Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Ngành bảo hiểm Việt Nam trước và sau gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 115 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



VŨ THỊ PHƯƠNG ANH





NGÀNH BẢO HIỂM VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU
GIA NHẬP WTO




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI






Hà nội - 2007

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




VŨ THỊ PHƢƠNG ANH

Đề tài:
NGÀNH BẢO HIỂM VIỆT NAM TRƢỚC VÀ SAU
GIA NHẬP WTO

Chuyên ngành: KTTG&QHKTQT
Mã số: 60 31 07


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN THỊ THÁI HÀ




Hà nội - 2007

2
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT 4
MỞ ĐẦU 5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH
BẢO HIỂM 8
1.1 Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm 8

1.1.1 Khái niệm 8
1.1.2 Nguyên tắc của hoạt động kinh doanh bảo hiểm 9
1.1.3 Phân loại bảo hiểm 11
1.1.4 Vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế 12
1.1.5 Những nhân tố trong nƣớc và quốc tế ảnh hƣởng đến sự phát triển của
ngành kinh doanh bảo hiểm 18
1.2 Ngành bảo hiểm trong khuôn khổ WTO 25
1.2.1 WTO và những cam kết của các thành viên trong lĩnh vực tài chính 25
1.2.2 Những tác động của việc gia nhập WTO tới thị trƣờng tài chính nói
chung, ngành kinh doanh bảo hiểm nói riêng tại các nƣớc ĐPT 26
1.3 Kinh nghiệm phát triển và hội nhập của thị truờng bảo hiểm một số
quốc gia 28
1.3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc 29
1.3.2 Kinh nghiệm của Ấn Độ 32
1.3.3 Một số bài học kinh nghiệm cho sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm
Việt Nam 36
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀNH KINH DOANH BẢO HIỂM VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA 39
2.1 Tổng quan quá trình hình thành và phát triển 39

3
2.1.1 Sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam: giai đoạn trƣớc
1993 39
2.1.2 Quá trình phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam: giai đoạn 1993 –
nay 41
2.2 Đánh giá 53
2.2.1 Những mặt đạt đƣợc 53
2.2.2 Những thách thức của ngành bảo hiểm Việt Nam trong điều kiện gia
nhập WTO và một số nguyên nhân 64
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH BẢO HIỂM VIỆT

NAM TRONG ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP WTO 83
3.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển hội nhập ngành bảo
hiểm 83
3.2 Các cam kết trong lĩnh vực bảo hiểm của Việt Nam đối với tổ chức
thƣơng mại thế giới WTO 85
3.3 Các giải pháp kiến nghị nhằm phát triển thị trƣờng ngành bảo hiểm Việt
Nam trong điều kiện gia nhập WTO 87
3.3.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho sự phát triển của ngành 87
3.3.2 Phát triển thị trƣờng tài chính làm tiền đề cho sự phát triển thị trƣờng
bảo hiểm 89
3.3.3 Giải pháp về phía ngành bảo hiểm 92
KẾT LUẬN………………………………………………………………101
PHỤ LỤC

4
DANH MỤC BẢNG MỘT SỐ CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN: Association of South East Asian Nations
Hiệp hội các nƣớc Đông Nam Á
BHNT: Bảo hiểm nhân thọ
BHXH: Bảo hiểm xã hội
BHYT: Bảo hiểm y tế
DN: Doanh nghiệp
DNBH: Doanh nghiệp bảo hiểm
DNNN: Doanh nghiệp nhà nƣớc
DNTN: Doanh nghiệp tƣ nhân
GATT: General Agreement on Tariffs and Trade
Hiệp định chung về thƣơng mại và thuế quan
GDP: Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm quốc nội
GNI: Gross National Income - Tổng thu nhập quốc dân

NT: Nhân thọ
PNT: Phi nhân thọ
TNDS: Trách nhiệm dân sự
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TTCK: Thị trƣờng chứng khoán
WTO: World Trade Organisation
Tổ chức thƣơng mại thế giới
XHCN: Xã Hội Chủ Nghĩa



