ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
TRẦN THỊ TUYẾT HỒNG
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT NAM
ĐỊNH
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Nhật Thăng
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
5. Giả thuyết khoa học
3
6. Phạm vi nghiên cứu
3
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Cấu trúc luận văn
4
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học
5
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
5
1.1.1. Vấn đề tự học đã có từ lâu trong lịch sử
5
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả về quản lý tự học
6
1.2. Những vấn đề lý luận về tự học
8
1.2.1. Khái niệm về tự học
8
1.2.2. Các hình thức tự học
9
1.2.3. ý nghĩa của hoạt động tự học đối với sự hoàn thiện nhân cách
10
1.3 Những vấn đề về quản lý, quản lý hoạt động tự học
11
1.3.1 Một số khái niệm công cụ quản lý tự học của sinh viên
11
1.3.2 Quản lý giáo dục
14
1.3.3. Quản lý nhà trường
15
1.3.4. Quản lý hoạt động tự học
16
1.4.Vai trò của quản lý hoạt động tự học đối với sinh viên các trường đại học
19
1.4.1. Quản lý tốt hoạt động tự học góp phần nâng cao sự thống nhất hoạt
động giữa thầy và trò
19
1.4.2. Quản lý tự học góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng hoạt động học
tập rèn luyện của sinh viên
22
1.4.3. Quản lý hoạt động tự học sẽ hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực,
xây dựng được môi trường sư phạm tạo cơ hội cho sinh viên thực hiện nhiệm
vụ đào tạo
22
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hoạt động tự học
26
1.5.1 Đặc điểm của sinh viên
26
1.5.2. Mục tiêu, nội dung giáo dục và đào tạo bậc đại học
29
Kết luận chương 1
31
Chương 2: Thực trạng về quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định
32
2.1. Vài nét khái quát về trường Sư phạm Kỹ thuật Nam Định
32
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
32
2.1.2. Nhiệm vụ đào tạo của trường
32
2.2. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên
33
2.2.1. Nhận thức của sinh viên về hoạt động tự học
33
2.2.2 Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên
42
2.3 Thực trạng quản lý của nhà trường và hoạt động tự học của sinh viên
47
2.3.1 Thực trạng việc tổ chức bộ máy quản lý tự học của sinh viên
47
2.3.2 Thực trạng xây dựng kế hoạch quản lý
50
2.3.3 Các biện pháp quản lý đã thực hiện
51
2.3.4. Những khó khăn và thuận lợi về quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định
61
Kết luận chương 2
63
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học
Sư phạm Kỹ thuật Nam Định
64
3.1 Nguyên tắc để xây dựng biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Đinh
64
3.1.1 Các biện pháp phải đồng bộ tác động vào các yếu tố của hoạt động tự học
64
3.1.2 Phải phát huy được ý thức tự giác tính tích cực của thầy và trò đặc biệt
của sinh viên
65
3.1.3 Phải phát huy mọi tiềm năng trong và ngoài trường
65
3.1.4 Đảm bảo tính kế thừa
66
3.1.5 Đảm bảo tính hiệu quả
66
3.1.6 Đảm bảo tính thực tiễn
66
3.2 Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
66
3.2.1 Tuyên truyền giáo dục ý thức trách nhiệm, động cơ học tập
66
3.2.2 Xây dựng bộ máy quản lý
69
3.2.3 Xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp trong đó có tự học
70
3.2.4 Chỉ đạo đổi mới phương pháp tổ chức dạy học của giảng viên trên lớp
72
3.2.5 Chỉ đạo thay đổi nội dung, hình thức kiểm tra đánh giá thể hiện kết quả
tự học của sinh viên
77
3.2.6 Bổ sung tạo điều kiện thuận lợi cho việc tự học của sinh viên
83
3.2.7 Lấy tiêu chí nâng cao kết quả tự học của sinh viên làm tiêu chuẩn đánh
giá đổi mới dạy học của giảng viên
85
3.3 Thăm dò tính cấp thiết và tính khả thi của biện pháp quản lý tự học của
sinh viên
95
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
97
1.Kết luận
97
2.Khuyến nghị
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
100
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển nhân cách của mỗi người luôn bị chế ước chi phối
bởi bốn yếu tố: Bẩm sinh di truyền được coi như là tiền đề vật chất; Hoàn cảnh (bao
gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội) được xác định là môi trường của sự
phát triển; Giáo dục (bao gồm tác động giáo dục có định hướng của gia đình, nhà
trường, các tổ chức xã hội khác) có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh sự phát triển cá
nhân và yếu tố thứ tư là hoạt động rèn luyện của bản thân chủ thể. Đó là yếu tố
quyết định hiệu quả của sự phát triển nhân cách. Tự học là một thành phần của quá
trình tự hoạt động, tự rèn luyện.
1.1. Xuất phát từ vai trò của tự học đối với việc nâng cao chất lượng Giáo dục -
Đào tạo
Tự học- tự đào tạo là một con đường phát triển suốt đời của mỗi người. Đó
cũng là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo
dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được
quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mô giáo dục được mở rộng khi
có phong trào toàn dân tự học. Để đáp ứng được nguồn nhân lực có đủ số lượng và
chất lượng để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng
ta xác định mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 - 2010) là:
“Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta căn bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và
công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường,
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản;
vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao ”[7, 24].
1.2. Tự học càng có ý nghĩa quan trọng đối với sinh viên trong thời đại bùng nổ
thông tin
Trong lịch sử nhân loại chưa bao giờ khối lượng tri thức lại phát triển mạnh
mẽ như những năm gần đây và thời gian sắp tới. Người ta tính rằng trong năm năm
gần đây tri thức tăng gấp đôi, nhất là những lĩnh vực mũi nhọn như: Công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, sức bền vật liệu, vật lý, điều khiển học
Kiến thức mà thầy cô truyền thụ ở trong nhà trường, nhất là qua những giờ
giảng chỉ là một phần quá ít ỏi người lao đông cần phải có thể tham gia lao động
sản xuất và hoạt động với tư cách là chủ thể của sự phát triển nhân cách, phát triển
xã hội và khai thác có hiệu quả tự nhiên
Sinh viên là nguồn bổ sung cho lực lượng lao động xã hội có trình độ cao.
