Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nghiên cứu xây dựng đề thi tuyển chọn học sinh năng khiếu lớp 10 chuyên lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 114 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





HOÀNG THỊ ÚT QUYÊN







VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT VÀ VĂN
HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
7
1.1.
Văn hóa pháp luật

7
1.1.1.
Quan niệm về văn hóa pháp luật
7
1.1.2.
Đặc điểm của văn hóa pháp luật
11
1.1.3.
Chức năng của văn hóa pháp luật
12
1.1.4.
Các cấp độ của văn hóa pháp luật và việc phân loại văn hóa
pháp luật
14
1.1.4.1.
Các cấp độ của văn hóa pháp luật
14
1.1.4.2.
Phân loại văn hóa pháp luật
16
1.1.5.
Các yếu tố hợp thành văn hóa pháp luật
18
1.1.5.1.
Ý thức pháp luật (bao gồm tri thức pháp luật và tình cảm
pháp luật)
19
1.1.5.2.
Hệ thống pháp luật
23

1.1.5.3.
Hành vi thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật của các
chủ thể
25
1.2.
Nhận diện văn hóa pháp luật trong kinh doanh
29
1.2.1.
Khái niệm và các yếu tố cấu thành
29
1.2.1.1.
Khái niệm kinh doanh và các ngành nghề kinh doanh chủ yếu
29
1.2.1.2.
Quan niệm văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh
32
1.2.1.3.
Các yếu tố cấu thành văn hóa pháp luật trong kinh doanh
35
1.2.2.
Đặc trưng của văn hóa pháp luật trong kinh doanh
39
1.2.3.
Mối quan hệ giữa văn hóa pháp luật và hoạt động kinh doanh
47
1.2.4.
Vai trò của văn hóa pháp luật trong kinh doanh
49

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ

XÂY DỰNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH
VỰC KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
52
2.1.
Thực trạng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở
Việt Nam hiện nay
52
2.1.1.
Thực trạng ý thức pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh hiện
nay và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó
52
2.1.1.1.
Thực trạng
52
2.1.1.2.
Nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên
63
2.1.2.
Thực trạng hệ thống văn bản pháp luật trong kinh doanh và
nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó
66
2.1.2.1.
Thực trạng
66
2.1.2.2.
Nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên
77
2.1.3.
Thực trạng hành vi thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật
trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay và nguyên

nhân dẫn tới thực trạng đó
79
2.1.3.1.
Thực trạng
79
2.1.3.2.
Nguyên nhân của thực trạng trên
87
2.2.
Phương hướng và một số biện pháp chủ yếu để xây dựng văn
hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay
89
2.2.1.
Phương hướng xây dựng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực
kinh doanh ở nước ta hiện nay
89
2.2.2.
Một số giải pháp nâng cao trình độ văn hóa pháp luật trong
lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay
91
2.2.2.1.
Nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể kinh doanh
92
2.2.2.2.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật trong lĩnh vực kinh doanh
97
2.2.2.3.
Tổ chức tốt việc thực hiện và áp dụng pháp luật kinh doanh,
nâng cao năng lực, kỹ năng thực hiện pháp luật, hình thành

hành vi pháp luật hợp pháp và lối sống theo pháp luật
100
2.2.2.4.
Xây dựng các mô hình văn hóa pháp luật kinh doanh tại địa
phương, đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp…
102
2.2.2.5.
Đẩy mạnh công tác đào tạo và nghiên cứu pháp luật kinh
doanh, tiếp thu tinh hoa của văn hóa pháp luật kinh doanh
các nước trong khu vực và trên thế giới nhưng vẫn giữ nét
văn hóa pháp luật Việt Nam riêng biệt
103
2.2.2.6.
Đẩy mạnh và mở rộng các hoạt động như: bình chọn thương
hiệu có chất lượng cao của người tiêu dùng; tận dụng sự tác
động của yếu tố dư luận xã hội để nâng cao văn hóa pháp
luật trong kinh doanh
104

KẾT LUẬN
106

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
108


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, công cuộc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta đang rất được đẩy mạnh. Bắt đầu từ năm 1986 đến nay,
trải qua hơn 20 năm, công cuộc cải cách bộ máy nhà nước đã diễn ra qua
nhiều giai đoạn và đạt được những thành tựu nhất định. Cùng với sự phát
triển nhanh về mặt kinh tế, chính trị ổn định, còn có thể nhận thấy những
thành tựu trong các lĩnh vực văn hóa - xã hội, một nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền cũng được tăng
cường cả về lượng và chất, cả hình thức và nội dung, đồng bộ trên mọi lĩnh
vực. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi nhận quan điểm xây dựng nhà nước pháp
quyền, Điều 2 nêu rõ: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân".
Việc ghi nhận đó là cơ sở pháp lý xác định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam. Nhưng xây dựng nhà nước pháp quyền là một quá trình
lâu dài, phức tạp, các quốc gia xây dựng nhà nước pháp quyền với những xuất
phát điểm khác nhau về đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa và bằng những
con đường, bước đi khác nhau, không có một mô hình chung cho mọi dân tộc.
Tuy nhiên, từ kinh nghiệm thực tế đã chứng tỏ rằng, công cuộc cải
cách bộ máy nhà nước, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng nhà
nước pháp quyền phải đi đôi với quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và nâng cao trình độ văn hóa pháp luật cho
người dân. Cả ba nhân tố đó phải được tăng cường đồng bộ, phát triển hài hòa
thì công cuộc cải cách bộ máy nhà nước mới hiệu quả, dân chủ hóa đi vào
cuộc sống một cách lành mạnh, nhà nước pháp quyền mới từng bước được
xây dựng và phát triển, hoàn thiện.

