nguyên quý giá nhất của mỗi dân tộc. Do đó, giáo
dục và đào tạo được nhiều quốc gia coi là quốc sách; ở nước ta, vấn đề này được đặt vào
3
quốc sách hàng đầu. Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng ta chủ trương: “pháùt triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người-yếu tố cơ bản để pháùt triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.” (văn kiện Đại hội IX, trang 108).

Chủ đề 2: Kinh tế hàng hóa. Mối quan hệ kinh tế thị trường với q trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội nói chung và với định hướng XHCN ở Việt Nam
Bài làm

Trong thời kỳ q độ lên CNXH ở Việt Nam, sự tồn tại của sản xuất hàng hóa là tất
yếu khách quan. Thị trường gắn liền với q trình sản xuất và lưu thơng hàng hóa, vì vậy thừa nhận sản
xuất hàng hóa khơng thể phủ định sự tồn tại khách quan của thị trường. Nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN đã được Đảng ta khẳng định về lý luận và đang tồn tại phát triển ở Việt Nam.
Trong kinh tế hàng hóa giản đơn, người sản xuất trực tiếp là người sở hữu tư liệu sản
xuất, hoặc thuê tư liệu sản xuất để sản xuất, làm cho sản xuất pháùt triển. Dưới sự trao
đổi của quy luật giá trò, sự biến động của giá cả, của cạnh tranh đã làm phân hóa

những người sản xuất thành người giàu, trở thành ông chủ, và những người nghèo trở
thành người làm thuê. Thêm vào đó, quá trình tích lũy ban đầu của tư bản bằng bạo lực
đã tạo thêm điều kiện để người giàu có đủ điều kiện để xây dựng nhà máy, mua
nguyên vật liệu và thuê công nhân sản xuất nhằm thu về lợi nhuận, phương thức sản
xuất tư bản chủ nghóa được hình thành.
Như vậy phương thức sản xuất tư bản chủ nghóa ra đời từ sự chuyển kinh tế hàng hóa
giản đơn thành kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghóa phải có hai điều kiện: có sự tập
trung một số tiền lớn vào trong tất yếu một số ít người đủ để lập ra các xí nghiệp; có
một lớp người tự do, không phải là nô lệ, họ không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán
sức lao động cho nhà tư bản.
Trong người sản xuất tư bản chủ nghóa, người sản xuất trực tiếp là những công nhân
làm thuê, không phải là người sở hữu tư liệu sản xuất, còn tư liệu sản xuất thuộc nhà tư
bản, sản phẩm lao động do công nhân làm thuê tạo ra thuộc về chủ sở hữu tư liệu sản
xuất.
Đối với nước ta, trước đổi mới, chúng ta chưa nhận thức đúng hai điều kiện của kinh
tế hàng hóa, phân công lao động bất cập, còn đối xử phân biệt giữa các hình thức sở
hữu, có ích sở hữu tư nhân là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghóa. Do đó làm cho kinh tế
đất nước chậm pháùt triển.
Sang thời kỳ đổi mới, chúng ta đã làm tốt hai điều kiện trên, với việc tổ chức phân
công lại lao động xã hội , với việc thực hiện tốt đa dạng hóa các hình thức sở hữu đang
4
đóng góp tích cực cho người sản xuất nước ta pháùt triển đi lên đònh hướng xã hội chủ
nghóa.
Có ý kiến nói kinh tế hàng hóa chỉ tồn tại và pháùt triển trong nền kinh tế có chế độ tư
hữu là chưa đúng và chưa đủ.
Kinh tế hàng hóa xuất hiện cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
trong quá trình pháùt triển kinh tế của xã hội loài người. Song, nó tồn tại, pháùt triển và
ngày càng hoàn thiện qua một số phương thức sản xuất tiếp theo pháùt triển phổ biến
nhất, pháùt triển cao nhất trở thành hình thức sản xuất hàng hóa điển hình, nổi bật
trong lòch sử là trong giai đoạn pháùt triển tư bản chủ nghóa và nó tiếp tục tồn tại, pháùt

triển ngay dưới chế độ xã hội chủ nghóa khi mà chế độ tư hữu đã không còn thống trò,
chế độ công hữu đã được hình thành củng cố và lớn mạnh.
Tóm lại, chỉ đúng khi kinh tế hàng hóa mới ra đời. Nó không còn đúng trong chủ
nghóa tư bản, chủ nghóa xã hội, vì kinh tế hàng hóa không những tồn tại trong chủ
nghóa tư bản tiến lên chủ nghóa xã hội, nó vẫn tồn tại và hoàn thiện cao hơn. Vì vậy,
câu này không đúng và không đủ.
Để khẳng định kinh tế thị trường khơng đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển
của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho cơng cuộc xây dựng CNXH và
cả khi CNXH đã được xây dựng chúng ta hãy phân tích làm rõ tính tất yếu khách quan của
việc phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ q độ đi lên chủ nghĩa xã hội và mối quan hệ
kinh tế thị trường với q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và định hướng XHCN ở Việt
Nam.
1- Trước hết ta nói qua kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó tồn bộ các yếu tố “đấu
vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thơng qua thị trường.
Trong nền kinh tế hàng hóa, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện
thơng qua quan hệ mua – bán hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Mục đích của các thành viên tham gia thị
trường là tìm kiếm lợi ích (lợi nhuận) cho chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường hay “bàn tay vơ
hình”.
Ta biết, kinh tế thị trường xuất hiện như là một u cầu khách quan khơng thể thiếu được của nền
kinh tế hàng hóa. Xét về mặt lịch sử, kinh tế hàng hóa có trước kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hóa ra đời, thị
trường xuất hiện nhưng khơng có nghĩa là đã có kinh tế thị trường. Chỉ với sự tăng trưởng của kinh tế hàng
hóa, thị trường được mở rộng, phong phú, đồng bộ và khi các quan hệ thị trường tương đối hồn thiện mới
có kinh tế thị trường. Như vậy, kinh tế thị trường khơng phải là một giai đoạn khác biệt, độc lập đứng ngồi
kinh tế hàng hóa mà là giai đoạn cao của kinh tế hàng hóa.
Từ khi kinh tế thị trường ra đời cho đến nay, có thể khái qt có ba mơ hình: Kinh tế thị trường tự do
cạnh tranh, Kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước.
5
Thực tiễn đã chứng minh, cả hai mô hình kinh tế thị trường đầu tiên đều có nhiều hạn chế và kém