Họ phải có năng lực tự hoàn thiện, tự học để tiếp cận với tri thức khoa học và công
nghệ bằng các kênh thông tin khác nhau, không chỉ bằng con đường học tập trên
lớp.
Chính xuất phát từ vị trí vai trò, đặc điểm của đội ngũ sinh viên mà vấn đề tự
học càng trở nên quan trọng trong xã hội hiện đại
Nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo cũng được xác định rõ là: “Tiếp tục nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới phương pháp dạy và học đổi mới nội
dung, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục”, thực hiện “chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá ”. Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng
những hình thức chính quy và không chính quy, thực hiện “Giáo dục cho mọi
người, cả nước trở thành một xã hội học tập”. Điều 5 Luật giáo dục 2005 cũng quy
định “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực
hành lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
1.3. Thực tế việc bồi dưỡng năng lực tự học chưa được các trường đại học quan
tâm thoả đáng trong đó có trường Đại học Sư Phạm Kỹ thuật Nam Định
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật không những đào tạo ra những kỹ sư
công nghệ trình độ đại học và cao đẳng mà còn đào tạo GVDN, giáo viên kỹ
thuật đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình độ cao cho sự phát triển nền kinh tế xã
hội của các tỉnh phía Bắc. Về thực tế, chất lượng học tập của sinh viên trường
ĐHSPKT Nam Định còn thấp,chúng tôi nhận thấy sinh viên còn rất lúng túng
trong tự học, nhất là những môn mới chưa được tiếp xúc ở trường phổ thông.
Các thầy cô giáo phần lớn chỉ tập trung truyền thụ kiến thức cho sinh viên mà
chưa quan tâm hướng dẫn cho SV tự học tự trao dồi kiến thức. Sinh viên học tập
còn mang tính chất đối phó với KT và thi cử. Khả năng tự học hỏi, tự nghiên cứu
còn rất yếu; công tác quản lý việc tự học của sinh viên chưa được sát sao lắm, số
lượng giáo viên cơ hữu của trường còn thiếu.
Đó là những nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả học tập của SV còn thấp.
Chính vì vậy, để tìm ra biện pháp tổ chức, quản lý hoạt động tự học của SV trường
ĐHSPKT Nam Định là cần thiết đối với nhà trường trong giai đoạn hiện
nay,chúng tôi xác định đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trường ĐHSPKT Nam Định” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học,
tự bồi dưỡng của sinh viên trường ĐHSPKT Nam Định.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Hoạt động tự học của sinh viên trường ĐHSPKT Nam Định.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường ĐHSPKT Nam
Định.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi xác định những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
- Điều tra khảo sát đánh giá thực trạng hoạt đông tự học và các biện pháp
quản lý hoạt động tự học ở trường ĐHSPKT Nam Định
- Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của SV
5. Giả thuyết khoa học
Hoạt động tự học của SV trường ĐHSPKT Nam Định còn một số hạn chế do
nhiều nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân chủ quan là
sinh viên chưa có phương pháp học tập hợp lý, các em còn lúng túng trong việc áp
dụng phương pháp tự học, học còn nặng về thi cử, kiểm tra, thiếu tinh thần học hỏi
và ý chí tự vươn lên. Nguyên nhân khách quan các thầy cô chỉ chú trọng tới nội
dung truyền thụ kiến thức mà chưa áp dụng các phương pháp dạy tự học. Các công
tác tổ chức và quản lý hoạt động tự học của sinh viên còn nhiều hạn chế. Số lượng
GV cơ hữu của trường còn thiếu. Nếu áp dụng các biện pháp quản lý hợp lý tác
động vào các khâu, các yếu tố của hoạt động tự học của sinh viên thì chất lượng
hiệu quả học tập của sinh viên sẽ được nâng cao.
6. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi chỉ nghiên cứu đối với sinh viên hệ đại học ở
trong ký túc xá và nghiên cứu biện pháp quản lý tăng cường tự học của nhà trường
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc các công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề nghiên cứu nhằm nghiên cứu phương pháp luận, nghiên cứu ý nghĩa của
tự học, các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề tự học
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Các phương pháp:
+ Phương pháp thống kê học
+ Phương pháp điều tra tâm lý học xã hội đối với giáo viên+ sinh viên
+ Phương pháp quan sát thực tế.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
+ Phương pháp trao đổi toạ đàm
Phương pháp sử lý thông tin: Ngoài phân tích, tổng hợp, chủ yếu tác giả sử
dụng toán thống kê, phần mềm tin học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận khuyến nghị và tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Nam định
Chƣơng 3: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học
Sư phạm Kỹ thuật Nam Định
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
1.1. Lịch sử về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Vấn đề tự học đã có từ lâu trong lịch sử
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, tự học là vấn đề đã được quan tâm và
nghiên cứu từ lâu cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm phát huy vai trò tích cực học
tập của người học. Song ở từng giai đoạn phát triển của lịch sử vấn đề tự học được
đề cập tới dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ngay từ thời Trung Hoa cổ đại, nhà giáo dục lỗi lạc đã nhận thấy vai trò
quan trọng của vấn đề tự học. Khổng Tử (551-479Tr CN), trong cuộc đời dạy học
của mình ông luôn quan tâm và coi trọng mặt tích cực của người học. Ông đã từng
dạy học trò: “Không giận vì không muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì
không rõ thì không bày cho, vật có 4 góc bảo cho biết một góc mà không suy ra
được ba góc kia thì không dạy nữa”.
Khi khoa học giáo dục trở thành khoa học thực sự, người đặt nền móng cho
sự ra đời và phát triển của nhà trường hiện đại là nhà sư phạm vĩ đại
Tiệp Khắc J.A Comenxky(1592-1670) ông tổ của nền giáo dục cận đại đã khẳng
định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở thành tài năng”.{6,101}
Đến thế kỷ XVIII -XIX các nhà giáo dục nổi tiếng như J.Rutxô (1712-1778),
Disterverg (1790-1886 )và K.D Usinxki ( 1824-1890) T.H Petstalogi (1746-1827 )
trong các tác phẩm nghiên cứu của mình đã khẳng định: “Tự mình giành lấy tri thức
bằng con đường tự khám phá, tự tìm tòi, tự suy nghĩ là con đường quan trọng để
chiếm lĩnh tri thức”.{12 }
Các nhà giáo dục hiện đại cũng đã đi sâu vào nghiên cứu khoa học giáo dục
cũng đã khẳng định vai trò to lớn của hoạt động tự học. Phát triển tư tưởng từ quan
điểm của các nhà giáo dục tiền bối, họ đã chỉ ra một số yếu tố quan trọng như :
N.A Rubakin,{27} Smit Hecbơc {15} đã nhấn mạnh việc quan tâm giáo
dục động cơ hoạt động đúng đắn là điều kiện để học sinh tích cực chủ động
trong học tập.
