Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tếtt.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.05 KB, 27 trang )




1
MỤC LỤC
Danh mục viết tắt 3
Danh mục bảng biểu 5
Lời mở đầu………………………………………………………………… 6
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về cạnh
tranh quốc gia 9
1.1 Khái niệm cạnh tranh và các yếu tố quyết định năng lực cạnh
tranh quốc gia 9
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh 9
1.1.2 Phân loại 10
1.1.3 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia 13
1.2 Kinh nghiệm quốc tế 15
1.2.1 Kinh nghiệm mở cửa, hội nhập và nâng cao sức cạnh tranh của một số
nước trong khu vực 15
1.2.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 19
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và
những vấn đề đặt ra 24
2.1 Tổng quan về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam 24
2.2 Năng lực cạnh tranh của Việt Nam dựa vào các tiêu chí đánh giá
của WEF 29
2.2.1 Về thể chế Nhà nước và vai trò điều hành của Chính phủ 29
2.2.2 Về Tài chính - Ngân hàng 37
2.2.3 Về mức độ mở cửa và hội nhập 46



2


2.2.4 Về Hạ tầng 60
2.2.5 Về Công nghệ 69
2.2.6 Về Lao động 76
2.2.7 Về Doanh nghiệp 82
2.3 Những mặt hạn chế về năng lực cạnh tranh của Việt Nam 91
Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế của Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 100
3.1 Định hướng quan điểm 100
3.2 Nhóm giải pháp của doanh nghiệp 101
3.2.1 Chiến lược Sản phẩm 102
3.2.2 Chiến lược Marketing 103
3.2.3 Chiến lược đổi mới Công nghệ 103
3.2.4 Chiến lược phát triển nguồn Nhân lực 104
3.2.5 Chiến lược Liên kết 104
3.3 Nhóm giải pháp của nhà nước 105
3.3.1 Về môi trường thể chế 105
3.3.2 Về môi trường đầu tư 107
3.3.3 Về môi trường kinh doanh 110
Kết luận 114
Tài liệu tham khảo 115


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Từ trước đến nay, cạnh tranh là một yếu tố không thể thiếu giữa các
doanh nghiệp cũng như giữa các quốc gia trong nền kinh tế thị trường bởi
cạnh tranh là nguồn gốc thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh tế.
Nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao sẽ đạt được tốc độ
tăng trưởng cao, tạo việc làm và thu nhập, trình độ khoa học công nghệ

được nâng cao, đời sống người dân được cải thiện. Ngược lại, nền kinh tế
chậm hoặc không nâng cao được năng lực cạnh tranh sẽ dẫn đến ít thu hút
được đầu tư trong nước và nước ngoài, mất thị phần của thị trường trong
nước và thế giới. Các doanh nghiệp không cạnh tranh được sẽ phải chuyển
hướng sản xuất, thậm chí có thể phải giải thể, phá sản dẫn đến lao động
mất việc làm, gây khó khăn về kinh tế, xã hội.
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) trong báo cáo
Năng lực cạnh tranh toàn cầu hàng năm thì Việt Nam hiện đang nằm trong
nhóm có khả năng cạnh tranh thấp. Cụ thể: Năm 2003 Việt Nam xếp hạng
60 trong 102 nước; Năm 2004 xếp hạng 77 trong 104 nước; Năm 2005 xếp
hạng 81 trong 117 nước. Với năng lực như vậy, khi tham gia vào quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta sẽ dễ dàng bị tổn thương và thua thiệt. Để
tránh nguy cơ trên và khỏi bị gạt ra ngoài quỹ đạo phát triển chung, Việt
Nam cần phải nỗ lực, chủ động hội nhập vào xu thế chung đồng thời phải
nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của mình.
Với yêu cầu trên, việc chỉ rõ các hạn chế và những yếu kém về năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam so với các nền kinh tế khác từ đó
đề ra các chính sách nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh quốc gia của


2
Việt Nam trong quá trình hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế quốc
tế đang là vấn đề được các cơ quan, các bộ, ban ngành, các doanh nghiệp
và toàn xã hội quan tâm.
Do sự cần thiết của vấn đề như vậy nên em lựa chọn nghiên cứu đề
tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu:
Cạnh tranh kinh tế là vấn đề hấp dẫn, đã có nhiều tác giả tìm hiểu,

nghiên cứu. Ở Việt Nam cũng đã có nhiều hội thảo, dự án nghiên cứu về
năng lực cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp, nghiên cứu những rào cản,
những mặt hạn chế về năng lực cạnh tranh của Việt Nam nhưng chưa
nghiên cứu một cách có hệ thống năng lực cạnh tranh của Việt Nam và
việc đưa ra các giải pháp cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia trong quá trình hội nhập và chuẩn bị gia nhập WTO.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Chỉ ra những mặt lợi thế và hạn chế, yếu kém về năng lực cạnh tranh
của Việt Nam trong quá trình hội nhập.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Nghiên cứu những vấn đề về năng lực canh tranh quốc
gia của Việt Nam. Những vấn đề lý luận, những chính sách và giải pháp
liên quan đến cạnh tranh kinh tế.