hiệu quả, vì thế ngày nay các nước trên thế giới chuyển sang mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh với
sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
2- Vậy, kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không?
Trước đây, ở các nước XHCN nói chung và Việt Nam ta nói riêng, đã tồn tại phổ biến
quan điểm sai lầm cho rằng: chủ nghĩa xã hội đối lập với kinh tế thị trường, phát triển kinh tế
thị trường là đi chệch hướng XHCN - tức là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, quay lưng
lại với CNXH. Nguyên nhân dẫn đến sai lầm trên chủ yếu là do nhận thức không đúng về
điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa thị trường và do chủ quan duy ý chí nên đã
hiểu sai và vận dụng không đúng một số luận điểm của Mác và Ăngghen
Về mặt lý luận, cần khẳng định rằng kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của
kinh tế hàng hóa. Những phạm trù gắn liền với nó là : thị trường, lợi nhuận, cạnh tranh, cung
- cầu, giá cả … phản ánh mối quan hệ chung, bản chất của chính bản thân nền sản xuất
hàng hóa. Trước đây, khi nghiên cứu các điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
là phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, quan điểm lý luận của
các nước XHCN đã quá nhấn mạnh chế độ tư hữu là nguồn gốc sản sinh ra chủ nghĩa tư
bản nên từ đó đi đến kết luận sai lầm rằng việc xây dựng CNXH là xóa bỏ chế độ tư hữu, vì
vậy cũng không còn nền sản xuất hàng hóa, thị trường nữa. Thực ra, sản xuất hàng hóa
bao giờ cũng tồn tại trong một chế độ xã hội nhất định, vì vậy mục đích, tính chất và phạm vi
giới hạn của sản xuất hàng hóa còn bị chi phối bởi quan hệ sản xuất của phương thức sản
xuất thống trị, sự phát triển của những quan hệ kinh tế quốc tế. Các phạm trù hàng hóa, thị
trường chịu sự tác chịu sự tác động của những quan hệ KT-XH nhất định trong từng chế độ
xã hội khác nhau và hình thành nên các phương thức sản xuất hàng hóa khác nhau, như
sản xuất hàng hóa giản đơn, sản xuất hàng hóa TBCN, sản xuất hàng hóa XHCN. Do đó sẽ
sai lầm nếu đồng nhất nền kinh tế thị trường với CNTB, với kinh tế thị trường TBCN. Thực
tiễn nền kinh tế thị trường thế giới cho thấy: các nước khác nhau có trình độ kinh tế, kết cấu
xã hội, phong tục tập quán và truyền thống khác nhau nên cùng một mô hình hình kinh tế thị
trường nhưng có các thể chế kinh tế khác nhau. Không chỉ có các nước TBCN mới phát
triển nền kinh tế thị trường, mà các nước XHCN cũng phát triển nền kinh tế thị trường (ví dụ
nền kinh tế thị trường XHCN mang mầu sắc Trung Quốc ở Trung Quốc). Như vậy, không
có nền kinh tế thị trường nào là “bản sao” của nền kinh tế thị trường khác, mỗi nước cần tìm

ra cho mình một thể chế kinh tế thị trường phù hợp.
Khi nhấn mạnh phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của sản xuất hàng hóa,
C.Mác đồng thời chỉ rõ rằng trong các công xã ở Ấn Độ và trong các công xưởng hiện đại,
tuy lao động đã có sự phân công lao động xã hội, nhưng các sản phẩm lao động đó chưa
trở thành hàng hóa vì “Chỉ có sản phẩm của những người lao động tư nhân độc lập và
không phụ thuộc nhau mới đối diện vơi nhau như là hàng hóa" (C.Mác và Ăngghen: toàn
tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993, t23, tr72).
Người lao động tư nhân độc lập có thể là một người lao động cá thể hay là một lao
động tổng thể (xí nghiệp, công ty, liên hiệp xí nghiệp … ) mà chỉ sản phẩm của cả tập thể
mới trở thành hàng hóa. Xét trong phạm vi toàn xã hội thì lao động của mỗi lao động cá thể
hay tổng thể trước hết biểu hiện ra là lao động tư nhân, sản phẩm được tạo ra trước hết
6
thuộc quyền sở hữu của mỗi tư nhân đó (không kể yếu tố đầu vào thuộc quyền sở hữu của
họ hay là họ đi vay, đi thuê) và được xã hội thừa nhận.
Sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một nhân tố làm cho lao động của
người sản xuất biểu hiện thành lao động tư nhân độc lập và cùng với sự phân công lao
động xã hội ngày càng sâu rộng đã thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Nhưng theo đà
tăng trưởng của lực lượng sản xuất, nảy sinh xu hướng tách quyền sở hữu về mặt pháp lý
khỏi quyền chiếm hữu và sử dụng tư liệu sản xuất. C.Mác đã phân thành hai quyền: sở hữu
danh nghĩa hay chiếm hữu và sở hữu có tính cách pháp lý. Trong thời đại ngày nay, người
sản xuất hàng hóa có thể chỉ là người sở hữu danh nghĩa. Tính chất tư nhân, độc lập của
lao động sản xuất hàng hóa không phụ thuộc vào quyền sở hữu về pháp lý mà chủ yếu phụ
thuộc vào quyền chiếm hữu thực tế hay quyền sử dụng tư liệu sản xuất – họ vẫn là những
người có quyền chiếm hữu kết quả sản xuất.
Khi nói về giai đoạn thấp của Chủ nghĩa Cộng sản, tức là trong giai đoạn CNXH, C.Mác
đã nhấn mạnh: đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội TBCN, do đó là một xã hội về mọi
phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt
lòng ra. Như vậy, làm sao xóa được ngay cái “dấu vết” đặc trưng của CNTB là kinh tế hàng
hóa, kinh tế thị trường. Trong giai đoạn XHCN, mỗi người lao động vẫn còn phải lệ thuộc
vào sự phân công của lao động xã hội, vẫn còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao

