Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa giáo dục mầm non trường cao đẳng sư phạm nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.01 KB, 96 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
--------------------

hồ phạm minh châu

Một số biện pháp quản lý hoạt động
tự học của sinh viên khoa giáo dục
mầm non trờng cao đẳng s phạm nghệ
an
luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục
Chuyên ngành: quản lý giáo dục
MÃ số: 60.14.05

VINH 2008 2008
M ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cần phải có con người
mới xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người Việt Nam có đạo đức trong
sáng lành mạnh, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành, có tác phong cơng
nghiệp, có tổ chức, có kỷ luật, có sức khoẻ, biết phát huy tính tích cực của cá
nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại.


2

Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng
khoa học công nghệ trên thế giới đòi hỏi mỗi chúng ta muốn tồn tại và phát
triển thì khơng thể chỉ dựa vào những kiến thức góp nhặt được từ sự truyền


đạt của thầy cơ giáo, mà cịn phải có khả năng tự học tập, tự nghiên cứu, tự
chiếm lĩnh tri thức một cách thường xuyên, liên tục và suốt đời, đúng như lời
dạy của Bác Hồ phải “lấy tự học làm cốt”.[21, tr 168].
Tự học là một yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi người nói chung và
mỗi sinh viên nói riêng. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ:
“tập trung nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học và sáng
tạo của mỗi học sinh”. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục chỉ đạo ngành
Giáo dục và Đào tạo “phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của
học sinh - sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay
nghề...”[13, tr 35].
Sinh viên, với tư cách là những chủ nhân tương lai của đất nước, có sứ
mệnh đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu. Để hoàn thành sứ
mệnh vinh quang ấy, trong q trình học tập, sinh viên nói chung và sinh viên
ngành sư phạm mầm non nói riêng cần phải có khả năng tự học, tự nghiên
cứu, tự sáng tạo, tự cập nhật tri thức suốt đời để có đủ khả năng giáo dục thế
hệ trẻ trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
Khoa GDMN Nghệ An (được thành lập từ năm 1997 trên cơ sở sát nhập
trường THSP Nghệ An vào trường CĐSP Nghệ An) có chức năng đào tạo đội
ngũ giáo viên mầm non có trình độ Trung học sư phạm và Cao đẳng sư phạm
cho tỉnh nhà. Từ khi thành lập đến nay Khoa đã chú trọng đến việc nâng cao
chất lượng đào tạo qua việc cải tiến và hồn thiện khung chương trình và
chương trình chi tiết của ngành học, bổ sung và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên,
từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất... Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chất
lượng đào tạo chưa cao, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội, ngành học của
tỉnh nhà (kết quả học tập của sinh viên khoa GDMN chưa cao, tỷ lệ sinh viên


3

tốt nghiệp loại khá - giỏi còn thấp). Đặc biệt là năng lực tự học, tự nghiên cứu

của sinh viên cịn yếu, do vậy sinh viên ra trường chưa thích ứng nhanh với
sự thay đổi của các Chương trình giáo dục mầm non hiện nay và trong tương
lai... Vì vậy việc tìm kiếm một số biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng
hoạt động tự học cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của
Khoa là vấn đề cần được quan tâm đúng mức. Từ thực tiễn trên, chúng tôi
chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh
viên khoa Giáo dục mầm non trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa
GDMN, trường CĐSP Nghệ An, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên mầm non.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu;
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Quá trình quản lý hoạt động tự học của sinh viên.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa GDMN,
trường CĐSP Nghệ An.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Số lượng cán bộ giảng viên : gồm 25 người.
Số lượng sinh viên nghiên cứu gồm : 214 em hệ CĐSP ngành Giáo dục
mầm non trong đó.
- 2 lớp CĐSP với số lượng 84 sinh viên (năm thứ 1).
- 1 lớp CĐSP với số lượng 45 sinh viên (năm thứ 2).
- 2 lớp CĐSP với số lượng 85 sinh viên (năm thứ 3).
4. Giả thuyết khoa học:


4

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề quản lý hoạt động

tự học, có thể đề xuất được một số biện pháp quản lý hoạt động tự học hiệu
quả cho sinh viên khoa GDMN trường CĐSP Nghệ An.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa GDMN,
trường CĐSP Nghệ An.
5.3. Đề xuất và khảo nghiệm một số biện pháp quản lý hoạt động tự học hiệu
quả cho sinh viên khoa GDMN, trường CĐSP Nghệ An.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp Anket.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của sinh viên.
- Tổng kết kinh nghiệm.
- Lấy ý kiến các chuyên gia.
6.3 Phương pháp toán học: dùng để xử lý số liệu thu được.
7. Những đóng góp mới của đề tài:
7.1. Hệ thống hoá lý luận về vấn đề quản lý hoạt động tự học của sinh viên.
7.2. Làm rõ thực trạng quản lý hoạt động tự học sinh viên khoa GDMN
trường CĐSP Nghệ An.
7.3. Đề xuất một số biện pháp hữu hiệu nhằm quản lý hoạt động tự học của
sinh viên khoa GDMN trường CĐSP Nghệ An.
8. CÊu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung gåm 3 ch¬ng.
Ch¬ng I: C¬ së lý ln cđa ®Ị tµi.


5


Chơng II: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa
GDMN.
Chơng III: Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
khoa GDMN trờng C§SP NghƯ An.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Giáo dục là hiện tượng xã hội được nảy sinh, tồn tại, phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội loài người. Với chức năng cơ bản là đào tạo
nguồn nhân lực cho xã hội hoạt động giáo dục ngày càng được chú trọng, là
"quốc sách hàng đầu" của nhiều quốc gia. Nhờ có những tri thức được trang


6

bị trong quá trình giáo dục, con người đã thành cơng trong q trình cải tạo tự
nhiên, xã hội và bản thân, không ngừng đáp ứng những khát vọng của mình
và của xã hội.
Trong hoạt động giáo dục người ta thường hay nhắc đến nhà giáo dục
(thầy) và người được giáo dục (trò). Trong mọi thời đại, bất kỳ ở đâu, trong
lĩnh vực nào thì vai trị tích cực của người học cũng được chú ý như một điều
kiện cho hoạt động của người thầy đạt kết quả cao.
Khổng Tử (152- 479 trc CN) đòi hỏi học trò phải tự suy nghĩ. Ơng nói:
“học mà khơng nghĩ là mù tịt, khơng hiểu gì, nghĩ mà khơng học là tốn cơng
vơ ích”. [22, tr 22]. Hay "Học nhi bất tư tắc vong.Tư nhi bất học tắc đãi." (Học
mà không tư duy (suy nghĩ) thì uổng phí. Tư duy (suy nghĩ) mà khơng học thì
nguy hiểm).
J.A.Comenxki (1592 - 1670) đã đưa ra yêu cầu cải tổ nền giáo dục
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Theo ơng việc dạy học
phải bắt đầu bằng sự vật hiện tượng, phải làm thế nào để người học tự tìm tịi,

suy nghĩ để nắm bắt được bản chất sự vật hiện tượng. [23, tr 130,132].
Theo Jacques Delores . Học tập: Kho báu tiềm ẩn. (Học tập: của cải
nội sinh)
Học để biết cách nhận thức
Học để biết cách hành động
Học để biết cách tồn tại
Học để biết cách sống chung với người khác
… Giáo dục là quá trình nâng cao tri thức và kỹ năng, và trước hết giáo
dục là phương tiện đặc biệt mang lại sự phát triển nhân cách.
… Giáo dục giúp tạo dựng nên một thế giới tốt đẹp hơn thông qua giáo
dục sự phát triển người bền vững (Đặng Quốc Bảo sưu tầm - 2002).
Ở Việt Nam, các bậc thầy trong giáo dục đời xưa đã từng chú ý đến
vai trò của người học như: Chu Văn An, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Nguyễn


7

Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp... Trong thời đại hiện nay vấn đề tự học càng
được quan tâm như là yếu tố không thể thiếu được của dạy học hiện đại.
Bác Hồ đã từng đề cao vấn đề hoạt động tự học, yêu cầu người học phải
biết tự động học tập.
"Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý
luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết
rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên
chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân" (Hồ Chí Minh,
1956)
Cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, 1969 khi phát biểu tư tưởng chỉ đạo
nhấn mạnh: “Giáo dục của dân, vì dân và do dân”, “Biến quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục”, “Biến quá trình dạy học thành q trình tự
học”…

Ngun Phó Chủ Tịch nước Nguyễn Thị Bình nêu vấn đề: “Nếu biết
kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với quyết tâm tự học - tự đào tạo là
con đường ngắn nhất để tạo ra “ nội lực” cần thiết cho sự phát triển của một
con người và cho đất nước. Chúng ta phải tạo được phong trào tự học - tự
đào tạo mạnh mẽ như kiểu cao trào xoá mù chữ như hồi cách mạng tháng
8…” [27, tr 10]
Văn kiện Đại hội IX của Đảng CS Việt Nam đã chỉ rõ: “Phát huy tinh
thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh - sinh viên, đề cao năng lực tự
học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong
nhân dân...” [15, tr 171].
Luật giáo dục 1999, chương 1 điều 4 có ghi: “Phương pháp giáo dục
phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học,
bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên...”.