5
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài:
Ngày 07/11/2006 vừa qua, Việt nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức thƣơng mại thế giới WTO. Sự kiện này đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến
trình mở cửa hội nhập và phát triển của nền kinh tế Việt nam. Cùng với sự kiện này, các
ngành các lĩnh vực cụ thể trong nền kinh tế Việt nam đều phải nhìn nhận lại toàn bộ quá
trình phát triển từ trƣớc tới nay, nhận xét đánh giá điểm mạnh điểm yếu, từ đó xây dựng
những chiến lƣợc củng cố và phát triển từng ngành từng lĩnh vực theo đƣờng lối chính
sách chung của đất nƣớc với một mục đích chung duy nhất là đứng vững và lớn mạnh
trƣớc bối cảnh hội nhập này.
Trong các lĩnh vực kinh tế, thị trƣờng tài chính Việt nam đã đƣợc hình thành và có cấu
trúc tƣơng đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế nƣớc ta có xuất phát điểm
thấp, lại vẫn còn đang trong quá trình chuyển đổi nên sự phát triển của thị trƣờng tài
chính nói chung còn rất nhiều hạn chế. Thị trƣờng tài chính của chúng ta hiện nay vừa
nhỏ bé về quy mô vốn, lạc hậu về hạ tầng cơ sở và khoa học công nghệ, vừa nghèo nàn về
phƣơng thức và công cụ giao dịch. Về tổng thể vẫn là một thị trƣờng còn non trẻ và phát
triển ở trình độ thấp so với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Ngành bảo hiểm Việt
nam là một bộ phận tƣơng đối quan trọng trong thị trƣờng tài chính cũng không nằm

ngoài những nhận xét đó.
Phát triển ngành bảo hiểm nói riêng cũng nằm trong sự phát triển của thị trƣờng tài
chính Việt nam nói chung còn là một đòi hỏi của thực tế khách quan trong bối cảnh Việt
nam gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO hiện nay. Tuy nhiên muốn hội nhập
thành công hay là để cho hội nhập trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển tích cực của
ngành bảo hiểm Việt nam, bản thân ngành cũng phải đạt đến một trình độ phát triển hợp
lý để đủ mạnh tiếp thu những thay đổi tích cực và đối phó kịp thời với những biến động
của các nhân tố bên ngoài.

6
Câu hỏi đựơc đặt ra là: Thực trạng phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam nhƣ thế nào
và cần phải có các giải pháp gì để phát triển ngành kinh doanh bảo hiểm Việt nam trong
điều kiện Việt nam đang trên đƣờng hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới
nói chung mà cụ thể là gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO và hội nhập thị trƣờng
tài chính quốc tế nói riêng. Đó là lý do để: "Ngành bảo hiểm Việt nam trƣớc và sau khi
gia nhập WTO" đƣợc chọn để làm để tài của luận văn thạc sỹ này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ở trong và ngoài nƣớc:
Ở nƣớc ngoài: Thị trƣờng tài chính nói chung, thị trƣờng bảo hiểm nói riêng là một
trong các vấn đề đƣợc quan tâm hàng đầu tại các quốc gia, nhất là trong giai đoạn hiện
nay. Sự mở rộng thông tin cùng với sự gia tăng của nhu cầu bảo hiểm cho các tất cả mọi
hoạt động kinh tế xã hội khiến cho ngành kinh doanh bảo hiểm đƣợc quan tâm sâu rộng.
Tuy nhiên theo sự tìm hiểu của học viên thì hiện nay trên thế giới chƣa có công trình
nghiên cứu nào đƣợc trình bày về "Ngành bảo hiểm Việt nam trƣớc và sau gia nhập
WTO"
Ở Việt nam: Với những góc độ và cách tiếp cận khác nhau, cho đến nay đã có một số
công trình bảo vệ nghiên cứu về ngành kinh doanh bảo hiểm tại Việt nam hiện nay nhƣ:
Luận án "Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế" của Đào Văn Tuấn, Học viện Ngân hàng. Luận án nghiên cứu
những vấn đề cơ bản về bảo hiểm tiền gửi và chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam
trong quá trình hội nhập quốc tế, phân tích thực trạng chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt

nam và đề ra giải pháp hoàn thiện chính sách. Luận án: "Hoàn thiện kế toán bảo hiểm
trong xu thế mở cửa hội nhập" của Hà Thị Ngọc Hà, Học viện tài chính. Luận án hệ thống
hoá những vấn đề cơ sở lý luận tổng quan về bảo hiểm và kế toán bảo hiểm trong xu thế
mở cửa hội nhập, đồng thời phân tích đánh giá thực trạng về hệ thống kế toán do nhà
nƣớc quy định và áp dụng cho doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay, từ đó rút ra những ƣu
điểm và hạn chế đối chiếu với chuẩn mực quốc tế để vận dụng và đề xuất những giải pháp
hoàn thiện hệ thống kế toán áp dụng cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam. Báo cáo: "Kết