động trí óc; lao động vẫn là phương tiện để sinh sống chứ chưa trở thành nhu cầu bậc nhất
của mỗi người, sức sản xuất của xã hội chưa đạt đến mức của cải tuôn ra dào dạt để phân
phối theo nhu cầu, thì vẫn phải đi con đường vòng thực hiện phân phối thông qua trao đổi
hàng hóa.
Từ những phân tích trên cho thấy quan điểm cho rằng CNXH đối lập với kinh tế thị
trường là quan điểm sai lầm, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng, là đặc trưng
của CNTB. Đó là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại. Thực tiễn đã dạy rằng “Sản
xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả
khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII).
3- Về nhận thức: kinh tế thị trường cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Ta đã biết, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường. Trong thời
kỳ quá độ, các chủ thể tham gia thị trường thuộc nhiều thành phần kinh tế. Và như vậy,
trong thị trường thống nhất luôn tồn tại các lợi ích kinh tế khác nhau, mâu thuẫn với nhau.
Nhà nước XHCN thông qua các chính sách, pháp luật và các công cụ kinh tế khác để điều
tiết thị trường, quản lý thị trường, làm cho thị trường lành mạnh, phong phú và sống động.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường trực tiếp hướng dẫn các doanh nghiệp lựa chọn
lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy mô, công nghệ và hình thức tổ chức sản xuất – kinh
doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Sự phát triển của thị trường có tác dụng: kích thích sản
xuất và lưu thông hàng hóa phát triển; kiểm tra mức độ thỏa mãn nhu cầu và khả năng sản
xuất. Với tác dụng như trên, thị trường được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy sản
xuất và lưu thông hàng hóa phát triển.
7
Ở Việt Nam ta, từ sau Đại hội Đảng lần VI, đã có sự đổi mới về nhận thức, từ việc coi
kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là đối lập với CNXH sang nhận thức kinh tế thị trường
không những không đối lập mà nó còn cần thiết cho quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Ta đã biết, kinh tế thị trường là thành tựu văn minh của nhân loại, là phương thức làm
kinh tế hiệu quả hơn so với mô hình kinh tế điều tiết hành chính trực tiếp (phi thị trường) mà
trước đây chúng ta đã áp dụng. Ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, sự tồn tại và

phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan do những điều kiện chung để kinh tế
hàng hóa xuất hiện vẫn còn tồn tại. Những điều kiện chung đó bao gồm :
- Hiện nay, mặc dù lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp nhưng đã có sự phân công
xã hội. Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn còn tồn
tại và ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, phân công lao động trong từng khu
vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động
được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chuyên môn sâu của các ngành nghề ở nước
ta, chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường
- Nền kinh tế nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế như các thực thể kinh tế độc lập.Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu
của nhiều thành phần kinh tế khác nhau tạo nên sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể kinh tế
độc lập, cũng như điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Trong những điều kiện đó, việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau thông
qua con đường thỏa thuận, mua bán là một tất yếu.
Đại hội Đảng lần IX đã khẳng định mô hình nền kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN. Sự lựa chọn đó xuất phát từ những lợi ích của việc
phát triển kinh tế xã hội đem lại cho nước ta. Sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta có
những lợi ích như sau :
- Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất phải XH hóa, chuyên môn hóa lao động, làm cho phân công lao động phát triển
nên đòi hỏi phải hợp tác trao đổi hàng hóa. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận
lợi trong nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường
- Chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế thị trường mới làm cho nền
kinh tế nước ta phát triển năng động, bởi vì :
+ Cơ chế thị trường là một cơ chế tự vận động của thị trường theo quy luật nội tại vốn
có của nó, trong đó có một loạt các quy luật kinh tế cùng đồng thời vận động và quan hệ
hữu cơ với nhau. Sự tác động của các quy luật giá trị, cạnh tranh, sự vận động của quy luật
cung - cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật lợi nhuận.… đã tạo sự tác động tổng hợp có
tác dụng tích cực trong nền SX hàng hóa, nó có tác dụng lựa chọn các tiến bộ, đào thải cái

