Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

ột số khó khăn trong quá trình sử dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi đối với trẻ em vị thành niên có rối loạn trầm cảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 142 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC



TRẦN THỊ THU HẰNG



MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH SỬ DỤNG
KỸ THUẬT TÁI CẤU TRÚC NHẬN THỨC VÀ HOẠT HÓA
HÀNH VI ĐỐI VỚI TRẺ EM VỊ THÀNH NIÊN CÓ
RỐI LOẠN TRẦM CẢM


LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Amine Pollack
Ths. Trần Thành Nam








HÀ NỘI – 2011

3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BDI

Beck Depression Inventory
(Thang đánh gia trầm cảm của Beck)
BN
Bệnh nhân
CBT
Congitive Behavior Therapy ( Liệu pháp nhận thức hành vi)
CS
Cộng sự
CTC
Chống trầm cảm
DSM – IV

Diagnostic and Statistical manual of Mental disorder 4
th

edition (Sách hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối loạn
tâm thần, xuất bản lần thứ 4)
DTTK
Dẫn truyền thần kinh
ICD – 10

International Classification of Diseases 10
th

edition ( Phân
lọa bệnh quốc tế lần thứ 10)
MAO
Mono Amin Oxydase
RASD
Reynolds Adolescent Depression Scale
(thang đánh giá trầm cảm thanh thiếu niên )
RLTC
Rối loạn trầm cảm
RLCXLC
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
RLLA
Rối loạn lo âu
SSRI

Selective Serotonin Reuptake Inhibitiors
( Ức chế chọn lọc tái hấp thu serotonin)

Trung ương
VSKTT
Viện sức khỏe tâm thần
VTN
Vị thành niên




4
MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
3
4. Giả thiết khoa học
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Đóng góp nghiên cứu
4
9. Cấu trúc luận văn
5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
6
1.1. Một số vấn đề chung về rối loạn trầm cảm
6
1.1.1. Khái niệm và dịch tễ học
6
1.1.2. Nguyên nhân của trầm cảm
12
1.1.3.Các trường phái giải thích nguyên nhân của trầm cảm

15
1.2.Vị thành niên và trầm cảm vị thành niên
17
1.2.1.Vị thành niên
17
1.2.2.Trầm cảm ở vị thành niên
20
1.2.3.Trầm cảm ở vị thành niên
22
1.3. Liệu pháp trị liệu cho trầm cảm
24
1.3.1. Các liệu pháp
24
1.3.2. Liệu pháp nhận thức hành vi
27
Chƣơng 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
37
2.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
37
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
37
2.1.2. Khách thể nghiên cứu
37
2.1.3. Tiêu chuẩn bệnh nhân để thực hiện hai kỹ thuật tái cấu trúc nhận
thức và hoạt hóa hành vi

37
2.1.4.Tiêu chuẩn đoán rối loạn trầm cảm
38
2.1.5.Tiêu chuẩn loại trừ

39
2.1.6. Yêu cầu đối tượng nghiên cứu
39

5
2.2. Quy trình can thiệp
39
2.3.Tổ chức nghiên cứu
42
2.3.1.Giai đoạn 1: Thu thập số liệu
42
2.3.2. Giai đoạn 2 : Tiến hành khảo sát
42
2.3.3. Giai đoạn 3 : Thực nghiệm tác động
42
2.3.4. Giai đoạn 4 : Hoàn thiện luận văn
42
2.4. Những thang đo sử dụng trong nghiên cứu
42
2.4.1. Câu hỏi phỏng vấn chuyên gia
42
2.4.2. Thang đánh giá trầm cảm thanh thiếu niên (Reynolds Adolescent
Depression Scale – RADS)

43
2.4.3. Thang đánh gia trầm cảm của Beck ( Beck Depression Inventory – BDI)
43
2.4.4. Các thang đánh giá khác
44
2.5. Phương pháp xử lí kết quả

44
2.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
45
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
46
3.1. Những khó khăn tiềm năng khi thực hiện các kỹ thuật tái cấu trúc
nhận thức và hoạt hoá hành vi

46
3.2. Những vấn đề cần lưu ý khi áp dụng kỹ thuật nhận thức hành vi
trong điều trị trầm cảm

49
3.3. Khó khăn qua từng buổi trị liệu
54
3.4. Trường hợp điển hình
59
3.4.1. Hồ sơ tâm lý
59
3.4.2. Quá trình trị liệu
62
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
115
1. Kết luận
115
2. Khuyến nghị
116
TÀI LIỆU THAM KHẢO
118
PHỤ LỤC



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rối loạn trầm cảm (RLTC) là một rối loạn phổ biến trong dân số, được
xếp vào một trong bốn nhóm bệnh gây thiệt hại nhiều nhất về phương diện
kinh tế và con người. Nó cũng là 1 trong 10 bệnh về sức khoẻ tâm thần phổ
biến nhất là một loại bệnh lí cảm xúc biểu hiện đặc trưng bởi khí sắc trầm,
giảm hoặc mất sự quan tâm, thích thú, giảm năng lượng dẫn đến sự mệt mỏi.
Trên thế giới, tỉ lệ trung bình mắc các dạng rối loạn trầm cảm ở người lớn
chiếm khoảng 11%. Ở trẻ em và vị thành niên tỉ lệ mắc trầm cảm trong
khoảng 2,8% đến 3,0% (Costello, Foley, & Angoold, 2006). Một số nghiên
cứu khác trên trẻ nhỏ khoảng từ 2 đến 5 tuổi cho thấy tỉ lệ mắc trầm cảm
chính khoảng 1,4%, rối loạn khí sắc 0,6% và 0,7% cho các rối loạn trầm cảm
không biệt định. Với trẻ trong độ tuổi từ 4-17 tuổi, nghiên cứu của (Canino,
Shrout, Rubio – Stipec, Bird, Bravo ,2004) chỉ ra có khoảng 4.1% dân số
mắc một trong các dạng rối loạn trầm cảm.
- Trầm cảm là một trạng thái ức chế cảm xúc, đặc trưng bằng giảm khí sắc,
các triệu chứng buồn, giảm hứng thú, mệt mỏi, thay đổi trọng lượng cơ thể,
rối loạn giấc ngủ, cảm thấy không xứng đáng, giảm khả năng tập trung chú ý,
ăn uống kém ngon miệng, mất dục năng Rối loạn trầm cảm là một rối
loạn mãn tính, khả năng tái phát lớn và gây ra những hậu quả xấu cho cá nhân
và xã hội (VD: học tập không hiệu quả, giảm năng suất lao động; trầm cảm có
thể dẫn đến tự sát ). Chi phí chẩn đoán đánh giá và điều trị cho các bệnh
nhân này cũng tốn kém.
- Điều cần thiết là phải điều trị trầm cảm nếu không trẻ vị thành niên trầm
cảm dễ gặp các vấn đề nghiêm trọng hơn. Các phương pháp can thiệp cho
bệnh nhân rối loạn trầm cảm ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là dùng thuốc
(Zoloft, Prozac, Paxil được VSKTT đang dùng). Bên cạnh đó, trị liệu tâm

lý cũng được áp dụng như một liệu pháp bổ trợ. Các công trình nghiên cứu
trên thế giới đã cung cấp nhiều bằng chứng về hiệu quả của liệu pháp nhận