Để giúp người học nâng cao tính tích cực nhận thức và đạt hiệu quả trong
hoạt động tự học các tác giả như A.M.Machiuskin,{20}A.V.Petrovski,{23} cũng đã
đề ra trong việc thiết kế các bài tập nhận thức nhất là bài tập nêu vấn đề để SV thực
hiện trong thời gian tự học đó là trách nhiệm của người giáo viên.
Các nhà giáo dục phương Tây nổi lên cuộc cách mạng tìm phương pháp khai
thác “cái tôi” trong người học. Như Montaigne, ông kêu gọi các nhà giáo “Tốt hơn
là ông thầy nên để cho học trò tự đi lên phiá trước mà nhận xét bước đi của họ,
đồng thời giảm bớt tốc độ của thầy cho phù hợp với sức của trò”.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, các nước tây Âu và Mỹ đã tìm những phương
pháp giáo dục mới, dựa trên cơ sở “Lấy người học làm trung tâm” để phát huy hết
năng lực của người học. Các kỹ năng được tích luỹ phải bằng hoạt động do người
học tiến hành với sự giúp đỡ của giáo viên. Đại diện cho tư tưởng này là J.Deway
ông cho rằng “Học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo
dục”{18}. Ngoài ra các phương pháp dạy học theo tư tưởng này cũng đã được đưa
vào thực nghiệm như: “Phương pháp tích cực”, “Phương pháp cá thể hoá”, “Phương
pháp hợp tác”. Đây là những phương pháp mà người học không chỉ lĩnh hội kiến
thức bằng cách nghe thầy giảng mà còn từ hoạt động tự học, tự tìm tòi để biến kiến
thức của sách vở, của thầy thành kiến thức của mình, Giáo viên chỉ là trọng tài, thiết
kế, đạo diễn, tổ chức, giúp đỡ học sinh biết cách học, biết cách làm Các nhà
nghiên cứu qua thực nghiệm cũng đã chỉ ra những hạn chế nhất định của các
phương pháp đó là không thể ứng dụng cho mọi loại tri thức, không thể vận dụng
mọi lúc, mọi nơi mà còn phải phụ thuộc vào trình độ tổ chức và thực hiện của mỗi
giáo viên, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tính tự nguyện học hỏi của mỗi cá nhân
người học.
Nhiều nhà giáo dục ở Châu Á cũng đã quan tâm đến lĩnh vực tự học của học
sinh. Nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật ông T.Makiguchi đã trình bày những tư
tưởng giáo dục mới trong tác phẩm “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo”. Ông cho rằng
giáo dục có thể coi là quá trình hướng dẫn tự học mà động lực của nó là kích thích
người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản thân và của cộng đồng.
Trước những thách thức mới của thế kỷ 21. Hội đồng Quốc tế Jacques Delors về
giáo dục cho thế kỷ 21 đã hoàn thành bản báo cáo phân tích nhiều khía cạnh học tập
trong xã hội tương lai, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò người học, cách học cần
phải được dạy cho thế hệ trẻ.
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả về quản lý tự học
Ở Việt Nam, các bậc thầy trong giáo dục thời xưa đã từng chú ý đến vai trò
của người học như; Chu văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong thời đại ngày nay
cũng có nhiều ý kiến về vấn đề này. Hoạt động tự học thực sự được chú ý quan tâm
dưới nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Bác Hồ đã từng dạy: cách học tập lấy người
học làm nòng cốt, và khi nói về công tác huấn luyện và học tập Người nhấn mạnh
“Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học” Người khuyên “Không phải có thầy thì
học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nhắc nhở sinh viên: “Ở Đại học, điều chủ
yếu là học phương pháp nếu anh tự vũ trang được một phương pháp vững vàng
thì anh dùng nó suốt đời, vì anh phải học mãi mãi ”
Nghị quyết Hội nghị TW 2, Khoá VIII đề cập đến vấn đề “Tập trung
nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học sáng tạo của học sinh”,
“ Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên rộng khắp trong toàn
dân, nhất là thanh niên”.
Luật giáo dục 1988, chương 1, điều 4 có ghi “ Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo của người học; bồi dưỡng
năng lực tự học của học sinh, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên ”
Vấn đề nghiên cứu tự học và hoạt động tự học đã được đặt nền tảng vững chắc
về quan điểm chỉ đạo trong thời kỳ chuyển mình của giáo dục đào tạo nhằm thích ứng
với giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước khi bước vào thế kỷ XXI. Từ đó
vấn đề tự học đã được các nhà sư phạm hàng đầu trong nước nghiên cứu thực nghiệm.
Cuối những năm 1960, các tác giả như Tạ Quang Bửu, Nguyễn Cảnh Toàn,
Lê Khánh Bằng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tự học. Trong những
năm gần đây dưới sự hướng dẫn của các thầy các cô của khoa Sư Phạm Đại học
Quốc gia Hà Nội nhiều luận văn thạc sỹ quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc Thanh với đề tài: “Các biện pháp
chủ yếu Quản lý hoạt động tự học của học viện trung tâm giáo dục thường xuyên
thành phố Yên Bái”.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Dương Hoài Văn với đề tài: “Biện pháp quản
lý tăng cường hoạt động tự học của SV viện Đại học Mở Hà nội trong bước phát
triển hiện nay”.
- Luận văn thạc sĩ của Phạm chí Cường “Các biện pháp quản lý hoạt động tự
học của SV trường cao đẳng Kinh tế - Tài chính Thái nguyên”
Các tác giả đã nghiên cứu vấn đề tự học ở những góc độ khía cạnh khác
nhau, chỉ ra vai trò, vị trí tầm quan trọng của tự học, các phương pháp tự học, các
điều kiện và phương tiện phục vụ tự học, các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả tự học và
các phương pháp nâng cao chất lượng tự học.