7
quả nghiên cứu đánh giá tác động của việc mở cửa thị trƣờng đối với ngành bảo hiểm
Việt nam và giải pháp phát triển thị trƣờng bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế do Viện khoa học tài chính xuất bản năm 2005. Báo cáo nghiên cứu thực trạng
hoạt động của thị trƣờng bảo hiểm Việt nam giai đoạn 1986-2003 và đánh giá tác động
của việc mở cửa thị trƣờng đối với ngành và đề xuất một số giải pháp phát triển thị trƣờng
bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên báo cáo này chỉ mang tính
chất tập hợp quan điểm của nhiều tác giả và đề cập tới tiến trình hội nhập quốc tế nói
chung của ngành bảo hiểm Việt nam mà không đề cập tới các quy định cụ thể của WTO.
Nhƣ vậy, qua tìm hiểu của tác giả thì cho đến nay chƣa có công trình nghiên cứu nào bảo
vệ về sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam đặt trong bối cảnh "trƣớc và sau khi gia
nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO". Vì vậy có thể nói đây là công trình đầu tiên
nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt trong chuyên ngành Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế
quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về ngành
kinh doanh bảo hiểm và đánh giá thực trạng phát triển, mức độ hội nhập quốc tế hiện nay
của ngành bảo hiểm Việt nam, luận văn đề xuất các giải pháp để phát triển ngành bảo
hiểm Việt nam trong thời gian tới đáp ứng các yêu cầu của việc hội nhập ngành trong
WTO.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khảo sát kinh nghiệm quốc tế về phát triển thị trƣờng bảo hiểm và tác động của mở

cửa thị trƣờng tài chính đối với bảo hiểm và qua đó tới nền kinh tế
- Khảo sát các khía cạnh của lĩnh vực bảo hiểm ở Việt nam và đánh giá cơ hội và
thách thức trong điều kiện hội nhập.
- Trên cơ sở các khảo sát trên thiết lập các luận cứ lý luận và thực tế cho những đề
xuất.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

8
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm (hay
còn gọi là Bảo hiểm thƣơng mại). Không nghiên cứu các loại hình bảo hiểm mang tính
chất cộng đồng, nhân đạo (BHXH, BHYT, BHTN)
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng ngành bảo hiểm Việt nam trong
khoảng thời gian từ năm 1993 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp tài liệu
- Tham khảo những nghiên cứu trƣớc đây có liên quan
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Về mặt lý thuyết: Phân tích tầm quan trọng của bảo hiểm trong điều kiện mới của
nền kinh tế khi Việt nam gia nhập WTO.
- Về mặt thực tế: Đánh giá quá trình phát triển của bảo hiểm Việt nam qua giai đoạn
1993- nay, từ đó đề xuất một số vấn đề nhằm thúc đẩy ngành bảo hiểm Việt nam phát
triển, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của nền kinh tế.
7. Bố cục của luận văn: Luận văn gồm 3 chƣơng đƣợc trình bày nhƣ sau đây.
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH BẢO
HIỂM
1.1 Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm.
1.1.1 Khái niệm
Thuật ngữ Bảo hiểm thƣờng bị dùng sai. Mọi ngƣời thƣờng nói đến bảo hiểm khi họ đề
cập đến các sản phẩm tiết kiệm hoặc tín dụng có khả năng đáp ứng chức năng quản lý rủi
ro.

Để bảo hiểm thực sự là bảo hiểm, cần phải có một cơ chế chia xẻ rủi ro. Cơ chế này tập
hợp các nguồn lực của số đông để bù đắp cho các tổn thất của một số ít. Thực tế, những
ngƣời mua bảo hiểm trả phí bảo hiểm để trang trải mức tổn thất trung bình của một nhóm
chứ không phải là cho chi phí thực tế phải gánh chịu khi một sự kiện rủi ro xảy ra. Chia

9
xẻ rủi ro đem lại lợi ích cho một số ít những ngƣời phải chịu tổn thất, trong khi số đông
cơ bản là chỉ nhận đƣợc "sự yên tâm về tinh thần" thông qua việc đóng phí bảo hiểm.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam: Kinh doanh bảo hiểm đƣợc định nghĩa là
hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro của ngƣời đƣợc bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí
bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho ngƣời thụ hƣởng hoặc bồi
thƣờng cho ngƣời đƣợc bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
1.1.2 Nguyên tắc của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Cũng giống nhƣ bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, ngoài mục tiêu bảo đảm, chia sẻ
rủi ro thì lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Để đạt đƣợc
mục tiêu này, hoạt động kinh doanh bảo hiểm cần phải tuân thủ 5 nguyên tắc sau:
Nguyên tắc số đông bù số ít: Hoạt động bảo hiểm thƣơng mại chính là một hoạt động
nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, theo đó công ty bảo hiểm nhận một khoản tiền gọi là
phí bảo hiểm để có thể phải chi trả một khoản tiền theo hợp đồng bảo hiểm cho ngƣời thụ
hƣởng hoặc bồi thƣờng cho ngƣời đƣợc bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khoản
tiền bồi thƣờng hay chi trả này thƣờng lớn hơn rất nhiều lần mức phí mà ngƣời chủ hợp
đồng bảo hiểm bỏ ra để bảo đảm cho sự kiện đó. Nhƣ vậy, để có thể thực hiện đƣợc hoạt
động này, các công ty bảo hiểm phải tuân thủ theo nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là
nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu trong bất kỳ một hoạt động kinh doanh bảo hiểm
nào, theo đó hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một số ít ngƣời sẽ đƣợc bù đắp
bằng số tiền huy động đƣợc từ rất nhiều ngƣời có khả năng xảy ra những rủi ro tƣơng tự.
Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để chi bồi thƣờng trong trƣờng hợp có thiệt
hại xảy ra, công ty bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo quy luật số lớn. Theo quy
luật này, càng nhiều ngƣời tham gia vào bảo hiểm cho một sự kiện thì việc chi trả cho sự