2
thức hành vi trong điều trị bệnh nhân có rối loạn lo âu, trầm cảm cũng như
hiệu quả kinh tế của nhóm liệu pháp này trước can thiệp bằng thuốc. Tuy
nhiên, chủ yếu các công trình nghiên cứu về hiệu quả trị liệu nhận thức hành
vi được tiến hành trên đối tượng khách thể phương Tây. Chưa có nhiều công
trình nghiên cứu về hiệu quả của liệu pháp trị liệu nhận thức hành vi trên đối
tượng khách thể Việt Nam có rối loạn trầm cảm. Đơn cử mới chỉ có công
trình nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Hồng Thuý, Cao Vũ Hùng, Trần
Thành Nam, Đặng Hoàng Minh (2001) bước đầu áp dụng trị liệu nhận thức
hành vi trên nhóm trẻ có rối loạn lo âu trầm cảm. Nghiên cứu ban đầu chỉ ra
những khó khăn khi áp dụng kỹ thuật nhận thức cho nhóm trẻ nhỏ. Cụ thể,
nhóm trẻ nhỏ hơn 9 tuổi gặp khó khăn hơn trong việc xác định những suy
nghĩ đi cùng với sự kiện gây lo âu và tranh luận với những suy nghĩ bất hợp
lý so với trẻ lớn 11 tuổi. Nghiên cứu cũng chỉ ra sự hiểu biết và tham gia tích
cực của bố mẹ trong quá trình trị liệu đóng vai trò quan trọng trong tiến triển
của trẻ cũng như hạn chế việc bỏ trị liệu giữa chừng.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu Một số khó khăn trong quá trình sử dụng
kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi đối trẻ em vị thành
niên có rối loạn trầm cảm sẽ góp phần xác định những khó khăn, cản trở khi
áp dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi vào nhóm khách
thể vị thành niên Việt Nam có rối loạn trầm cảm. Kết quả của nghiên cứu sẽ
bước đầu giúp các nhà trị liệu Việt hoá và thích nghi hoá kỹ thuật này phù hợp
với đối tượng người Việt Nam có lo âu, trầm cảm.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra những điểm khó khăn khi áp dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận
thức và hoạt hóa hành vi trên trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm, làm rõ
bản chất nguyên nhân của các khó khăn khi áp dụng hai kỹ thuật này trên trẻ

vị thành niên có rối loạn trầm cảm đồng thời đề xuất các biện pháp điều chỉnh
nhằm giảm thiểu, khắc phục những khó khăn đó trong quá trình ứng dụng kỹ
thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi.

3
3. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những khó khăn khi sử dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa
hành vi cho trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Trẻ vị thành niên được chẩn đoán có rối loạn trầm cảm ở Viện Sức
Khỏe Tâm Thần, những bệnh nhân này được điều trị thuốc và được chỉ định
sử dụng thêm các hỗ trợ trị liệu tâm lý bởi bác sĩ.
4. Giả thiết khoa học
Dựa trên các nghiên cứu của phương Tây và nghiên cứu của Nguyễn
Hồng Thuý và cộng sự (2001) chúng tôi có một số giả thuyết về những khó
khăn khi áp dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi cho trẻ
vị thành niên có rối loạn trầm cảm như sau:
+ Từ phía trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm trong việc tiếp nhận và
vận dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi gặp khó
khăn trong việc gọi tên đúng các cảm xúc của mình.
+ Thực hiện bài tập về nhà là yếu tố cốt lõi quyết định sự thành công của
can thiệp kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi. Trẻ vị thành
niên có rối loạn trầm cảm không có động cơ mạnh để thực hiện các bài tập
về nhà. Cần sự nhiệt tình tham gia của các thành viên gia đình trong việc
nhắc nhở, động viên và hướng dẫn để việc thực hiện bài tập về nhà được.
+ Bỏ trị liệu ngang chừng đối với bệnh nhân là vị thành niên có rối loạn
trầm cảm là rất dễ dàng.
+ Việc thách thức các suy nghĩ tiêu cực của các em gặp nhiều khó khăn bởi
bản thân các em luôn muốn trốn tránh những tình huống gây cho các em

cảm giác khó chịu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về “Nhận thức hành vi” liệu pháp
và 2 kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi

4
5.2. Xác định những khó khăn trong việc sử dụng 2 kỹ thuật tái cấu trúc
nhận thức và hoạt hóa hành cho trẻ vị niên có rối loạn trầm cảm.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Về khách thể nghiên cứu
5 khách thể là trẻ vị thành niên đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-IV
về trầm cảm, không có loạn thần kèm theo.
6.2. Địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 5 trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm tại
Viện Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Gia – Bệnh viện Bạch Mai.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp tác động trị liệu
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp
- Phương pháp trắc nghiệm (sử dụng thang đo)
8. Đóng góp nghiên cứu
8.1. Đóng góp mới về mặt lý luận
Những kết quả thu được về mặt lý luận đã làm rõ hơn:
- Đặc điểm tâm lý lâm sàng của trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm
- Can thiệp “nhận thức hành vi” và 2 kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và
hoạt hóa hành vi
8.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Tìm ra những khó khăn trong việc sử dụng 2 kỹ thuật tái cấu trúc nhận
thức và hoạt hóa hành vi cho trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm cảm đồng

thời đề xuất các biện pháp điều chỉnh nhằm giảm thiểu, khắc phục những khó
khăn đó trong quá trình ứng dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa
hành vi.

5
Đưa ra mô hình trị liệu cho trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm góp
phần thích nghi hóa kĩ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi cho trẻ
vị thành niên có rối loạn lo âu – trầm cảm.
Nghiên cứu này có thể làm tài liệu tham khảo và nghiên cứu về việc áp
dụng tri liệu lên trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu




