3
- Phạm vi: Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ
năm 1995 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong luận văn này, phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu về năng lực
cạnh tranh của Việt Nam là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, dựa trên 8 tiêu chuẩn của WEF
để tổng hợp, thống kê, phân tích và so sánh từ đó rút ra những giải pháp tối
ưu.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
- Làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như tham gia AFTA và khi

Việt Nam gia nhập WTO.
7. Bố cục của luận văn:
Bố cục của luận văn ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục viết
tắt, danh mục bảng biểu và tài liệu tham khảo, phần nội dung bao gồm có 3
chương:
 Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế
về năng lực cạnh tranh quốc gia
 Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh kinh tế của Việt
Nam và những vấn đề đặt ra
 Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế
của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế


4
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
Một số vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về Năng
lực cạnh tranh quốc gia
1.1. Khái niệm cạnh tranh và các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia:
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh:
Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua
giữa các quốc gia, các doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất
hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Cạnh
tranh có thể đưa lại lợi ích cho tổ chức này và thiệt hại cho tổ chức khác,
song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích
cực (Ví dụ: chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn )
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và là động lực phát
triển của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, khả năng
cạnh tranh là điều kiện cho sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Kết quả

cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, vì thế từng
doanh nghiệp đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược cạnh tranh phù
hợp để vươn lên tới vị thế cao nhất.
Cạnh tranh kinh tế quốc tế: Là cạnh tranh giữa chủ thể kinh tế trên
thị trường thế giới, là cạnh tranh kinh tế đã vượt khỏi phạm vi quốc gia. Sở
dĩ như vậy là do sự tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, phân
công lao động quốc tế đã phát triển sâu, rộng, sự phát triển lực lượng sản


5
xuất xã hội có tính chất quốc tế và do quá trình mở rộng thị trường trên
quy mô toàn thế giới.
Năng lực cạnh tranh quốc gia: Là năng lực của một nền kinh tế đạt
được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế,
xã hội, nâng cao đời sống của người dân.
1.1.2. Phân loại:
Theo lý thuyết cổ điển gồm có lý luận cạnh tranh của Adam Smith,
quan điểm cạnh tranh của John Stuart Mill, quan điểm cạnh tranh của Các
Mác; Theo lý thuyết hiện đại có lý thuyết cạnh tranh của Michael Porter.
Ngoài ra trong điều kiện hiện tại, cùng với xu hướng toàn cầu hoá diễn ra
mạnh mẽ thì quan điểm về cạnh tranh cũng có những thay đổi nhất định.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia:
Trên cơ sở các khái niệm đã đề cập về cạnh tranh, cạnh tranh kinh tế
quốc tế và qua nghiên cứu các lý thuyết cạnh tranh cổ điển và hiện đại,
luận văn sử dụng phương pháp đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới
(WEF) đưa ra 8 tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia bao gồm:
Thể chế kinh tế - chính trị; Vai trò của chính phủ; Năng lực tài chính - tiền
tệ; Mức độ mở cửa nền kinh tế, bao gồm mở cửa thương mại và đầu tư;
Kết cấu hạ tầng; Trình độ công nghệ; Lực lượng lao động; Trình độ quản
lý doanh nghiệp.

