1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
VŨ THANH HÒA
NHỮNG THAY ĐỔI VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÁC GIA
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU THEO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
HÀ NỘI – 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
VŨ THANH HÒA
NHỮNG THAY ĐỔI VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÁC GIA
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU THEO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Thanh Hùng
HÀ NỘI – 2012
5
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.………………………………………………………2
3. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………………………3
4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………… 3
5. Mẫu khảo sát.…………………………………………………………………….4
6. Câu hỏi nghiên cứu.………………………………………………………….… 4
7. Luận cứ ……… …………………………………………………………… …4
8. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………5
9. Cấu trúc luận văn…………………………………………………………………5
Chƣơng1 : NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TIẾN
TRÌNH ĐỔI MỚI SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG
1.1. Tiếp thu lí luận giáo dục hiện đại và yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông Việt Nam………………………………………………………6
1.2.Tiếp thu thành tựu nghiên cứu phê bình văn học thế giới
để đổi mới dạy học Văn học sử ở bậc THPT
………………………… …… 101.3. Những đổi mới lý luận dạy học và phương
pháp dạy học
Ngữ văn ở Trung học phổ thông…………… …………………………………….12
1.3.1. Tâm lý học hoạt động, một định lý cơ bản trong
dạy học Ngữ văn ……… …………………………………………………….… 12
1.3.2. Lý luận dạy học và những khả năng lựa chọn
phương pháp dạy học phù hợp với bài học Ngữ văn………… ……………… 13
1.4. Quan niệm về tác gia văn học và tác gia Nguyễn Đình Chiểu 16
1.4.1. Tác gia văn học 16
1.4.2. Tác gia Nguyễn Đình Chiểu 19
1.4.3. Phương pháp dạy học tác gia văn học 22
Chƣơng 2: KHẢO SÁT NHỮNG THAY ĐỔI NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG
PHÁP DẠY HỌC TÁC GIA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU THEO QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(TỪ NĂM 1975 ĐẾN 2006)
2.1. Cấu trúc và nội dung bài học tác gia Nguyễn Đình Chiểu
trong SGK (từ năm 1979 đến 2006) 28
6
2.1.1. Cấu trúc chương trình ngữ văn của SGK Ngữ văn lớp 11 .28
2.1.2. Cấu trúc bài học tác gia tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu 33
2.1.3. Nội dung bài học về tác gia Nguyễn Đình Chiểu……………………….…. 36
2.2. Phương pháp dạy học tác gia Nguyễn Đình Chiểu
trong SGK từ năm 1975 đến 2006 52
2.2.1.Vị trí của tác gia Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử văn học 52
2.2.2.Mục tiêu bài học về tác gia Nguyễn Đình Chiểu 54
2.2.3. Nội dung và Phương pháp 56
Chƣơng3: THAY ĐỔI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC TÁC GIA NGUYỄN
ĐÌNH CHIỂU THEO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI SÁCH GIÁO KHOA NGỮ
VĂN BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
3.1. Dạy học tác gia Nguyễn Đình Chiểu theo đặc trưng bài học
- bằng bản đồ tư duy 65
3.1.1.Đặc trưng bài học tác gia văn học 65
3.1.2.Dạy học tác gia Nguyễn Đình Chiểu theo
đặc trưng bài học bằng bản đồ tư duy 66
3.1.3.Nội dung và Phương pháp lên lớp khi dạy học tác gia
Nguyễn Đình Chiểu bằng bản đồ tư duy……………… …………………………67
3.2.Dạy học tác gia Nguyễn Đình Chiểu theo hướng
tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh……… …………………………… 73
3.2.1. Giới thiệu phương pháp “học thông qua thực hành dạy……… ………… 73
3.2.2.Tích cực hóa hoạt động của học sinh khi
dạy học bài học tác gia Nguyễn Đình Chiểu…………… ……………………….78
3.3.Dạy học tác gia Nguyễn Đình Chiểu như một tác gia đặc biệt…………… 79
3.3.1. Hướng dẫn học sinh tự làm việc với sách giáo khoa………………… … 79
3.3.2.Hướng dẫn học sinh thu thập, chọn lọc, sắp xếp tư liệu
có liên quan đến bài học về tác gia văn học Nguyễn Đình Chiểu ………….… …85
3.3.3.Hướng dẫn, tổ chức học sinh thuyết trình
về tác gia Nguyễn Đình Chiểu ………… …………………………………….….87
3.3.4.Hướng dẫn, tổ chức học sinh thảo luận những vấn đề đặc biệt
trong giờ học về tác gia văn học Nguyễn Đình Chiểu…………… …………… 90
3.4. Giáo án thực nghiệm “Bài học : Tác gia Nguyễn Đình Chiểu”…………… 92
KẾT LUẬN …………………………………………………………………… 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….… …105
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Học sinh HS
Giáo viên GV
Nguyễn Đình Chiểu NĐC
Sách giáo khoa SGK
Sách giáo viên SGV
Trung học phổ thong THPT
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Đề tài được chọn lựa từ sự nhận thức về vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của
tác gia Nguyễn Đình Chiểu trong tiến trình văn học và trong đời sống tinh thần của
con người Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu - Tấm gương của lòng yêu nước, biểu tượng đẹp của tâm
hồn và bản sắc văn hoá Việt Nam, vai trò và vị trí của nhà thơ mù đất Đồng Nai này
đã được thừa nhận. Đặc biệt, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu được giảng dạy trong
chương trình trung học phổ thông môn Ngữ văn với tư cách là một trong chín tác
gia tiêu biểu của văn học Việt Nam.Thơ văn đồ Chiểu luôn góp phần giáo dục cho
học sinh về nhân cách, về lẽ sống, kêu gọi tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc,
rèn luyện ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống.
1.2. Đề tài xuất phát từ thực tiễn phát triển và thay đổi của việc giảng dạy tác gia
văn học trong nhà trường phổ thông nói chung và trong sách giáo khoa nói riêng.
Trong chương trình và sách giáo khoa môn Văn ở trường phổ thông, khối kiến
thức về tác gia văn học Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng. Thời lượng,số
lượng bài học giành cho khối kiến thức này lớn.Tiêu chuẩn lựa chọn tác gia văn học
để đưa vào sách giáo khoa Văn phổ thông rất nghiêm ngặt, chặt chẽ: những tiêu
chuẩn mà bản thân ngành Văn học đặt ra (tác gia ấy phải đại diện tiêu biểu cho một
giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc; có sự nghiệp thơ văn đồ sộ và
giá trị, có phong cách nghệ thuật độc đáo, có tư tưởng nghệ thuật đúng đắn và một
nhân cách cao đẹp…). Các bài học về tác gia văn học luôn chứa đựng những kiến
thức Văn học cơ bản nhất, sâu sắc nhất và trọng yếu nhất, vì không có tác gia văn
học, sẽ không có nền văn học với những đỉnh cao. Sự xuất hiện của các tác gia và
nghiên cứu về tác gia góp phần làm sáng tỏ những quy luật vận động hình thành và
phát triển của nền văn học.