8

Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường đã thống nhất
quan điểm rằng: dạy là “ngoại lực”, tự học là “nội lực”.
Tạ Quang Bửu: “Tự học là khởi nguồn của phong cách tự đào tạo đồng
thời là cái nơi ni dưỡng trí sáng tạo. Ai giỏi tự học ngay từ khi cịn ngồi
trên ghế nhà trường người đó sẽ tiến xa”. ( Đặng Quốc Bảo sưu tầm - 2002)
Ông Nguyễn Kỳ, nguyên thứ trưởng Bộ GD - ĐT, là một trong những
người tâm huyết trong nghiên cứu tự học. Là một thành viên của Trung tâm
nghiên cứu và phát triển tự học, ông đã giành nhiều thời gian để hồn thành
cơng trình mang tên “Tự học và tự học có hướng dẫn”, trong đó nêu rõ vai trị
của cả yếu tố chủ quan và khách quan trong tự học.
Trong bức thư Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD - ĐT Nguyễn Thiện
Nhân gửi các thầy cô giáo, các bậc cha mẹ và HSSV nhân Ngày Nhà giáo

Việt Nam 20-11- 2006, Phó thủ tướng đã nhấn mạnh yếu tố “dạy thật, học
thật”, trong đó có câu: "Hãy ni ước mơ của các em về tương lai của mình,
của quê hương bằng nỗ lực học thật, học say mê, sáng tạo từ mỗi ngày hơm
nay”. “Muốn học thật”, ngồi giờ học trên lớp, HSSV phải nỗ lực tự học, tự
nắm bắt và làm chủ tri thức. Thực tế cho thấy, tự học có vai trị rất quan trọng
trong cuộc sống của mỗi con người.
Như vậy, ta thấy rằng vấn đề tự học, ý nghĩa của hoạt động tự học,
phương pháp tự học đã được nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân nên việc nghiên cứu và tổ chức triển khai hoạt
động tự học chưa mang lại hiệu quả. Cách dạy và cách học phổ biến trong
trường học (phổ thông và Cao đẳng, Đại học) vẫn còn thụ động - sinh viên
nhớ kiến thức chủ yếu thơng qua nghe giảng chứ chưa thực sự tìm kiếm tri
thức thông qua hoạt động tự nghiên cứu tài liệu. Đa số sinh viên còn lúng
túng trong nhận thức và phương pháp tiến hành các hoạt động tự học, do đó
kết quả tự học chưa cao.


9

Về vấn đề quản lý hoạt động tự học không được nhiều tác giả quan tâm.
Có thể điểm qua một số bài viết, cơng trình của các tác giả có bàn đến việc
quản lý hoạt động tự học cho học sinh, sinh viên, như:
Luận văn thạc sĩ của Lê Đức Hưng (2006): Góp phần bồi dưỡng năng
lực tự học tốn cho học sinh THPT trong dạy học hình học lớp 10”.
Luận văn của thạc sỹ Nguyễn Hồng Lộc năm 2001 nghiên cứu về “một
số biện pháp quản lý sinh viên nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở
trường Đại học Vinh”.
Luận văn của thạc sỹ Hoàng Văn Thượng (2005) nghiên cứu về vấn đề:
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tự học của giáo viên tiểu
học huyện Quan Hoá - Tỉnh Thanh Hoá”.

Một số bài viết trong Tạp chí Giáo dục thời đại, Dạy và học ngày nay,
Tạp chí Giáo dục, thơng báo khoa học ở các trường ĐH và CĐ...
Nhìn chung, các tác giả đã khẳng định vị trí, vai trị, ý nghĩa của hoạt
động tự học của học sinh - sinh viên và đã nêu lên được thực trạng hoạt động
tự học của học sinh - sinh viên, tìm ra được một số nguyên nhân ảnh hưởng
đến hoạt động tự học, bước đầu đưa ra được một số biện pháp góp phần bồi
dưỡng năng lực tự học nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy những yếu
tố tích cực tác động đến quá trình tự học của học sinh và giáo viên. Tuy nhiên
các tác giả chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu, mơ tả tình hình tự học là chủ yếu. một
số biện pháp mà tác giả đưa ra chỉ là những biện pháp mang tính chất chung
chung …
Chưa có nhiều cơng trình đi sâu nghiên cứu vấn đề tự học, tự nghiên cứu
của học sinh - sinh viên, đặc biệt, hầu như có rất ít cơng trình nghiên cứu về
vấn đề quản lý hoạt động tự học của sinh viên chuyên ngành giáo dục mầm
non những giáo viên chịu trách nhiệm đặt nền móng đầu tiên cho sự phát triển
tồn diện nhân cách trẻ.