WEF là một tổ chức phi chính phủ rất có uy tín về tính khách quan
và độ xác thực - phối hợp với Đại học Harvard - chuyên nghiên cứu và xếp
hạng năng lực cạnh tranh của các quốc gia toàn cầu dựa trên một phương
pháp luận đã được áp dụng và luôn được hoàn thiện từ 1979 đến nay, kết
hợp tính toán các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô được tham khảo và tính toán từ


6
kho dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và
các tổ chức, hiệp hội quốc tế khác. Phần quan trọng còn lại là kết quả
phỏng vấn, khảo sát ý kiến của hàng nghìn công ty lớn trên thế giới, các
doanh nghiệp có qui mô toàn cầu về những tiêu chí khó định lượng hoá
bằng mô hình toán học.
Cách tiếp cận của WEF thường được các nhà hoạch định chính sách
quan tâm vì nó mang tính khái quát, tổng thể khá cao và tương đối rõ ràng,
dễ hiểu. Hơn nữa, cách tiếp cận này cũng thể hiện được sự gắn kết môi
trường kinh tế chung với các hoạt động kinh doanh và đây là điều quan
trọng xét từ góc độ các nhà kinh doanh. Đặc biệt, quan điểm nhìn nhận
tổng thể tính cạnh tranh cấp độ quốc gia của WEF có được sự “đồng
thuận” quốc tế khá cao.
1.2. Kinh nghiệm quốc tế trong việc phát hiện và tận dụng các lợi thế cạnh
tranh quốc gia:
Trong nội dung chương 1 còn đề cập đến kinh nghiệm quốc tế trong
việc phát hiện và tận dụng các lợi thế cạnh tranh quốc gia; kinh nghiệm về
chính sách mở cửa, hội nhập và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
Nhật Bản và Trung Quốc; Những bài học về chính sách cạnh tranh cho
Việt Nam.




7
Chương 2:
Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
và những vấn đề đặt ra
2.1 Tổng quan về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thể hiện cụ thể ở khả năng cạnh
tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của
hàng hoá và dịch vụ phụ thuộc vào sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp tạo ra hàng hoá đó. Đến lượt mình, hoạt động của doanh
nghiệp lại phụ thuộc vào luật lệ, thể chế và điều hành của Chính phủ, vào
môi trường kinh tế vĩ mô, tức là phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh quốc
gia. Mục tiêu cuối cùng là phải tạo ra nhiều hàng hoá và dịch vụ có khả
năng cạnh tranh cao, tuy nhiên những giải pháp quan trọng cần tháo gỡ là
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Xét về các chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia, theo đánh giá của
WEF bắt đầu xếp hạng kinh tế Việt Nam từ năm 1997 và liên tục xếp hạng
cho đến nay, một số nền kinh tế khác không đủ dữ liệu nên không thể xếp
hạng được mặc dù WEF có nguyện vọng xếp hạng tất cả các nền kinh tế
trên hành tinh này nhằm đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Mặc dù sau
những năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế nước ta đã có nhiều tiến bộ,
nhưng so với các nước, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam còn
thấp kém và chậm được cải thiện.
Những thay đổi thứ hạng của Việt Nam trong báo cáo năng lực cạnh
toàn cầu năm 2005 của WEF cho thấy Việt Nam vẫn tiếp tục đạt được tiến
bộ trong các chỉ số kinh tế vĩ mô, về xoá đói, giảm nghèo và về nỗ lực của
Chính phủ trong việc phát triển công nghệ thông tin. Bản thân các doanh


8

nghiệp cũng tin tưởng cao vào triển vọng phát triển kinh trong những năm
tới. Tuy nhiên, thứ hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam vẫn luôn bị
đánh giá thấp. Có thể thấy rằng các chỉ số về trình độ công nghệ, đào tạo
nguồn nhân lực, môi trường pháp lý đối với hoạt động kinh doanh, tiếp thị
ra thị trường quốc tế, và đặc biệt là tham nhũng của nước ta luôn ở thứ
hạng rất thấp qua nhiều năm. Trong khi đó, đây lại là những yếu tố quan
trọng tác động tới tăng trưởng bền vững và năng suất hay năng lực cạnh
tranh của một quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa là năng lực cạnh tranh của
Việt Nam chỉ thật sự có sự thay đổi lớn và ổn định ở thứ hạng cao khi
chúng ta xử lý về căn bản những hạn chế trên.
2.2. Năng lực cạnh tranh của Việt Nam dựa vào các chỉ tiêu đánh giá
của WEF:
Sau đây chúng ta sẽ đi sâu vào nghiên cứu các chỉ tiêu phản ánh năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam dựa vào các tiêu chí đánh giá của WEF.
2.2.1 Thể chế nhà nước và vai trò điều hành của chính phủ:
2.1.1.1 Năng lực thể chế:
Khung khổ luật pháp và pháp luật về kinh tế
Trong thời gian qua Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc xây
dựng hệ thống pháp luật nhằm quản lý nền kinh tế - xã hội. Vì vậy nhiều
lĩnh vực đã được chế định bằng các văn bản luật, pháp lệnh. Kinh tế thị
trường từng bước thay thế cho nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp
trước đây, hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Nhà nước Việt
Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên, với mục tiêu bảo đảm cho tự do kinh doanh, cạnh tranh
công bằng và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, thể chế pháp lý hiện