Các bài học về tác gia văn học hiện nay đã phản ánh rõtính khoa học và nghệ
thuật của một bộ sách giáo khoa Văn, mặt khác sự thay đổi của chương trình dạy
học một tác gia văn học cũng phản ánh sự kế thừa và sự đổi thay phát triển của sách
8
giáo khoa Văn qua các thời kỳ. Trên thực tế thì từ năm 1975 đến nay, chương trình
và sách giáo khoa Văn học trong trường phổ thông đó trải qua 3 lần thay đổi lớn -
mỗi lần thay đổi lại thu hút rất nhiều sự quan tâm của cả xã hội. Tương ứng với mỗi
lần thay sách thì cách lựa chọn, hướng đánh giá, phương pháp biên soạn và phương
pháp dạy học về tác gia văn học nói chung và tác gia Nguyễn Đình Chiểu nói riêng
cũng thay đổi theo. Điều này chi phối rất nhiều đến việc dạy và học tác gia văn học
trong trường phổ thông.Vì vậy, yêu cầu cần thiết và tất yếu là phải nhìn nhận
chương trình dạy học về tác gia văn học (trong sách giáo khoa Văn) là một đối
tượng động, luôn có sự đổi thay, phát triển và đương nhiên, cần có sự thay đổi
tương ứng trong phương pháp dạy học.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Những thay đổivề
phương pháp dạy học tác gia Nguyễn Đình Chiểu theo quá trình đổi mới sách
giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ thông”làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Từ trước đến nay, vấn đề dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ
thông đã thu hút được nhiều sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Chúng ta có thể
kể đến những những công trình của các nhà nghiên cứu: Trần Đình Sử, Nguyễn
Thanh Hùng hay Phan Trọng Luận… hay đến những luận án, luận văn thậm chí là
các đề tài khoa học… Bao quát vấn đề từ lý thuyết chung đến việc dạy học một bài
học cụ thể, những công trình này đã đóng góp một phần rất lớn nhằm nâng cao chất
lượng dạy học văn trong nhà trường phổ thông.
Nguyễn Đình Chiểu là một trong số ít những tác giả văn học trung đại Việt
Nam ngay từ khi tác phẩm ra đời không lâu, được chú ý, nghiên cứu. Cuốn Nguyễn
Đình Chiểu tác gia – tác phẩm của nhà xuất bản giáo dục đã tổng kết, chọn lọc một
cách khá đầy đủ những bài nghiên cứu, phê bình, tiểu luận, trích đoạn … từ những
công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước từ năm 1964 đến 1999.
Trong đó, mục giảng dạy thơ văn Nguyễn Đình Chiểu trong nhà trường có những
bài viết rất đáng chú ý như: “Từ thực tế giảng dạy trong nhà trường nghĩ thêm về
nghệ thuật văn chương Nguyễn Đình Chiểu” của giáo sư Nguyễn Đình Chú; “Để
9
hiểu Đồ Chiểu rõ hơn về mặt nghệ thuật” của Nguyễn Trung Hiếu hay “Phân tích,
bình giảng tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong nhà trường” của giáo sư Trần
Đình Sử. Bên cạnh đó, ta còn thấy những luận văn, luận án đi sâu vào những vấn đề
khác nhau về thơ văn cụ đồ Chiểu như: “Từ láy trong thơ Nguyễn Đình Chiểu” của
Nguyễn Thị Thu Hương (ĐHSP HN); “Tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu” của Phạm Văn Nhu (ĐHSP HN) và “Phương pháp dạy học thơ văn Nguyên
Đình Chiểu ở trừơng THPT theo hướng hoạt động tiếp nhận của học sinh”Tuy
nhiên, chưa có một công trình nào trực tiếp đi vào vấn đềthay đổi phương pháp dạy
tác gia Nguyễn Đình Chiểu khi đặt trong tiến trình thay đổi của sách giao khoa Ngữ
Văn qua các thời kì, hi vọng luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Thông qua việc khảo sát các bộsách giáo khoa Văn trung học phổ thông qua
các thời kì (1975- 2007), chúng tôi muốn đưa ra những những tổng kết, đánh giá
bước đầu về sự thay đổi của bài học về tác gia, tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, từ đó
mong muốn tìm ra những giải pháp, con đường tích cực hóa hoạt động dạy học tác
gia này.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Khảo sát quá trình thay đổi của sách giáo khoa ngữ văn qua các thời kì về
dạy học tác gia văn học.
- Khảo sát quan niệm về tác gia, lựa chọn tác gia, chọn dạy tác phẩm tiêu
biểu, qúa trình thay đổi nội dung và phương pháp dạy học tác gia Nguyễn Đình
Chiểu qua các bộ sách
- Đề xuất phương pháp dạy học tác gia Nguyễn Đình Chiểucó hiệu quả, phù
hợp với đặc trưng bài học
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Sách giáo khoa Ngữ Văn bậc THPT qua các thời kì
(1975 đến nay)
4.2. Đối tượng nghiên cứu:Phương pháp dạy học tác gia, tác phẩm Nguyễn Đình
Chiểu.
10
5. Mẫu khảo sát.
Sách giáo khoa Văn lớp 11 từ 1975- 2007 mà chủ yếu là 3 bộsách :
- Sách giáo khoa Văn trước cải cách (1975- 1989)
- Sách giáo khoa Văn cải cách (1990- 2000)
- Sách giáo khoa Ngữ Văn mới ( 2007 - nay)
6. Câu hỏi nghiên cứu.
- Sách giáo khoa Ngữ văn qua các thời kì đã có sự thay đổi như thế nào?
- Giảng dạy tác gia Nguyễn Đình Chiểu như thế nào để phát huy được hiệu
quả đào tạo và giáo dục cao nhất?
7. Luận cứ
7.1.Luận cứ lý thuyết
- Căn cứ lí luận và thực tiễn về dạy học tác gia văn học trong các bộ sách
giáo khoa Văn bậc THPT từ 1975 tới nay
- Nội dung và phương pháp dạy học cơ bản về tác gia văn học
- Những điều khác nhau về nội dung và phương pháp dạy học tác gia văn
học giữa các bộ sách giáo khoa
- Những căn cứ mới về dạy học tác gia văn học của tác giả luận văn (Xem
Nguyễn Đình Chiểu là phạm trù tác gia đặc biệt)
7.2. Luận cứ thực tiễn
- Khảo sát bài học về tác gia, tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu trong sách giáo
khoa Văn bậc THPT từ 1975 tới nay chúng tôi nhận thấy đã có:
+ Thay đổi về cấu trúc chương trình theo hướng giảm tải (Về cả số lượng tác
phẩm và cách sắp xếp bài học)
+ Thay đổi trong cách nhìn nhận đánh giá và giảng dạy về tác gia Nguyễn Đình
Chiểu: Theo hướng tiến bộ, tích cực và mang bản chất văn chương hơn.