2
Điều đó cho thấy, việc xây dựng và nâng cao trình độ văn hóa pháp
luật cho người dân đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển của đất nước. Một nền văn hóa pháp luật phát triển sẽ góp phần vào một

hệ thống pháp luật phát triển và một quốc gia hưng thịnh.
Lĩnh vực kinh doanh là một trong những lĩnh vực trọng điểm của bất kỳ
một nền kinh tế nào. Hoạt động kinh doanh tốt, mang lại lợi nhuận cao luôn
đồng hành với chất lượng cuộc sống cao của người dân, trình độ dân trí phát
triển và sự phồn thịnh của một quốc gia. Với ý nghĩa đó, việc xây dựng hành
lang pháp lý trong kinh doanh cũng như nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp
luật trong kinh doanh cho các chủ thể luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng.
Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây công tác nâng cao vấn đề
văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh không ngừng được tăng cường,
hoàn thiện cả về nội dung lẫn phương thức thực hiện và đã đạt được nhiều
thành tựu đáng khích lệ. Hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật qui định các
hành vi, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong lĩnh vực kinh doanh được
ban hành, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc, cụ thể, gắn liền với thực tế và
thuận lợi trong thực hiện. Các cơ quan nhà nước từ Chính phủ đến các Bộ,
ngành, địa phương đều hết sức chú trọng và thúc đẩy việc xây dựng pháp luật,
ban hành nhiều văn bản cụ thể hơn, dễ thực hiện hơn trong kinh doanh. Đồng
thời rất nhiều văn bản pháp luật liên tịch giữa các bộ, các ngành cũng được
ban hành đồng loạt nhằm phối hợp có hiệu quả trong công tác nâng cao vấn
đề văn hóa pháp luật trong kinh doanh.
Nhìn chung thì trình độ văn hóa pháp luật của đa số các chủ thể trong
kinh doanh ở nước ta hiện nay đã có nhiều tiến bộ: sự hiểu biết pháp luật và
vận dụng pháp luật trong các nghiệp vụ kinh doanh được nâng lên rõ rệt thể
hiện qua việc chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ, chính sách của Đảng và
Nhà nước, qui định của pháp luật; tình trạng tội phạm kinh doanh cũng đã
được khắc phục đáng kể; tình trạng không tuân thủ hay cố tình "lách luật" của
các tổ chức cá nhân hiện nay cũng đã giảm nhiều

3
Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng, trong bối cảnh xã hội
luôn phát triển không ngừng, đặc biệt trong thời gian gần đây khi sự hội nhập

kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, tốc độ phát triển của công nghệ thông tin
bùng nổ đã có những ảnh hưởng khác nhau đến đời sống của nhân dân Việt
Nam (tác động tiêu cực hoặc tích cực). Theo đánh giá của các nhà làm công
tác xây dựng luật, bảo vệ pháp luật cho thấy bên cạnh tác động tích cực là
thúc đẩy xã hội phát triển về nhiều mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị thì
còn có những tác động tiêu cực: niềm tin vào hệ thống pháp luật quốc gia
ngày càng suy giảm, cùng với nó là những hành vi vi phạm qui định đã được
pháp luật cấm hay cố tình không thực hiện các nghĩa vụ kinh doanh theo qui
định. Nền kinh tế hội nhập cũng làm cho tình trạng tội phạm kinh tế xuyên
quốc gia tăng mạnh, nhờ vào sự thông thoáng trong hành lang pháp lý của các
quốc gia, tối đa hóa việc mở cửa, tạo điều kiện các các nhà đầu tư nước ngoài
vào đầu tư trong nước. Chính động thái này vô tình đã giúp cho các tội phạm
kinh tế hoạt động dễ dàng hơn.
Nâng cao vấn đề văn hóa pháp luật trong kinh doanh cho các chủ thể
nhằm hình thành nếp sống và làm việc tôn trọng pháp luật, tuân thủ các qui
định của pháp luật là một tất yếu khách quan đặc biệt là trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung đi sâu vào phân tích,
đánh giá thực trạng văn hóa pháp luật trong kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh (trên một số phương diện cụ thể) và những kết quả mà công cuộc xây
dựng và nâng cao văn hóa pháp luật đã đạt được trong thời gian qua. Từ đó
xem xét đến những tác động (tích cực, tiêu cực) của kết quả đó đối với vấn đề
nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, hình thành nếp sống sống và làm
việc theo Hiến pháp, pháp luật. Bên cạnh đó nêu ra một số kiến nghị cụ thể về
việc xây dựng, văn hóa pháp luật; các giải pháp xây dựng, hoàn thiện công tác
này nhằm góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể kinh
doanh trong giai đoạn hiện nay.

4
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay đã được nghiên cứu, bình
luận, trao đổi dưới nhiều hình thức. Thông qua những tạp chí chuyên ngành như:
Nghiên cứu lập pháp, Luật học, Dân chủ và pháp luật, Nhà nước và pháp luật
các tác giả đã bày tỏ quan điểm cá nhân của mình xung quanh khái niệm, vai
trò, và những biện pháp nâng cao vấn đề văn hóa pháp luật. Cụ thể như sau:
- Lê Đức Tiết (2005), Văn hóa pháp lý Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Hoàng Thị Kim Quế (2004), "Văn hóa pháp lý - dòng riêng giữa
nguồn chung của văn hóa dân tộc Việt Nam", Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
- Nguyễn Văn Động (2006), "Văn hóa pháp lý trong điều kiện phát
huy dân chủ ở nước ta hiện nay", Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
- Lê Vương Long (2006), "Văn hóa pháp lý Việt Nam trong xu thế
toàn cầu hóa", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
- Lê Minh Tâm (1998), "Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay", Tạp chí Luật học.
- Lê Thanh Thập (1999), "Mấy suy nghĩ về văn hóa và văn hóa pháp
luật ở nước ta", Tạp chí Luật học.
- Phạm Duy Nghĩa (2008), "Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật",
Tạp chí khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hồi (2008), "Ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật",
Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
Với đề tài văn hóa pháp luật cũng đã từng có nhiều luận văn, luận án,
khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu và phân tích. Trong đó không thiếu các đề tài
cấp Bộ, cấp nhà nước, cấp tỉnh. Điều này cho thấy tầm quan trọng của vấn đề
nâng cao trình độ văn hóa pháp luật cho người dân cũng như thể hiện thái độ
quan tâm, chú trọng của Đảng và Nhà nước ta.
Luận văn này người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề về
phương diện lý luận chung về văn hóa pháp luật, chú trọng văn hóa pháp luật