10

Ở trường CĐSP Nghệ An, vấn đề hoạt động tự học của sinh viên nói
chung và việc quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tự học của sinh
viên khoa GDMN nói riêng thì chưa được tác giả nào nghiên cứu.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài.
1.2.1. Hoạt động tự học.
1.2.1.1. Khái niệm về hoạt động tự học
Tự học có thể hiểu là “Sự chuyển q trình giáo dục thành quá trình tự
giáo dục”, là “Sự biến đổi bản thân mình, trở nên có thêm giá trị, bằng nỗ lực
của chính mình để chiếm lĩnh giá trị mới lấy từ bên ngồi”, là “một hành trình
nội tại, được cắm mốc bởi kiến thức, phương pháp tư duy và sự thực hiện tự

phê bình, để tự hiểu bản thân mình”. [5, tr 17].
Giáo sư - Viện sĩ Nguyễn Cảnh Tồn: Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, suy nghĩ, phân tích, tổng hợp...)
và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất rồi cả
động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan. (Như trung thực, khách
quan, có chí tiến thủ, khơng ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại lịng say mê
khoa học, ý muốn, thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi ...) để chiếm lĩnh
một lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
[19, tr 59.60]
Theo Science et Vie (1999) "Ai tự học mạnh nhất người đó tích luỹ
được một tiềm năng sáng tạo dồi dào nhất. Ai càng có nhu cầu sáng tạo người
ấy càng thơi thúc ý chí tự học". [12, tr 59]
Tự học được xem như "một hoạt động nhận thức các hệ thống nhằm
thoả mãn nhu cầu về tri thức nảy sinh ở con người". Việc dạy học như thế có
thể thực hiện trong suốt cuộc đời của con người.


11

Xây dựng được ý nguyện tự học và khả năng tương ứng là vấn đề thời sự
hiện nay của lý luận dạy học, đặc biệt là thời kỳ bùng nổ thông tin hiện nay,
khi thế giới đang bước vào “cuộc cách mang trí tuệ” với xa lộ thơng tin.
Như vậy, tự học có thể coi là hoạt động tự tổ chức một cách tự giác,
độc lập tích cực của người học nhằm chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ
năng kỷ xảo.
Trong q trình đó người học là chủ thể của quá trình nhận thức, huy
động các chức năng tâm lý, tiến hành hoạt động nhận thức nhằm đạt được mục
tiêu đã định. Tự học là “nội lực” quyết định chất lượng học tập, sáng tạo cho
hôm nay và mai sau.
Quá trình tự học là quá trình kết hợp nỗ lực chủ quan của người học, chủ

yếu là nỗ lực tư duy với sự tranh thủ tận dụng, khai thác của người học đối với
nguồn lực ngoài.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau:
- Hình thức 1: Tự học có sự điều khiển trực tiếp của thầy và những
phương tiện kỹ thuật trên lớp - gọi là học “giáp mặt” - người học phải phát
huy những năng lực và phẩm chất như khả năng chú ý, óc phân tích, năng lực
khái qt, tổng hợp để tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người dạy
định hướng cho.
- Hình thức 2: Tự học khơng có sự điều khiển trực tiếp của người dạy gọi là học “không giáp mặt” - người học phải tự xếp sắp quĩ thời gian và điều
kiện vật chất để tự học tập, tự củng cố, tự đào sâu những tri thức hoặc tự hình
thành những kỹ năng, kỹ xảo ở một lĩnh vực nào đó theo những yêu cầu trong
chương trình đào tạo của nhà trường.
- Hình thức 3: Người học tự tìm kiếm tri thức để thoả mãn những nhu
cầu hiểu biết của mình bằng cách tự tìm tài liệu, tự rút kinh nghiệm về tư duy,
tự phân tích, đánh giá… coi đó là tự học ở mức độ cao.