- Dựa trên phân tích làm rõ khái niệm tác gia, đặc trưng về dạy học tác gia,
chúng tôi đề xuất phương pháp giảng dạy tác gia Nguyễn Đình Chiểu theo đặc trưng
bài học, theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
11
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
+ Lịch sử logic:
Sự thay đổi của
thực tiễn
Sự thay đổi của
Khoa học - Giáo
dục – Văn học
Sự thay đổi sách
giáo khoa Ngữ văn
bài học về tác gia, tác
phẩm Nguyễn Đình
Chiểu
Từ quan điểm
chính trị đến
quan điểm đào
tạo con người
toàn diện
Từ cách nhìn xã
hội học dung tục
đến quan điểm văn
chương đậm chất
thẩm mỹ
Từ cách dạy học
truyền thụ một
chiều đến cách dạy
học tích cực
Từ sách giáo khoa
mang nhiều tư
tưởng giáo điều đến
sách giáo khoa với
nội dung và phương
pháp hiện đại, phát
huy được tính tích
cực của học sinh và
đậm chất văn
chương
Từ sự nặng nề về bài
học và quan điểm
chính trị đến sự giảm
tài về số lượng tác
phẩm và nhìn nhận
đúng hơn về giá trị
văn chương Nguyễn
Đình Chiểu
+ Phân tích tổng hợp:Soi chiếu bài học về tác gia Nguyễn Đình Chiểu trên nhiều
góc độ: Cấu trúc chương trình, số lượng tác phẩm, bài học, nội dung và phương
pháp, câu hỏi… từ đó tổng hợp các bảng biểu nhằm so sánh và rút ra các kết luận.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những tiền đề lí luận và thực tiễn của việc thay đổi mới sách
giáo khoa Ngữ văn bậctrung học phổ thông.
Chương 2: Khảo sát những thay đổi nội dung và phương pháp dạy học về tác
gia Nguyễn Đình Chiểu theo quá trình đổi mới sách giáo khoa Ngữ Văn trung học
phổ thông (từ 1975 đến 2006).
Chương 3: Phương pháp dạy học tác gia Nguyễn Đình Chiểu theo quá trình
thay đổi của sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông.
12
CHƢƠNG 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TIẾN TRÌNH ĐỔI
MỚI SÁCH GIÁO NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tiếp thu lí luận giáo dục hiện đại và yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông
Việt Nam
Một vấn đề có tính nguyên lý là việc giáo dục văn học ở bất kì chế độ nào và
thời đại nào cũng phải nhằm vào mục tiêu xây dựng con người cho chế độ đó, đáp
ứng yêu cầu của thời đại đó. Nhìn lại toàn bộ hệ thống sách giáo khoaNgữ Văn
được biên soạn từ 1975 tới nay, một điều có thể khẳng định ngay là nó luôn luôn cố
gắng xuất phát từ mục tiêu đào tạo của nhà trường và dựa trên nguyên lý giáo dục
của Đảng để đáp ứng được ở một mức độ đáng kể những nhiệm vụ chính trị và cuộc
sống ở từng giai đoạn cách mạng, từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Cho nên, có thể bắt
đầu từ những đổi thay trong chính trị, văn hoá, xã hội của các thời kỳ lịch sử để lý
giải cho sự đổi thay của sách giáo khoa Văn học và chương trình, phương pháp dạy
học về tác gia Nguyễn Đình Chiểu.
Thời kỳ 1975- 1989 (khoảng thời gian tương ứng với sự ra đời và tồn tại của
bộ sách giáo khoa Văn trước cải cách) có tầm quan trọng đặc biệt trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là một thời kỳ có dư âm vẻ vang của cuộc kháng
chiến chống Mỹ thắng lợi nhưng đồng thời cũng có những khó khăn phức tạp của
bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến,
có những đảo lộn kinh tế và xã hội sau một cuộc chiến tranh lâu dài, có những diễn
biến không thuận lợi do chủ nghĩa đế quốc và bè lũ phản động gây nên. Vì thế, hơn
bất cứ lúc nào trước đó, giáo dục quốc dân phải gắn chặt với sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa, giáo dục không chỉ đảm đương chức năng văn hoá- xã hội mà còn
ở những mức độ khác nhau thể hiện rõ chức năng chính trị, kinh tế của mình. Trong
bối cảnh chung ấy, “các môn chính trị, đạo đức và các môn khoa học xã hội giữ một
vai trò quan trọng trong việc truyền đạt tri thức thế giới quan khoa học, về chủ
nghĩa Mác- Lênin, đồng thời quá trình giáo dục cũng là một cuộc đấu tranh gay gắt
nhằm đẩy lùi những tàn dư của tư tưởng tư sản còn khá sâu đậm trong một bộ phận
nhân dân vùng mới giải phóng, nhằm đẩy lui những biểu hiện của suy thoái tư
13
tưởng nảy sinh trong quá trình vận động kinh tế trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá
độ” [19, tr 98]. Cụ thể hơn, sách giáo khoa Văn trong thời kỳ này “cần vạch cho học
sinh thấy rõ những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa đối với chủ nghĩa Mác- Lênin.
Đặc biệt cần vạch rõ bản chất tư tưởng phản động của chủ nghĩa Mao Trạch Đông,
sự phản bội lớn nhất, tệ hại nhất và nguy hiểm nhất hiện nay của chủ nghĩa Mác-
Lênin, chủ nghĩa xã hội” [1, tr 19]. So sánh với mục tiêu đó, thì bộ sách giáo khoa
Văn trước cải cách được đánh giá là đã góp phần với các bộ môn văn hoá khác đào
tạo các thế hệ trẻ nước ta thành những chiến sĩ xung kích trên các mặt trận chiến
đấu, sản xuất, văn hoá, khoa học…tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của
dân tộc. Tuy nhiên, cũng bởi mục tiêu trên chi phối nên một đặc điểm chính của bộ
sách giáo khoa này là nặng về nội dung tư tưởng- chính trị, chưa phát huy được ưu
thế về đặc trưng bộ môn- nói cách khác nó chưa tận dụng được vũ khí đặc trưng lợi
hại của nó là hình tượng ngôn ngữ nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tính
cách con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa. Và dù chiến tranh đã qua đi, đất
nước đã thống nhất song các tác phẩm được chọn giảng trong hệ SGK này vẫn tập
trung chủ yếu phản ánh cuộc sống chiến đấu chống giặc ngoại xâm gian khổ, hào
hùng của dân tộc, vẫn chỉ tập trung phản ánh chủ đề yêu nước. Yêu nước trong
chiến đấu, trong lao động sản xuất, trong mọi hoàn cảnh sống. Dường như, mọi tình
cảm riêng tư, sâu kín của con người: những dằn vặt, yêu thương, giận hờn, đau khổ
đều không có “đất” tồn tại trong bộ sách giáo khoa tràn ngập không khí hào hùng
ấy. Mặt khác, bộ sách giáo khoa trước cải cách “còn bó hẹp trong khuôn khổ một
tài liệu thông tin, truyền thụ kiến thức đơn thuần; ít có tác dụng hướng dẫn tự học,
tự nghiên cứu. Việc rèn luyện tư duy, rèn luyện con người, như thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nhiều lần nhắc nhở, chưa được coi trọng đúng mức trong sách giáo khoa
văn phổ thông” [1, tr 53].Và tất nhiên, chương trình và phương pháp dạy học về tác
gia Nguyễn Đình Chiểu cũng không nằm ngoài những đặc điểm chung đó.