6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Một số vấn đề chung về rối loạn trầm cảm
1.1.1. Khái niệm và dịch tễ học
1.1.1.1. Khái niệm
Khái niệm trầm cảm trong các tác phẩm y học từ xưa đến nay được đặc
trưng bởi một quá trình ức chế toàn bộ các hoạt động tâm thần thể hiện qua
cảm xúc, tư duy và hành vi biểu hiện bằng các triệu chứng sau:
Cảm xúc bị ức chế: khí sắc trầm, buồn rầu, ủ rũ, bi quan về tương lai, mất
hứng thú với những thứ trước đây từng thích, nhìn xung quanh thấy ảm đạm
Tư duy bị ức chế: suy nghĩ tiêu cực về bản thân - về người khác - về thế
giới, suy nghĩ chậm chạp liên tưởng khó khăn, mất niềm tin vào bản thân.
Trong trường hợp nặng có hoang tưởng bị tội hay tự buộc tội, ảo thanh nghe
tiếng nói tố cáo tội lỗi của mình hay báo trước những hình phạt sẽ xảy đến với
mình làm cho bệnh nhân xuất hiện những ý tưởng hoặc hành vi tự sát
Vận động bị ức chế: Bệnh nhân ít hoạt động, không muốn làm bất cứ
điều gì, ít nói, kém ăn hoặc ăn vô độ nhưng không có cảm giác ngon miệng,
thường ngồi hay nằm lì một chỗ, trường hợp nặng có thể bất động.
Theo nhiều tác giả, đặc điểm lâm sàng của bệnh trầm cảm được biểu
hiện như sau:
Khí sắc trầm: đây là đặc điểm đặc trưng nhất của bệnh trầm cảm, xảy ra
90 bệnh nhân. Bệnh nhân thường có cảm giác buồn chán, trống trải vô vọng,
cảm giác tội lỗi.
Mất hứng thú trong các hoạt động hàng ngày: không còn hứng thú với

những sở thích trước đây những việc vẫn thường làm, các hoạt động xã hội và
hứng thú tình dục.
Cuồng ăn hoặc chán ăn: 70% bệnh nhân trầm cảm than phiền về cảm
giác không ngon miệng dẫn đến chán ăn và sụt cân. Tuy nhiên một số trường
hợp bệnh nhân lại ăn nhiều dẫn đến tăng cân, béo phì.

7
Rối loạn giấc ngủ: mất ngủ là triệu chứng mà bệnh nhân trầm cảm
thường gặp nhất. Đặc biệt là thường dậy sớm hơn thường lệ khoảng 1-2 giờ
và không thể nào ngủ lại được ngược lại thì có bệnh nhân ngủ rất nhiều, ngủ
triền miên.
Dễ trở nên cáu gắt và tình trạng bồn chồn không yên: Những bệnh nhân
bị trầm cảm cảm dễ bị kích động và cáu gắt, không còn sự khoan dung, mọi
thứ mọi người đều làm cho họ cảm thấy căng thẳng.
Mất năng lượng: luôn cảm thấy mệt mỏi, trầm buồn. Cơ thể nặng nề,
không có cảm giác muốn nói hoặc động chân động tay. Căm thù bản thân:
cảm giác vô giá trị và tội lỗi, luôn chỉ trích bản thân về những thất bại hoặc
lỗi lầm
Những vấn đề liên quan đến nhận thức: khó khăn tập trung vào một vấn
đề nào đó, việc phải ra quyết định hoặc những thứ cần phải nhớ.
Có những cơn đau mỏi mà không giải thích được: tăng lên những cơn
đau về thể chất như đau đầu, đau lưng, căng cơ và đau dạ dày.
Bên cạnh những đặc điểm lâm sàng điển hình trên, một số trường hợp
có biểu hiện bằng các triệu chứng không điển hình như bệnh nhân không biểu
hiện khí sắc trầm mà thường than phiền về các triệu chứng cơ thể, dễ bị kích
thích, hay cáu gắt, ăn nhiều, ngủ nhiều, giảm giao tiếp.[7],[12],[24].
Để chẩn đoán trầm cảm, bệnh nhân phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn
chẩn đoán của các nhà tâm thần học. Có hai hệ thống chẩn đoán được chấp
nhận rộng rãi bởi các nhà tâm thần học và tâm lý học lâm sàng trên toàn thế
giới cho tới thời điểm hiện tại, đó là Bảng phân loại bệnh quốc tế - phiên bản

lần thứ 10 (ICD-10) và Hệ thống phân loại bệnh của Hiệp hội các nhà tâm
thần học Mỹ – phiên bản lần thứ 4 (DSM-IV). [24],[30].
Theo bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 ( ICD 10) của tổ chức Y tế
thế giới, trầm cảm là trạng thái rối loạn cảm xúc biểu hiện bằng 3 triệu chứng
đặc trưng và 7 triệu chứng phổ biến. Các triệu chứng này phải kéo dài ít nhất
2 tuần.

8
Các triệu chứng đặc trưng bao gồm: khí sắc trầm, mất mọi quan tâm và
thích thú, giảm năng lượng dẫn đến mệt mỏi và giảm hoạt động.
Những triệu chứng phổ biến bao gồm:
- Giảm sự tập trung chú ý
- Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin
- Xuất hiện những ý tưởng tội lỗi và không xứng đáng
- Nhìn tương lai ảm đạm bi quan
- Ý tưởng hoặc hành vi tự hủy hoại cơ thể hoặc tự sát.
- Rối loạn giấc ngủ: bệnh nhân thường mất ngủ vào cuối giấc
- Ăn ít ngon miệng
Các triệu chứng sinh học: sút cân, rối loạn giấc ngủ, táo bón, mất ngon
miệng, giảm dục năng, dao động khí sắc trong ngày, và nhiều phụ nữ có
rối loạn kinh nguyệt.
Tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn trầm cảm nhẹ:
- Có 2/3 triệu chứng đặc trưng
- Có 2/7 triệu chứng phổ biến
- Không có triệu chứng sinh học
- Kéo dài ít nhất 2 tuần
Tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn trầm cảm vừa :
- Có 2/3 triệu chứng đặc trưng
- Có 3/7 triệu chứng phổ biến
- Gây nhiều trở ngại cho sinh hoạt gia đình, xã hội, và nghề nghiệp

- Kéo dài ít nhất 2 tuần
Tiêu chuẩn chẩn đoán đoán giai đoạn trầm cảm nặng có kèm theo triệu chứng
loạn thần:
- Có đầy đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán ở giai đoạn trầm cảm nặng
- Có sự hiện diện thêm các hoang tưởng, ảo giác, hoặc sững sờ trầm cảm.
Các hoang tưởng thường bao gồm những ý tưởng tội lỗi, thấp hèn, hoặc
những tai họa sắp xảy ra, trách nhiệm bệnh nhân phải gánh chịu.

9
Ngoài ra bệnh nhân còn biểu hiện của mất hoặc giảm khả năng tình
dục, các triệu chúng của lo âu, rối loạn thần kinh thực vật. Trong những
trường hợp trầm cảm nặng bệnh nhân có thể xuất hiện hoang tưởng tự buộc
tội, hoang tưởng về những tai họa sắp xảy ra hoặc ảo thanh với những lời kết
tội, ảo khứu với mùi thịt bị thối rữa. [24].
Còn theo hệ thống phân loại bệnh DSM-IV thì định nghĩa một giai
đoạn trầm cảm chủ yếu có sự xuất hiện ít nhất 5 trong số các triệu chứng sau,
trong thời gian tối thiểu 2 tuần:
- Khí sắc trầm
- Giảm rõ rệt hứng thú và ưa thích trong hầu hết các hoạt động
- Giảm hoặc tăng cân đáng kể, tăng hay giảm khẩu vị
- Kích động về mặt cơ thể
- Mệt mỏi hoặc mất sinh lực
- Cảm thấy vô giá trị hoặc tội lỗi qua mức
- Giảm sút khả năng suy nghĩ, tập trung hoặc không quyết đoán
- Kiệt sức và suy nhược rõ rệt.
Tóm lại:
Trầm cảm được đặc trưng bởi các vấn đề về cảm xúc, động cơ, sinh lí
và nhận thức. Bệnh nhân cảm thấy bản thân kém cỏi và không tìm được
thích thú từ những hoạt động thường diễn ra. Họ thường không tích cực
hoạt động tự giác, tốn nhiều thời gian nằm trên giường hoặc trốn tránh sự