kiện đó càng trở nên dễ dàng, và rủi ro sẽ càng đƣợc san sẻ cho nhiều ngƣời hơn.
Nguyên tắc rủi ro có thể đƣợc bảo hiểm: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm cung cấp các
dịch vụ sản phẩm bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức có nhu cầu, tuy nhiên không

10
phải mọi nhu cầu bảo hiểm đều có thể đƣợc bảo hiểm. Việc quyết định có bảo hiểm cho
một sự kiện, sản phẩm hay không phải tuân theo nguyên tắc này: nguyên tắc rủi ro có thể
đƣợc bảo hiểm. Đây là một nguyên tắc vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh
bảo hiểm. Theo đó, chỉ những rủi ro có thể bảo hiểm đƣợc mới đƣợc đồng ý bảo hiểm, có
nghĩa là nhà bảo hiểm sẽ không nhận bảo hiểm các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần
nhƣ chắc chắn sẽ xảy ra nhƣ: khấu hao tài sản theo thời gian, xe vi phạm nghiêm trọng
luật giao thông, cố ý tự tử….Hay nói cách khác, những rủi ro có thể đƣợc bảo hiểm phải
là những rủi ro bất ngờ không thể lƣờng trƣớc đƣợc là có xảy ra hay không. Với rủi ro bị
chết là rủi ro chắc chắn xảy ra thì yếu tố đƣợc xem xét bảo hiểm là thời điểm chết. Thêm
vào đó, nguyên nhân gây ra rủi ro phải là nguyên nhân khách quan, không cố ý. Những
rủi ro có thể đƣợc bảo hiểm còn phụ thuộc vào tính đồng nhất của bảo hiểm, trên cơ sở
tính đồng nhất này các công ty bảo hiểm có thể tính toán đƣợc các mức phí hợp lý.
Nguyên tắc phân tán rủi ro: nhận các hợp đồng bảo hiểm với các giá trị hợp đồng cao,
dù mức phí có cao bao nhiêu và số ngƣời tham gia bảo hiểm có đông bao nhiêu nhƣng
cũng không tránh khỏi cho các công ty bảo hiểm có thể gặp trƣờng hợp phải bồi thƣờng
quá khả năng và dự phòng tài chính của mình. Nguyên nhân có thể do các mất mát hoặc
tổn thất xảy ra đồng thời, hoặc có nhiều loại tổn thất cùng xảy ra trong một thời điểm.
Điều này có thể dẫn đến tình trạng khó khăn trong chi trả dẫn đến mất uy tín của công ty,
mà trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, uy tín của công ty lại là yếu tố quan trọng hơn
cả. Để tránh tình trạng này, và cũng tránh tình trạng phải từ chối các hợp đồng dự tính có
thể quá khả năng tài chính của công ty, các công ty bảo hiểm thƣờng áp dụng nguyên tắc
phân tán rủi ro trong hoạt động của mình. Theo đó, một rủi ro đƣợc bảo hiểm sẽ đƣợc
phân tán theo hai cách: đồng bảo hiểm hoặc tái bảo hiểm. Đồng bảo hiểm là nhiều nhà
bảo hiểm cùng bảo hiểm một sự kiện, còn tái bảo hiểm là hoạt động của các công ty bảo
hiểm sau khi nhận bảo hiểm cho một rủi ro thì chuyển nhƣợng một phần hợp đồng bảo

hiểm đó cho một công ty tái bảo hiểm hoặc phòng tái bảo hiểm của các công ty bảo hiểm
khác gọi là nhƣợng tái bảo hiểm.