Bước sang thời kỳ 1990- 2000 (khoảng thời gian chứng kiến sự ra đời của bộ
sách giáo khoa Văn cải cách), tình hình chính trị- văn hoá- xã hội của nước ta đã
dần có nhiều đổi thay đáng kể. Đất nước ta vượt qua được giai đoạn khó khăn của
thời kỳ đầu thống nhất, của bước đầu quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt,
14
trong thời kỳ này, chủ trương đổi mới của đại hội Đảng VI (1986) mới thực sự đi
vào cuộc sống, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về mặt tư duy: vẫn kiên trì chủ nghĩa
Mác- Lênin nhưng không cứng nhắc, giáo điều, tự do hơn, dân chủ hơn, năng động
hơn và dám nhìn thẳng, nói thẳng trước sự thật Công cuộc đổi mới toàn diện này
cũng đã mở ra cho ngành giáo dục Việt Nam một giai đoạn phát triển mới: không
phải đào tạo ra những con người “chính trị, công dân” mà là “đào tạo thế hệ trẻ theo
hướng toàn diện: có đạo đức cách mạng, tinh thần nhân văn, có năng lực chuyên
môn, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế nhiều thành phần”[19,
tr103]. Trước tình hình đó, sách giáo khoa Văn không thể là “phiên bản của cuốn
đạo đức học, nặng về hô hào, lý thuyết” (GS. Nguyễn Đức Nam) mà “được biên
soạn với tinh thần trả lại bản chất nghệ thuật, thẩm mĩ cho môn Văn; phát huy ở
mức cao nhất sức mạnh bộ môn; chú ý cụ thể, hoàn thiện hơn lĩnh vực phương pháp
dạy học”[25, tr 11]. Bởi vậy, một trong những đặc điểm nổi bật của sách giáo khoa
thời kỳ này là đề cao tính thẩm mĩ và tính nhân văn của Văn học, phát huy sức
mạnh đặc thù của văn chương, chống lối dạy học xã hội học tầm thường hay chính
trị hoá một cách thô bạo. Đồng thời bộ sách giáo khoa này cũng bắt đầu chú ý hơn
đến Phương pháp dạy học. Chương trình và phương pháp dạy học về tác gia
Nguyễn Đình Chiểu trong bộ sách giáo khoa Văn cải cách, vì thế, đã có những ưu
điểm nổi bật hơn hẳn chương trình trong bộ SGK trước đó.
Sang những năm đầu của thế kỉ XXI này (thời điểm chứng kiến sự ra đời của
bộ sách giáo khoa Ngữ văn mới), tình hình chính trị- kinh tế- xã hội nước nhà có
biến đổi mạnh mẽ. Điểm khác biệt đầu tiên là đất nước ta đang phát triển với một
tốc độ rất mau chóng theo xu thế tích cực hội nhập quốc tế. Quá trình hội nhập ấy
đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Nó đòi hỏi con người
muốn tồn tại và phát triển thì phải có những phẩm chất mới: năng động, sáng tạo,
chủ động và có khả năng thích nghi tối đa với đời sống xã hội nhiều biến đổi. Điểm
khác biệt thứ hai là đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam về cơ bản sẽ trở thành một nước công
nghiệp. Sự nghiệp to lớn trên đã đặt ra yêu cầu về một lớp người lao động có những
phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
15
Đặc biệt phải có những giá trị mới như tư duy phê phán và khả năng sáng tạo; năng
lực tổng hợp, chuyển đổi và ứng dụng thông tin vào hoàn cảnh mới để giải quyết
các vấn đề đặt ra, để thích ứng với những thay đổi trong cuộc sống; năng lực hợp
tác và giao tiếp có hiệu quả; năng lực chuyển đổi nghề nghiệp theo yêu cầu mới của
sản xuất và thị trường lao động…Muốn có những thế hệ người thích ứng với thời
đại và xã hội mới tất yếu phải đổi thay mô hình giáo dục, đổi thay sách giáo khoa.
Nhìn lại sách giáo khoa Văn cải cách, chúng ta thấy rằng hệ sách này đã hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử của giai đoạn thống nhất hệ thống giáo dục phổ thông trên phạm vi
cả nước, góp phần quan trọng vào quá trình phổ cập và nâng cao chất lượng giáo
dục phổ thông. Tuy nhiên trước yêu cầu mới của giai đoạn công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, nó đã bộc lộ nhiều hạn chế:
“+ Bộ sách giáo khoa này được xây dựng trên một mô hình “tri thức tĩnh”, chỉ chú
trọng tới khối lượng kiến thức. Kiến thức bị nhìn nhận một cách tĩnh tại, tách rời
khỏi đối tượng tiếp nhận và con đường vận động của bản thân chủ thể tiếp nhận
kiến thức đó.
+ Bộ sách giáo khoa này là có phần bị thu gọn trong giới hạn của một lĩnh vực hẹp
của một môn học, tách rời giả tạo khỏi những quan hệ vốn có của nó như quan hệ
giữa văn và tiếng, giữa ngữ văn và làm văn, giữa ngữ văn của THPT với THCS,
giữa văn học nhà trường với cuộc sống hàng ngày đang biến đổi không ngừng, tách
rời cung cấp kiến thức và kĩ năng…
+ Nội dung tỏ ra lạc hậu với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, với
mục tiêu đào tạo con người của thế kỉ mới.Chưa quan tâm tới đặc trưng phương
pháp dạy học ở trường, lớp; làm hạn chế việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực
hoá hoạt động của học sinh.” [26, tr7]
Bởi vậy, sự ra đời của một bộ sách giáo Ngữ Văn của thế kỉ mới là một đòi
hỏi hợp quy luật. Trước đòi hỏi của tình hình lịch sử mới, bộ sách giáo khoa Ngữ
Văn trung học phổ thông được biên soạn với nhiều điểm thay đổi tích cực:
- Bộ sách giáo khoa Ngữ văn lần này được xây dựng như một chỉnh thể văn hoá
mở trong nhiều mối quan hệ.
16
- Lần đầu tiên ba bộ phận Văn học, Tiếng việt, Làm văn được tích hợp lại một
cách khoa học tránh được những vướng mắc vừa chồng chéo vừa trùng lặp trong
nhiều thập kỉ qua.
- Hệ thống tri thức văn học được xây dựng một cách khá hợp lý trên các phương
diện lịch sử và thể loại.
- Văn chương không chỉ được nhìn nhận đơn thuần từ bản chất thẩm mĩ mà còn
được xem xét trong bản chất văn hoá.
- Những tri thức văn học không chỉ là những tri thức lý thuyết thuần tuý mà luôn
gắn bó một cách tuần tự có hệ thống với Tiếng Việt và kỹ năng làm văn.
- Đổi mới tích cực phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh
Qua việc khảo sát các đặc điểm của 3 thời kì lịch sử tương đương với 3 hệ
SGK Văn học chúng tôi có thể rút ra một kết luận: tiến trình đổi mới của chương
trình và phương pháp dạy học về tác gia Nguyễn Đình Chiểu nói riêng, của sách
giáo khoa Ngữ Văn bậc THPT nói chung là cần thiết, phù hợp với đòi hỏi của thực
tiễn lịch sử.
1.2.Tiếp thu thành tựu nghiên cứu phê bình văn học để đổi mới dạy học văn
học sử ở trƣờng THPT
Nhiều thập kỉ qua, việc tiếp cận, phân tích tác phẩm văn chương luôn chịu
ảnh hưởng trực tiếp và khá mạnh mẽ của sự biến đổi các khuynh hướng, phương
pháp nghiên cứu, phê bình văn học.