Nhưng về phương diện quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định chưa có đề tài nào đề cập tới. Chính vì vậy tôi
chọn đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học Sư
phạm Kỹ thuật Nam Định”
1.2. Những vấn đề lý luận về tự học
1.2.1. Khái niệm về tự học
Có rất nhiều tác giả nghiên cứu về tự học, mỗi tác giả có những quan điểm
khác nhau, sau đây là một số các quan điểm.
Nhà tâm lý học N.A Rubakin cho rằng: “Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức,
kinh nghiệm xã hội lịch sử trong thực tiễn hoạt động các nhân bằng cách thiết lập
các mối liên hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu ,đối chiếu với các mô hình phản ánh
hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm kỹ
năng, kỹ xảo của bản thân chủ thể. {27}
Theo giáo sư người Nga S.I. Zinoviez tự học đó là việc học độc lập của SV
diễn ra song song với quá trình dạy học Theo Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học - là tự
mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích
tổng hợp ) và khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất cuả
mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cá nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung
thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng
say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi )để chiếm lĩnh một
lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của
mình”{30,621}.
Theo Võ Quang Phúc: “Tự học là một bộ phận của học, nó được tạo thành
bởi những thao tác, cử chỉ ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương
tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhu cầu bức xúc về học tập của
người học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực của người học, phản ánh năng lực tổ
chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt kết quả nhất định trong hoàn cảnh
nhất định với nội dung học tập nhất định”{24,37}.
Tự học là một dạng lao động trí óc đòi hỏi người học phải tích cực chủ động
quyết tâm cao. Trong quá trình tự học người học thực sự là chủ thể của quá trình
nhận thức, nỗ lực hoạt động hoạt động các chức năng tâm lý, tiến hành hoạt động
nhận thức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Tự học là “nội lực” quyết định chất
lượng học tập sáng tạo cho hôm nay và cho mai sau.
Từ những quan điểm nêu trên, chúng tôi đi đến định nghĩa về tự học như sau
:
Tự học là một quá trình hoạt động nhận thức của mỗi người, là một trong
những nhân tố quyết định hiệu quả chất lượng chiếm lĩnh tri thức của loài người để
phát triển nhân cách. Tự học đòi hỏi một sự nỗ lực, tự giác, kiên trì sáng tạo về
phương pháp hình thức phù hợp với điều kiện, khả năng và mục tiêu đặt ra. Tự học
không chỉ là lĩnh hội tri thức khoa học mà còn bao gồm kinh nghiệm sống, lao động
và học tập, chiếm lĩnh những giá trị văn hoá xã hội của nhân loại và dân tộc trong
quá khứ lịch sử và hiện tại.
1.2.2. Các hình thức tự học
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều mức độ và hình thức khác nhau
- Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không
có sách và sự hướng dẫn của giáo viên.
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá
trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, đây
thể hiện đỉnh cao của tự học. Dạng tự học này phải được dựa trên nền tảng một
niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức
vừa rộng vừa sâu. Tới trình độ tự học này người học không thầy, không sách mà chỉ
cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt động tự học của cá nhân
mình.
- Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức :
+ Tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:
Kiểu học này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách vở
qua đó sẽ phát triển tư duy. Tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà người học
phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
+ Tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin thô sơ
hay phức tạp dưới dạng phản ánh và giải đáp những thắc mắc, làm bài kiểm tra,
đánh giá
- Hình thức 3: Tự học có sách, có sự điều khiển trực tiếp của thầy những
phương tiện kỹ thuật trên lớp với một số tiết trong ngày sau đó người học về nhà tự
học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên.
+ Trong quá trình học tập trên lớp, thầy với vai trò là nhân tố hỗ trợ, là chất
xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự lĩnh hội tri thức. Trò với vai trò là chủ thể
của quá trình nhận thức: tự giác tích cực say mê, sáng tạo trong quá trình nhận thức.
Mối quan hệ giữa thầy và trò là mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực. Ngoại lực dù
có quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy nội lực phát triển.
+ Trong quá trình tự học ở nhà, với sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người
học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sắp sếp kế hoạch, huy động mọi
trí tuệ và kỹ năng của bản thân để hoàn thành những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự
học của người học theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên,
được giáo viên định hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học thực
hiện. Như vậy, ở hình thức tự học thứ 3 này quá trình tự học của sinh viên có liên
quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố trong đó có
yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của GV và quá trình tự học của sinh
viên.
Mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu
công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên trong và ngoài giờ lên lớp dưới sự
hướng dẫn của giảng viên trong quá trình dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo ở Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Nam Định.
1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động tự học đối với sự hoàn thiện nhân cách
Trong hoạt động giáo dục việc tạo ra kiến thức cho người học gắn liền với
quá trình tự nhận thức của chính họ. Kiến thức chỉ có được thông qua hoạt động tư
duy của người học. Trong quá trình dạy học tác động dạy của thầy dù có quan trọng
đến mức “Không thầy đố mày làm nên” vẫn chỉ là ngoại lực hỗ trợ, thúc đẩy, xúc
tác và tạo điều kiện cho trò tự học, tự phát triển và trưởng thành.
Tự học là một hoạt động có ý nghĩa quyết định kết quả học tập và tu dưỡng
của SV trong trường sư phạm nói chung và SV Trường Sư phạm Kỹ thuật nói
riêng.