5
trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay và hoạt động nâng cao ý thức

pháp luật, văn hóa pháp luật trong kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh,
những kết quả đạt được và những tồn tại. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị
nhằm nâng cao, hoàn thiện hoạt động nâng cao trình độ văn hóa pháp luật
trong kinh doanh cho người dân nước ta trong tình hình mới hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài này, người viết muốn đi sâu tìm
hiểu về cơ sở lý luận của vấn đề văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật trong
lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. Thông qua việc phân tích khái
niệm và các yếu tố cấu thành của văn hóa pháp luật, luận văn nhằm nêu bật
vai trò và sự tác động của văn hóa pháp luật đối với các lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh doanh. Với những giá trị mà văn hóa pháp
luật mang lại cho nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là hoạt động kinh doanh lành
mạnh, công bằng, phát triển, đồng thời tình hình và môi trường kinh doanh
cũng phản ánh nhu cầu của thực tiễn đời sống đối với sự điều chỉnh pháp lý
cũng như sự phù hợp, tính khả thi của những qui phạm pháp luật đã được ban
hành cũng được đề cập và nghiên cứu cụ thể trong luận văn.
Chương 2 luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng văn hóa pháp luật
trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam hiện nay thông qua việc nghiên cứu
những thành tựu và hạn chế hiện hữu của từng yếu tố cấu thành văn hóa pháp
luật kinh doanh. Cũng bằng một số những vụ án cụ thể, kết hợp với việc tổng
hợp tình hình thực hiện qui phạm pháp luật kinh doanh để nêu bật ý thức,
trình độ pháp lý của các chủ thể kinh doanh hiện nay. Qua đó, người viết
mong muốn đóng góp một số ý kiến về việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
văn hóa pháp luật trong kinh doanh ở Việt Nam hiện nay thông qua việc đưa
ra một số kiến nghị về các giải pháp, cách thức triển khai thực hiện trên thực
tế đối với công tác nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, văn hóa pháp luật
trong kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh.

6
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu luận văn

Luận văn được nghiên cứu và hình thành trên cơ sở vận dụng các
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học
thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả luận văn đã sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu giữa lý
luận và thực tiễn
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật
trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và những biện pháp chủ yếu về xây dựng văn
hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.

7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT
VÀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. VĂN HÓA PHÁP LUẬT
1.1.1. Quan niệm về văn hóa pháp luật
Vốn là một hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, đa cấp độ, văn hóa từng
được nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau. Ở trình độ lý luận và yêu cầu
của xã hội ngày nay, văn hóa được coi là tất cả những gì liên quan đến con
người, ít nhiều thể hiện được sức mạnh bản chất của con người. Văn hóa ra
đời cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người, từ giai đoạn khởi thủy cho
đến giai đoạn phát triển thịnh vượng sau này. Quá trình phát triển của văn hóa
cũng là quá trình loài người tiến hóa, đi lên, nắm bắt các qui luật tự nhiên và
làm chủ thế giới. Có thể nói, sự phát triển của văn hóa chính là quá trình con
người tự hoàn thiện mình, hoàn thiện xã hội, xây dựng một xã hội tiến bộ hơn,

dân chủ hơn. Văn hóa đích thực là ánh sáng dẫn dắt đời sống nhân loại đi tới
những giá trị cao cả để đạt được sự toàn thiện, toàn mỹ. Bởi vậy, làm lành
mạnh môi trường văn hóa, tạo điều kiện cho văn hóa phát triển cũng có ý
nghĩa tích cực đối với sự phát triển tiến bộ xã hội và hoàn thiện nhân cách
mỗi cá nhân.
Văn hóa là khái niệm có nội hàm rộng lớn, có thể tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau. Có nhiều định nghĩa về văn hóa đã được các học giả đề cập
và phân tích trong các công trình nghiên cứu của mình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, từ năm 1942, đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,

8
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
tinh tồn [15].
Cách định nghĩa văn hóa này là khá toàn diện, thể hiện được sự nguồn
gốc, chức năng của văn hóa, đồng thời cũng phản ánh tính kế thừa từ thế hệ
này sang thế hệ khác, thời kỳ lịch sử này sang thời kỳ lịch sử khác của văn hóa.
Theo định nghĩa của UNESCO thì:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống
động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng)
đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại,
qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị,
truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên nó từng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình [35].
Theo cách hiểu này thì văn hóa trong một lĩnh vực hoạt động xã hội cụ

thể của mỗi dân tộc được thể hiện qua ba yếu tố cốt lõi sau:
- Các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ (yếu tố về ý thức).
- Những giá trị vật chất, kỹ thuật do con người sáng tạo ra trong lĩnh
vực đó.
- Năng lực, cách thức sử dụng các dạng vật chất đã sáng tạo ra nhằm
đáp ứng nhu cầu của đời sống con người cả về vật chất và tinh thần.
Từ "văn hóa" trong tiếng Latin là "culture", nghĩa là sự trồng trọt.
Theo nghĩa gốc, ta có thể hiểu văn hóa là quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục từ những cá thể sinh học trở thành những con người. Cũng có thể nói
rằng văn hóa là môi trường thứ hai để con người trở thành chính bản thân
mình. Như vậy, văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do con người tạo ra,