Suốt một thời gian dài (1950- 1986), lí luận văn học của nước ta coi lý thuyết
phản ánh là định hướng cho con đường tiếp cận, khám phá tác phẩm văn học. Theo
lý thuyết đó, văn học, nội dung, phương pháp sáng tác, tính chân thực, thể loại…
đều được xét đến trước hết và chủ yếu như một hình thái ý thức xã hội trong quan
hệ văn học với hiện thực, phù hợp hay không phù hợp theo một hệ thống thế giới
quan nhất định. Văn học là công cụ đấu tranh xã hội, do đó nội dung thế giới quan
(tính khuynh hướng, giai cấp) được quan niệm là quan trọng hơn là cá tính của nhà
văn.Văn học được coi là “tấm gương phản ánh hiện thực” nên giá trị phản ánh được
đặt cao hơn giá trị biểu hiện. Chức năng nhận thức, giáo dục của văn học được đề
17
cao nên tiêu chuẩn nội dung tư tưởng chính trị được coi trọng hơn tính nghệ thuật.
Phương pháp nghiên cứu, phê bình này đã làm cho việc đánh giá các hiện tượng, tác
phẩm văn học trở nên đơn giản, võ đoán, không thấy hết được giá trị của các tìm
kiếm nghệ thuật, hạ thấp vai trò chủ quan của nghệ sĩ và lúng túng trước những hiện
tượng văn học phức tạp. Vì thế nên có một thời, các tác phẩm văn học lãng mạn
1930- 1945 bị đưa ra khỏi chương trình văn phổ thông vì nó chỉ có lợi cho thực dân,
nó ru ngủ, làm mềm yếu thanh niên, làm cho họ xa rời thực tế đấu tranh dân tộc,
tiếp thu chậm ánh sáng của Đảng. Cũng vì thế mà rất nhiều giá trị thơ văn trung đại
bị đánh giá thiên lệch. Giá trị thơ văn của Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn
Khuyến đều được nhìn nhận từ góc độ chính trị: chống thực dân, phong kiến. Với
“Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã nói dùm nỗi niềm cho tất cả những người bị ngạt thở
trong cái khuôn phong kiến. Với các bài thơ yêu nước, Nguyễn Đình Chiểu trở
thành chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn nghệ chống thực dân Pháp xâm
lược.Còn các bài thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến thì lại được coi là vũ khí lợi
hại đánh vào xã hội thực dân nửa phong kiến. Tình cảm yêu nước hay nhân đạo của
các nhà thơ ấy cũng được mặc định dựa trên tiêu chuẩn chính trị trên: lòng nhân đạo
của Nguyễn Du được quy vào khái niệm nhân dân tính, lòng yêu nước của Nguyễn
Đình Chiểu được soi chiếu từ quan điểm yêu nước của giai cấp vô sản, tình cảm gắn
bó thắm thiết của Nguyễn Khuyến với người dân nông thôn được xem xét từ tình
cảm giai cấp, quan niệm giai cấp (?) … Vô hình chung, cách tiếp cận này cũng đã
khiến các giờ học văn trong nhà trường phổ thông trong một thời gian dài trở thành
giờ dạy đạo đức, giáo dục công dân. Và trong dạy học văn học ở nhà trường phổ
thông, phương diện nội dung tư tưởng luôn lấn át phương diện nghệ thuật. Bởi vậy,
dạy học Văn thường chịuảnh hưởng chủ yếu của khuynh hướng tiếp cận “phi văn
bản”, “ngoài văn bản”, “trên văn bản” mang nặng tính áp đặt.
Từ năm 1986 đến nay, lí luận, phê bình, nghiên cứu văn học có những đột
phá quan trọng. Trên cơ sở của lý thuyết cấu trúc, kí hiệu, phân tâm học, giải thích
học…lí luận văn học đã nêu vấn đề đặc trưng văn học trong cấu tạo của nó (thi pháp
học); tiếp nhận văn học, vai trò của người đọc đối với văn học (lý thuyết tiếp
nhận)…. Cụ thể là: đặc trưng văn học được xem như một cấu trúc mang nghĩa, một
18
ngôn ngữ trên cơ sở lý thuyết hệ thống, kí hiệu. Điều này không phủ nhận quan hệ
phản ánh giữa ý thức và hiện thực, nhưng nó phủ nhận ảo tưởng về một sự phản ánh
kiểu tấm gương. Do đó tính giống thật không phải là bắt buộc. Văn học trước hết là
biểu hiện và tưởng tượng sáng tạo, tính xã hội và tính chất phản ánh nằm trong hoạt
động sáng tạo của nhà văn. Nội dung văn học không đóng khung trong quan điểm
chính trị mà thể hiện trong toàn bộ kinh nghiệm sống, bao gồm mọi mặt văn hoá, xã
hội, tâm linh, vô thức, lí tính, phi lí tính. Văn học vẫn là một hình thái ý thức xã hội
nhưng nó vẫn có một nguồn năng lượng bất kham có thể làm rạn nứt hệ thống hình
thái ý thức đã có và góp phần kiến tạo hệ ý thức mới. Văn học luôn được xem xét
trong mối quan hệ với quy luật tiếp nhận của người đọc. Rõ ràng, những cách tiếp
cận mới hơn, toàn diện hơn đã góp phần khắc phục những ngộ nhận ngây thơ có
tính trực quan về nội dung, đặc trưng văn học của thời kì trước. Sự thay đổi của lĩnh
vực lý luận phê bình văn học đã đưa đến sự thay đổi của việc tiếp cận, phân tích tác
phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông. Việc tiếp cận, tác phẩm văn chương
trong nhà trường phổ thông hiện nay đang vận động theo hướng: vận dụng đồng bộ,
hài hoà các phương pháp lịch sử phát sinh, cấu trúc văn bản và lịch sử chức năng.
1.3. Những đổi mới về lý luận dạy học và phƣơng pháp dạy học ngữ văn ở
THPT
1.3. 1. Tâm lý học hoạt động, một định lý cơ bản trong dạy học Ngữ văn
Phát triển quan điểm của C.Mác: Cái tinh thần chẳng qua là cái vật chất được
chuyển vào trong đầu mỗi người và được cải biến trong đó, tâm lý học khoa học đã
phát hiện ra phạm trù hoạt động. Đây là thành tựu nổi bật của tâm lý học thế kỉ XX
và vẫn giữ nguyên giá trị trong những năm đầu của thế kỉ XXI này.
Áp dụng tâm lý học hoạt động vào dạy- học, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra
rằng: theo lý thuyết hoạt động, cuộc đời con người là một dòng hoạt động, trong đó
có hoạt động dạy và học. Và “cái cốt lõi trong hoạt động dạy là làm sao tạo ra được
tính tích cực trong hoạt động học của học sinh, làm cho các em vừa ý thức được đối
tượng cần lĩnh hội, vừa biết cách chiếm lĩnh cái lĩnh hội đó” [18, tr 29] Còn bản
chất của hoạt động học là: “Cái đích của hoạt động học hướng tới là chiếm lĩnh tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo của xã hội thông qua sự tái tạo của cá nhân(…). Muốn học có
19
kết quả thì người học phải tích cực tiến hành các hoạt động học tập bằng chính ý
thức tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân mình” [18, tr 121].