11
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: nguyên tắc này đƣợc xác định với cả hai bên trong hợp
đồng bảo hiểm: cả công ty bảo hiểm và ngƣời đƣợc bảo hiểm.
Đối với công ty bảo hiểm: nguyên tắc này đòi hỏi công ty bảo hiểm phải cân nhắc các
điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo hiểm hợp lý, đảm bảo chất lƣợng sản
phẩm bảo hiểm, mức phí bảo hiểm và quyền lợi của ngƣời đƣợc hƣởng bảo hiểm. Do sản
phẩm bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ, khách hàng không thể đánh giá ngay từ lúc mua
mà phải thông qua quá trình thực hiện hợp đồng đến khi xảy ra sự kiện. Trong thời gian
đó, sản phẩm bảo hiểm chỉ là một lời hứa sẽ thực hiện, thế nên việc thực hiện theo nguyên
tắc này rất quan trọng đối với khách hàng.
Đối với khách hàng: nguyên tắc này cũng đòi hỏi khách hàng phải khai báo đầy đủ trung
thực các rủi ro tham gia bảo hiểm để công ty bảo hiểm xác định đƣợc một mức phí hợp lý.
Thực hiện nguyên tắc này đảm bảo cho hoạt động chi trả bồi thƣờng cho khách hàng từ
phía công ty bảo hiểm.
Nguyên tắc quyền lợi có thể đƣợc bảo hiểm: nguyên tắc này yêu cầu ngƣời tham gia
bảo hiểm phải có lợi ích tài chính bị tổn thất nếu đối tƣợng bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách
khác, ngƣời tham gia bảo hiểm phải có một số quan hệ với đối tƣợng đƣợc bảo hiểm và
đƣợc pháp luật công nhận. Mối quan hệ này thể hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu,
quyền tài sản, quyền sử dụng, quyền và nghĩa vụ nuôi dƣỡng, cấp dƣỡng đối với ngƣời
đƣợc bảo hiểm. Nguyên tắc về quyền lợi có thể đƣợc bảo hiểm nhằm loại bỏ khả năng
bảo hiểm cho tài sản của ngƣời khác, hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ
một đơn bảo hiểm.
1.1.3 Phân loại bảo hiểm
Có thể căn cứ theo 3 tiêu chí sau để phân loại bảo hiểm thƣơng mại:
Theo hình thức tham gia: bảo hiểm thƣơng mại có thể phân loại thành bảo hiểm tự
nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Bảo hiểm tự nguyện là việc tham gia bảo hiểm hay không
tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng của ngƣời tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm bắt buộc bao

gồm các sản phẩm bảo hiểm mà luật pháp quy định, trong đó quy định cả về điều kiện bảo

12
hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền tối thiểu mà tổ chức cá nhân tham gia bảo hiểm và các
công ty bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện nhƣ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ
giới.
Theo kỹ thuật bảo hiểm có bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm theo kỹ thuật
tồn tích. Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia là các bảo hiểm có thời hạn ngắn (thƣờng là
một năm) đảm bảo cho những rủi ro có tính chất tƣơng đối ổn định và độc lập với tuổi thọ
con ngƣời, thông thƣờng loại hình bảo hiểm phi nhân thọ thuộc loại này. Bảo hiểm theo
kỹ thuật tồn tích có đặc trƣng là thời hạn dài, quỹ đƣợc tích tụ trong nhiều năm mới phải
chi trả, bảo hiểm theo kỹ thuật tồn tích thƣờng đƣợc dùng để chi trả cho những rủi ro có
tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian, đối tƣợng thƣờng gắn liền với tuổi thọ con ngƣời.
Bảo hiểm nhân thọ thuộc loại hình này.
Theo đối tƣợng đƣợc bảo hiểm: bảo hiểm đƣợc phân loại thành bảo hiểm tài sản, bảo
hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con ngƣời.
1.1.4 Vai trò của ngành bảo hiểm đối với nền kinh tế
Sự phát triển của thị trƣờng tài chính nói chung trong đó có sự phát triển của ngành bảo
hiểm có một vai trò quan trọng không thể thiếu trong sự phát triển của nền kinh tế tại bất
kể quốc gia nào. Vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế trong quá trình toàn cầu hóa thể
hiện mạnh mẽ ở ba cấp độ: Thứ nhất là vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển nền kinh
tế nội địa. Thứ hai là trong trƣờng hợp các nƣớc đang tiến hành mở cửa hội nhập nhƣ tại
Việt nam, vai trò của bảo hiểm còn đƣợc thể hiện thông qua vai trò của khu vực bảo hiểm
có yếu tố nƣớc ngoài. Thứ ba là tính không thể thiếu của bảo hiểm trong các hoạt động
kinh tế trong nền kinh tế mở.
Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế đất nƣớc có thể đƣợc phân tích theo
5 khía cạnh chính dƣới đây:
Trên cấp độ cơ bản nhất, ngành bảo hiểm thúc đẩy sự ổn định tài chính. Bảo hiểm
giúp ổn định tài chính của các hộ gia đình và các doanh nghiệp. Một rủi ro có thể trở
nên quá lớn đối với một cá nhân hoặc một doanh nghiệp, có thể dẫn đến khánh kiệt hoặc