Trong quá trình học tập tu dưỡng trong trường họ phải rèn luyện để trở thành
một giáo viên và một người thầy người thợ giỏi trong tương lai. Để đánh giá tầm
quan trọng của hoạt động tự học Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Về nhân cách học
tập phải lấy tự học làm nòng cốt”. Quá trình tự học như thế có thể hiểu là sự chuyển
hoá quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, là sự biến đổi bản thân mình trở
nên có thêm gía trị bằng nỗ lực của chính mình để chiếm lĩnh những giá trị mới từ
bên ngoài. Như vậy hoạt động tự học có vai trò quyết định đến sự phát triển nhân
cách của người sinh viên chính là vốn tri thức nghề nghiệp, kỹ năng và phẩm chất
đạo đức được hình thành trong quá trình học tập và rèn luyện ở trường Đại học. Đối
với sinh viên sư phạm tự học càng trở nên quan trọng bởi sẽ là những thầy cô giáo
sẽ về những trường phổ thông dạy cho HS, đòi hỏi ở họ không chỉ có kiến thức
khoa học về các môn sẽ dạy ở phổ thông mà còn phải có hiểu biét sâu sắc về các
vấn đề văn hoá XH, thời sự chính trị trong nước và quốc tế Có kiến thức lý luận và
thực tiễn sâu rộng mới đủ khả năng giúp SV phát triển trí tuệ, đạo đức, phát triển
nhận thức, hình thành tình cảm và niềm tin trong cuộc sống Chính vì vậy XH luôn
đòi hỏi “thầy biết mười để dạy một”, “Thầy giáo là cuốn từ điển sống”, “Bộ óc (sự
hiểu biết) của thầy giáo là cái giếng khoa học, tâm hồn là mùa xuân ấm áp, trái tim
đôn hậu như một người mẹ ”
Người SVSP phải biết tự học vì sẽ phải dạy cho HS biết tự học. Có lẽ trên
đời này không có nghề nghiệp nào lại có chức năng cao quý “Dạy học trò làm
người” và chính vì vậy SVSP phải học cách tự học để dạy HS tự học làm người.
1.3. Những vấn đề về quản lý, quản lý hoạt động tự học
1.3.1. Một số khái niệm công cụ quản lý tự học của sinh viên
+ Khái niệm về quản lý.
Quản lý là sự điều khiển một hệ thống hoạt động xã hội ở tầm vĩ mô cũng
như vi mô. Đó là loại lao động để điều khiển người lao động. Nó là một thuộc tính
lịch sử, có tính vĩnh hằng.
Hoạt động quản lý nẩy sinh và bắt nguồn từ chính trong quá trình lao động để
cải tạo tự nhiên và xã hội của con người. Khi xã hội càng phát triển, các hình thức lao
động càng phong phú thì hoạt động quản lý càng chiếm vai trò quan trọng và càng có
điều kiện để trở thành một khoa học. Vì vậy Các Mác đã viết: “Bất kỳ một lao động xã
hội hay cộng đồng nào được tiến hành trên quy mô tương đối lớn cũng đều cần có sự
quản lý, nó xác lập mối quan hệ hài hoà giữa các công việc riêng rẽ và thực hiện những
chức năng chung nhất, xuất phát từ sự vận động của toàn cơ cấu sản xuất (khác với vận
động của từng bộ phận độc lập trong nền sản xuất ấy). Một nghệ sỹ chơi đàn chỉ phải
điều khiển có chính mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”
Vậy quản lý là gì?
Khoa học quản lý, xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau, đã đưa ra
những quan điểm khác nhau về quản lý. Có người cho rằng quản lý là cai trị “Cai trị
một tổ chức bằng cách đặt ra các mục tiêu và hoàn chỉnh các mục tiêu, bằng cách
lựa chọn và sử dụng những phương tiện, phương pháp thích hợp”. Những người
theo quan điểm này cho rằng quản lý là cai trị vì trong quản lý không phải mọi lúc
cấp dưới đều chấp hành mệnh lệnh cấp trên cho nên phải cưỡng chế.
Nhưng cũng có những quan điểm lại cho rằng quản lý là điều hành, điều
khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hành động của con người.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là sự tác động liên tục có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung
là khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến”{25,24}
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “ Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức,
có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý) lên khách
thể (đối tượng) quản lý về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế bằng một hệ
thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ
thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”{11}
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “ Hoạt động
quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý)
đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức”{5}.
Theo Harold Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự
phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu
của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có
thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc vật chất và sự bất mãn
cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một nghệ thuật, còn kiến
thức có tổ chức về quản lý là một khoa học”{16,33}.
Như vậy các quan điểm về quản lý trên đây tuy có khác nhau nhưng không
đối lập nhau. Từ những quan điểm đó ta có thể hiểu quản lý: Quản lý là quá trình
tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm hướng dẫn, điều khiển
các quá trình xã hội, các hành vi hoạt động của con người để đạt tới những mục
đích phù hợp với ý chí của nhà quản lý và phù hợp quy luật khách quan.
+ Các chức năng quản lý.
- Chức năng lập kế hoạch.
Lập kế hoạch là chức năng cơ bản nhất giúp cho nhà quản lý tiếp cận mục
tiêu một cách hợp lý và khoa học. Trên cơ sở đó căn cứ vào những gì đã có, những
gì sẽ có trong tương lai mà xác định rõ hệ thống các mục tiêu, nội dung hoạt động,
các biện pháp cần thiết để chỉ rõ mong muốn của tổ chức. Lập kế hoạch bao gồm 3
nội dung chủ yếu sau:
* Xác định, hình thành mục tiêu.
* Chẩn đoán đánh giá thực trạng phát triển của tổ chức.
* Xác định các hoạt động cần thiết để đạt được những mục tiêu. Lập kế hoạch sẽ tạo
ra khả năng cho việc điều hành tác nghiệp của hệ thống làm cho việc kiểm tra được
dễ dàng.
- Chức năng tổ chức thực hiện kế hoạch.
Tổ chức thực hiện kế hoạch là quá trình sắp xếp và phân phối các nguồn lực
để hịên thực hoá các mục tiêu đã đề ra, là sự sắp đặt một cách khoa học cho con
người, công việc một cách hợp lý, là sự phối hợp các tác động bộ phận tạo nên một
tác động tích hợp mà hiệu quả của nó lớn hơn nhiều so với tổng số các hiệu quả của
tác động thành phần. Công tác tổ chức bao gồm:
* Xác định cấu trúc của bộ máy.
* Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo cấu trúc bộ máy.
* Xác lập cơ chế phối hợp giữa các bộ phận, các thành viên trong tổ chức.
- Chức năng chỉ đạo.
Chỉ đạo là quá trình tác động, liên kết các thành viên trong tổ chức, tập hợp,
động viên họ hoàn thành những công việc nhất định để đạt được những mục tiêu
của tổ chức.