Trước những đổi thay của tâm lý học và thành tựu của tâm lý học hoạt động,
việc dạy – học ngữ văn trong nhà trường cũng phải có những đổi thay phù hợp. Mục
tiêu của dạy học ngữ văn ngày nay không chỉ nhằm mục đích truyền thụ một khối
lượng kiến thức, rèn luyện một số kĩ năng, giáo dục một số phẩm chất bằng con
đường áp đặt từ thày và học sinh chỉ là một con người thụ động. Dạy học ngữ văn
bây giờ nhằm mục tiêu cao nhất là giúp học sinh có thể chủ động tự học dưới sự
giúp đỡ của thầy.Trong giờ học, học sinh hoạt động, thực sự hoạt động bên trong,
chứ không hoạt động bên ngoài, hoạt động hình thức (lối học được đánh giá bằng
tần số xuất hiện của học sinh hay số lượng câu hỏi do thày nêu ra). Và đổi mới
phương pháp phải được bắt đầu bằng việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa
1.3.2. Lý luận dạy học và những khả năng lựa chọn phương pháp dạy họcphù
hợp với bài học Ngữ văn
Lý luận dạy học trong thời gian qua đã có nhiều bước đột phá tích cực.Với
sự phát triển và thành tựu của các khoa học cơ sở và khoa học liên ngành, nhiều lý
thuyết dạy học mới ra đời làm thay đổi cách hiểu về hiện tượng dạy học. Có thể kể
ra một vài lý thuyết dạy học mới như : lý thuyết tình huống và quan điểm về tam
giác dạy học của J. Vial,lý thuyết sư phạm tương tác của Jean - Marc Denommé và
Madeleine Roy,lý thuyết kiến tạo
Lý thuyết tình huống coi hoạt động học của người học một phần nào đó
giống như hoạt động của nhà nghiên cứu (chủ thể tích cực). Đồng thời nó cũng nhấn
mạnh vai trò của giáo viên trong quá trình giúp học sinh thực hiện hoạt động học
tập, đó là gắn việc lĩnh hội tri thức, phương pháp, giá trị của học sinh với một tình
huống cụ thể; đó là tổ chức việc học tập gắn với hoạt động và bằng hoạt động.
Lý thuyết kiến tạo ra đời làm thay đổi quan niệm về hoạt động học và hoạt
động dạy: chú trọng hơn đến đặc điểm tâm lý, tính chủ thể của người học và chú
trọng sử dụng những phương pháp dạy học có khả năng phát huy cao tính tích cực,
chủ động học tập của học sinh trong những môi trường học tập cụ thể, trong từng
hoàn cảnh cụ thể.
20
Lý thuyết sư phạm tương tác thì đặc biệt coi trọng sự tương tác hai chiều
giữa nhân tố người dạy - người học - môi trường dạy học. Trong sự tương tác đó,
quan hệ giữa người dạy và người học là bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ. Người học chủ
động huy động mọi năng lực cá nhân để tìm cách học và lĩnh hội tri thức, tự tìm
kiếm kiến thức cho chính mình. Người dạy phải tạo những hoạt động, tạo ra điều
kiện giúp người học được nói lên, được chia sẻ với người dạy và với bạn học.
Các lý thuyết trên tuy có những điểm khác nhau trong việc tiếp cận hoạt
động dạy- học nhưng đều có điểm chung : tôn trọng mối quan hệ tương tác, bình
đẳng giữa người dạy và người học, đề cao và coi trọng tính chủ thể, tích cực, chủ
động của người học
Dựa trên kết quả của những lý thuyết dạy học hiện đại đó, lý luận dạy học đã
nhìn nhận lại bản chất của quá trình dạy học: đó không phải là sự tác động một
chiều, thụ động từ hoạt động dạy tới hoạt động học mà là sự tương tác giữa hoạt
động dạy và hoạt động học để tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học,
giữa truyền đạt và điều khiển trong dạy với giữa lĩnh hội và tự điều chỉnh trong học.
Lý thuyết sư phạm tương tác một mặt giải phóng người học khỏi sự gò bó nhưng
đồng thời đặt người dạy vào những thách thức không nhỏ: làm sao vừa bảo đảm
được nội dung dạy học, vừa khiến người học tự điều khiển tự lĩnh hội kiến thức mà
mình không mất đi vai trò truyền đạt, điều kiển.
Dạy
Truyền đạt
Điều khiển
Học
Lĩnh hội
Tự điều khiển
Cộng
tác
Nội dung dạy học
21
Như vậy, xuất phát từ bản chất của quá trình dạy học, giáo viên được coi là
người giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ tiến trình dạy và học, là người tổ chức và điều
khiển các hoạt động trí tuệ và hướng dẫn thực hành của học sinh trên lớp, còn học sinh
“là chủ thể của hoạt động học tập, chủ thể có ý thức, chủ động, tích cực và sáng tạo
trong nhận thức và rèn luyện nhân cách”.
Theo định hướng này thì các phương pháp tích cực phải chú ý nhiều hơn tới
việc cung cấp cách thức tìm ra chân lý chứ không phải truyền thụ chân lý. Cũng
như vậy, trong việc dạy học tác phẩm văn chương, vấn đề quan trọng không phải là
thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm mà còn phải làm cách nào để thấy được cái
hay, cái đẹp đó. Đây chính là sứ mệnh nặng nề, cao quý của nhà trường. Đây cũng
chính là một trong những điểm hạn chế nhất của phương pháp dạy học truyền
thống. Định hướng phát triển của phương pháp dạy học Văn là làm sao trong mỗi
giờ Văn, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được tiếp xúc trực tiếp với thế
giới hình tượng của tác phẩm, thế giới nghệ thuật của nhà văn, sau đó là sự cọ xát,
tranh luận với thày giáo, bạn bè… nhưng cuối cùng phải tự mình chiêm nghiệm,
phát hiện ra vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo của tác phẩm theo cảm nhận của chính mình.
Trong văn chương, sáng tạo cũng như tiếp nhận, vai trò chủ thể là cực kì quan
trọng. Văn chương không lay động, thức tỉnh từng con người thì hiệu quả không
bao giờ có được. “Một thời gian dài chúng ta tin rằng dạy tưc là nói cho học sinh
nội dung nào đó và họ sẽ ghi nhớ điều ta nói. Sự thật thì phức tạp hơn nhiều. Người
học không chỉ ghi nhớ những gì giáo viên nói mà họ còn tạo nên “ngôn ngữ riêng”
của mình về những gì được học. Điều đó cho thấy người học luôn chủ động tìm
cách đem lại ý nghĩa riêng về kiến thức được học cho thế giới của họ. Tính hiệu quả
của dạy học Ngữ văn không phải dựa vào điều giáo viên nói mà quan trọng hơn là
dựa vào cách họ nói tác động đến việc học của các em trong môi trường giao tiếp
với thầy, với bạn và với bài học.” [12, tr 15]
Những năm qua, khi bắt tay vào cải cách môn văn ở các cấp học, chúng ta
bước đầu tạo được một chuyển biến đáng kể về tư tưởng dạy học văn mới. Tuy
nhiên những cố gắng ban đầu đó khi đến bậc trung học phổ thông thì bị đứt đoạn,
chưa có sự đồng bộ ngay từ đầu giữa nội dung và phương pháp. [22, tr 20]. Sự thay
22
đổi về nội dung, biểu hiện là sự ra đời của bộ sách giáo khoa mới, dù tốt đến bao
nhiêu cũng có thể sẽ là khập khiễng nếu sử dụng những lối giảng dạy cũ kĩ theo
hướng áp đặt. Do vậy, nghiên cứu sự phát triển song hành giữa nội dung và phương
pháp trong một bộ sách giáo khoa trở nên hết sức cần thiết.