9
hành trong quản lý kinh tế ở nước ta vẫn còn có những hạn chế, bất cập thể
hiện ở một số mặt như:

+ Về tính toàn diện
+ Về tính đồng bộ
+ Về tính thống nhất
+ Về tính khả thi
+ Về hiệu lực thi hành
+ Về tính minh bạch
Thực thi luật pháp và chính sách kinh tế
Việc thực thi luật pháp và chính sách kinh tế có chưa xây dựng được
cơ chế thi hành pháp luật, chưa quan tâm đúng mức đến các điều kiện về
tổ chức, nhân sự và tài chính để bảo đảm thi hành pháp luật.
Nguyên tắc pháp quyền chưa được quán triệt và vận dụng vào việc
thực thi luật pháp và chính sách kinh tế của một số cơ quan, một bộ phận
cán bộ và công chức. Công tác thông tin pháp luật chưa kịp thời, chính
xác, cập nhật.
2.1.1.2 Năng lực của chính phủ:
Về mặt tổ chức, cơ cấu bộ máy chính phủ đã sắp xếp lại gọn hơn,
giảm bớt số Bộ, cơ quan ngang Bộ, đồng thời còn giảm mạnh số đầu mối
thuộc Chính phủ.
Về công tác quản lý nhà nước và sự điều hành của Chính phủ đã bám
sát và nhạy bén hơn với diễn biến của tình hình. Đã có sự tăng cường quan
hệ tiếp xúc, đối thoại giữa các cơ quan Chính phủ với các doanh nghiệp để
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh.


10
Các cấp chính quyền địa phương nói chung đã có nhiều chuyển biến
trong việc phân công, phối hợp các sở, ngành, quan tâm cải cách hành
chính, giáo dục cán bộ, tăng cường các hoạt động hỗ trợ, tạo thuận lợi cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhân dân.
Một số tồn tại:

Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, năng lực quản lý và hiệu
lực của bộ máy Chính phủ còn tồn tại nhiều yếu kém, tác động tiêu cực
không nhỏ tới kết quả đổi mới thời gian qua và đòi hỏi phải được giải
quyết một cách có hiệu lực trong thời gian tới.
* Trong thời gian qua cải cách hành chính diễn ra chậm chạp và mới
chủ yếu dừng lại ở khâu cải cách thủ tục hành chính.
Tình trạng kỷ luật hành chính lỏng lẻo đang diễn ra trong bộ máy nhà
nước, không những gây khó khăn cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến việc
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp, mà còn làm
giảm lòng tin của doanh nhân đối với hiệu lực quản lý, điều hành của
Chính phủ.
Một số bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố tuỳ tiện ban hành văn bản
pháp quy trái với đường lối đổi mới của Đảng, trái với hệ thống pháp luật
hiện hành
Có những vụ, việc khiếu nại của doanh nghiệp mà bộ, ngành hoặc
UBND tỉnh, thành phố để chậm trễ, kéo dài, không xử lý dứt điểm hoặc xử
lý không đúng pháp luật, bị đùn đẩy qua nhiều cơ quan hoặc bị hình sự
hoá.
2.2.2 Tài chính - ngân hàng:
Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế tạo
động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng;


11
nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng; tăng cường
khả năng và tư duy xây dựng văn bản pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng,
đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với các tổ chức quốc tế;
mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các ngân hàng thương mại
trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra biện pháp tăng cường giám sát và
phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng

Việt Nam trong các giao dịch tài chính quốc tế. Bên cạnh những cơ hội,
nhiều thách thức đang đặt ra đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam đòi hỏi
cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Để giành thế chủ động trong tiến
trình hội nhập, Việt Nam cần phải xây dựng một hệ thống ngân hàng có uy
tín, có khả năng cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả, an toàn, có khả năng
huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng
nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đánh giá mức độ cạnh tranh hiện tại trong khu vực tài chính - ngân
hàng dựa trên các chỉ tiêu sau đây:
+ Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước
+ Xu thế cạnh tranh giữa các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng
thương mại Việt Nam
+ Tình trạng nợ khó đòi của các ngân hàng
+ Kiểm tra và giám sát tài chính đối với khách hàng
+ Kiểm soát lãi suất
2.2.3 Chính sách mở cửa và hội nhập:
Việt Nam được thế giới đánh giá là một quốc gia có những bước tiến
vững chắc và ổn định trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã thiết lập
quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển, đã ký kết hơn 80 hiệp định thương
mại và đầu tư song phương và có quan hệ hợp tác kinh tế với trên 220