12

Về quan hệ giữa người dạy và người học trong hoạt động tự học, GS.
Nguyễn Cảnh Tồn đã viết "Trị học cốt là tự học, học cách học, cách tư
duy... Thầy dạy, cốt lõi là dạy cách học, cách tư duy... Tác động dạy của thầy
dù là vô cùng quan trọng vẫn là ngoại lực hỗ trợ cho trò tự phát triển, sức tự
học của trò mới là nội lực, nhân tố quyết định sự phát triển bản thân người
học. Chất lượng dạy học đạt đỉnh cao khi tác động dạy của thầy - ngoại lực
cộng hưởng với tự học - nội lực, tạo ra năng lực sáng tạo của người học. Trị
là chủ thể tự mình xử lý thơng tin bên ngoài thành tri thức bên trong con
người bằng cách học, cách tư duy của chính mình. Thầy là tác nhân, tổ chức,
hướng dẫn, đạo diễn cho trò biết cách tự học.” [5, tr 8].
Ơng cịn viết tiếp “Hoạt động tự học có thể diễn ra bất cứ ở đâu, lúc nào,

vì bất cứ lúc nào ở đâu cũng đều có những tình huống cần được lý giải".
Tóm lại: Tự học là nội lực của người học, nhân tố quyết định sự phát
triển của bản thân người học: có tự học mới phát triển được tư duy độc lập, từ
chỗ có tư duy độc lập mới có tư duy tự phê phán, có khả năng phát hiện vấn
đề và nhờ đó mới có tư duy sáng tạo. Như vậy, tự học là hoạt động tất yếu của
hoạt động học tập. Trong học tập bao giờ cũng có tự học, tự nghiên cứu. Nói
cách khác tự học là một yếu tố, một bộ phận của hoạt động học tập, là một
khâu cần được nhà trường quản lý nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động
dạy và học.
1.2.1.2. Vai trò của hoạt động tự học.
Trong nhà trường, hoạt động của người thầy có ý nghĩa rất to lớn- thầy
truyền thụ kiến thức, trị lĩnh hội tri thức, biến kiến thức đó thành tri thức của
bản thân. Khơng ai có thể trơng chờ người khác học hộ, học thay mình, ngược
lai cũng khơng ai có thể học hộ, học thay mgười khác được.
Hoạt động tự học có vai trị to lớn đối với sự phát triển toàn diện của con
người. Tự học làm cho quá trình nhận thức tăng lên, kiến thức được mở rộng,
phong phú hơn.


13

John Lubbock cho rằng: “Cái gì ta học được mới thực sự là của ta, hơn
những cái người khác dạy cho ta” [46, tr 55]. Tự học khơng chỉ có ý nghĩa đối
với bản thân người học mà cịn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bởi vì
trong quá trình dạy học, con người khơng chỉ là khách thể chịu sự tác động
của giáo dục mà còn là chủ thể của quá trình nhận thức. Quá trình nhận thức
sẽ không diễn ra và không đạt kết quả nếu chủ thể khơng tiến hành hoạt động
nhận thức một cách tích cực.
Như vậy, có thể khẳng định rằng: Tự học, tự đào tạo là nhân tố quyết
định trực tiếp đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Trong giai đoạn hiện nay

con người đang bước vào nền văn minh thông tin, với sự phát triển như vũ bão
của khoa học kỹ thuật cơng nghệ, thì người thầy khơng thể trang bị cho người
học đầy đủ những kiến thức cần thiết, nếu như họ không thực hiện hoạt động
tự học. Sinh viên của các trường Cao đẳng, Đại học cũng không nằm ngồi
quy luật đó - với thời gian đào tạo từ 2 đến 4 năm nếu sinh viên chỉ học theo
thời gian biểu trên lớp thì chắc chắn nhà trường khơng thể đáp ứng khối lượng
kiến thức khổng lồ về nội dung, chương trình đào tạo và khi đó chất lượng đào
tạo sẽ không thể đáp ứng được mục tiêu đào tạo ngành học. Vì vậy, hoạt động
tự học, tự nghiên cứu là giải pháp hữu hiệu để giải quyết mâu thuẫn giữa khối
lượng kiến thức khổng lồ với quỹ thời gian ít ỏi ở nhà trường. Khi sinh viên
biết cách tự học họ sẽ có ý thức và biết xây dựng thời gian tự học, tự nghiên
cứu giáo trình và tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo, biến q trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Đặc biệt trong thời đại hiện nay, tốc độ thông tin đang ở cấp vũ trụ, nhu
cầu luân chuyển kiến thức diễn ra một cách dữ dội hơn trong cuộc vận hành
của cơ chế thị trường sôi động, khắc nghiệt. Cho nên khả năng thích ứng, hồ
nhập và tự khẳng định cá nhân trong xã hội ngày càng đòi hỏi mỗi thành viên
trong cộng đồng khơng ngừng bổ túc kiến thức cho mình bằng con đường tự