hợp tác của người khác. Hoạt động và ngôn ngữ của họ chậm rõ rệt. Nhìn
chung, họ có cách nhìn tiêu cực về bản thân bi quan về hiện tại cũng như
tương lai. Họ thấy rằng việc thay đổi tình trạng của mình là nằm ngoài khả
năng và vô vọng. Tuy không phải là tất cả nhưng ở một số người xuất hiện
hành vi và ý tưởng tự sát. Những người trầm cảm thường thể hiện suy nghĩ
chậm chạp và lộn xộn, cũng như khó khăn trong việc ghi nhớ thông tin
hoặc giải quyết vấn đề.


10

1.1.1.2. Dịch tễ học
 Trên thế giới
Căn cứ theo những con số thống kê trong DSM-IV thì trên thế giới có
khoảng 5% dân số mắc phải trầm cảm bệnh lí trong một thời điểm bất kì, 17%
trải qua trầm cảm chủ yếu trong một thời điểm nào đó của cuộc đời. Khoảng
một phần tư các cơn trầm cảm kéo dài dưới một tháng, hơn 50% qua đi trong
vòng chưa đến 3 tháng. Có 25 – 30% vẫn bị còn trầm cảm sau một năm kể từ
khi khởi phát bệnh, trong khi gần một phần tư vẫn còn trầm cảm cho đến tận
2 năm sau. Lứa tuổi điển hình mà đợt trầm cảm đầu tiên khởi phát là 24 – 29
tuổi. Phụ nữ có biểu hiện trầm cảm nhiều hơn nam giới ít nhất là 2 lần; tính
theo cả cuộc đời, tỷ lệ thường thấy ở phụ nữ là 26% so với 12% ở nam
giới.[33].
Cũng theo, DSM-IV trầm cảm gần đây được xếp vào một trong 4 nhóm
gây thiệt hại nhiều nhất về phương diện kinh tế và con người đồng thời cũng
là 1 trong 10 bệnh về sức khoẻ tâm thần phổ biến nhất. Trên thế giới, tỉ lệ
trung bình mắc các dạng rối loạn trầm cảm ở người lớn chiếm khoảng 11%, ở
trẻ em và vị thành niên tỉ lệ mắc trầm cảm trong khoảng 2,8% đến 3,0%. Một
số nghiên cứu khác trên trẻ nhỏ khoảng từ 2 đến 5 tuổi cho thấy tỉ lệ mắc trầm
cảm chính khoảng 1,4%, rối loạn khí sắc 0,6% và 0,7% cho các rối loạn trầm

cảm không biệt định. Với trẻ trong độ tuổi từ 4-17 tuổi, nghiên cứu của
Canino, Shrout, Rubio-Stipec, Bird, Bravo và cộng sự, (2004) chỉ ra có
khoảng 4,1% dân số mắc một trong các dạng rối loạn trầm cảm.
Số liệu dịch tễ học về trầm cảm cũng có những sự khác biệt nhỏ ở từng
nước, nền văn hoá khác nhau. Ví dụ như ở Pháp: tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm
9,4% (trong đó nam 3,4% nữ 6,0%), tỷ lệ mắc cả đời là 32,1% trong đó nam
10,7% nữ 22,4%. Ở Mỹ tỷ lệ mắc trầm cảm là 10,3%, cả đời 17,1%. Ở
Canada tỷ lệ mắc trầm cảm là 7,2%. Ở Úc, một số công trình nghiên cứu cho

11
thấy trầm cảm chiếm 20 - 30% dân số, trong đó 3 - 4% là trầm cảm vừa và
nặng.[32].
Nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kết hợp với Ngân hàng
Thế giới (WB) trong thời gian 4 năm đã dự đoán đến năm 2020 trầm cảm sẽ
trở thành một trong các nguyên nhân chủ yếu gây tử vong, làm giảm chất
lượng sống và trầm cảm là nguyên nhân gây nên mất khả năng hoạt động
hàng đầu ở những nước đang phát triển.
Có sự khác biệt về tỉ lệ trầm cảm giữa các giới, khu vực địa lý, yếu tố
di truyền. Như nhiều thống kê cho thấy trầm cảm gặp ở nữ nhiều hơn nam, tỷ
lệ nam/nữ khoảng 1/2. Ở Mỹ trầm cảm gặp 5 - 9% đối với nữ và 2 - 3% với
nam. Một số nghiên cứu khác cho thấy 12% nam giới và 25% số phụ nữ trong
cuộc đời có nguy cơ mắc một giai đoạn trầm cảm. Theo khu vực địa lý: thống
kê tỷ lệ trầm cảm ở các châu lục có kết quả rất khác nhau, nhìn chung các
nghiên cứu ở châu á có tỷ lệ thấp hơn so với châu Âu và châu Mỹ. Tỷ lệ trầm
cảm trong năm ở Mỹ là 4,7- 5,1%, ở Italia là 5,2% còn Thái Lan chỉ gặp 0,6-
1,1%. Khu vực thành thị, nhìn chung có tỷ lệ trầm cảm cao hơn nông thôn.
Một số nghiên cứu nhận thấy tỷ lệ trầm cảm gặp ở các bệnh viện thành thị so
với bệnh viện nông thôn là 2/1. Một số tác giả Mỹ có nhận xét ngược lại tỷ lệ
trầm cảm ở nông thôn phổ biến hơn. Tỷ lệ mắc bệnh cao ở dân số đang độ
tuổi lao động: 70% trường hợp tuổi từ 18 – 45. Về vấn đề di truyền: trầm cảm

gặp ở 50% những cặp sinh đôi cùng trứng và 10 – 15% những cặp sinh đôi
khác trứng. Tỉ lệ tự sát do trầm cảm: ở Mỹ 40 – 70% số người tự sát là do
trầm cảm, ở Úc là 70%.
 Trong nước
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề chăm sóc sức khỏe tâm
thần được quan tâm chú ý nhiều hơn, các bệnh nhân được tiếp cận với dịch vụ
chăm sóc ngày càng được mở rộng. Trầm cảm vì thế cũng được nhiều bác sĩ
tâm thần, các nhà tâm lí nghiên cứu ở trên nhiều phương diện khác nhau.