Nội dung của chức năng chỉ đạo bao gồm:
*Chỉ huy, ra lệnh.
*Động viên khen thưởng.
*Theo dõi, giám sát.
*Uốn nắn, sửa chữa, chỉnh lý.
- Chức năng kiểm tra đánh giá.
Để hoàn thành chức năng lãnh đạo, người lãnh đạo hệ thống cần phải thực
hiện chức năng kiểm tra của quản lý. Xem mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ kế
hoạch đã đạt được ở mức độ nào, kịp thời phát hiện những sai sót lệch lạc, tìm ra
nguyên nhân của những sai sót, điều chỉnh và tạo thông tin cho quản lý tiếp theo.
Bốn chức năng của quản lý có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một
chu trình quản lý. Chu trình quản lý bao gồm 4 giai đoạn với sự tham gia của 2 yếu
tố quan trọng thông tin và quyết định. Trong đó thông tin có vai trò là huyết mạch
của hoạt động quản lý. Chức năng kiểm tra, đánh giá là giai đoạn cuối cùng của
hoạt động quản lý đồng thời cũng là tiền đề của một quá trình quản lý tiếp theo.
Chu trình quản lý được thể hiện ở sơ đồ sau:
LẬP KẾ HOẠCH
Kiểm tra
Thông tin
Tổ chức
1.3.2. Quản lý giaó dục
Quản lý giáo dục được bàn ở đây là quản lý giáo dục dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa. Vì mỗi phương thức sản xuất có một cách quản lý khác nhau. Xã hội nô lệ có
quản lý của xã hội nô lệ, xã hội tư bản có quản lý của xã hội tư bản, xã hội chủ
nghĩa có quản lý của xã hội chủ nghĩa.
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể
quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong
muốn bằng cách hiệu quả nhất [28-29].
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể
quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức và
vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân.
Từ các định nghĩa trên ta thấy có hai yếu tố cơ bản thường được nhắc đến
trong quản lý giáo dục đó là:
Chủ thể quản lý: Hệ thống, bộ máy quản lý giáo dục các cấp.
Khách thể quản lý: Là hệ thống giáo dục quốc dân hay sự nghiệp giáo dục
của địa phương.
Như vậy, sự tác động từ chủ thể quản lý đến khách thể quản lý có thể từ
người quản lý đơn vị cơ sở giáo dục đến các đối tượng quản lý là người dạy, người
học, cơ sở vật chất thiết bị, hoặc từ tác động giữa các cấp quản lý giáo dục từ trung
ương đến địa phương.
1.3.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một thể chế xã hội- Nhà nước, là một đơn vị tổ chức hoàn
chỉnh, một cơ quan giáo dục chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục-đào tạo của
Nhà nước và của cộng đồng xã hội chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống.
Quản lý giáo dục là một phạm vi cụ thể của quản lý hệ thống giáo dục. Theo
GS.TS Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ, với từng học sinh”{13 ,61}
Quản lý nhà trường bao gồm nhiều nội dung:
Quản lý cơ sở vật chất và thiết bị nhằm phục vụ cho việc học tập, giảng dạy:
Quản lý nguồn tài chính hiện có của nhà trường để xây dựng cơ sở vật chất, trang
thiết bị để tiến hành cho hoạt động dạy học và giáo dục; Tổ chức đội ngũ nhà giáo,
CBCNV, tập thể học sinh thực hiện tốt các nhiệm vụ trong chương trình công tác
của nhà trường; Quản lý các hoạt động chuyên môn: Quản lý chương trình, thời
gian, quản lý chất lượng, theo chương trình giáo dục của Bộ, của nhà trường; Quản
lý việc học tập của SV theo quy chế của Bộ GD & ĐT.
Quản lý nhà trường là một bộ phận hữu cơ trong quá trình giáo dục tổng thể,
trong đó quản lý qúa trình dạy học là một trong những hoạt động chủ yếu nhất trong
toàn bộ hệ thống quản lý của nhà trường. Xuất phát từ quản lý quá trình dạy học là
sự thống nhất hữu cơ giữa quản lý hoạt động dạy học và quản lý hoạt động học của
học sinh. Những hoạt động quản lý nói trên đều là những tác động có phương
hướng, có mục đích được phối hợp một cách đồng bộ nhằm giải quyết những nhiệm
vụ quản lý của nhà trường trong đó sản phẩm cuối cùng của hoạt động quản lý đều
được biểu hiện tập trung ở sự hình thành và phát triển nhân cách cuả học sinh.
1.3.4. Quản lý hoạt động tự học
- Khái niệm:
Quản lý hoạt động tự học là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của nhà quản lý đến tất cả các khâu của hoạt động tự học trong
nhà trường giúp sinh viên hoàn thành được nhiệm vụ học tập.
Quản lý hoạt động tự học là một nội dung quản lý rất quan trọng của hoạt
động quản lý nhà trường. Vì nếu quản lý tốt hoạt động tự học của sinh viên sẽ nhân
lên và tạo ra những nguồn lực tiềm tàng đảm bảo chất lượng và ngược lại nếu quản
lý kém sẽ làm suy yếu các nguồn lực và làm giảm chất lượng học tập của sinh viên.
- Mục tiêu của hoạt động quản lý tự học.
Mọi hoạt động quản lý đều xuất phát từ mục tiêu quản lý. Nếu xác định sai
mục tiêu sẽ dẫn đến lãng phí thời gian, nguồn lực tài chính và nhân lực.
Mục tiêu của hoạt động quản lý tự học của sinh viên là làm cho quá trình tự học
được vận hành đồng bộ, có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng học tập:
+ Về nhận thức SV có nhận thức đúng đắn về mục đích của việc tự học trên
cơ sở đó có tình cảm, thái độ tốt đối với hoạt động tự học của bản thân và ý thức tự
học, tự rèn luyện suốt đời.
+ Về thái độ giúp học sinh biết tôn trọng và thực hiện đúng các quy định về
tự học, tự khắc phục khó khăn để tiến hành tự học, biết đấu tranh với những hành vi
sai trái trong học tập.