13
phá sản, kéo theo hàng loạt những đổ vỡ có thể có đối với nền kinh tế nhƣ thất nghiệp
hàng loạt, ảnh hƣởng xấu đến các doanh nghiệp cùng kinh doanh, giảm thuế cho Nhà
nƣớc…Rủi ro này có thể đến với tất cả mọi cá nhân hoặc doanh nghiệp. Khi chuyển nó
cho nhà bảo hiểm thông qua cơ chế chia sẻ rủi ro, gánh nặng ấy đƣợc chia sẻ và trở nên có
thể chịu đựng đƣợc. Sự ổn định kinh tế đƣợc mạng lại thông qua hoạt động bảo hiểm sẽ
khuyến khích các cá nhân hay doanh nghiệp tiến hành chuyên môn hóa, tạo nên của cải
vật chất và sẽ chỉ phải dự trù cho những khoản phải trả hoàn toàn đã nằm trong kế hoạch
của họ.
Khía cạnh thứ hai của bảo hiểm đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước chính là
thông qua việc giảm gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Bảo hiểm, nhất là bảo hiểm
nhân thọ có thể thay thế cho các chƣơng trình an sinh của Chính phủ. Với các sản phẩm
bảo hiểm thay thế cho lƣơng hƣu khi về già cho các cá nhân, thay thế cho trợ cấp cho giáo
dục, y tế…có thể giúp Chính phủ không những góp phần ổn định đời sống kinh tế xã hội
mà còn giúp giảm ngân sách chính phủ đáng kể, giảm áp lực lên các hệ thống phúc lợi xã
hội và do đó tạo cơ hội cho các đầu tƣ khác thiết thực hơn cho sự phát triển kinh tế. Đồng
thời với các loại hình sản phẩm thiết kế phong phú có thể làm thỏa mãn những nhu cầu
khác nhau của mỗi cá nhân dựa trên tiềm lực tài chính và những đòi hỏi khác nhau của họ,
điều này lại giúp nâng cao chất lƣợng cuộc sống ngƣời dân thông qua việc thỏa mãn tốt
hơn nhu cầu của họ. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chứng minh rằng chi tiêu của
mỗi cá nhân dành cho bảo hiểm nhân thọ sẽ lớn hơn khi chi tiêu của Chính phủ cho bảo
hiểm xã hội giảm đi. Vai trò thay thế này trở nên càng quan trọng trong điều kiện những
thách thức tài chính ngày càng lớn đối với hệ thống bảo hiểm xã hội của các quốc gia trên
thế giới.
Khía cạnh thứ ba, bảo hiểm có thể giúp tập trung tiết kiệm, từ đó tạo ra tốc độ tăng
trưởng cao hơn. Các công ty bảo hiểm đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút tiết
kiệm cá nhân vào đầu tƣ cho nền kinh tế theo ba cách

14

Thứ nhất là, thông qua các công ty bảo hiểm chi phí giao dịch trong tất cả các hoạt động
phục vụ cho tiết kiệm và đầu tƣ đều đƣợc giảm đáng kể. Mỗi cá nhân quyết định chi trả
một khoản bảo hiểm cho mình theo nhiều cách với chi phí nhỏ, và các công ty bảo hiểm
tập hợp đƣợc hàng ngàn cá nhân theo cách này tạo nên một khoản đầu tƣ khổng lồ vào
các hoạt động kinh tế sinh lợi. Hoạt động tìm kiếm thông tin đầu tƣ cũng đƣợc các công
ty bảo hiểm tiến hành với chuyên môn cao, và chi phí tìm kiếm một lần thay vì mỗi cá
nhân gửi tiền vào công ty bảo hiểm phải tự đi tìm thông tin đầu tƣ và phân tích nghiên
cứu vừa mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc, vừa lại có thể không hiệu quả. Tính hiệu
quả và lợi suất cao hơn mà các hãng bảo hiểm nhân đƣợc sẽ đƣợc chuyển sang cho các
chủ hợp đồng bảo hiểm dƣới dạng các mức phí bảo hiểm thấp hơn. Thứ hai là: các công
ty bảo hiểm tạo ra đƣợc tính thanh khoản (tính lỏng) của các khoản tiết kiệm. Nếu những
ngƣời dân và các doanh nghiệp thay vì gửi tiền vào các công ty bảo hiểm lại tiến hành cho
vay dài hạn (để tạo lãi giống nhƣ gửi tiền vào các công ty bảo hiểm, chƣa tính là không
đƣợc đảm bảo cho các hoạt động của mình), họ vẫn bị ràng buộc vào thời hạn trả của chủ
các khoản nợ, do đó tính lỏng của số tiền tiết kiệm họ có sẽ kém đi nhiều. Các công ty bảo
hiểm giải quyết đƣợc vấn đề ấy, họ có thể tạo nên những khoản cho vay dài hạn hoặc
những khoản đầu tƣ lớn mà vẫn có thể chi trả cho những ngƣời tham gia bảo hiểm do các
nghiệp vụ chặt chẽ của họ (nghiệp vụ trích lập dự phòng). Nhƣ vậy là, thông qua các công
ty bảo hiểm, khoản tiết kiệm của các cá nhân và tổ chức đã có thêm tính thanh khoản và
do đó khuyến khích đƣợc tiết kiệm. Thứ ba là: các công ty bảo hiểm có thể tạo ra tính
hiệu quả nhờ quy mô của đầu tƣ. Việc tập trung hàng ngàn khoản phí nhỏ có thể tạo nên
một lƣợng đầu tƣ khổng lồ cho các dự án lớn mang tính hiệu quả và khả thi cao nhờ quy
mô của nó. Những dự án lớn nhƣ vậy thƣờng đạt đƣợc tính kinh tế nhờ quy mô, nó thúc
đẩy sự chuyên môn hóa và khuyến khích ứng dụng và phát triển các tiến bộ kỹ thuật, và
nhờ đó trở nên rất quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế các nƣớc. Nhƣ vậy, tính
hiệu quả nhờ quy mô của các dự án có thể đƣợc tạo ra thông qua hoạt động thu hút tiết
kiệm của các công ty bảo hiểm, và do đó mà hoạt động này của các công ty bảo hiểm