1.4. Những thành tựu nghiên cứu về phƣơng pháp dạy học tác gia văn học và
tác gia Nguyễn Đình Chiểu
1.4.1. Quan niệm về Tác gia văn học
Hiện nay việc xác định một khái niệm về một tác gia văn học còn khá mơ hồ.
Nhà xuất bản Giáo dục đã xuất bản hẳn một bộ sách “Về tác gia và tác phẩm”, trong
đó có rất nhiều tác giả, từ Nguyễn Du, Nguyễn Trãi đến Tố Hữu, Nguyễn Tuân…
Tổng cộng có hơn 40 tác giả văn học lớn trong văn học Việt Nam từ trung đại đến
hiện đại được tuyển vào bộ sách đồ sộ này. Nhưng rõ ràng việc khuôn hơn 40 tác
giả vào bộ sách còn gây nhiều ý kiến tranh luận, vì văn học Việt Nam không thể có
nhiều tác giả lớn hay “tác gia” như vậy được.
Muốn trở thành tác gia văn học, nhà văn phải dành được vị trí và vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển nền văn học dân tộc. Thành tựu của một tác gia văn
học không phải chỉ là số lượng sáng tác và sự phong phú về thể loại mà còn là chất
lượng tác phẩm, trong đó có những tác phẩm góp phần khẳng định một khuynh
hướng, trào lưu, định mốc cho sự hình thành và phát triển của nền văn học.[21,
tr261]
Xác định đóng góp của một tác giả trong một giai đoạn văn học, trong một
nền văn học sẽ xác định tác giả ấy có được coi là một “tác gia” hay không. Trước
tiên, phải căn cứ vào giá trị tư tưởng và nghệ thuật của chính tác giả ấy.Là thành
viên của một thời đại, một dân tộc, tác giả văn học không thể vượt qua tầm cao nhất
về tư tưởng mà thời đại và dân tộc đó có thể đạt đến. Nhưng là một thành viên đầy
tự giác, đầy tính sáng tạo, trong nhiều luồng tư tưởng trong một thời đại, nhà văn
cần hướng đến tư tưởng tiến bộ nhất, phù hợp với đà phát triển của lịch sử. Chẳng
những phải ý thức được điều đó, mà bằng tác phẩm của mình, nhà văn phải đấu
tranh cho những tư tưởng tiến bộ thắng lợi. Những tác giả lớn (tác gia) là những
người ý thức được những quyền lợi, những ước mơ xa nhất, chính đáng nhất của
23
nhân dân, với tác phẩm của mình, họ làm cho nhân dân thấu hiểu được điều đó. Tác
gia văn học bao giờ cũng là một nhà tư tưởng, một nhà văn hóa.Hoạt động xã hội và
nhân cách đạo đức của họ cũng ảnh hưởng đến đông đảo quần chúng nhân dân.Mỗi
tác gia lớn là kết tinh tất yếu quá trình phát triển của một chặng đường văn học.Các
tác giả văn học lớn là những nhà tư tưởng, là người báo hiệu, người mở đường cho
một thời đại.“Lịch sử văn học từng nước đã lắng kết dần và lựa chọn được những
tác phẩm, tác gia lớn có sức sống bền vững với thời gian”[21- tr 261]. Nhắc đến văn
học Nga người ta nhắc đến Lep Tonxoi, Puskin, Dot , văn học Pháp tự hào với
Banrac, V.Hugo
Bên cạnh đó, một tác gia lớn cần phải được nhìn nhận ở những đóng góp về
mặt ngôn ngữ, nghệ thuật, bởi họ chính là người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật
ngôn từ. Ta cũng cần nhận thấy không phải nhà văn nào được xem là tác gia văn
học mà lại chỉ có một vài tác phẩm không mấy giá trị, bởi đã nói đến tác gia là nói
đến một sự nghiệp văn học đã ổn định, một cuộc đời nghệ sĩ với nhân cách cao đẹp,
một phong cách riêng có bản sắc độc đáo. Để có những cái riêng ấy, các tác gia đã
lao động nghệ thật hết sức nghiêm túc, trên hết họ luôn xác định một tư tưởng nghệ
thuật rõ ràng, một quan điểm sống tiến bộ tích cực. Điều quyết định nhất trong văn
học chính là cái tâm của nhà văn với tấm lòng nhân ái, yêu thương con người, đặc
biệt là những con người trên đất nước mình, tổ quốc mình. Chất liệu tạo nên những
tác phẩm của họ phải là chất liệu của cuộc sống, của thời đại họ đang sống, từ đó
với trí tượng tượng phong phú của mình, họ tạo nên hiện thực nghệ thuật thật hơn
cuộc sống. Một tác gia lớn phải là tấm gương phản chiếu thời đại mình, dân tộc
mình. Nói như nhà thơ Chế Lan Viên:
Tâm hồn tôi khi tổ quốc soi vào
Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ.
Đánh giá về tác giả văn học, cần xem tác giả ấy đã kế thừa những gì trong
truyền thống văn học quá khứ, của những người đi trước. Đồng thời phải xem họ đã
đem lại một cái gì mới: một mảng hiện thực, một cách nhìn cuộc sống, một giọng
văn, những đổi mới về thể loại. Phải xem ảnh hưởng của họ đối với các nhà văn
đương thời, thậm chí, giá trị của họ có khi còn vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Ta
24
cũng cần quan tâm đến quan điểm lịch sử, tác giả vĩ đại nhất cũng không vượt qua
được những hạn chế của thời đại mình. Nếu hạn chế của tác giả trùng khít với hạn
chế của thời đại, ta không thể đòi hỏi gì hơn. Lịch sử sẽ gánh chịu hết thiếu sót của
ông.Nói cách khác, một tác gia lớn luôn được nghiên cứu như một hiện tượng tiếp
nối giữa giai đoạn văn học trước và giai đoạn văn học sau.“Tác gia văn học là một
gạch nối lịch sử văn học, là nơi người ta có thể thấy được sự liên tục và gián đoạn,
sự phát triển và đột biến, những nét định hình tiêu biểu của phương pháp sáng tác
cũ và những nét manh nha của phương pháp sáng tác mới, giữa truyền thống và
hiện đại”. [21, tr 263]
Đánh giá về một tác gia văn học bao giờ cũng phải căn cứ vào tác phẩm của
họ.Không có tác phẩm lớn sao có thể gọi là tác giả lớn?Tác phẩm đó phải chứa
đựng những giá trị nội dung và nghệ thuật nổi bật của một giai đoạn lịch sử và có ý
nghĩa lâu dài về nghệ thuật xây dựng con người và cuộc sống. Đây là tiêu chuẩn
đảm bảo sự hiện diện lâu dài của tác giả trong lịch sử văn học, bởi những tác phẩm
đó như những mốc son chói lọi mà họ đã tạo ra trong dòng chảy liên tục của văn
học dân tộc. Lep Tonxoi với “Chiến tranh và hòa bình”, Hugo với “Những người
khốn khổ”, Hêminwe với “Ông già và biển cả”, Nguyễn Du với “Truyện Kiều”, là
những minh chứng rõ ràng nhất.