12
Theo Tô Thanh Phương, khi nghiên cứu “Đặc điểm lâm sàng rối loạn
trầm cảm nặng” vào điều trị tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương I thì thấy: số
bệnh nhân trầm cảm nặng phải vào viện đa số là từ 16- 25 tuổi chiếm 38,6%,
thấp nhất là từ 46- 50 tuổi. Bên cạnh đó, ở nước ta đã có nhiều công trình
nghiên cứu dịch tễ của trầm cảm, đã phát hiện tỷ lệ hiện mắc trầm cảm là
8,35% (Viện sức khoẻ tâm thần 1999).
Trần Văn Cường và cộng sự đã tiến hành điều tra dịch tễ 10 bệnh tâm
thần thường gặp ở 8 vùng sinh thái khác nhau trên cả nước với số người được
phỏng vấn là 67.380 người, thấy tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm là 2,8% dân số.
Nghiên cứu mới đây của Bác sĩ Cao Vũ Hùng trên 80 bệnh nhân vị
thành niên tại Bệnh viện Nhi Trung Ương cho thấy tuổi mắc bệnh trung bình
là 14,15, nữ gặp nhiều hơn nam. Phần lớn được chẩn đoán muộn, sau 6 tháng
phát bệnh là 62,5%, sau 1 năn là 45%. Tiền sử gia đình có người mắc bệnh
tâm thần làm tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm ở trẻ vị thành niên gấp 4,89
lần so với trẻ vị thành niên trong gia đình không có tiền sử này. Trẻ sống
trong gia đình có cấu trúc không hoàn thiện, thường có các xung đột, mâu
thuẫn có nguy cơ trầm cảm bị trầm cảm cao gấp 3,63 lần. Những thất bại,
xung đột trong các mối quan hệ bạn bè, người thân làm tăng nguy cơ trầm
cảm ở VTN gấp 4,38 đến 8,08 lần so với những trẻ VTN không có các vấn đề
này. Học tập căng thẳng, thất bại trong thi cử, chuyển môi trường học làm

tăng nguy cơ bị trầm cảm ở trẻ VTN lên gấp 5 lần so với những trẻ khác.[10].
1.1.2. Nguyên nhân của trầm cảm
1.1.2.1. Yếu tố di truyền
Mặc dù đã có một số bằng chứng phủ định, nhưng người ta vẫn luôn
cho rằng yếu tố di truyền có ảnh hưởng đến nguy cơ bị trầm cảm. Chẳng hạn,
McGuffin và cs. (1996) đã tìm ra rằng 46% các cặp sinh đôi cùng trứng cùng
bị trầm cảm, trong khi ở các cặp sinh đôi khác trứng, tỉ lệ này là 20%. Tương
tự, Wender và cs. (1986) đã tiến hành một nghiên cứu trên 2 nhóm khách thể:
nhóm thứ nhất là họ hàng của những người con nuôi đã trưởng thành và từng

13
bị trầm cảm thứ hai là nhóm con nuôi. Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở
tìm hiểu các thông số về tuổi tác, tình trạng kinh tế - xã hội và khoảng thời
gian những người con nuôi sống với mẹ ruột không bị trầm cảm. So sánh tỉ lệ
trầm cảm giữa hai nhóm, thấy rằng ở nhóm khách thể thứ nhất, tỉ lệ bị trầm
cảm nhiều gấp 8 lần và đã từng có ý định tự sát nhiều gấp 15 lần, so với họ
hàng ruột của chính những người con nuôi này. Không thấy có sự khác biệt
giữa các nhóm khi xét đến những mức độ trầm cảm nhẹ.
1.1.2.2. Cơ chế sinh học
Các chất norepinephrine và serotonin đều được coi là nguyên nhân gây
nên trầm cảm. Ban đầu, người ta đã nghĩ rằng sự giảm nồng độ của một trong
2 chất DTTK này có ảnh hưởng đến khí sắc. Ngày nay, quan niệm đơn giản
này đã bị những dữ liệu gần đây phủ định.Có vẻ như khí sắc là kết quả của sự
tương tác giữa serotonin và norepinephrine. Thậm chí nó có thể là kết quả của
sự tương tác giữa hai chất này với các cơ quan khác của não. Giảm khí sắc là
kết quả của sự không cân bằng giữa một số chất DTTK, bao gồm serotonin và
norepinephrine, dopamine và acetylcholine. Có thể là serotonin đóng vai trò
quá lớn trong việc kiểm soát các cơ quan khác nhau của não, và sự giảm chất
này đã phá vỡ hoạt động trong các cơ quan này, dẫn đến trầm cảm. Khu vực
não có liên quan chủ yếu đến trầm cảm là hệ viền. Theo mô hình tâm sinh học

(psychobiological) các quá trình này xảy ra do tác động của cả các yếu tố tâm
lí - xã hội lẫn yếu tố di truyền dẫn đến nó đòi hỏi mức độ quan tâm thích đáng
của mỗi lĩnh vực trước khi một giai đoạn trầm cảm diễn ra.
1.1.2.3. Yếu tố văn hoá - xã hội
Những sang chấn tâm lí - xã hội đã góp phần làm tăng nguy cơ trầm
cảm. Tỉ lệ trầm cảm thường thấy tương đối cao ở người nghèo, dân tộc thiểu
số và những người có nguồn trợ cấp xã hội ít ỏi. Ở rất nhiều người, một số
yếu tố kết hợp với nhau, khiến cho trầm cảm đặc biệt dễ xảy ra. Năm 1978,
Brown và Harris đã tiến hành nghiên cứu trên những phụ nữ thuộc tầng lớp
lao động. Một nhóm bao gồm những người có tới 3 con nhỏ hoặc nhiều hơn,

14
thiếu một người bạn gái thân thiết để tâm tình, không có nghề nghiệp bên
ngoài và mồ côi cha từ khi còn rất nhỏ. Nhóm còn lại cũng là những phụ nữ
thuộc tầng lớp lao động nhưng có hoàn cảnh ngược lại. Kết quả cho thấy
những phụ nữ ở nhóm thứ nhất có khả năng bị trầm cảm cao hơn so với nhóm
thứ hai. Những cá nhân túng thiếu về mặt kinh tế có xu hướng trải qua nhiều
sự kiện tiêu cực trong cuộc sống hơn là những người có điều kiện kinh tế
được cải thiện, và có lẽ nguồn tài chính và xã hội dùng để giải quyết những
khó khăn của họ cũng ít hơn. Nhiều cá nhân thuộc các dân tộc ít người gặp
phải tình trạng kinh tế bất lợi. Thêm nữa, họ phải đấu tranh với định kiến và
sự hoà nhập với dân tộc chiếm số đông, điều này có thể gây nên stress. Những
stress cuộc sống mạnh như ly hôn hay ly thân, có thể gây ra các đợt trầm cảm.
Ngược lại, một hệ thống nâng đỡ xã hội tốt có thể bảo vệ cá nhân khỏi căn
bệnh này. [13],[17],[33].
Có rất nhiều lời giải đáp khác nhau cho câu hỏi tại sao phụ nữ lại
thường bị trầm cảm nhiều hơn nam giới. Thoạt đầu thì điều này bị bỏ qua vì
người ta cho rằng đó chỉ là biểu hiện của định kiến, giờ đây đã có chứng cứ
thuyết phục hơn, chứng minh rằng, thật sự có sự khác biệt về giới trong tỉ lệ
thường thấy của trầm cảm. Ở khía cạnh xã hội, người ta giải thích rằng phụ