15
càng trở nên quan trọng. Có thể thấy tầm quan trọng này thông qua ví dụ tại Mỹ, các công

ty bảo hiểm cung cấp tài chính cho một phần ba tổng lƣợng nợ của các doanh nghiệp.
Một hệ thống tài chính phát triển hoàn chỉnh sẽ có vô số các định chế và công cụ tài chính
phục vụ cho nó. Số lƣợng các định chế và sản phẩm tài chính này biểu hiện cho độ phức
tạp và mức độ phát triển của thị trƣờng tài chính. Hệ thống ngân hàng sẽ tập trung cho các
khoản tiền gửi và cho vay ngắn hạn (tất nhiên cũng bao gồm cả dòng cho vay ngắn hạn
của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ), còn các định chế tiết kiệm theo hợp đồng nhƣ bảo
hiểm thƣờng chú trọng vào các dòng cho vay dài hạn hơn. Những dòng tiền dài hạn này là
những khoản đầu tƣ lý tƣởng cho các chính phủ và các doanh nghiệp tại tất cả các nền
kinh tế.
Khía cạnh thứ tư mà bảo hiểm góp phần vào phát triển nền kinh tế chính là việc bảo
hiểm giúp cho quản trị rủi ro trở nên hiệu quả hơn. Các hệ thống tài chính thực hiện
việc di chuyển, chia sẻ và giảm rủi ro. Nếu một hệ thống tài chính cung cấp đƣợc những
dịch vụ quản trị rủi ro này thì sẽ kích thích đƣợc tiết kiệm và đầu tƣ đồng thời phân bổ
nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Thành công của một thị trƣờng cạnh tranh phụ thuộc
vào việc đặt giá. Định giá cho rủi ro là vấn đề căn bản của tất cả các trung gian tài chính,
cũng giống nhƣ bất kỳ một nhà sản xuất nào định giá cho sản phẩm của mình, điều này
thực sự quan trọng. Các công ty bảo hiểm định giá cho rủi ro của mình ở hai cấp độ: họ
đánh giá khả năng mất mát của các doanh nghiệp cá nhân và tài sản mà họ có thể bảo
hiểm và cải biến các rủi ro đó làm thay đổi khả năng hứng chịu rủi ro của các đối tƣợng
trên. Tiềm năng mất mát dự tính càng lớn thì mức phí càng cao. Bằng cách đánh giá tiềm
năng mất mát, các công ty bảo hiểm buộc các đối tƣợng đƣợc bảo hiểm phải tự lƣợng hóa
đƣợc các hoạt động gây rủi ro và giảm cũng nhƣ quản lý đƣợc rủi ro đó một cách hợp lý.
Khi các dự án trở nên quá rủi ro đối với bảo hiểm dù ở bất kỳ mức giá nào thì các nhà đầu
tƣ sẽ đƣợc báo trƣớc và sẽ kỳ vọng một mức hợp lý lợi tức có thể bù đắp đƣợc rủi ro đó.
Các rủi ro sau khi đƣợc chuyển giao cho các công ty bảo hiểm dƣới dạng một hợp đồng
hợp lý và một mức phí nhất định sẽ đƣợc biến thành các cơ hội sinh lời thông qua hoạt