Tóm lại, khi đánh giá về một tác giả văn học có phải là một tác gia văn học
lớn hay không, ta phải căn cứ vào những yếu tố:
- Giá trị tư tưởng và nghệ thuật.
- Kế thừa và biểu hiện phong phú, đa dạng truyền thống văn học quá khứ, của
những người đi trước.
- Sáng tạo và đi trước thời đại.
- Có những tác phẩm lớn, vĩ đại.
- Tầm ảnh hưởng của nhân cách, con người của nhà văn đối với thời đại.
Việc xác lập một khái niệm sơ lược về tác gia văn học như trên có một ý
nghĩa lớn đối với việc giảng dạy tác gia văn học trong nhà trường phổ thông.Trước
tiên bởi tính chính xác khoa học không cho phép đưa vào nhà trường những tác gia
còn nhiều điều chưa rõ ràng, còn thiếu những tiêu chí để được giảng dạy như những
25
tác gia văn học lớn của dân tộc. Hơn nữa, vì khuôn khổ của chương trình văn học, ta
vẫn chứng kiến Ngô Thì Nhậm, Hồ Xuân Hương, Tản Đà vắng mặt trong số
những tác gia được chọn. Làm rõ được những vấn đè trên, giáo viên và học sinh sẽ
nhận thức được tầm quan trọng và cái hay cái khó của bài dạy tác gia văn học trong
trường THPT, từ đó tìm ra những cách thức dạy và học bài học tác gia sao cho phù
hợp với vị trí, đặc biểm của nó để nâng cao hiệu quả giáo dục.
1.4.2. Tác gia Nguyễn Đình Chiểu
Trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn mới nhất, phần dạy về
tác gia được đặt trong phần Lịch sử văn học và có bài học về 6 tác gia lớn, mỗi tác
gia được phân phối 01 tiết học. Các tác gia văn học ấy gồm: Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Hồ Chí Minh, Nguyễn Đình Chiểu, Tố Hữu, Nam Cao. Như vậy, các nhà biên
soạn sách giáo khoa đã đặt Nguyễn Đình Chiểu là một trong số những tác giả lớn,
có đóng góp và giá trị đặc biệt trong dòng chảy của văn học dân tộc.
Trước tiên, chúng ta dễ dàng nhận thấy những giá trị nội dung và nghệ thuật
của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu sống mãi trong lòng dân tộc. Sinh ra trong hoàn
cảnh nước mất nhà tan, triều đình phong kiến thối nát suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu
đã ghi lại cả một thời kì “khổ nhục nhưng vĩ đại” của dân tộc. Với quan niệm văn
chương lành mạnh và tiến bộ, ông coi ngòi bút như một thứ vũ khí chiến đấu chống
lại kẻ thù xâm lược và giữ vững đạo lý dân tộc. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn
Đình Chiểu có thể chia làm hai giai đoạn chính, căn cứ vào thời điểm Pháp xâm
lược nước ta. Trước thời điểm đó, ông đề cao tư tưởng nhân nghĩa, giữ vững đạo lý
Nho giáo. Sau đó, có thể khẳng định rằng, dù chưa vượt ra khỏi giới hạn của tư
tưởng Trung quân ái quốc, nhưng có thể khẳng định Nguyễn Đình Chiểu chính là
tiếng nói cho khát vọng dân tộc, là đại diện cho nhân dân trong thời đại mình: Đấu
tranh đòi quyền độc lập của Dân tộc. Trong thời đại của ông, không một tác giả văn
học nào có thể làm được điều đó. Trong một số bộ sách giáo khoa trước đó, có một
tác giả văn học cùng thời đại (Thế kỉ XIX) với Nguyễn Đình Chiểu cũng đã được
giảng dạy như một tác gia văn học lớn, đó là Nguyễn Khuyến. Nhưng đến bộ sách
giáo khoa mới này thì bài học về tác gia Nguyễn Khuyến đã được giảm tải, nhưng
bài học về Nguyễn Đình Chiểu vẫn được giữ nguyên. Không thể phủ nhận vai trò
26
và những đóng gióp của Tam nguyên Yên Đổ, đặc biệt là trong mảng thơ làng cảnh
và thơ trào phúng, nhưng Nguyễn Khuyến dường như chưa ghi lại được tiếng nói
của dân tộc, tiếng thơ của ông đã phản ánh được hết những suy nghĩ, ước mơ của
nhân dân. Trong một tác phẩm nghị luận xuất sắc “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao
sáng trong văn nghệ của dân tộc” – được đưa vào giảng dạy ở sách giáo khoa ngữ
văn lớp 12, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có những kiến giải sâu sắc, có lí có
tình về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu. Trong đó cố thủ tướng nhấn
mạnh rằng thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã tiếp nối mạch nguồn
truyền thống yêu nước ngàn đời của dân tộc. “Bài ca của Nguyễn Đình Chiểu làm
chúng ta nhớ bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Hai bài văn: hai cảnh ngộ, hai
thời buổi, nhưng một dân tộc… Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những
người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang…”. Để rồi Phạm Văn Đồng kết luận
“Nguyễn Đình Chiểu là một chí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta. Đời sống
và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác
dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn
hóa và tư tưởng.”.
Về cơ bản, không thể không nhận ra Nguyễn Đình Chiểu vẫn nặng lòng với
Nho học, sáng tác của ông từ “Lục Vân Tiên” cho đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
vẫn được soi rõ dưới lăng kính của Nho giáo. Nhưng thái độ của ông đối với nhân
dân thì có thể nói đã đi xa hơn nhiều so với những tác giả Nho gia truyền thống.
Nếu trào lưu nhân đạo chủ nghĩa thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX mà đỉnh cao là
Nguyễn Du đã vượt qua và có nhiều điểm xung khắc với Nho giáo, mặt khác, họ tập
trung sự chú ý vào số phận của những con người ưu tú, của những cá nhân xuất
chúng. Nguyễn Đình Chiểu không tiếp tục các đề tài “hồng nhan bạc mệnh”, “tài tử
đa cùng” mà ông chú ý vào những con người bình thường. Ở Nguyễn Đình Chiểu,
ông bình thản coi những người nông dân mặc nhiên xứng đáng với những lời ca
ngợi đẹp đẽ nhất.Ông trở thành người mở đầu cho trào lưu văn học chống ngoại
xâm, giành độc lập dân tộc nhân danh toàn bộ dân tộc chứ không phải một bộ phận,
một thiểu số nào đó. Trong “Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn chung”,
PGS Trần Ngọc Vương còn khẳng định, đóng góp của thơ văn yêu nước Nguyễn