12
quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã chủ động từng bước gia nhập các
tổ chức khu vực và thế giới như ASEAN, APEC, ASEM và hiện đang từng
bước vững chắc hội nhập vào tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh -
WTO - có 151 thành viên chính thức và 39 quan sát viên đang đàm phán
để gia nhập WTO.
Chúng ta đều biết, gia nhập WTO có nghĩa là chúng ta sẽ có một sân
chơi bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư. Thị trường toàn

cầu sẽ mở ra, Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận các công nghệ tiên tiến và
được thử sức mình ở một sân chơi bình đẳng. Tuy nhiên, chúng ta cũng
biết là gia nhập WTO sẽ có nhiều thách thức phải vượt qua, trong đó đặc
biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất nhập khẩu hàng hoá và thu
hút đầu tư nước ngoài.
2.2.3.1 Thương mại:
Kết quả đạt được trong những năm gần đây
Qua gần 20 năm đổi mới, thương mại Việt Nam đã có bước phát
triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, đóng góp quan trọng vào sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. thị trường xuất khẩu được mở rộng
cùng với sự gia tăng về quy mô, chủng loại hàng hoá và các loại hình thị
trường. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một sô hạn chế.
Một số hạn chế và nguyên nhân
 Về hoạt động xuất khẩu
 Về nhập khẩu
 Chi phí sản xuất
 Chính sách thương mại ảnh hưởng đến những biện pháp khuyến
khích xuất khẩu


13
 Chính sách thuế quan
2.2.3.2 Mở cửa đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong
thời gian qua:
Trong xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu
vực và thế giới, nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động đầu tư nói
riêng đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Việc đánh giá
đúng những cơ hội và thách thức này có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Nhìn lại chặng đường hơn 10 năm qua, dù trải qua những bước thăng

trầm, nhưng khu vực - kinh tế có vốn FDI đã không ngừng mở rộng và
phát triển, trở thành bộ phận hữu cơ ngày càng quan trọng của nền kinh tế,
đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới.
Tác động của FDI tới năng lực cạnh tranh quốc gia
+ Vốn, công nghệ và năng lực quản lý
+ Mở rộng thị trường tiêu thụ
+ Điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế
Một số hạn chế:
Những kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, nhất là trong bối cảnh
cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước trong khu vực diễn ra
hết sức gay gắt như hiện nay. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng, trong
hoạt động đầu tư nước ngoài tại nước ta vẫn còn những hạn chế cần khắc
phục:
Thứ nhất, kết quả thu hút vốn đầu tư đăng ký tuy tăng, nhưng vẫn
còn ở mức thấp.


14
Thứ hai, tỷ lệ các dự án lớn gắn với chuyển giao công nghệ nguồn
của các Công ty xuyên quốc gia còn thấp; dòng vốn đầu tư chủ yếu vẫn từ
các nước châu Á; đầu tư từ các nước phát triển có thế mạnh về công nghệ
nguồn như Nhật, EU, Mỹ tăng chậm.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu tại các vùng kinh tế
trọng điểm với những lợi thế về kết cấu hạ tầng và thị trường tiêu thụ; đầu
tư vào các địa phương khác nhau chưa có dấu hiệu khởi sắc. Cơ cấu vốn
đầu tư còn có một số bất hợp lý.
Thứ tư, sự gắn kết giữa khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và
kinh tế trong nước vẫn còn lỏng lẻo, ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát
triển và việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong
nước cho doanh nghiệp FDI chưa đáp ứng được yêu cầu làm giảm khả

năng tham gia vào chương trình nội địa hoá và xuất khẩu qua các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài Điều này vừa hạn chế tác động lan toả (tác
động tràn) của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế, vừa làm giảm tính
hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ta.
2.2.4 Phát triển kết cấu hạ tầng:
Cải thiện tình trạng kết cấu hạ tầng
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) kể từ năm 1990, hạ tầng
cơ sở của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, nhờ có sự tài trợ của nhiều
quốc gia và tổ chức tài chính quốc tế. Bên cạnh đó chính sách mở cửa để
thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam cũng đã góp một phần không nhỏ
vào việc nâng cấp một số lĩnh vực hạ tầng cơ sở quan trọng.
Tuy nhiên cơ sở hạ tầng mới phát triển mạnh ở các thành phố lớn và
trung tâm của cả nước; các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa
còn rất thiếu. Nhìn chung, mức độ phát triển hạ tầng chưa đáp ứng được