9
từ công cụ sản xuất đến các vật dụng sinh hoạt, từ tri thức khoa học đến các
tác phẩm nghệ thuật. Văn hóa còn hiện diện trên các quan hệ giữa con người
với con người dù đó là quan hệ kinh tế hay quan hệ tôn giáo, quan hệ pháp
luật hay quan hệ giao tiếp thông thường. Văn hóa còn là bản thân các năng
lực cấu thành nhân cách con người là tri thức, tình cảm, ý chí và mọi năng lực
lao động sáng tạo…
Dưới góc độ xã hội học thì văn hóa là sản phẩm của con người, là
cách quan niệm cuộc sống, tổ chức cuộc sống và sống cuộc sống ấy. Văn hóa
có thể được xem xét như hệ thống "các giá trị, chân lý, các chuẩn mực và mục
tiêu mà con người cùng thống nhất với nhau trong quá trình tương tác và trải
qua thời gian".
Pháp luật là một lĩnh vực hoạt động xã hội, do đó nó luôn đòi hỏi phải
tính đến vai trò và vị trí của nhân tố văn hóa. Trong lĩnh vực pháp luật, trước
hết văn hóa được thể hiện như là phương thức quản lí xã hội vì con người,
đảm bảo cuộc sống hạnh phúc cho con người. Đồng thời, nó cũng thể hiện
như là kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong việc xây dựng và thực
thi pháp luật hướng tới chân, thiện, mĩ.

Pháp luật là một trong những yếu tố của văn hóa và văn hóa pháp luật
là văn hóa chuyên ngành. Vì vậy để xây dựng được nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì tất yếu phải chú trọng phát triển văn hóa
pháp luật. Điều này không chỉ là xu hướng của riêng nước ta mà còn là
phương hướng phát triển chung của các nước trên thế giới. Bên cạnh việc phát
triển văn hóa giao tiếp, văn hóa du lịch, văn hóa chính trị… thì các quốc gia
đều rất chú trọng đến việc phát triển văn hóa pháp luật. Đây được coi là thước
đo quan trọng của tiến trình xây dựng xã hội dân chủ, nhà nước pháp quyền
trong sạch, vững mạnh.
Văn hóa pháp luật không phải là một thuật ngữ được dùng phổ biến
trong luật học như: chế tài, khế ước, nghĩa vụ, lỗi, hành vi mà là một thuật

10
ngữ gắn liền với xã hội học pháp luật, lý luận nhà nước và pháp luật hay nó
còn liên quan đến các vấn đề tranh cãi hiện nay như triết học pháp quyền, sự
du nhập pháp luật trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Hiện nay, trong giới khoa học pháp lý vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng
về văn hóa pháp luật. Ở mỗi một cách nhìn, mỗi người lại có một quan niệm
riêng về định nghĩa văn hóa pháp luật. GS.TS Lê Minh Tâm cho rằng:
Văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh
thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ
thống qui phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử,
những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lí, nguyên tắc, những
tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích
lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật [26].
Theo quan điểm của TS Phạm Duy Nghĩa thì "văn hóa pháp luật là
một cách nhìn về luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều
với khoa học hành vi, cách nghĩ, cách ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc tính
nhân học của các cộng đồng và tộc người" [17]. Một quan điểm khác của
GS.TS Hoàng Thị Kim Quế thì:

Văn hóa pháp lý là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần
thuộc hệ thống tác động của pháp luật được thể hiện trong ý chí và
hành vi của con người…Văn hóa pháp lý thể hiện ở trình độ cao của
sự tôn trọng pháp luật, trình độ tri thức pháp luật của nhân dân; thực
trạng có chất lượng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật,
các phương thức hoạt động pháp luật đặc thù như của các cơ quan
pháp luật, kiểm tra hiến pháp…; kết quả của hoạt động pháp luật
dưới dạng sản phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng
như luật, hệ thống lập pháp, thực tiễn tư pháp và hành pháp [23].
Mục đích của văn hóa pháp luật nói riêng và văn hóa nói chung là dẫn
dắt con người tới những giá trị cao đẹp, hướng tới chân - thiện - mỹ. Văn hóa

11
giúp tăng cường hiệu quả của pháp luật trong xã hội, đồng thời hiệu quả pháp
luật lại phản ánh trình độ văn hóa pháp luật của xã hội đó. Phát triển văn hóa
pháp luật không những góp phần nâng cao hiệu quả pháp luật mà còn giúp
hoàn thiện, phát triển nhân cách con người.
Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng văn hóa pháp luật là những
giá trị do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao gồm: ý thức
pháp luật (tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật), hệ thống pháp luật và
hành vi thực hiện, áp dụng pháp luật. Văn hóa pháp luật thể hiện ở ý thức
pháp luật cao, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tiến bộ, hành vi thực hiện
pháp luật và áp dụng pháp luật hợp pháp.
Có một số tác giả trong quan niệm của mình sử dụng các thuật ngữ
như văn hóa pháp lý hay văn hóa tư pháp. Theo cá nhân người viết luận văn,
văn hóa tư pháp là những giá trị được biểu hiện thông qua các qui định pháp
luật và hoạt động của riêng hệ thống tư pháp, tức là trong hoạt động (bao gồm
thẩm quyền, giới hạn xét xử, nghĩa vụ) của các cơ quan tư pháp. Đồng thời
cũng là những quan niệm, suy nghĩ, thái độ, hành vi ứng xử của các tầng lớp
xã hội đối với các văn bản pháp luật về tư pháp, hệ thống các cơ quan tư pháp

và các cá nhân trong hệ thống đó. Văn hóa tư pháp cũng chỉ là một lĩnh vực
của văn hóa pháp luật, bên cạnh các lĩnh vực khác như: văn hóa lập pháp, văn
hóa hành chính, văn hóa tư vấn pháp luật, văn hóa phổ biến, tuyên truyền,
giáo dục pháp luật… Còn văn hóa pháp lý hay văn hóa pháp luật đều thể hiện
những giá trị của cả hệ thống luật pháp trên tất cả các ngành, lĩnh vực trong
đời sống xã hội. Như vậy lựa chọn thuật ngữ văn hóa pháp lý hay văn hóa
pháp luật đều có thể bao quát và phù hợp với định nghĩa và các yếu tố cấu thành.
1.1.2. Đặc điểm của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật có các đặc điểm của văn hóa nói chung, các đặc
điểm riêng của mình và luôn có mối quan hệ mật thiết với các dạng văn hóa
khác. Các đặc điểm của văn hóa pháp luật có thể kể đến là:

12
- Văn hóa pháp luật có tính hệ thống, tính lịch sử: văn hóa pháp luật
bao gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và những yếu tố đó luôn có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Đó là một hệ thống, một bức tranh tổng thể chứ không
phải là một sự liệt kê, một phép cộng giản đơn. Văn hóa pháp luật cũng là sự
kết tinh sáng tạo của con người qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn. Do đó,
nghiên cứu văn hóa pháp luật luôn phải đặt nó trong sự tác động, ảnh hưởng
của các yếu tố văn hóa truyền thống và hiện đại.
- Văn hóa pháp luật có tính giá trị: các giá trị đó có thể bao gồm
những giá trị vật chất và tinh thần. Văn hóa pháp luật có những giá trị riêng
về công bằng, công lý, tự do, bình đẳng, dân chủ. Văn hóa pháp luật xác lập
một hệ thống giá trị pháp luật cho xã hội với các khuôn mẫu ứng xử, chuẩn
mực hành vi của con người.
- Văn hóa pháp luật luôn có tính giao lưu, tính mở: văn hóa pháp luật
của một quốc gia luôn có mối quan hệ tương tác với nền văn hóa pháp luật
khu vực và thế giới. Văn hóa pháp luật thể hiện bản sắc riêng của dân tộc
đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa pháp luật của các nước
khác trong quá trình mở rộng giao lưu quốc tế.

1.1.3. Chức năng của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật thực hiện những chức năng của văn hóa trong một
lĩnh vực đặc biệt - lĩnh vực pháp luật. Vì thế, văn hóa pháp luật cũng mang
những chức năng chung của văn hóa.
- Chức năng nhận thức: đây là chức năng đầu tiên và quan trọng của
văn hóa pháp luật. Văn hóa pháp luật nếu thiếu chức năng nhận thức thì
không thể đề cập đến chức năng nào khác. Chức năng nhận thức một mặt giúp
cho các nhà lập pháp nhận thức đúng các qui luật của đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa, sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật để điều chỉnh một
quan hệ xã hội… từ đó để xây dựng các qui phạm pháp luật tiến bộ, phù hợp
với thực tiễn. Mặt khác, chức năng nhận thức của văn hóa pháp luật cũng

13
cung cấp những thông tin, kiến thức pháp luật cho các chủ thể, đồng thời bồi
dưỡng niềm tin, tình cảm pháp luật cho các chủ thể pháp luật. Có thể nói văn
hóa pháp luật như một cuốn sách về đời sống pháp luật, nó gắn liền với hoạt
động sáng tạo pháp luật, thực hiện và áp dụng pháp luật của các chủ thể.
- Chức năng định hướng: Văn hóa pháp luật bao gồm những giá trị về
mặt vật chất và tinh thần. Những giá trị đó luôn gắn liền với đời sống xã hội
và là những mục tiêu hướng đến của con người, đó là những giá trị của chân -
thiện - mỹ. Chính điều này đã làm cho văn hóa pháp luật có chức năng định
hướng những tư duy, suy nghĩ và hành vi ứng xử của các chủ thể. Văn hóa
pháp luật chính là những chuẩn mực hướng con người ta đến những suy nghĩ
tích cực và hành vi hợp pháp. Bên cạnh các phương tiện điều chỉnh khác như
đạo đức, phong tục tập quán, văn hóa pháp luật trở thành một công cụ hữu
hiệu giúp giữ gìn trật tự xã hội, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, công bằng,
dân chủ, văn minh. Sự khác biệt trong cơ chế định hướng của văn hóa pháp
luật với các phương tiện điều chỉnh khác là ở chỗ văn hóa pháp luật được bảo
đảm thực hiện bằng pháp luật, pháp luật do nhà nước ban hành nên có quyền
lực cưỡng chế đối tượng phải thi hành. Còn đạo đức hay phong tục tập quán

lại được thực hiện thông qua sự tự nguyện của mỗi cá nhân, thông qua sự
khích lệ hay chỉ trích của dư luận xã hội. Chuẩn mực văn hóa pháp lý không
những hướng con người ta tới những giá trị cao đẹp của pháp luật mà còn
giúp hình thành và hoàn thiện nhân cách con người.
- Chức năng giáo dục: giáo dục và môi trường giáo dục luôn là những
yếu tố quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Đối với văn hóa
pháp luật, giáo dục lại càng có vai trò quan trọng, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp
đến hành vi ứng xử có văn hóa pháp luật hay không của các chủ thể. Chức
năng giáo dục của văn hóa pháp luật chính là nằm ở chỗ: nó quyết định việc
lựa chọn hay không lựa chọn thực hiện một hành vi tích cực hoặc tiêu cực của
con người. Bên cạnh ý thức pháp luật, sự tự giác của mỗi người, chức năng
giáo dục pháp luật giúp hỗ trợ cho các chủ thể hành động hợp pháp. Giáo dục

14
pháp luật hiện nay được thực hiện dưới nhiều hình thức: hình thành các trung
tâm tư vấn pháp luật, câu lạc bộ pháp luật, hoạt động phổ biến tuyên truyền
giáo dục pháp luật, giáo dục pháp luật thông qua việc đào tạo tại các trường
Trung học, Đại học… Thông qua đó, văn hóa pháp luật đã nâng cao trình độ
hiểu biết, ý thức tôn trọng pháp luật của các tầng lớp nhân dân đồng thời giáo
dục lối sống, nhân cách, đạo đức phù hợp với các qui định của pháp luật.
- Chức năng phản ánh thực tiễn: Pháp luật luôn luôn phải gắn liền với
thực tiễn, với các qui luật của sự vận động và phát triển trong đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội. Nhưng thực tiễn cũng chính là bức tranh phản
ánh hiệu quả pháp luật, tính đúng đắn và khả thi của các qui phạm pháp luật
ban hành. Văn hóa pháp luật với sự phản ánh ý thức pháp luật, tình cảm pháp
luật, hành vi ứng xử của các chủ thể đã trở thành công cụ hỗ trợ giúp cho
pháp luật đi sâu vào đời sống hơn, hoàn thiện hơn. Dưới sự tác động của văn
hóa pháp luật, việc hoạch định và xây dựng các chính sách pháp luật trở nên
đúng đắn hơn, phù hợp với mong muốn và nguyện vọng của đại đa số bộ
phận dân chúng, phản ánh những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của họ vào pháp