lạc hậu, trì trệ, kém phát triển. Vị vậy, kinh tế thị trường đòi hỏi người sản xuất phải tích cực,
năng động, thường xuyên cải tiến kỹ thuật và tổ chức quản lý nhằm phục vụ tốt nhất cho
nhu cầu thị trường, nó có tác dụng trực tiếp hướng dẫn các doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vực
hoạt động, mặt hàng, quy mô, công nghệ và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm
8
đạt hiệu quả cao nhất. Nhờ vậy, sự phát triển của kinh tế thị trường có tác dụng kích thích
sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển.
+ Phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lý và
lao động có trình độ cao. Muốn thu nhiều lợi nhuận, họ phải vận dung nhiều biện pháp để
quản lý kinh tế, ứng dụng nhanh những thành tựu khoa học kỹ thuật để nâng cao sức sản
xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó, nhờ đó
có ưu thế trong cạnh tranh và thu lợi nhuận siêu ngạch nhiều hơn. Qua các cuộc cạnh tranh
trên thị trường, những nhân tài quản lý kinh tế và lao động thành thạo xuất hiện ngày càng
nhiều và đó là dấu hiệu quan trọng cho tiến bộ kinh tế. Kinh tế thị trường cũng mang lại tính
dân chủ, xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi thành viên khi tham gia vào một quá
trình kinh tế.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường là phù hợp với sự phát triển nền sản xuất sản xuất
xã hội, cũng có nghĩa là sản xuất xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng như cầu đa dạng
của mọi người. Thông qua thị trường, nhu cầu tiêu dùng của xã hội sẽ được thỏa mãn. Sự
tiêu dùng của nhân dân sẽ tái tạo nhu cầu, kích thích nhu cầu mới đòi hỏi sản xuất phải đáp
ứng. Thị trường có tác dụng kiểm tra mức độ thỏa mãn nhu cầu và khả năng sản xuất. Nó
còn là nơi so sánh giá trị hàng hóa, do đó thúc đẩy người sản xuất tìm mọi cách giảm tiêu
hao lao động xã hội, giảm giá thành hàng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Với tác
dụng như trên, thị trường được coi như là một đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy sản xuất
và lưu thông phát triển .
- Quan hệ hàng hóa - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt
trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc vì mỗi nước
là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị
trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thấy chỉ có kinh tế thị trường mới có khả năng

tạo ra điều kiện cơ sở vật chất, tinh thần cho sự phát triển của mỗi người, tạo điều kiện cho
sự phát triển của mọi người. Việc vận hành cơ chế kinh tế hàng hóa thị trường trong thời kỳ
quá độ lên CNXH trong giai đoạn hiện nay là một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền
kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó
là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm
năng đất nước để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh tế hàng hóa, kinh
tế thị trường không đối lập với các nhiệm vụ KT-XH của thời kỳ quá độ lên CNXH mà trái lại
thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mẽ. hực tế trong thời gian vừa qua, việc chuyển
sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy luật. Nhờ đó kinh
tế nước ta phát triển và tăng trưởng khá cao. Bước đầu khai thác có hiệu quả tiềm năng
trong nước, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ
thuật và xã hội, đời sống của nhân dân ta từng bước được cải thiện.
4- Những nguyên tắc đảm bảo cho kinh tế thị trường đảm bảo định hướng XHCN
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), lần đầu tiên nêu lên khái niệm nước ta đang thực
hiện "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Vậy đặc trưng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là gì ?
9
Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không
phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản, tức là không phải kinh tế
thị trường TBCN nhưng cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN. Bởi chúng ta còn
đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái
mới, vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta một mặt vừa có nguyên tắc, tính chất chung của nền kinh tế thị trường. Theo nhiều
nhà nghiên cứu khoa học thì kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ
chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên
cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH thực hiện trên cả
3 mặt : sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Do đó kinh tế thị trường định hướng XHCN phải có những nguyên tắc đặc trưng, bản
chất như sau :
* Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường :


Trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường ở
nước ta so với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu KTXH
mà nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động và phát
triển nền kinh tế.
- Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là dùng cơ chế thị
trường, sử dụng các hình thức và quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất
khuyến khích tinh thần năng động sáng tạo của người lao động,giải phóng sức sản xuất,
động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nhưng là để đi lên CNXH, không để cho thị trường tự
phát theo con đường TBCN .
- Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng lấy sản xuất gắn
liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói giảm nghèo.
* Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.
Trong kinh tế thị trường TBCN thì sở hữu tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị, còn
trong kinh tế thị trường của chúng ta mặc dù cũng có nhiều thành phần kinh tế, trong đó có
cả kinh tế tư bản, kinh tế tư nhân nhưng giữ vai trò chủ đạo vẫn là sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất, tức là công hữu bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và phần của kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể trong các cơ sở kinh tế liên doanh hỗn hợp - dần dần trở thành
nền tảng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kể cả sở hữu những ngành then chốt, kể cả
tỷ trọng trong nền kinh tế
Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là
sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị
trường TBCN. Ở đây, ta cần nhận thức rõ ràng, mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên CNXH có bản chất kinh tế xã hội riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng
nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn có những khác biệt và mâu
thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những
10

phương hướng khác nhau. Vì vậy, nền kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển
có hiệu quả, để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình, đồng thời nhà nước phải thực hiện
tốt vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN.
* Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
XHCN :
Tuy nền kinh tế thị trường có nhiều điểm tích cực nhưng nền kinh tế thị trường
cũng có những khuyết tật như : mang tính tự phát, bất ổn định, chạy theo lợi nhuận nên gây
ra những hiện tượng tiêu cực như : hàng giả, lừa dối, trốn thuế và các hiện tượng kinh tế
ngầm khác. Vì vậy, đi đôi với phát triển kinh tế thị trường phải có sự kiểm soát, quản lý của
nhà nước . Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cũng như kinh tế thị trường ở
các nước TB đều có sự quản lý của nhà nước nhưng 2 nhà nước khác nhau về chất. Trong
quản lý nhà nước tư sản chủ yếu bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, trước hết là những
tập đoàn tư bản lớn. Còn nhà nước chúng ta là nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do
dân vì dân, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, kết hợp
định hướng và cân đối của kế hoạch với tính năng động và nhạy cảm của thị trường. Thị
trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan tự vận động theo
quy luật vốn có của nó. Kinh tế thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch
phát triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn thực hiện có hiệu
quả phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Muốn cho thị trường hoạt động phù hợp với
định hướng XHCN thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch. Kế hoạch hóa vĩ
mô có thể tác đông đến cung - cầu, giá cả để uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển do
sự tác động tự phát của thị trường gây ra, thông qua đó mà hướng hoạt động của thị trường
theo hướng của kế hoạch. Đối với chúng ta, cơ chế thị trường không phải là liệu thuốc vạn
năng không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện. Mục đích của ta không phải là chạy
theo lợi nhuận tối đa cho một thiểu số người mà chính là để xây dựng CNXH.
* Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân
phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. : Mỗi chế độ XH có chế độ
phân phối tương ứng với nó. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc, hình thức phân phối tương
ứng, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập. Sự