14

học. Tự học là con đường tự khẳng định, là con đường sống, con đường của
những ai muốn vươn lên đỉnh cao trí tuệ của thời đại thơng tin siêu tốc ngày
nay.
Tự học là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết đối
với sinh viên trong việc tìm hiểu, bổ sung trí thức nhằm thích ứng với u cầu
của thời đại bùng nổ thơng tin này.
Tóm lại: Tự học là một hoạt động tất yếu của sinh viên. Tự học có vai trị
hết sức quan trọng đối với việc đổi mới, nâng cao chất lượng GD - ĐT. Tự học

là con đường phát triển phù hợp với quy luật tiến hoá của nhân loại, là một
phương pháp học tập đúng đắn cần được phát huy không chỉ trong các nhà
trường mà còn rất cần thiết trong cả cuộc đời của mỗi con người.
1.2.1.3. Những yếu tố tác động đến hoạt động tự học.
Qua nghiên cứu một số tài liệu lý luận, chúng tôi nhận thấy để hoạt động
tự học có hiệu quả cao, sinh viên cần có đủ các điều kiện sau:
+ Phải có nhận thức sâu sắc về vai trò quyết định của hoạt động tự học
đối với việc hoàn thành nhiệm vụ học tập, có mục đích và thái độ học tập đúng
đắn, có lý tưởng và hồi bão khoa học, có tầm nhìn xa cùng những mục tiêu
trước mắt, trước hết phải có ý chí lớn thì mới có năng lực tự học, tự sáng tạo.
+ Phải vừa học kiến thức, kỹ năng, vừa rèn luyện nhân cách.
+ Có lịng tin và có khả năng tự học của mình, khắc phục bệnh tự ty,
đồng thời cũng phải biết khắc phục tâm lý dễ thoả mãn.
+ Hình thành được phương pháp tự học phù hợp, phải dành thời gian
thích đáng cho việc tự học.
+ Có thói quen tự học ở mọi lúc, mọi nơi, ở mọi người và mọi nội dung
nhằm rèn luyện được các loại tư duy lơgíc, tư duy trừu tượng, tư duy biện
chứng, tư duy quản lý…


15

Như vậy có thể thấy hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên chịu ảnh
hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan sau đây:
a) Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tự học:
+ Có động cơ và mục đích học tập đúng đắn, có lý tưởng và hồi bão
khoa học, có ý chí vươn lên, có tầm nhìn xa hơn các mục tiêu trước mắt.
+ Biết tự giác huy động niềm say mê hiểu biết và mọi khả năng trí tuệ
có sẵn của bản thân.
+ Tự tin ở khả năng học tập của mình, tránh tâm lý tự ty hay tự kiêu.

+ Biết rút kinh nghiệm để tự mình hình thành phương pháp tự học phù
hợp với mục đích, mục tiêu nghề nghiệp, phù hợp với hoàn cảnh điều kiện
của bản thân mình, tránh tư tưởng học chiếu lệ hay học đối phó.
+ Tích cực rèn luyện thói quen tự học mọi lúc, mọi nơi, học mọi người,
học bằng cách có thể, rèn luyện để có thể nắm vững và vận dụng linh hoạt các
khả năng tư duy lơgíc, tư duy biện chứng…
+ Biết tự lập kế hoạch, tự sắp xếp thời gian, tự nghiên cứu phù hợp với
chương trình, chuyên ngành, nghề nghiệp đào tạo.
b) Các yếu tố khách quan đó là hệ thống tổ chức quản lý của nhà
trường (thể hiện qua các nội quy, quy chế, các tổ chức lớp, khoa, các phịng
ban chức năng, các tổ chức đồn thể…), nội dung dạy học, phương pháp dạy
học, điều kiện và môi trường học tập…
b1) Tác động của nội dung dạy học đến việc hình thành và nâng cao kết
quả hoạt động tự học.
Nội dung dạy học là đối tượng lĩnh hội của sinh viên trong quá trình
học tập và tự học, bao gồm:
- Hệ thống những kiến thức về khoa học cơ bản, khoa học cơ sở, khoa
học chuyên ngành, hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo nhằm giúp sinh


16

viên tìm tịi cái mới để phát triển và có khả năng lập nghiệp, có đủ kiến thức,
năng lực vào đời.
- Hệ thống kỹ năng, kỹ xảo.
- Hệ thống những quy phạm về thái độ, cảm xúc, giá trị trong giao tiếp
và ứng xử xã hội.
Nội dung dạy học chứa đựng trong sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và
trong nguồn thông tin tài liệu khác. Cấu trúc nội dung dạy học thể hiện tính
khoa học qua chương trình dạy học theo từng cấp bậc, cấp học.