nữ ngày nay phải gánh vác nhiều trách nhiệm hơn nhưng lại có chất lượng
cuộc sống thấp hơn nam giới. Phụ nữ có xu hướng làm những việc có vị thế
thấp, công việc ở công sở và trong gia đình khiến họ bị quá tải. Điều đó có
nghĩa là, khác với nam giới, khi phụ nữ làm xong việc ở cơ quan, vai trò nội
trợ đang chờ đợi họ ở nhà, và họ phải tiếp tục làm việc. Phụ nữ cũng dễ phải
chịu những áp lực về mặt văn hoá hơn so với đàn ông, bao gồm cả việc phải
tuân theo các tư tưởng phương Tây về sự quyến rũ, điều này càng làm tăng
thêm khả năng bị stress của họ. Lời giải thích từ khía cạnh tâm lí học, đó là,
so với đàn ông, phụ nữ dễ bị quy lỗi lầm cho bản tính cá nhân của họ hơn, do
đó, họ càng dễ tự buộc tội và đánh giá thấp bản thân. Thêm vào đó, Holen-
Hoeksema (1990) đã lí luận rằng khi đàn ông trải qua những hoàn cảnh có thể

15
dẫn đến trầm cảm, khả năng quên đi những ý nghĩ tiêu cực của họ tốt hơn.
Trong khi đó, phụ nữ lại hay để tâm đến hậu quả và nguyên nhân; suy nghĩ
này thúc đẩy sự xuất hiện của những ý nghĩ bi quan vốn đã tiềm tàng trong
đầu óc họ.[2],[3],[40].
1.1.3. Các trường phái giải thích nguyên nhân của trầm cảm
1.1.3.1. Giải thích theo trường phái phân tâm học
Freud cho rằng trầm cảm là một quá trình tương tự như đau buồn. Khi
quá đau buồn, cá nhân có thể thoái lui về giai đoạn môi miệng của sự phát
triển như là một cơ chế phòng vệ chống lại những nỗi buồn quá lớn. Điều này
dẫn cá nhân đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào người mà họ yêu quý dẫn đến
hậu quả là họ đồng nhất mình với những người đó và qua đó một cách
tượng trưng, họ giành lại được mối quan hệ đã mất. Tiếp theo qua một quá
trình gọi là tiếp nhận (introjection), cá nhân hướng những cảm nhận về
người họ yêu quý đến chính bản thân. Những cảm xúc này có thể bao gồm
cả sự giận dữ, kết quả của các xung đột không giải quyết được. Phản ứng
như thế, nhìn chung chỉ diễn ra trong thời gian ngắn nhưng có thể trở thành
bệnh lí nếu cá nhân tiếp tục trong một thời gian dài, dẫn đến tự căm ghét

bản thân và trầm cảm.
Freud cho rằng trầm cảm “bình thường” là kết quả của những mất
mát có tính tượng trưng hay tưởng tượng. Theo cách nào đó, sự việc
nghiêm trọng khi nó lấy mất của cá nhân tình yêu hoặc sự đánh giá của
những người quan trọng và lẽ ra phải hướng cảm xúc tiêu cực về người từ
chối mình thì cá nhân lại hướng những cảm xúc đó về mình và tiếp nhận
chúng. Những người dễ bị trầm cảm nhất là những người không thể phát
triển tiếp, dù đã qua giai đoạn môi miệng, bởi vì họ không thể thoả mãn
quá nhiều, mà cũng không thể thoả mãn quá ít được. Những người như thế,
trong suốt cuộc đời mình, sẽ còn phụ thuộc vào tình yêu thương và sự chấp
nhận của người khác, họ còn rất nhạy cảm với những sự kiện gây ra lo lắng
hoặc những trải nghiệm mất mát.[3],[39].

16
1.1.3.2. Giải theo trường phái hành vi
Các lí thuyết hành vi về trầm cảm tập trung chủ yếu vào các quá trình
điều kiện hoá quan sát được. Ví dụ như Lewinsohn và cs. (1979), đã chỉ ra
rằng trầm cảm là kết quả của tỉ lệ thấp các củng cố xã hội tích cực. Điều này
dẫn đến khí sắc chán nản và thu hẹp những hành vi mang xu hướng được xã
hội tán thưởng. Cá nhân tự tách mình ra khỏi các liên hệ xã hội, một hành
động mà trên thực tế, có thể làm tăng tạm thời liên hệ xã hội bởi họ có thể có
được sự cảm tình chú ý nhờ hành vi của mình. Điều này có thể tạo ra củng cố
khác, được biết đến như là lợi ích thứ cấp, mà trong đó cá nhân được tán
thưởng nhờ những hành vi có tính trầm cảm của mình. Tuy nhiên, giai đoạn
này lại thường đi cùng với sự thu hẹp về chú ý tần suất tán thưởng có giá trị
từ phía môi trường giảm đi và khí sắc.
Thuyết học tập xã hội cũng đề xuất một lý thuyết là nề tảng dẫn tới
trầm cảm. Đó là “Lí thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm” của Seligman, 1975.
Thuyết của Seligman nói rằng trầm cảm bắt nguồn từ việc người ta được học
rằng môi trường sinh lí và xã hội nằm ngoài khả năng kiểm soát của cá nhân.

Thuật ngữ “sự tuyệt vọng tập nhiễm” bắt nguồn từ những thực nghiệm trên
động vật. Trong những thực nghiệm này, các con vật được đặt ở trong một
khu vực mà chúng có thể chạy trốn, chẳng hạn như bằng cách nhảy qua một
cái hàng rào thấp. Sau khi trải qua một lần sốc điện nhẹ, các con thú nhanh
chóng học được cách nhảy qua hàng rào để tránh bị sốc. Tuy nhiên, khi người
ta ngăn chúng làm điều đó bằng cách nhốt chúng trong một cái cũi, cuối cùng
thì chúng không cố tránh sốc điện nữa, ngay cả khi cơ hội trốn thoát luôn rộng
mở đối với chúng. Chúng đã học được rằng, chúng không thể tránh được sốc
điện và thể hiện nỗi tuyệt vọng của mình bằng sự trì trệ, không cố gắng thay
đổi hoàn cảnh. Nhiều nghiên cứu đã sử dụng những quy trình khác để tìm ra
sự tuyệt vọng do học tập/tập nhiễm ở cả người và động vật. Những người trải
qua các thực nghiệm này đều biểu hiện những “triệu chứng” tương tự như các
cá nhân bị trầm cảm bệnh lí, bao gồm việc thiếu động cơ hoạt động, bi quan
và quá trình tiếp thu bị phá vỡ.[19],[39].