15
nhu cầu phát triển hiện tại và trong tương lai của sản xuất kinh doanh trong
nước, cũng như nhu cầu phát triển của khu vực trong tương lai. Trong điều
kiện hội nhập kinh tế, cơ sở hạ tầng của Việt Nam không chỉ giới hạn ở
nhu cầu trong nước. Với ưu thế về vị trí địa lý nằm trong một vùng phát
triển năng động với tuyến vận tải lưu lượng cao, Việt Nam có thể phát
triển cơ sở hạ tầng như một trạm trung chuyển quốc tế để cung cấp dịch vụ
cho khu vực. Cơ sở hạ tầng có thể trở thành nguồn thu ngoại tệ quan trọng
của nền kinh tế.
+ Về viễn thông
+ Về giao thông
+ Hệ thống cung cấp nước sạch và thoát nước
Giá cả dịch vụ
Một số giá dịch vụ cơ sở hạ tầng của Việt Nam cao hơn mức trung

bình của các nước trong khu vực, trong khi một số giá khác lại quá thấp
không đủ bù đắp chi phí bỏ ra.
+ Chế độ quản lý giá của nhà nước
+ Phân biệt đối xử về giá
+ Chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh doanh chưa cao
Nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động
Trong lĩnh vực hạ tầng, kể cả xây dựng cơ sở và cung cấp dịch vụ hầu
như chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp nước ngoài được phép hoạt
động.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hạ tầng thường được tổ chức
theo mô hình khép kín theo chiều dọc từ A đến Z. Thí dụ như ngành điện
đảm nhiệm toàn bộ từ khâu khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng mạng lưới


16
và nhà máy phát điện, quản lý phát điện, truyền tải và phân phối. Trong
lĩnh vực viễn thông cũng tương tự như vậy, công ty dịch vụ viễn thông bên
cạnh chức năng chính là xây dựng, quản lý, vận hành mạng lưới viễn
thông còn đồng thời tư vấn, khảo sát, thiết kế, xây lắp, bảo trì, sửa chữa và
xuất nhập khẩu, kinh doanh các thiết bị chuyên ngành.
Với tổ chức doanh nghiệp khép kín như vậy, dù hạch toán độc lập
giữa các khâu cũng vẫn có nhiều khả năng đẩy chi phí lên cao hoặc bù lỗ
giữa các công ty thành viên và giữa các dịch vụ mà kết quả là người tiêu
dùng phải gánh chịu giá cao. Trong viễn thông và vận tải hàng không, một
số dịch vụ trong nước được bù lỗ bằng cách nâng giá dịch vụ quốc tế: viễn
thông bù lỗ cho bưu điện và viễn thông quốc tế bù lỗ cho điện thoại trong
nước, giá vé máy bay quốc tế bù lỗ cho giá vé máy bay nội địa.
2.2.5 Công nghệ:
Thực trạng năng lực công nghệ và so sánh với các nước
Theo đánh giá của giới nghiên cứu, trình độ công nghệ trong nền

kinh tế nước ta còn thấp, lạc hậu 3,4 thế hệ so với những nước công nghiệp
phát triển, đứng thứ 92 trong số 104 nước được điều tra (WEF, 2004) và
thấp hơn Thái Lan 49 bậc. Đáng buồn là tình trạng này trước thềm hội
nhập WTO chưa được cải thiện mà lại có chiều hướng suy giảm. Kết quả
phân tích trên 41.000 doanh nghiệp ở 30 tỉnh, thành phố của Bộ Kế hoạc
và Đầu tư cuối năm 2005 cho biết, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến thông
tin về khoa học và công nghệ, chỉ có 5,6% doanh nghiệp điều tra có nhu
cầu đào tạo. Trong số đó, các doanh nghiệp mong muốn được các nhà
nghiên cứu và tư vấn đào tạo chỉ chiểm 15,2%.
Những vấn đề chủ yếu hạn chế vai trò của công nghệ trong việc thúc
đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia


17
+ Quản lý hoạt động khoa học công nghệ
+ Nhân lực cho khoa học công nghệ
+ Về đầu tư cho khoa học công nghệ
+ Chuyển giao và phổ biến công nghệ
2.2.6 Lao động:
Một trong những lợi thế so sánh được công nhận rộng rãi hiện nay
của Việt Nam là lực lượng lao động. Sau đây là một số lợi thế và hạn chế
về lực lượng lao động:
Một số lợi thế:
+ Lực lượng lao động dồi dào
+ Tỷ lệ tham gia lao động cao
+ Giá cả sức lao động tương đối thấp
Một số hạn chế:
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề thấp
+ Lao động trí thức còn thiếu cả về số lượng và chất lượng
+ Chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu

+ Kỷ luật lao động chưa cao
+ Xuất khẩu lao động mất dần thế cạnh trah trên thị trường lao động
quốc tế
2.2.7 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp là nhân tố trực tiếp tham gia và chịu tác động của
quá trình hội nhập, khi tham gia hội nhập thì sức cạnh tranh trên thị trường
của các thành phần kinh tế sẽ ngày càng gay gắt, khốc liệt, do đó các
doanh nghiệp cần phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Muốn


18
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình phải thúc đẩy các hoạt động R&D,
đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả
quản lý và hoạt động tài chính, phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chính là khả năng vượt trội hơn các
đối thủ để duy trì và phát triển. Thông thường, người ta đánh giá khả năng
này thông qua các yếu tố sau:
+ Quy mô và số lượng doanh nghiệp
+ Sản phẩm
+ Năng lực quản lý
+ Chi phí kinh doanh
+ Trình độ khoa học công nghệ
+ Năng lực nghiên cứu thị trường
Nói tóm lại, trên cả thị trường trong nước và quốc tế, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, nguyên nhân là do:
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ thông tin về thị trường,
ra quyết định theo kinh nghiệm và theo cảm tính là chủ yếu.
Chưa đẩy mạnh ứng dụng chiến lược marketing tổng thể hoặc
marketing đa dạng sản phẩm và đa thương hiệu.
Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu (xét về tổng thể

thì 90% các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ).
Tiềm lực về tài chính (đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân) hầu như
rât hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít.
Nhận thức về tầm quan trọng của kênh phân phối của nhiều doanh
nghiệp còn hạn chế.


19
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp còn chưa hoàn chỉnh, đồng
bộ, chí phí kinh doanh còn cao, năng lực và bộ máy quản lý điều hành
chưa tốt, cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý của hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, công nghệ
kinh doanh và khả năng tiếp cận đổi mới công nghệ kinh doanh còn lạc
hậu…
2.3 Những mặt hạn chế về năng lực cạnh tranh của Việt Nam:
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta do thành quả đổi mới
những năm qua đã đạt được những thành công nhất định Độ mở của nền
kinh tế là một trong ít nhóm yếu tố cấu thành cạnh tranh của Việt Nam
được đánh giá cao hơn. Mức độ mở cửa thương mại của Việt Nam tương
đối cao trong các nước đang phát triển và ngày càng được mở rộng. Tuy
vậy, chính sách nhập khẩu vẫn còn một số bất cập, trái với quy định của
WTO. Công tác xúc tiến thương mại quốc tế vẫn chưa đạt hiệu quả cao.
Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng thông thoáng song thực tế
chưa theo kịp các nước trong khu vực về độ hấp dẫn. Vai trò của Chính
phủ trong chính sách tài khoá, xây dựng môi trường kinh doanh, cạnh
tranh được nâng cao dần trong những năm gần đây. Tuy vậy, Chính phủ
vẫn còn can thiệp nhiều vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, ưu đãi
dành cho doanh nghiệp Nhà nước chưa có sự chọn lọc và tính toán lâu dài.
Ngoài ra, việc thực hiện cải cách hành chính, chống tham nhũng diễn ra
còn chậm, thiếu hiệu quả và thiếu đồng bộ.

Các nhóm yếu tố cạnh tranh còn lại của Việt Nam vẫn còn rất yếu
kém, thể hiện qua các mặt sau đây.
Vị trí xếp hạng so với các nước còn thấp. Theo bảng xếp hạng năng
lực cạnh tranh quốc gia hàng năm do WEF đưa ra, năng lực cạnh tranh của