khác nhau cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN là
ở chỗ kinh tế thị trường TBCN phân phối chủ yếu theo tư bản, phục vụ lợi ích tối đa cho các
nhà tư bản còn kinh tế thi trường XHCN xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối
theo lao động. Chúng ta lấy phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục
tiêu cơ bản xây dựng CNXH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế phải gắn liền
với cải thiện đời sống… Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi XH và tập thể có ý nghĩa
quan trọng để thực hiện mục tiêu đó. Về chính sách xã hội : chúng ta chủ trương làm giàu
nhưng đó là làm giàu hợp pháp, cùng với làm giàu phải xóa đói giảm nghèo, hạn chế sự
phân cực qáu đáng giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo là khó
tránh khỏi, phải chấp nhận nhưng phải hạn chế nó, phải chăm lo tiến bộ và công bằng XH
11
ngay trong quá trình phát triển kinh tế chứ không phải đến khi kinh tế phát triển mới lo chính
sách XH.
* Nền kinh tế thị trường XHCN cũng là nền kinh tế mở hội nhập. Thực hiện mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các hình thức đối ngoại,
gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong
quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại

Trên đây là các nguyên tắc trên để đảm bảo cho kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đây là mô hình kinh tế tổng quát của chúng ta trong thời kỳ quá độ và cũng là một điểm
quan trọng làm sáng tỏ hơn nội dung con đường đi lên CNXH ở nước ta.
5- Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường XHCN :
Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cần thực hiện
những giải pháp sau đây :
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng cao hiệu
quả của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để kinh tế nhà nước vươn lên đóng vai trò chủ
đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế

quốc dân. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế thuộc tất cả các
thành phần kinh tế phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ cho mọi ngành kinh tế quốc dân,
sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác kiểu mới.
- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, tạo lập đồng bộ các loại thị
trường. Phát triển mạnh thị trường hàng hóa, dịch vụ, khắc phục tình trạng kinh doanh trái
phép, trốn lậu thuế. tổ chức và quản lý tốt việc thuê mướn và sử dụng lao động, quản lý
chặt chể việc sử dụng ruộng đất và thị trường bất động sản, hoàn thiện thị trường tiền tệ,
xây dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
- Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nhà nước thực
hiện tốt chức năng định hướng sự phát triển kinh tế, kiểm kê và kiểm soát mọi hoạt động
kinh tế XH, tạo lập khuôn khổ pháp luật và hệ thống chính sách nhất quán, trực tiếp đầu tư
vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo ra môi trường ổn định và thuận
lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, hạn chế các hiện tượng tiêu cực. Tiếp tục cải cách
thủ tục hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý vĩ mô và chức năng chủ
sở hữu tài sản công cộng của quốc gia, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh
và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp.
- Nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến
bộ và công bằng xã hội như : thực hiện thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh
nghiệp, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là tín dụng cho người nghèo
và các chính sách xã hội khác.
Vấn đề 4: Cơ sở khách quan của các nguyên tắc phân phối và thu nhập, vai trò của các
nguyên tắc phân phối dưới chế độ CNXH nói chung và ở Việt Nam.
Bài làm
1- Cơ sở lý luận về phân phối thu nhập.
12
Con người đã tồn tại và phát triển đi tới văn minh, phải không ngừng lao động sản xuất
để tạo ra của cải vật chất, rồi phải đem của cải vật chất ấy phân phối để hình thành thu nhập
để đảm bảo cuộc sống cho mọi thành viên XH.
Vậy phân phối là gì? Phân phối là một phạm trù KT khách quan, nói về sự phân chia,
phân bổ những của cải vật chất con người làm ra để vừa đáp ứng tiêu dùng cho quá trình

tiếp tục SX, vừa đáp ứng cho tiêu dùng cá nhân của mọi người.
Thu nhập là gì? Là phạm trù KT khách quan nói về phần của cải vật chất mà mỗi người
lao động nhận được thông qua quá trình phân phối để đảm bảo cuộc sống cho gia đình
mình.
Tuy nhiên nghiên cứu về hoạt động KT, các nhà KT học đã nhận ra vai trò vị trí và tầm
quan trọng của phân phối và thu nhập là hết sức lớn lao mỗi đất nước, mỗi địa phương
trong những thời đại khác nhau, dưới những chế độ XH khác nhau đều phải quan tâm giải
quyết hai vấn đề này. Bởi nếu thực hiện phân phối thu nhập đúng đắn, khoa học nó sẽ tạo
ra nhiệt tình lao động tạo ra động lực để thúc đẩy SX phát triển; ngược lại nếu phân phối thu
nhập một cách tùy tiện, bất hợp lý nhất định sẽ kèm theo nhân dân lao động không đồng
tình ủng hộ, không thiết tha với quá trình lao động SX sẽ đẩy nền KT vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng.
- Quan hệ phân phối đã được hình thành ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người,
nó tiếp tục được hoàn thiện trong các thời đại lịch sử tiếp theo. người ta nhận thấy phân
phối luôn luôn thể hiện hai tư cách lớn trong đời sống KT của nhân loại.
Một là, phân phối là một mặt cơ bản trong 3 mặt cơ bản để làm nên QHSX xã hội bao
gồm: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối.
Hai là, phân phối là một khâu trong 4 khâu của quá trình tái SX, đó là SX, phân phối, trao
đổi, tiêu dùng.
Bằng thiên tài của mình, C.Mác đã khẳng định lịch sử nhân loại là lịch sử kế tiếp nhau,
thay thế cho nhau bởi các PTSX khác nhau, đó là các PTSX cộng sản nguyên thủy, chiếm
hữu nô lê, quân chủ PK, TBCN và chính ông đã cùng với Ăngghen đã xây dựng, cống hiến
cho nhân loại về mô hình của một PTSX mới để nhân rộng đi lên xây dựng XH mới là
CNCS, được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn thấp là giai đoạn xây dựng CNXH và giai
đoạn cao mới là giai đoạn sau khi đã xây dựng thành công CNXH tiến lên xây dựng CNCS
đích thực. Trong tư tưởng này, Mác đã chỉ rõ từ quan hệ phân phối con người đã sáng tạo
nên những hình thức phân phối khác nhau cho phù hợp với từng tiến trình phát triển của
lịch sử. Như vậy, quan hệ phân phối là một phạm trù vĩnh viễn trong mọi thời đại XH, còn
các hình thức phân phối lại là những phạm trù lịch sử, nó được hình thành trong quá trình
lịch sử và nó sẽ mất đi, bị xóa bỏ khi không phù hợp với sự phát triển của lịch sử nữa. Mác