luật. Trong chức năng phản ánh thực tiễn còn có vấn đề dự báo tình hình và
xu hướng phát triển của pháp luật. Dựa trên cơ sở nhận thức sâu sắc các qui
luật phát triển của đời sống kinh tế xã hội, văn hóa pháp luật đưa ra khả năng
dự liệu các qui phạm để điều chỉnh các quan hệ xã hội sẽ phát sinh.
1.1.4. Các cấp độ của văn hóa pháp luật và việc phân loại văn hóa
pháp luật
1.1.4.1. Các cấp độ của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật thể hiện ở những cấp độ khác nhau tùy thuộc vào
những điều kiện khách quan và năng lực nhận thức chủ quan của chủ thể nhận
thức. Các cấp độ đó bao gồm: văn hóa pháp luật thông thường, văn hóa pháp
luật lý luận và văn hóa pháp luật nghề nghiệp.

15
- Văn hóa pháp luật thông thường: được hiểu là mức độ nhận thức
pháp luật còn hạn chế, thông qua sự phản ánh trực tiếp, giản đơn về các hiện
tượng pháp luật. Văn hóa pháp luật thông thường được hình thành dưới sự tác
động trực tiếp của những điều kiện khách quan và kinh nghiệm của cuộc sống
cá nhân, trong đó yếu tố tâm lý xã hội chiếm vị trí quan trọng. Ở cấp độ này,
văn hóa pháp luật nhìn chung mới chỉ biểu hiện ở sự thừa nhận, tiếp thu và xử
sự theo sự thừa nhận và tiếp thu đó. Ví dụ, dưới sự tác động của các hoạt
động tuyên truyền, phổ biến pháp luật hoặc sự tự học tập, mỗi cá nhân có thể
có được sự hiểu biết và nắm được những kiến thức pháp luật nhất định; thông
qua việc tham gia vào các hoạt động như bầu cử, góp ý kiến vào các dự án
luật và trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể, mỗi người cũng sẽ
có được sự hiểu biết và kinh nghiệm nhất định. Nhưng đó mới chỉ là sự hiểu
biết thông thường, chưa toàn diện và sâu sắc.
- Văn hóa pháp luật lý luận: được hiểu là trình độ nhận thức cao, có
hệ thống và sâu sắc về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện
tượng pháp luật. Nói cách khác, đó là sự nhận thức có căn cứ khoa học, được
hình thành trong quá trình đào tạo, học tập, nghiên cứu một cách có hệ thống

và được kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống. Văn hóa pháp luật lý luận có
ưu thế đặc biệt, nó là cơ sở cho hoạt động sáng tạo pháp luật, truyền bá tư
tưởng, quan điểm pháp lý, cũng như những hoạt động pháp luật thực tiễn.
- Văn hóa pháp luật nghề nghiệp: là văn hóa pháp luật của các luật gia
và các nhà chức trách mà nghề nghiệp có liên quan đến việc hoạch định chính
sách pháp luật, nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. Văn hóa
pháp luật nghề nghiệp là sự kết hợp hài hòa của những yếu tố tư tưởng pháp
luật và tâm lý pháp luật. Nó không những chỉ biểu hiện ở trình độ hiểu biết
cao của pháp luật mà còn phản ánh trình độ nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng và áp
dụng pháp luật vào việc giải quyết các công việc của thực tế đời sống.
Như vậy, văn hóa pháp luật thông thường có tính phổ quát, phong phú
được đặc trưng bằng yếu tố tâm lý xã hội; văn hóa pháp luật lý luận thể hiện

16
tính tư tưởng và khoa học sâu sắc, toàn diện còn văn hóa pháp luật nghề
nghiệp là sự kết hợp hài hòa của hai cấp độ văn hóa đó. Có thể coi văn hóa
pháp luật nghề nghiệp là cầu nối giữa văn hóa pháp luật lý luận và văn hóa
pháp luật thông thường. Văn hóa pháp luật thông thường góp phần tạo nên sự
phong phú và đa dạng của văn hóa pháp luật; văn hóa pháp luật lý luận qui tụ,
soi sáng và định hướng cho sự phát triển của văn hóa pháp luật, còn văn hóa
pháp luật nghề nghiệp góp phần tạo ra sự hài hòa phát triển của văn hóa pháp
luật. Vì vậy trong phát triển văn hóa pháp luật cần chú trọng toàn diện cả ba
mặt: nâng cao văn hóa pháp luật thông thường, tăng cường văn hóa pháp luật
lý luận và đề cao văn hóa pháp luật nghề nghiệp.
1.1.4.2. Phân loại văn hóa pháp luật
* Phân loại theo chủ thể: gồm văn hóa pháp luật của cá nhân, văn hóa
pháp luật nhóm và văn hóa pháp luật xã hội.
- Văn hóa pháp luật của cá nhân: thể hiện những quan điểm, tư tưởng,
tâm lý, tình cảm, thái độ của mỗi người về pháp luật và các cơ quan pháp luật.
Văn hóa pháp luật ở mỗi cá nhân là khác nhau, thể hiện ở ý thức pháp luật cao

hay thấp, suy nghĩ, quan niệm về pháp luật tích cực hay tiêu cực từ đó dẫn
đến hành vi hợp pháp hay bất hợp pháp. Văn hóa pháp luật của mỗi cá nhân
chịu sự tác động của các yếu tố khách quan (điều kiện kinh tế - xã hội) và các
yếu tố chủ quan (tư chất bẩm sinh).
- Văn hóa pháp luật nhóm: nhóm ở đây được hiểu là một nhóm người
hay một tầng lớp có những điểm chung tương đồng về điều kiện làm việc và sinh
hoạt, mục đích, nhu cầu và lợi ích… Do vậy về mặt ý chí và nhận thức pháp luật
của nhóm cũng có những điểm chung. Văn hóa pháp luật nhóm do vậy là những
quan điểm, tư tưởng điển hình của nhóm về hệ thống pháp luật. Giáo dục và
nâng cao văn hóa pháp luật nhóm có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó đóng vai
trò là cầu nối giữa văn hóa pháp luật cá nhân và văn hóa pháp luật xã hội.