20
nền kinh tế Việt Nam luôn luôn thấp, và không ổn định, thậm chí có xu
hướng xuống hạng. Năm 1997 Việt Nam đứng vị trí 49 về năng lực cạnh
tranh trong số 55 nước được xem xét, năm 1998 nâng lên vị trí 39 trong số
53 nước, năm 1999 lại tụt xuống vị trí 48 trong số 59 nước. Năm 2001 và
năm 2002 ở vị trí 60 trong số 75 nước và 65 trong số 80 nước. Năm 2003
Việt Nam xếp hạng 60 trong 102 nước; Năm 2004 xếp hạng 77 trong 104
nước; Năm 2005 xếp hạng 81 trong 117 nước. Còn theo cách đánh giá xếp
hạng tính điểm của các chuyên gia thuộc nhóm nghiên cứu năng lực cạnh
tranh của Porter thì năm 2001-2002 trong số 77 lĩnh vực được đưa ra tính
điểm thì Việt Nam có 38 lĩnh vực đạt trên 50 điểm, 39 lĩnh vực đạt dước
50 điểm. Trong số các lĩnh vực đạt dưới 50 điểm có 4 lĩnh vực chỉ đạt từ 0
đến 4 điểm. Như vậy Việt Nam đang ở trong tình trạng bất lợi về khả năng
cạnh tranh.
Hệ thống pháp luật của nước ta vẫn còn thiếu nhiều quy định quan
trọng. Nhiều nội dung của một số luật hiện hành chưa phù hợp với các
nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và chậm được điều
chỉnh, bổ sung.
Nền kinh tế nặng về thay thế nhập khẩu hơn là xuất khẩu. Điều này
thể hiện rất rõ ở chỗ các ngành thay thế nhập khẩu tăng nhanh hơn các
ngành hướng về xuất khẩu.
Việc sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế không hiệu quả. Hiệu quả sử
dụng vốn của nền kinh tế rất thấp và xu hướng suy giảm làm cho năng lực
của nền kinh tế thấp kém.

Mặc dầu đã có nhiều nỗ lực cải cách và có những tiến bộ trên nhiều
mặt, nhưng hệ thống tài chính - tiền tệ ở Việt Nam còn kém phát triển, thiếu
sự đa dạng, khả năng tài chính nhỏ bé, không đáp ứng yêu cầu phát triển.


21
Những năm gần đây kết cấu hạ tầng đã được đầu tư và có cải thiện
đáng kể, nhưng cản trở từ kết cấu hạ tầng đối với năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là tình trạng độc quyền, áp đặt giá quá cao với chất lượng
dịch vụ thấp, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng phương tiện thấp.
Chi phí về kết cấu hạ tầng ở nước ta quá cao so với các nước trong khu
vực.
Trình độ khoa học - công nghệ của nước ta còn ở mức thấp và chậm
tiến bộ.
Các lợi thế vốn có của nền kinh tế Việt Nam như tài nguyên lao động
đã không khai thác có hiệu quả.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp rất thấp, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhà nước.


22
Chương 3:
Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế của Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
3.1. Định hướng quan điểm đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia:
Từ sự phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế Việt Nam ở chương 2, nội dung chính của chương ba là đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nói
chung và của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng trong quá trình hội
nhập.

Trước hết để tạo ra nội lực cho toàn bộ nền kinh tế, sự lãnh đạo của
Đảng và định hướng của nhà nước là vô cùng quan trọng.
Đối với Việt Nam hiện nay vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập
hay không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm
bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội
nhập.
Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07 -
NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã
nhấn mạnh quan điểm: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài
để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ


23
và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh
quốc gia, phát huy bản sắc và văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh
thái.
Việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và
hàng hoá là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh tế
quốc tế hiệu quả, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010.
Để cạnh tranh hiệu quả trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế Việt
Nam cần chú trọng xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia, trong đó
chính sách cạnh tranh là bộ phận cốt lõi. Chính sách cạnh tranh được quan
niệm là các biện pháp can thiệp của nhà nước, thông qua việc lựa chọn các
chính sách phù hợp, đảm bảo tạo dựng một môi trường thuận lợi để tạo cơ
chế cạnh tranh vận hành có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế.
3.2. Nhóm giải pháp của Doanh nghiệp:

Doanh nghiệp đóng vai trò chủ yếu tạo ra sức cạnh tranh của hàng
hoá và dịch vụ. Các doanh nghiệp Việt Nam phải khẩn trương và dành thế
chủ động trong quá trình hội nhập, không trông chờ ỉ lại vào sự hỗ trợ của
nhà nước; cũng không nên đợi đến khi hàng hoá của các nước vào rồi thì
mới có giải pháp và phải tự phát huy nội lực. Từ các nhận định phương
hướng trên tôi có kiến nghị một số giải pháp chiến lược sau đây đối với
các doanh nghiệp.

×