đã chỉ ra mỗi một chế độ XH tương ứng với một PTSX đều có một hình thức phân phối cơ
bản của nó, như chế độ cộng sản nguyên thủy có hình thức phân phối cơ bản là phân phối
trực tiếp theo kiểu bình quân, chế độ nô lệ hình thức phân phối cơ bản là cưỡng bức và
chiếm đoạt, còn chế độ PK hình thức phân phối cơ bản là thu địa tô bằng cách áp đặt phi
KT, còn CNTB thực hiện phân phối một cách tinh vi hơn, khôn ngoan hơn thông qua hợp
đồng lao động được ký kết giữa TB và lao động làm thuê để phục vụ và bảo vệ việc áp bức
bóc lột giá trị thặng dư (dưới CNTB đã tiến hành thực hiện phân phối theo lao động nhưng
đây chưa phải là hình thức phân phối cơ bản của nó mà nó chỉ thực hiện hình thức này có
lợi nhất trong việc quản lý lao động trong từng nhà máy, xí nghiệp của TB mà thôi). Mác đã
13
chỉ ra hình thức phân phối cơ bản trong giai đoạn thấp xây dựng CNXH là hình thức phân
phối theo lao động. Còn khi các quốc gia tiến lên giai đoạn cao xây dựng CNCS đích thực
thì hình thức phân phối cơ bản lúc này là phân phối theo nhu cầu, vì lúc này mọi người đều
tự giác làm việc theo năng lực của mình, do đó họ đều được hưởng thụ theo nhu cầu.
Mác cũng đã chỉ ra rằng, khi thực hiện quan hệ phân phối dưới những hình thức phân
phối khác nhau chính là quá trình thực hiện phân chia, phân bổ toàn cầu những của cải vật
chất mà nền KT quốc dân của mỗi quốc gia đã SX ra được trong một thời gian nhất định
thường là 1 năm. Với hai cách xác định kết quả lao động làm ra như sau:
+ Xác định theo hệ thống SX vật chất gọi là tổng sản phẩm = C+V+M và thu nhập
quốc dân trong năm có công thức tính: TNQD = V+M.
+ Tính theo hệ thống tài khóa quốc gia bằng việc đem toàn bộ những của cải vật chất
hữu hình và vô hình mà đất nước đã tạo ra được hàng năm trừ đi những sản phẩm trung
gian để đem những sản phẩm cuối cùng qui thành tiền để tính bằng giá trị, gọi là tổng sản
phẩm quốc gia, ký hiệu GNP (đây là cách tính theo quyền sở hữu) và gọi là sản phẩm trong
nước, ký hiệu là GDP (đây là cách tính theo vùng lãnh thổ).
Sau khi đã hạch toán đo lường, để tính được kết quả lao động SX làm ra trong năm,
C.Mác đã nêu lên sơ đồ phân phối sau đây: Người ta đem tổng sản phẩm quốc gia hoặc
tổng sản phẩm trong nước phân chia thành những bộ phận khác nhau với sự tính toán
khoa học, hợp lý, cân đối để phân chia phân bổ nó để vừa đảm bảo tiếp tục SX vừa cho
chăm lo nâng cao đời sống người lao động thành các quỹ cơ bản sau đây: Quỹ khấu hao tài

sản cố định, Quỹ dự trữ SX, Quỹ tích lũy cho tái SX mở rộng – đây là 3 quỹ phục vụ trực
tiếp SX của đất nước. Quỹ an ninh quốc phòng và quản lý hành chính XH, Quỹ phúc lợi –
hai quỹ này được dùng để giữ ổn định tình hình KT-CT-XH của đất nước và gián tiếp thúc
đẩy SX, nâng cao đời sống nhân dân. Quỹ phân phối cho tiêu dùng cá nhân, cho mọi thành
viên XH.
2- Tính tất yếu khách quan phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Xuất phát từ yêu cầu của các qui luật KT khách quan và từ đặc điểm KT-XH của đất
nước, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta còn tồn tại nhiều hình thức phân phối thu
nhập. Đó là:
- Nền KT nước ta là nền Kt nhiều thành phần, có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Sự
phân phối luôn luôn là kết quả tất nhiên của QHSX và trao đổi trong một XH nhất định. Vì
vậy mỗi PTSX có qui luật phân phối thu nhập cá nhân thích ứng với nó. Quan hệ sở hữu về
TLSX quyết định mối quan hệ giữa các tập đoàn XH trong SX cũng như trong phân phối.
Nền KT thị trường định hướng XHCN ở nước ta gồm nhiều thành phần KT dựa trên hình
thức sở hữu. Nhà nươc thừa nhận và đảm bảo bằng pháp luật không chỉ sở hữu toàn dân,
sở hữu Nhà nước mà cả sở hữu tư nhân và tiền vốn, của cải để dành cho các tài sản thu
nhập hợp pháp khác. Phù hợp với mỗi thành phần KT, mỗi hình thức sở hữu là một hình
thức phân phối thu nhập nhất định. Mặc dù các thành phần KT ở nước ta không tồn tại biệt
lập mà đan xen vào nhau và hợp thành cơ cấu KT quốc dân thống nhất nhưng chưa thể
hiện phân phối thu nhập theo một hình thức mà phải thực hiện theo nhiều hình thức, chỉ có
như vậy mới giải phóng được mọi năng lực, khai thác triệt để mọi tiềm năng KT của đất
nước nhằm phát triển mạnh mẽ KT-XH ở nước ta.
- Trong nền KT nước ta còn tồn tại nhiều phương thức kinh doanh khác nhau.
14
Nền KT nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền KT này có nhiều chủ
thể SX, kinh doanh thuộc nhiều thành phần KT tham gia. Mỗi thành phần KT có phương
thức tổ chức kinh doanh khác nhau. Ngay trong mỗi thời kỳ, kể cả thành phần KT nhà nước
cũng có các phương thức kinh doanh khác nhau, do đó kết quả và thu nhập là khác nhau.
Hơn nữa, trong điều kiện của nền KT thị trường, kinh doanh tham gia vào nền KT đều có sự
khác nhau về sở hữu, của cải tiền vốn, trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường,