Nội dung dạy học khơng chỉ là hệ thống tri thức mà cịn cả cách thức
hành động trong đó chứa kỹ năng và phương pháp học tập. Do đó nội dung
dạy học là yếu tố có ảnh hưởng đến việc hình thành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
học tập và tự học của sinh viên. Nếu nội dung dạy học phù hợp, đáp ứng được
nhu cầu của người học thì nó sẽ có tác động tích cực đến việc tạo hứng thú,
lịng say mê, tính cần cù, sáng tạo, chủ động tự giác, tự tìm tịi, tự nghiên cứu
trong q trình học tập.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, con người đang ở trong giai đoạn
phát triển cao của trí tuệ, của “xã hội tri thức”; việc học tập của sinh viên
ngày nay được diễn ra trong những điều kiện hsết sức mới mẻ. Thành tựu của
khoa học - công nghệ đang tạo ra sự “bùng nổ” cũng như sự “lão hố” thơng
tin một cách nhanh chóng. Do đó địi hỏi sinh viên phải có khả năng định
hướng, tự lựa chọn và tiếp nhận, xử lý và ứng dụng thông tin.
b2) Tác động của phương pháp dạy học đến việc hình thành và nâng
cao kết quả hoạt động tự học.
Dạy và học là hai mặt của q trình dạy học, ln có sự thống nhất, tác
động qua lại biên chứng với nhau. Quá trình dạy có thể tác động tích cực hoặc
tiêu cực đến quá trình học của sinh viên.
Quá trình học tập ở nhà trường, sinh viên tiếp thu nội dung bài học
thông qua hướng dẫn của giảng viên. Với một nội dung cụ thể, giảng viên sẽ


17

sử dụng một phương pháp cụ thể, thích ứng nhằm tạo điều kiện cho người học
tìm đến chân lý. Khi người giảng viên biết cách hướng dẫn, tổ chức, kích
thích tạo cho người học say mê để tự tìm đến chân lý, tự nắm bắt, tự xử lý
thông tin nhằm chiếm lĩnh tri thức; khi đó hoạt động tự học và tự học suốt đời
của sinh viên mới có điều kiện phát triển. Ngược lại, nếu người thầy chỉ biết
cung cấp, nhồi nhét, áp đặt kiến thức cho người học thì người học chỉ biết tiếp

thu một cách máy móc, thụ động; và tất nhiên là khả năng tự học, tự sáng tạo
sẽ khơng có điều kiện hình thành và phát triển, thậm chí có thể bị thui chột.
Do đó, phương pháp dạy mà người thầy sử dụng để truyền tải thơng tin cho
trị có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tự học của sinh viên.
b3) Tác động của điều kiện và mơi trường học tập đến việc hình thành
nâng cao kết quả hoạt động tự học.
Các Mác đã từng khẳng định: Xét trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Như vậy mọi hoạt động của
con người đều nằm trong và chịu tác động tất yếu của các mối quan hệ xã hội.
Hoạt động tự học của sinh viên cũng vậy; nó ln chịu sự tác động của nhiều
yếu tố: gia đình, nhà trường và xã hội.
+ Giáo dục gia đình là hạt nhân cơ bản hình thành tính cách của người
học ngay từ thời thơ ấu. Mức sống, trình độ học vấn, đời sống văn hố, thói
quen, nếp sống của gia đình, mối quan hệ tình cảm giữa các thành viên trong
gia đình, tính mẫu mực về phương pháp giáo dục trong gia đình… có ảnh
hưởng đến việc hình thành động cơ, thái độ và kết quả của q trình học tập
nói chung và tự học nói riêng.
+ Nhà trường là môi trường để sinh viên học tập, giao tiếp hàng ngày.
Những điều kiện thuận lợi của nhà trường sẽ kích thích sự say mê, tính tự
giác chủ động trong học tập của người học; và ngược lại, những điều kiện khó
khăn sẽ tạo ra sự ỉ lại của sinh viên trong q trình học tập. Đó chính là những