17
- Văn hóa pháp luật xã hội: được hiểu là những giá trị văn hóa pháp
luật đã được thừa nhận rộng rãi và thực thi trên toàn xã hội. Văn hóa pháp luật
xã hội thể hiện tích đặc trưng và khái quát cao.
* Phân loại theo lĩnh vực hoạt động: bao gồm văn hóa lập pháp, văn
hóa hành pháp và văn hóa tư pháp.
- Văn hóa lập pháp: là những giá trị của văn hóa pháp luật trong hoạt
động hoạch định, xây dựng các chính sách pháp luật, văn bản qui phạm pháp
luật. Văn hóa pháp luật trải dài trong suốt quá trình lập pháp, từ việc thu thập
tài liệu, điều tra thực tiễn các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, xây dựng dự
thảo, lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân cho đến giai đoạn thông qua và ban
hành văn bản pháp luật.
- Văn hóa hành pháp: là những giá trị văn hóa pháp luật trong lĩnh vực
thực thi pháp luật. Nó bao gồm hoạt động của các cơ quan hành pháp và cả hoạt
động của các cá nhân được nhà nước giao quyền làm việc trong các cơ quan đó.
- Văn hóa tư pháp: giá trị của văn hóa pháp luật được biểu hiện trong
lĩnh vực tư pháp: điều tra, xét xử…
Có một số tác giả cho rằng cần bổ sung hai loại hình văn hóa xét xử và

văn hóa phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật. Nhưng theo tác giả, việc đề
cập đến các loại hình văn hóa pháp luật theo cách liệt kê như trên thì không
những dừng lại ở hai loại hình văn hóa đó mà sẽ còn phát sinh nhiều loại hình
khác như: văn hóa tư vấn pháp luật, văn hóa pháp luật điều tra… Vì vậy cần
phân chia rõ các lĩnh vực tác động của văn hóa pháp luật là: lập pháp, hành pháp
và tư pháp để từ đó xếp các loại hình văn hóa theo các lĩnh vực khác nhau.
* Phân loại theo phạm vi tác động: có thể kể đến văn hóa pháp luật ở
trường học, văn hóa pháp luật ở tòa án, văn hóa pháp luật ở các cơ quan hành
chính sự nghiệp…

18
1.1.5. Các yếu tố hợp thành văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật là một bộ phận của nền văn hóa nói chung, là tổng
thể những giá trị vật chất và tinh thần được con người sáng tạo ra trong lĩnh
vực pháp luật. Phạm trù văn hóa pháp luật cũng như những yếu tố cấu thành
ra nó hiện nay vẫn tồn tại hai quan niệm khác nhau.
Quan niệm thứ nhất cho rằng, các yếu tố cấu thành văn hóa pháp luật
được hiểu theo nghĩa hẹp. Đây là được coi là quan niệm truyền thống và được
ghi nhận trong hầu hết các tác phẩm, công trình nghiên cứu về văn hóa pháp
luật. Theo đó, văn hóa pháp luật bao gồm các yếu tố cấu thành là: tri thức
pháp luật của các chủ thể; thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật và hành vi ứng
xử theo pháp luật.
Quan niệm thứ hai cho rằng, các yếu tố cấu thành văn hóa pháp luật
được hiểu theo nghĩa rộng. Theo đó, văn hóa pháp luật bao gồm hai yếu tố là:
hệ thống pháp luật (được phân biệt ở hai hệ thống pháp luật chủ yếu là hệ
thống pháp luật Anh - Mỹ hay còn gọi là Common law và Civil law); truyền
thống pháp luật (bao gồm các yếu tố như nguồn pháp luật, trình độ hiểu biết
về pháp luật, ý thức pháp luật và hành vi xử sự đúng pháp luật). Quan niệm
này tồn tại ở nhiều nước trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở các nước theo hệ
thống pháp luật Anh - Mỹ.

Theo quan điểm cá nhân của tác giả luận văn, những yếu tố cấu thành
văn hóa pháp luật nên được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là ngoài các yếu tố
theo nghĩa hẹp thì nên bổ sung yếu tố bản thân hệ thống pháp luật trở thành
bộ phận của nền văn hóa pháp luật quốc gia. Bởi lẽ, hệ thống pháp luật quốc
gia với những văn bản pháp luật được ban hành sẽ thể hiện sự tiến bộ hay
không, tính đúng đắn hay không và tính phù hợp với thực tiễn của đời sống xã
hội hay không. Hệ thống pháp luật chính là hành lang pháp lý, là chuẩn mực
pháp luật để các chủ thể thực hiện những hành vi và ứng xử theo đúng qui
định của pháp luật. Không có hệ thống pháp luật thì không thể biết trình độ