thậm chí khác nhau cả về sự may mắn… do đó khác nhau về thu nhập. Vì vậy, không thể
có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái lại có nhiều hình thức khác nhau.
3- Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Về nguyên tắc phân phối, Đại hội IX của Đảng ta khẳng định “KT thị trường định hướng
XHCN phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả KT, đồng thời phân phối theo
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào SX kinh doanh và thông qua phúc lợi XH”.
*- Phân phối theo lao động:
- Phân phối theo lao động là một tất yếu khách quan.
Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị KT dựa trên cơ sở sở hữu công
cộng về TLSX (KT nhà nước) hoặc các HTX cổ phần mà phần vốn góp của các thành viên
bằng nhau (KT tập thể) các thành phần KT này đều dựa trên chế độ công hữu XHCN về
TLSX ở các trình độ khác nhau. Người lao động làm chủ những TLSX, nên tất yếu cũng
làm chủ phân phối thu nhập. Vì vậy, phân phối phải vì lợi ích người lao động. Có nhiều cách
phân phối vì lợi ích của người lao động: Phân phối theo nhu cầu, phân phối bình quân, phân
phối theo lao động. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH và cả ngay trong giai đoạn thấp của
CNCS, tức là CNXH cũng chưa thể hiện phân phối theo nhu cầu và không thể hiện phân
phối bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động. Tất yếu phải thực hiện phân phối
theo lao động trong các đơn vị KT thuộc thành phần KT dựa trên cơ sở công hữu về TLSX
là:
+ LLSX phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu
cầu. Vì phân phối do SX quyết định cho nên “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao
chế độ KT và sự phát triển văn hóa của XH do chế độ KT đó quyết định” và “làm tốt, làm
nhiều: hưởng nhiều, làm xấu làm ít: hưởng ít, có khi phải bồi thường lại cho Nhà nước”.
+ Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có sự cống hiến
khác nhau, do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho XH của mỗi người để phân
phối, nếu không sẽ rơi vào chủ nghĩa bình quân, kiềm hãm sự phát triển SX.
+ Lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm
sống, là nghĩa vụ và quyền lợi. Hơn nữa, còn những tàn dư ý thức, tư tưởng của XH cũ để
lại như: coi khinh lao động, ngại lao động chân tay, chây lười, làm ít hưởng nhiều, so bì giữa
cống hiến và hưởng thụ….

Trong những điều kiện đó, phải phân phối theo lao động để khuyến khích người chăm,
người giỏi, giáo dục kẻ lười, người xấu, gắn sự hưởng thụ của mỗi người với cống hiến của
họ. Đây cũng là hình thức nhằm khắc phục những tàn dư tư tưởng của XH cũ, không chỉ
trong thời kỳ quá độ mà cả khi CNXH đã được xác lập, phân phối theo lao động vẫn là hình
thức phân phối chủ yếu.
- Nội dung và hình thức lao động.
Phân phối theo lao động, là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và chất
lượng lao động của từng người đã đóng góp cho XH. Theo qui luật này, người làm nhiều
15
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không hưởng; lao động là
kỹ thuật cao, lao động ở những ngành, nghề độc hại, trong những điều kiện khó khăn đều
được hưởng phần thu nhập thích đáng.
Căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là: Số lượng lao động được đo bằng thời gian
lao động hoặc số lượng sản phẩm làm ra; Trình độ thành thạo lao động và chất lượng sản
phẩm làm ra; Điều kiện và môi trường lao động: lao động nặng nhọc, lao động trong hầm
mỏ, lao động ở những vùng có nhiều khó khăn, xa xôi hẻo lánh như miền núi hải đảo….;
Tính chất của lao động; Các ngành, nghề cần được khuyến khích.
Phân phối theo lao động được thực hiện qua những hình thức cụ thể như: Tiền công
trong các đơn vị SX-KD; Tiền thưởng; Tiền phụ cấp; Tiền lương trong các cơ quan hành
chính sự nghiệp.
Phân phối theo lao động như trên không có nghĩa là mỗi người lao động sẽ được phân
phối trực tiếp tất cả những gì họ cống hiến cho XH, mà chỉ là một phần thu nhập quốc dân
do họ góp phần tạo ra.
- Tác dụng và hạn chế của phân phối theo lao động.
Phân phối theo lao động là phương thức phối hợp lý, nó có tác dụng thúc đẩy mọi người
nâng cao tinh thần trách nhiệm, thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, tinh thần và thái độ
lao động, khắc phục những tàn dư tư tưởng cũ, củng cố kỷ luật lao động….
Phân phối lao động còn có tác dụng thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp,
trình độ văn hóa, ổ định lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao động XH.
Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hóa của người lao động, vừa đảm bảo tái