18

điều kiện về phòng học, về thư viện, về phòng thí nghiệm, phịng thực hành,
về thời gian, về ánh sáng, về âm thanh… đều có những tác động nhất định
đến q trình học tập nói chung và tự học nói riêng của sinh viên. Những tập
thể trong nhà trường: nhóm bạn bè, lớp học, đồn TNCS Hồ Chí Minh, hội
HSSV… với tư cách là cộng đồng xã hội đã tạo điều kiện tốt nhất cho sinh

viên hoạt động và chủ động tham gia vào các hoạt động…
+ Môi trường rộng lớn hơn cả là xã hội với thể chế chính trị, pháp luật,
hệ tư tưởng, trình độ dân trí, truyền thống văn hố… có ảnh hưởng đến hoạt
động tự học của sinh viên. Trình độ sản xuất, chế độ chính trị, đường lối
chính sách phát triển của quốc gia… qui định chiều hướng nội dung của nền
giáo dục xã hội, qui định cả chiều hướng phát triển của cá nhân và ảnh hưởng
khơng nhỏ đến việc hình thành động cơ, phương pháp học tập nói chung và tự
học nói riêng của sinh viên.
b4) Tác động của các hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp đến việc
hình thành và nâng cao lết quả hoạt động tự học.
Hoạt động tự học của sinh viên được nâng cao không những do ảnh
hưởng từ nội dung, phương pháp, điều kiện, môi trường giáo dục mà cịn
được hình thành, phát triển thơng qua những hoạt động tập thể, hoạt động thể
thao, sinh hoạt Đoàn ở trường mang lại.
Trong nhà trường các hoạt động tập thể qua sinh hoạt lớp, sinh hoạt
đoàn và rèn luyện thể chất nhằm mục đích rèn luyện nhân cách người sinh
viên, giáo dục cho sinh viên trở thành những công dân tốt. Chính mơi trường
hoạt động tập thể giúp cho người học có động cơ, có thái độ học tập đúng đắn
nhằm mưu cầu lợi ích cho bản thân, cho xã hội và qua đó kích thích ước mơ
của các em, tạo cho các em có sự thi đua, ham muốn trong học tập. Đó là
động lực thúc đẩy hoạt động tự học của sinh viên. Các hoạt động ngoài giờ
lên lớp ở trường Cao đẳng sư phạm không chỉ nhằm kích thích động cơ, thái


19

độ học tập của sinh viên mà còn nhằm cung cấp cho các em những kỹ năng,
thao tác tư duy cần thiết trong quá trình học tập, tự học, tự rèn luyện, tự ứng
dụng những tri thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn…
1.2.2. Quản lý và quản lý giáo dục.

1.2.2.1. Quản lý:
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
(người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt
chính trị, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo
ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Đối tượng quản lý
có thể trên quy mơ quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một con người cụ thể, sự
vật cụ thể.
C. Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng
chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của
những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển
lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải nhạc trường.”
Về nội dung, thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách hiểu khơng giống nhau:
- “Quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm đảm bảo sự thành công việc
qua những nỗ lực của người khác…”(Khoa học quản lý, tập 1, NXB Khoa học
kỹ thuật. Hà Nội. 1999)
- Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ
thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội.
- Quản lý là một q trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên
các thơng tin về tình trạng của đối tượng và mơi trường nhằm giữ cho sự vận
hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định.


20

- Quản lý là sự tác động có ý thức, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
- Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng các cơ hội

tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
- Hiện nay, quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình
đạt tới mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế
hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra. Quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với mhững bản chất khác nhau (kỹ thuật, sinh vật,
xã hội) nó bảo tồn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động,
thực hiện những chương trình mục đích hoạt động.
- Quản lý được hiểu là bảo đảm hoạt động của hệ thống trong điều kiện
có sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống đến
trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới.
- Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể những
con người để tổ chức và phối hợp hoat động của họ trong quá trình lao động.
- Quản lý là nhằm phối hợp nổ lực của con người, sao cho mục đích của
từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội.
- Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có
hệ thống của chủ thể đến khách thể của nó. [5, tr 5].
Những định nghĩa trên đây khác nhau về cách diễn đạt, nhưng đều gặp
nhau ở nội dung cơ bản. Hiệu quả quản lý phụ thuộc vào các yếu tố: chủ thể,
khách thể, mục tiêu, công cụ và phương pháp quản lý.
+ Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức.
+ Khách thể quản lý là đối tượng bị tiếp nhận trực tiếp các tác động của
chủ thể quản lý và các “khách thể” khác chịu các tác động gián tiếp của chủ thể
quản lý. Tác động có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.



×