+ Về hành vi rèn luyện tính kiên trì trong học tập, hình thành thói quen độc
lập trong suy nghĩ và hành động, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu. Hành vi
trên chính là sản phẩm của nhận thức, là biểu hiện cụ thể tình cảm của sinh viên đối
với hoạt động tự học.
- Nội dung quản lý hoạt động tự học.
* Giáo dục và nâng cao nhận thức về vai trò của tự học và thúc đẩy hoạt
động tự học của SV:
Mọi hoạt động của con người đều là hoạt động có mục đích, được thúc đẩy
bởi động cơ của hoạt động đó. Động cơ hoạt động là lực đẩy và là nguyên nhân trực
tiếp của hành động duy trì hứng thú, tạo ra sự chú ý liên tục, giúp chủ thể vượt mọi
khó khăn đạt tới mục đích đã định. Vì vậy động cơ của hoạt động quyết định kết
quả của hoạt động đó. Nhận thức của sinh viên về vai trò của hoạt động tự học cũng
là một quá trình, tuân theo các quy luật nhận thức chân lý khách quan: Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn. Muốn
nâng cao nhận thức của sinh viên về vai trò của hoạt động tự học, từ đó giúp họ có
những hành động tự học nhằm hoàn thành tốt những nhiệm vụ học tập của mình, thì
nhà trường phải thường xuyên, đồng thời tiến hành nhiều biện pháp và hình thức
giáo dục như: Giáo dục truyền thống, giáo dục nâng cao nhận thức về mục tiêu, yêu
cầu đào tạo, các quy chế, quy định về giáo dục- đào tạo, xây dựng bầu không khí
học tập tích cực trong tập thể sinh viên. Hoạt động tự học của sinh viên bình đẳng
như các hoạt động khác, song nó có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân,
điệu này càng khẳng định nó phải được thúc đẩy bởi hệ thống động cơ học tập nói
chung và động cơ tự học nói riêng.
Thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức vè vai trò to lớn của hoạt động
tự học sẽ trực tiếp góp phần xây dựng và thúc đẩy động cơ tự học của học sinh-
sinh viên. Động cơ tự học cũng có nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu từ sự thoả mãn
nhu cầu phải hoàn thành nhiệm vụ tự học, tự khẳng định mình, mong muốn thành
nghề trong tương lai cho tới cấp độ cao là thoả mãn nhu cầu hiểu biết, lòng khát
khao tri thức. Mọi động cơ đều được hình thành từ những tác động thực tiễn và
được cá nhân hoá thành hứng thú, tâm thế, niềm tin của mỗi cá nhân. Hình thành
động cơ hoạt động phải được bắt đầu từ việc xây dựng các điệu kiện cho phù hợp
với nhận thức, tình cảm của cá nhân.
* Quản lý kế hoạch tự học:
Việc xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên là yếu tố quan trọng góp phần
nâng cao hiệu quả tự học. Kế hoạch tự học là bảng phân chia nội dung tự học theo
thời gian một cách hợp lý, dựa trên yêu cầu, nhiệm vụ tự học khả năng của bản thân
và các điều kiện được đảm bảo, nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo, mục tiêu môn
học một cách khoa học. Kế hoạch tự học giúp cho người học thực hiện các nhiệm
vụ tự học một cách khoa học, hiệu quả. Từ đó quản lý việc xây dựng kế hoạch và
quản lý việc thực hiện kế hoạch tự học sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tự học của
sinh viên.
* Quản lý nội dung tự học:
Nội dung tự học, tự đào tạo trong nhà trường đã được xác định một cách chặt
chẽ theo mục tiêu đào tạo, bao gồm các khối kiến thức về khoa học cơ bản, khoa
học cơ sở, và khoa học chuyên ngành. Ngoài nội dung học tập bắt buộc trong nhà
trường, SV có thể tự học, tự nghiên cứu những lĩnh vực tri thức theo năng khiếu, sở
trường của riêng mình để chiếm lĩnh tri thức về phương pháp, rèn luyện nhân
cách.
Để quản lý đựơc nôi dung tự học, hướng cho nội dung tự học phù hợp với
mục tiêu, yêu cầu đào tạo, thì giảng viên phải hướng dẫn nội dung tự học cho SV.
Nội dung tự học gồm 2 phần:
+ Hệ thống các nhiệm vụ tự học có tính chất bắt buộc.
+ Tư vấn nội dung tự học cho sinh viên, định hướng nghiên cứu đào sâu, mở
rộng tri thức từ các vấn đề trong nội dung học tập.
* Quản lý các phương pháp tự học:
Phương pháp tự học đối với từng môn học, từng người là khác nhau. Tuy
nhiên, các phương pháp tự học vẫn có những điểm chung mà chúng ta cần tranh
thủ đó là phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát
hoá, quy nạp diễn dịch, đọc sách, diễn đạt sự hiểu biết của mình bằng ngôn ngữ,
sơ đồ, bản vẽ, ký hiệu Bên cạnh những phương pháp chung còn có các phương
pháp đặc thù với từng môn học như phương pháp học kỹ thuật nghề nghiệp là
luyện tập thực hành
Việc quản lý các phương pháp tự học của sinh viên được thực hiện thông
qua: Việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện các phương pháp dạy học tích cực; việc hướng
dẫn các phương pháp tự học cho sinh viên, việc hướng dẫn phương pháp tự học cho
sinh viên chọn, đọc, ghi chép đúng khi đọc; thông qua việc tổ chức Xê-mi-na báo
cáo chuyên đề về tự học của sinh viên; thông qua việc tổ chức sơ kết, tổng kết nêu
gương sinh viên có phương pháp tự học có hiệu quả
Cán bộ giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên xây dựng kế hoạch tự học và
giúp đỡ họ tự quản lý phương pháp tự học của mình. Để giải quyết vấn đề quản lý
phương pháp tự học, phải bắt đầu từ việc xác định mục đích, động cơ học tập đúng
đắn, từ việc lựa chọn các cách học, biện pháp học cho phù hợp Do vậy người học
phải biết quản lý phương pháp tự học của mình theo một kế hoạch hợp lý, biết tạo
ra điều kiện cần thiết để đảm bảo cho việc tự học suốt đời, học ở mọi người, học ở
mọi nơi, mọi lúc. Muốn tự học thành công, mỗi sinh viên phải biết tự vượt khó,
vượt khổ; phải tìm ra được nội dung và phương pháp học tập phù hợp với điều kiện
và năng lực của mình, phải quyết tâm thực hiện đúng kế hoạch tự học hàng ngày,
hàng tuần, hàng tháng, và từng năm; phải tận dụng được sự giúp đỡ của giảng viên
của các bạn và các phương tiện kỹ thuật học tập.
* Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả tự học:
Vấn đề tự kiểm tra đánh giá trong tổ chức hoạt động tự học của sinh viên là
một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của việc học tập nói chung, tự học nói
riêng; việc chỉ bảo dạy dỗ của thầy, bạn chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Quản lý việc kiểm
tra đánh giá kết quả tự học bao gồm:
- Kiểm tra việc xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tự học theo các mục tiêu yêu cầu, nhiệm
vụ tự học phát hiện sai lệch, giúp sinh viên điều chỉnh hoạt động tự học.
Quản lý việc tổ chức thi, đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
* Quản lý các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tự học của sinh viên:
Để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ học tập phải đảm bảo các điều kiện cho
hoạt động tự học của sinh viên trên các mặt sau:
- Quản lý cơ sở vật chất đảm bảo cho việc ăn, ở, học tập trên lớp, tự học, sinh
hoạt tập thể khác cho sinh viên.
- Quản lý giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và các phương tiện
kỹ thuật dạy học, học tập.
- Quản lý các hoạt động đảm bảo thời gian tự học cho sinh viên.
1.4. Vai trò của quản lý hoạt động tự học đối với sinh viên các trƣờng Đại học
1.4.1. Quản lý tốt hoạt động tự học góp phần nâng cao sự thống nhất hoạt động
giữa thầy và trò
Quá trình dạy học ở ĐH, SV và GV luôn luôn tác động qua lại, gắn bó chặt
chẽ với nhau, mối quan hệ đó quyết định sự tồn tại và vận hành của quá trình đào
tạo. Vì vậy cũng như hoạt động học, hoạt động tự học của sinh viên luôn có mối
quan hệ biện chứng và thống nhất với hoạt động dạy của GV, nghĩa là không tách
khỏi vai trò của người dạy. Hoạt động tự học của sinh viên chủ yếu phụ thuộc vào
sự tự giác tích cực, độc lập của SV, ý chí vươn lên trong học tập. Tuy vậy, vai trò
định hướng, hướng dẫn tổ chức điều khiển và quản lý, kiểm tra đánh giá của GV có
ý nghĩa trực tiếp quyết định kết quả tự học của người học.
Vai trò chỉ đạo của GV đối với hoạt động tự học của sinh viên đại học không
giống như khi trực tiếp tiến hành các hình thức dạy học khác (diễn giải, xêmina,
thực hành, thực tập ) mà là sự chỉ đạo gián tiếp thông qua các nhiệm vụ tự học
giao cho sinh viên hoàn thành, nhằm mục đích dạy học. Giảng viên là người hướng
dẫn điều khiển để sinh viên hoàn thành nhiệm vụ tự học đồng thời kiểm tra, đánh
giá kết quả tự học. Nắm thông tin ngược từ phía sinh viên để điều chỉnh nhận thức
của họ và điều chỉnh giảng dạy của chính mình để đạt kết quả cao trong quá trình
dạy và học. Bằng sự chỉ đạo như vậy, đã thực sự đặt sinh viên vào vị trí chủ thể của
quá trình nhận thức tích cực, phát triển mọi năng lực học tập độc lập sáng tạo chiếm
lĩnh tri thức nghề nghiệp và kỹ năng nghề nghiệp của mình.
Dựa trên mục tiêu, nội dung DH, quy luật của quá trình nhận thức, dựa vào
đặc điểm SV và điều kiện cụ thể, GV cần đặt ra những yêu cầu tự học đối với SV và
gợi ý cách và kế hoạch thực hiện mục tiêu của hoạt động tự học. Khi chỉ đạo, tổ chức
điều khiển SV tự học GV không nên làm thay việc giải quyết mâu thuẫn nhận thức
hoặc áp đặt hoàn toàn về nội dung, phương pháp cũng như tiến trình hoạt động tự học
của họ. Mặt khác, GV cũng không nên phó mặc hoàn toàn để hoạt động tự học của
sinh viên diễn ra một cách tự phát, hạ thấp vai trò chỉ đạo, điều khiển của mình.
Người giảng viên phải biết lựa chọn những mục tiêu vừa sức đảm bảo cho
người học với sự tích cực nỗ lực của họ sẽ hoàn thành được mục tiêu đã đề ra. Đồng
thời GV giúp SV có được những kỹ năng tự học cần thiết để thực hiện thành công
các hoạt động tự học. Như vậy GV là người điều khiển, điều chỉnh SV chiếm lĩnh
thông tin. Thông tin là một yếu tố không thể thiếu được của công tác quản lý. Trong
quản lý hoạt động tự học, thông tin là các tín hiệu mới, được thu nhận, được hiểu,
được cho là có ích trong hoạt động quản lý tự học. Trên cơ sở những thông tin chủ
thể quản lý tính toán, xử lý để kịp thời đưa ra những quyết định quản lý là những
nội quy, quy định của nhà trường về học tập nói chung và tự học nói riêng.
Thông qua những hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học như diễn giảng,
xêmina, thực hành và tự học thì vai trò tích cực, chủ động của sinh viên được tăng dần,
còn vai trò trực tiếp của GV thì giảm dần đến gián tiếp ở hình thức tự học của SV.
Lý luận dạy học ở đại học đã khẳng định rằng: quá trình dạy học ở đại học
bản chất là quá trình nhận thức độc đáo có tính chất nghiên cứu của SV được tiến
hành dưới sự tổ chức điều khiển của GV nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học, nó
cao hơn quá trình nhận thức của học sinh phổ thông và tiếp cận với quá trình nhận
thức của các nhà khoa học.
Mục tiêu cụ thể trong hoạt động tự học của SV không phải là những khái
niệm có sẵn có thể được truyền đạt tới họ qua lời giảng của GV mà đó là khách thể
chứa tri thức (các bài tập, nhiệm vụ tự học). SV phải bằng hoạt động của chính