19
hiểu biết pháp luật của các chủ thể đến đâu, họ có tôn trọng các qui định của
pháp luật hay không và họ có hành động theo các chuẩn mực pháp lý hay
không. Nói đúng hơn, hệ thống pháp luật đóng vai trò như một tấm gương
phản chiếu chính ý thức, trình độ và hành vi của các chủ thể, để từ đó cho thấy
văn hóa pháp luật của họ có cao hay không. Vì lẽ đó, nói đến văn hóa pháp luật
không thể không nói đến hệ thống pháp luật, tuy hệ thống pháp luật là một bộ
phận đứng biệt lập với các yếu tố còn lại; có nghĩa là các yếu tố trình độ, ý
thức và hành vi là thuộc về bản thân của các chủ thể còn hệ thống pháp luật
lại thuộc về nhà nước, do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ban hành.
Văn hóa pháp luật cho thấy một bức tranh tổng thể về các yếu tố cấu
thành. Mỗi yếu tố thể hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của văn hóa
pháp luật, nhưng chúng ta chỉ có thể có được cái nhìn toàn diện về văn hóa
pháp luật khi xem xét và phân tích tất cả các yếu tố cũng như mối quan hệ tác
động qua lại giữa các yếu tố đó mà thôi.
1.1.5.1. Ý thức pháp luật (bao gồm tri thức pháp luật và tình cảm
pháp luật)
Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức, thuộc lĩnh vực đời sống
tinh thần của con người. Có thể nói:
Ý thức pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết,

quan điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về pháp
luật trên các phương diện, tiêu chí cơ bản như: Về sự cần thiết (hay
không cần thiết), về vai trò, chức năng của pháp luật, về tính công
bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của các
qui định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp
luật cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành
vi của các cá nhân, nhà nước, các tổ chức xã hội [24].
Theo cách hiểu này thì ý thức pháp luật bao gồm cả tri thức pháp luật,
tình cảm pháp luật. Tri thức pháp luật biểu hiện ở trình độ, sự hiểu biết về

20
pháp luật của các chủ thể. Tri thức pháp luật có thể cao hoặc thấp, có thể đồng
đều hoặc không giữa các chủ thể, nhưng nói đến văn hóa pháp luật tức là phải
nói đến một trình độ hiểu biết pháp luật cao.
Tình cảm pháp luật chính là những suy nghĩ, thái độ, niềm tin và sự
tôn trọng pháp luật của các chủ thể. Văn hóa pháp luật đòi hỏi những suy nghĩ
tích cực, lạc quan về pháp luật, thái độ tuân thủ nghiêm chỉnh và tôn trọng các
chuẩn mực pháp lý.
Tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật là những biểu hiện của ý thức
pháp luật. Tuy nhiên, ý thức pháp luật là sản phẩm của bộ não con người, sinh
ra trong quá trình con người tư duy và hành động. Do vậy, ý thức pháp luật là
những tư duy của con người đối với hệ thống pháp luật. Tư duy đó có thể
đúng hoặc sai, có thể phù hợp hoặc không phù hợp, hợp pháp hoặc bất hợp
pháp. Nhưng tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật với vai trò là một yếu tố
của văn hóa pháp luật thì chỉ có thể là những tri thức cao và tình cảm tốt đẹp,
ý thức đúng đắn về pháp luật.
Ý thức pháp luật được hình thành và phát triển từ những điều kiện kinh
tế, điều kiện vật chất của xã hội. Toàn bộ những điều kiện khách quan về địa lý
tự nhiên, phong tục tập quán, truyền thống đạo đức dân tộc…những điều kiện
kinh tế - xã hội bên ngoài mỗi quốc gia, xu thế vận động quốc tế ở mỗi thời kỳ

đều có tác động chi phối đến ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật khác với các
dạng ý thức khác ở chỗ: đối tượng, lĩnh vực tư duy của nó là pháp luật.
 Đặc điểm của ý thức pháp luật
- Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự
quy định của tồn tại xã hội, nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối
Thứ nhất, ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Trong mỗi xã hội theo từng thời kỳ lịch sử phát triển khác nhau thì tồn tại
xã hội bao giờ cũng tương ứng với ý thức xã hội nhất định. Tuy nhiên, xã hội luôn
phát triển không ngừng và sự tương xứng này không phải lúc nào cũng hài hòa

21
và cân xứng về mọi phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Bởi vì, xuất phát
từ những yếu tố tâm lý pháp luật mà những thói quen, truyền thống, phong
tục, tập quán luôn đóng vai trò quan trọng trong tiềm thức của mỗi con người.
Do vậy, trên thực tế theo sự biến đổi của xã hội cho dù tồn tại xã hội
cũ mất đi nhưng ý thức xã hội trong đó có ý thức pháp luật do nó sinh ra vẫn
tồn tại dai dẳng trong xã hội. Ví dụ, biểu hiện của tâm lý pháp luật của thời kỳ
phong kiến như sự tồn tại của lối làm việc mang tính chất quan liêu, hách dịch
trong công tác quản lý hành chính nhà nước đã ăn sâu vào tiềm thức và trở
thành một thói quen dai dẳng. Mặc dù chúng ta đã thực hiện cơ chế quản lý
hành chính "một cửa" nhưng dường như tâm lý pháp luật của một số bộ phận
cán bộ vẫn bị ảnh hưởng của nếp nghĩ và cách làm cũ, vì nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan nó vẫn đang tồn tại trong xã hội gây ảnh hưởng tiêu
cực đến hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước.
Thứ hai, ý thức pháp luật mặc dù lệ thuộc rất nhiều vào tồn tại xã hội
và chịu sự quy định của nó nhưng vẫn có tính độc lập tương đối:
Trong một số điều kiện nhất định ý thức pháp luật vẫn có tính vượt
trội hơn so với sự phát triển của tồn tại xã hội, đặc biệt là tư tưởng pháp luật
khoa học. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của các quốc gia. Bởi lẽ, nếu như đó là những tư tưởng của các nhà

cầm quyền sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi để thể hiện thành pháp luật và tạo ra
những biến đổi vượt trội trong đời sống. Ví dụ, những tư tưởng, quan điểm
của C. Mác về pháp luật vượt lên trước thời đại mà ông đang sống. Đó là dự
báo về pháp luật kiểu mới - pháp luật xã hội chủ nghĩa của xã hội ngày nay.
Hay tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường phát triển
của Việt Nam là Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân.
Thứ ba, ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào
đó, song nó cũng kế thừa những yếu tố nhất định thuộc về ý thức pháp luật của
thời đại trước đó. Tuy nhiên sự kế thừa đó có thể là tiêu cực hoặc tích cực.

×