17
1.1.3.3. Giải thích của tâm lí học nhận thức
Kết hợp với những khác biệt của mô hình lí thuyết về sự tuyệt vọng tập
nhiễm, những người theo trường phái nhận thức đã thay đổi giải thích về trầm
cảm của trường phái hành vi, tiêu biểu nhất trong số đó là Beck (1997). Ông
đưa ra ý kiến rằng trầm cảm bắt nguồn từ nhận thức sai lệch trước những sự
kiện ảnh hưởng đến chúng ta. Trong trầm cảm, Beck gọi đáp ứng tức thời với
những sự kiện này là ý nghĩ tiêu cực tự động. Những ý nghĩ này có vẻ tức
thời, hợp lý và trên thực tế thường được chấp nhận. Tuy nhiên, một cách có
hệ thống, chúng lại giải thích sai các sự kiện và vì thế dẫn đến trầm cảm. Đặc
trưng cho kiểu suy nghĩ này là sự khái quát hoá thái quá, sự trừu tượng hoá có
chọn lọc và những suy nghĩ không dứt khoát. Những điều này ảnh hưởng đến
cái mà Beck gọi là bộ ba nhận thức: niềm tin về bản thân chúng ta, sự kiện
hoặc cá nhân khác có ảnh hưởng đến chúng ta và tương lai của chúng ta.
Theo Beck, những suy nghĩ có ý thức của chúng ta bị méo mó bởi các

sơ đồ trầm cảm tiềm ẩn. Đó là những niềm tin vô thức về bản thân và thế giới,
chúng tác động đến suy nghĩ ý thức và được hình thành trong suốt tuổi thơ
mỗi người. Các sự kiện tiêu cực trong tuổi thơ, chẳng hạn như việc bị bố mẹ
từ chối, sẽ hình thành nên một sơ đồ nhận thức về bản thân và thế giới xung
quanh. Hầu như trong toàn bộ khoảng thời gian này, những niềm tin này
không đặc biệt rõ ràng, hoặc trường hợp ngược lại, nếu chúng rõ rệt thì cá
nhân bị trầm cảm mạn tính. Tuy nhiên, đến tuổi trưởng thành, khi chúng ta
đối mặt với những tình huống gây stress, đặc biệt là những tình huống gợi lại
những kỷ niệm không vui trong quá khứ (ly dị, chia ly, bị bố mẹ từ chối…),
thì những sơ đồ tiêu cực tiềm ẩn sẽ được hoạt hoá, tác động đến nhận thức bề
mặt của chúng ta và dẫn đến trầm cảm.[13],[39].
1.2. Vị thành niên và trầm cảm vị thành niên
1.2.1. Vị thành niên
1.2.1.1. Khái niệm
Về thuật ngữ “vị thành niên” theo Tổ chức Y tế Thế giới, VTN là một
giai đoạn chuyển tiếp của cuộc đời từng cá nhân, đó là giai đoạn mà:

18
- Sự phát triển cá nhân kể từ khi những đặc tính giới tính bắt đầu xuất
hiện cho đến khi những đặc tính đó hoàn chỉnh.
- Sự phát triển tâm lý và những đặc điểm cá nhân từ một đứa trẻ thành
một người trưởng thành.
- Sự chuyển tiếp từ giai đoạn phụ thuộc đến giai đoạn hoàn toàn độc lập
về kinh tế và xã hội.
Cũng theo Tổ chức Y tế thê giới, VTN là những người trong độ tuổi từ
10 -19 tuổi.
1.2.1.2. Đặc điểm tâm lý của VTN
VTN trong nghiên cứu này được xác định theo định nghĩa của tổ chức
Y tế thế giới là những trẻ ở trong độ tuổi từ 10 đến 19 tuổi.VTN dễ bị trầm
cảm vì đây là tuổi dễ bị tổn thương và hay lo lắng về mọi thứ hơn là trực tiếp

giải quyết tình huống. Các em thường chọn thụ động chờ chứ không tìm kiếm
sự giúp đỡ để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả.
- Về mặt giải phẫu, sinh lý và thể chất đứa trẻ đã có những điều kiện
chín muồi cơ bản mà đặc điểm nổi bật là sự phát triển của quá trình phát dục.
- Ở VTN hoạt động học tập vẫn chiếm vị trí quan trọng trong sự phát
triển tâm lý, nhân cách, tuy hoạt động này đã mang những sắc thái mới và có
sự phân hóa đáng kể. Trong lứa tuổi này việc tiếp thu kiến thức nhiều khi đã
vượt ra khỏi giới hạn của nhà trường. Cách thức dạy và học ở trường của lứa
tuổi này khác căn bản với trường tiểu học. Quan hệ qua lại giữa giáo viên và
học sinh hời hợt và xa cách hơn.
- Sự phát triển nhận thức, trí tuệ của thiếu niên: hoạt động học tập yêu
cầu VTN phải nắm vững một khối lượng tri thức lớn như vậy đòi hỏi hoạt
động nhận thức và tư duy cao hơn. Đó là tư duy lý luận, tư duy phân tích, tư
duy hình thức, loại tư duy này bắt đầu phát triển từ lúc 11, 12 tuổi và được
hoàn thiện vào lúc 17, 18 tuổi. Piaget gọi đây là giai đoạn của trí tuệ thao tác
hình thức.

19
- Những đặc điểm tình cảm – ý chí của tuổi VTN: các yếu tố cơ bản chi
phối đời sống xúc cảm, tình cảm của thiếu niên đó là sự thay đổi về mặt sinh
lý, giải phẫu; hoạt động giao tiếp với bạn bè cùng tuổi với sự mở rộng phạm
vi hoạt động trong môi trường mới và xu hướng vươn lên làm người lớn.
- Sự phát triển nhân cách của tuổi VTN: sự phát triển của tự ý thức là
một trong những phẩm chất nhân cách nổi bật. VTN có mối quan hệ phong
phú với xung quanh, có ý thức về mình là một nhân cách có quyền được tôn
trọng, được độc lập và được tin cậy như mọi người lớn khác, lĩnh hội từ thế
giới người lớn những giá trị, những chuẩn mực nhờ đó những phẩm chất mới
về tự ý thức, tự đánh giá được hình thành. Ngoài khả năng tự đánh giá, VTN
phát triển khả năng đánh giá người khác một cách mạnh mẽ.VTN thường
đánh giá bạn bè và người xung quanh cả về hình thức lẫn nội dung, khi đánh

giá những quan hệ bạn bè đối với mình thiếu niên ngày càng quan tâm đến
việc đánh giá đặc trưng của nhân cách. Việc đánh giá những người xung
quanh có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách của học sinh, nhiều
khi chính sự đánh giá này giúp VTN tìm được mẫu người lý tưởng trong thực
tế cuộc sống để noi theo và nếu phải sống trong gia đình bố mẹ nghiện ngập,
phạm pháp… trẻ vị thành niên sẽ bị hẫng hụt, bất hạnh và dễ hư đốn.
[1],[9],[10],[20],[38].
Thái độ đối với nghề nghiệp tương lai giúp VTN có cái nhìn hiện thực,
có trách nhiệm hơn với chính mình, tăng cường hơn khả năng tự đánh giá, tự
giáo dục, một phẩm chất rất quan trọng trong sự phát triển nhân cách. Yếu tố
mới quan trọng nhất của sự phát triển nhân cách ở tuổi VTN là đối tượng hoạt
động chính của thiếu niên là bản thân các em, các em quan tâm đến sự tiến bộ
của mình, tự kiểm tra sự tiến bộ đó, đau khổ vì chưa thực hiện được nhiệm
vụ, kế hoạch, tự kiềm chế mình, tự lên án bản thân… các em bắt đầu tự tác
động đến bản thân, tự sáng tạo ra chính mình trong khi định hướng đến những
mẫu mực nhất định, đến những nhiệm vụ, mục đích có ý nghĩa đối với cá
nhân và có liên quan đến nhu cầu của hôm nay và tương lai mai sau. Đây là