SX lao động, vừa tạo điều kiện cho mọi người lao động phát triển toàn diện.
Phân phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với các hình thức phân phối
đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng XH của sự phân phối đó là sự bình đẳng trong
quan hệ sở hữu về TLSX.
Song, theo C.Mác, phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong
khuôn khổ “pháp quyền tư sản”, tức là sự bình đẳng trong XH sản xuất hàng hóa theo
nguyên tắc sự trao đổi hoàn toàn ngang giá. Sự bình đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa
“quyền của người SX là tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung cấp”; sự bình đẳng đó còn
thiếu sót là “với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào
quỹ tiêu dùng của XH thì trên thực tế, người này vẫn lãnh nhiều hơn người kia, người này
vẫn giàu hơn người kia .v.v ”.
Phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là hạn chế không thể tránh
khỏi trong giai đoạn đầu của XH cộng sản chủ nghĩa. Chỉ khi nào cùng với sự phát triển toàn
diện của các cá nhân, năng suất của họ càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải đều tuôn
ra dồi dào thì khi đó người ta mới có thể vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái pháp quyền
tư sản và XH mới có thể thực hiện phân phối theo nhu cầu. Chỉ khi đó mới có sự bình đẳng
thực sự.
- Một số điểm chú ý cần chú ý về phân phối theo lao động trong nền KT thị trường.
Việc chuyển sang nền KT thị trường định hướng XHCN không phủ định tính tất yếu
khách quan của qui luật phân phối theo lao động trong các thành phần KT mang tính chất
XHCN, vì cơ sở của phương thức phân phối này vẫn là chế độ công hữu về TLSX. Tuy
nhiên, trong cơ chế thị trường, sự phân phối theo lao động có những đặc điểm cần chú ý
sau: Một là, mỗi doanh nghiệp đều trở thành một chủ thể phân phối thu nhập cá nhân; Hai
16
là, phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của mức độ chênh lệch thu nhập giữa các đơn vị
KT; Ba là, mức chênh lệch thu nhập qua phân phối theo lao động giữa các vùng.
*- Phân phối theo nguồn vốn và tài sản cho những người đóng góp vào các hoạt động
SXKD của đất nước.
Hình thức này dựa trên luận điểm khoa học của C.Mác: Những người lao động chân
chính nhờ quá trình lao động của mình mà tích lũy được một số tiền nhất định, mà mua sắm

được những tài sản nhất định, Mác gọi đây là lao động vật hóa hay là lao động quá khứ. Vì
vậy, ai đem tiền và tài sản của mình đóng góp vào các hoạt động kinh tế được coi như đóng
góp lao động để được hưởng lợi ích tương xứng.
*- Phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi XH.
Để nâng cao mức sống vật chất và văn hóa của nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp nhân
dân lao động, sự phân phối thu nhập của mọi thành viên trong XH còn được thực hiện
thông qua quỹ phúc lợi tập thể và XH. Sự phân phối này có ý nghĩa hết sức quan trọng vì đã
góp phần:
+Phát huy tính tích cực lao động cộng đồng mọi thành viên trong XH.
+ Nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp,
đời sống khó khăn, làm giảm chênh lệch quá đáng về thu nhập của các thành viên trong
cộng đồng.
+ Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ XH mới.
Quỹ phúc lợi tập thể và XH là một bộ phận không thể thiếu được trong quá trình phân
phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng, song quỹ đó chỉ có ý nghĩa tích cực khi được
qui định và sử dụng một cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu và các điều kiện khách quan.
Tính hợp lý của quỹ phúc lợi tập thể và XH được biểu hiện như sau:
+ Quỹ phúc lợi tập thể, XH không thể mở rộng quá khả năng của nền KT cho phép. Căn
cứ vào khả năng KT, vào sự phát triển của nền KT nhằm đáp ứng cho được những nhiệm
vụ XH cấp bách nhất. Tỷ lệ quỹ phúc lợi tập thể, XH nếu xác định không hợp lý sẽ tác động
đến tiêu cực tinh thần và thái độ lao động của người lao động.
+ Tốc độ tăng trưởng thu nhập trực tiếp của cá nhân trong cộng đồng tăng trưởng nhanh
hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể và XH. Chỉ khi nào LLSX phát triển cao thì phần
dành cho quỹ phúc lợi tập thể và XH mới có nhiều, tốc độ của nó có thể cao hơn tốc độ tăng
trưởng trực tiếp của cá nhân. Nếu quỹ phúc lợi tập thể và XH phát triển quá mức khi chưa
có các điều kiện cho phép sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính tích cực, tính chủ động và sáng
tạo của mọi người lao động, nhằm phát triển mạnh mẽ nền SX XH.
+ Trong giới hạn đã xác định, cần sử dụng có hiệu quả các quỹ phúc lợi tập thể, XH tiết
kiệm, hợp lý. Việc sử dụng phải nhằm mục đích thiết thực, tránh lãng phí xa hoa, phô
trương hình thức. Vì các quỹ này có quan hệ đến lợi ích thiết thân của mỗi thành viên tập

thể, cộng đồng, cho nên cần phát huy đầy đủ dân chủ, trưng cầu ý kiến của quảng đại quần
chúng, sao cho mỗi phúc lợi đều thích hợp với nhu cầu bức thiết của quần chúng, phát huy
được tác dụng vốn có của nó.
+ Quỹ phúc lợi XH là một bộ phận của chính sách XH cần được giải quyết theo tinh thần
XH hóa. Nhà nước giữ vai trò nồng cốt, đồng thời động viên mọi người dân, các doanh
nghiệp, các tổ chức trong XH, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia đóng góp.
17

×