20
thời kỳ cái “tôi” hình thành và phát triển mạnh mẽ, nhằm tạo ra những sản
phẩm mới, đánh dấu sự chuyển tiếp sang giai đoạn khác về chất trong sự phát
triển nhân cách của thiếu niên. Trong bước quá độ vươn lên làm người lớn,
trong quá trình hình thành và khẳng định cái “tôi” có ý nghĩa xã hội, thiếu
niên gặp không ít những khó khăn, trở ngại phải vượt qua. Ở đây ngoài sự
trưởng thành của bản thân, thiếu niên cần có sự hỗ trợ đắc lực có hiệu quả của
người lớn và xã hội. Xã hội và người lớn nói chung, giáo dục nói riêng cần có
lòng tin, sự khích lệ, tạo một môi trường thuận lợi để thiếu niên dần vượt qua
những khó khăn, giải quyết mâu thuẫn để trưởng thành và chuyển sang giai
đoạn phát triển mới.
1.2.2. Trầm cảm ở vị thành niên

Vị thành niên là một giai đoạn hết sức nhạy cảm và dễ tổn thương bởi
các triệu chứng của bệnh trầm cảm. Theo các con số nghiên cứu dịch tễ tại
các nước Tây Âu, ở giai đoạn VTN cho đến 14 tuổi, tỉ lệ những thanh thiếu
niên đã trải qua ít nhất một giai đoạn của trẩm cảm lên tới 9%. Trong những
nghiên cứu trong thời gian gần đây, con số này còn tiếp tục tăng. Tỉ lệ trẻ em
và VTN đáp ứng đủ các tiêu chuẩn của trầm cảm chính trong giai đoạn từ 15
– 18 tuổi được ước tính có thể lên tới 14% và tỉ lệ trẻ có nhiều triệu chứng của
trầm cảm nhưng chưa đáp ứng đủ chẩn đoán trầm cảm chính cũng có thể lên
tới 11%. Một số nghiên cứu trên diện rộng khác thì cho rằng tỉ lệ trầm cảm ở
trẻ độ tuổi đến trường (từ 7 đến 12 tuổi) thấp hơn tỉ lệ trầm cảm ở tuổi vị
thành niên (từ 13 -18 tuổi) ở cả tỉ lệ mắc trầm cảm trong một năm và tỉ lệ mắc
trầm cảm trong suốt cuộc đời. Ở lứa tuổi VTN, có sự khác biệt về tỉ lệ trầm
cảm giữa các giới, trong một số diều tra trường diễn cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở
nữ trong độ từ 13 nói riêng và trong khoảng tuổi từ 11 – 15 nói chung tăng
nhanh hơn so với tỉ lệ trầm cảm ở các em trai cùng trong lứa tuổi này. Nói một
cách khác, cho dù tủ lệ trầm cảm ở vị thành niên nói chung tăng cao hơn giai
đoạn trước đó, tỉ lệ trầm cảm ở các em nữ tăng nhanh hơn từ 2 – 3 lần so với tỉ
lệ trầm cảm ở các em nam.[6],[9],[13],[18],[38].

21
Bên cạnh đó, những triệu chứng của trầm cảm dù đáp ứng đủ tiêu
chuẩn chẩn đoán hay chưa đủ cũng đều có liên quan mật thiết đến các biểu
hiện tổn thương sức khoẻ tâm thần khác cũng như có liên quan tới rối loạn
chức năng của trẻ ở nhiều phương diện. Nghiên cứu về trầm cảm và các bệnh
kết hợp cho thấy trong những người bị trầm cảm ở độ tuổi VTN, có đến 80%
có đi kèm cùng một số rối loạn kết hợp khác. Đầu tiên phải kể đến là sự kết
hợp cao giữa trầm cảm và rối loạn khí sắc, có khoảng 70% trẻ VTN được chẩn
đoán trầm cảm cũng đáp ứng các tiêu chuẩn của rối loạn khí sắc. Ngoài ra, có
đến 50% trẻ được chẩn đoán rối loạn trầm cảm sẽ phát triển thành trầm cảm
nặng (double depression) với các triệu chứng của trầm cảm ở mức trầm trọng và

các chu kỳ trầm cảm sâu xuất hiện với tần xuất nhiều hơn và thời gian kéo dài
hơn. Trẻ bị trầm cảm cũng thường được chẩn đoán kết hợp với rối loạn lo âu, rối
loạn hành vi, tăng động giảm chú ý và có đến 15% tỉ lệ trẻ VTN có trầm cảm và
cũng đáp ứng với tiêu chuẩn chẩn đoán của 2 rối loạn hành vi cảm xúc khác trở
lên. Mức độ tương quan giữa chẩn đoán rối loạn trầm cảm và lo âu lên tới 0,6 -
0,8 và mức độ tương quan giữa rối loạn trầm cảm với hành vi xâm khích, hung
bạo và phá quấy là 0,4 - 047.
Đặc biệt tỉ lệ trầm cảm chính kết hợp cùng rối loạn lo âu lan toả ở VTN
có thể nằm trong khoảng 30 -75% . Tỉ lệ cùng tồn tại giữa hai nhóm bệnh này
nhiều đến mức đôi khi các nhà nghiên cứu gặp khó khăn khi chẩn đoán phân
biệt từng rối loạn. Mặc dù nhiều học giả cho rằng rối loạn lo âu thường xuất
hiện trước rối loạn trầm cảm, các nghiên cứu mới nhất chỉ ra rằng có khoảng
2/3 số các trường hợp lo âu xuất hiện trước trầm cảm và 1/3 số các trường
hợp còn lại lo âu xuất hiện sau khi trầm cảm được kiểm soát.
Nhiều nghiên cứu cho thấy giận dữ, bất hạnh và cáu kỉnh chi phối cuộc
sống của trẻ VTN bị trầm cảm. Họ nghĩ rằng các thành viên trong gia đình, bạn
bè và bạn trong lớp không thân thiện với mình. Không phải hài lòng và bổ ích,
cuộc sống của trẻ vị thành niên bị trầm cảm hoàn toàn trống rỗng, không có gì
vui cả. Đối với một số trẻ vị thành niên, trầm cảm do một sự kiện trong cuộc

×