16
động đầu tƣ của các công ty này, và do đó khả năng bù đắp cho những rủi ro đó là rất cao.
Mỗi hợp đồng riêng biệt cho từng rủi ro cũng đã góp phần giúp các cá nhân hay doanh

nghiệp biến đổi đặc tính của các khoản tiền tiết kiệm của họ để chuyển thành tính thanh
khoản, tính bảo đảm hay các đặc tính rủi ro khác mà họ mong muốn. Đối với các công ty
bảo hiểm, quản trị rủi ro thông qua cơ chế đánh giá rủi ro và nguyên tắc số đông bù số ít
giúp họ dự trù đƣợc các khoản phải trả, kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực định giá
còn giúp họ ổn định mức phí cho khách hàng. Hơn nữa, việc đa dạng hóa các danh mục
đầu tƣ cộng với khả năng tìm kiếm thông tin đánh giá dự án đầu tƣ giúp cho các doanh
nghiệp bảo hiểm có nhiều khả năng bồi thƣờng những rủi ro mà không phƣơng hại gì đến
hoạt động của công ty. Thông qua các chƣơng trình, hoạt động kiểm soát rủi ro của mình,
các công ty bảo hiểm còn mang lại nhiều phúc lợi cho xã hội. Xã hội đƣợc hƣởng lợi từ
các hoạt động phòng cháy, phòng ngừa thiệt hại, các hoạt động về an toàn và sức khỏe
nghề nghiệp của các công ty bảo hiểm.
Thứ năm, bảo hiểm đóng góp vào nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thông qua việc
thúc đẩy nâng cao hiệu quả phân bổ vốn. Các công ty bảo hiểm thu thập vô số thông tin
cho việc đánh giá các doanh nghiệp, các dự án và nhà quản trị, cả trong quá trình quyết
định có thực hiện bảo hiểm không và với vai trò là ngƣời cho vay và nhà đầu tƣ. Với một
cá nhân đơn lẻ việc này khó khăn và kém hiệu quả hơn nhiều. Với khả năng của mình, các
công ty bảo hiểm sẽ chọn bảo hiểm và tài trợ cho những doanh nghiệp, dự án và những
nhà quản trị nào hiệu quả nhất. Các công ty bảo hiểm phải duy trì mối quan tâm thƣờng
xuyên đến các dự án của họ. Họ giám sát các hoạt động kinh doanh và khuyến khích
những hoạt động hiệu quả. Bằng cách đó các công ty bảo hiểm chính là nguồn cung cấp
các thông tin về sự chấp thuận của thị trƣờng đối với các hoạt động tốt, và do đó họ tạo ra
đƣợc sự phân bổ hiệu quả hơn của các nguồn tài chính vốn luôn luôn khan hiếm của thị
trƣờng.
Không chỉ thể hiện ở năng lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của bảo hiểm nói chung,
vai trò của bảo hiểm đối với các nền kinh tế trong thời kỳ mở cửa hội nhập còn đƣợc

17
thể hiện ở vai trò của các công ty bảo hiểm nƣớc ngoài trong việc khuyến khích phát
triển nền kinh tế tại thị trƣờng nội địa.
Việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới tạo điều kiện gia nhập mạnh mẽ của các

công ty bảo hiểm nƣớc ngoài tại thị trƣờng nội địa. Giống nhƣ việc gia nhập vào một thị
trƣờng mới, việc xuất hiện các hãng bảo hiểm nƣớc ngoài tại thị trƣờng nội địa trƣớc hết
sẽ tạo ta một làn sóng cạnh tranh cải thiện chất lƣợng các dịch vụ của ngành. Việc xuất
hiện thêm một số lƣợng lớn các hãng kinh doanh bảo hiểm nƣớc ngoài, cộng với các chi
nhánh và liên doanh sẽ làm đa dạng hóa thị trƣờng bảo hiểm, nâng cao sự quan tâm của
ngƣời dân và các tổ chức kinh tế trong nƣớc dẫn đến sự gia tăng tiết kiệm nội địa, gia tăng
đầu tƣ nội địa và cải thiện nền kinh tế. Điều này đƣợc thực hiện thông qua những hiệu
ứng lan tỏa về lợi ích trong nƣớc, bao gồm việc tạo ra những việc làm chất lƣợng cao,
những mối liên hệ giúp phát triển các khu vực dịch vụ liên đới và việc giảm bớt những
thiệt hại mang tính xã hội. Thị trƣờng bảo hiểm nằm trong sự phát triển chung của thị
trƣờng tài chính, trong đó có thị trƣờng ngành ngân hàng và chứng khoán. Sự phát triển
của thị trƣờng này nhất định sẽ có tác dụng tốt thúc đẩy kéo theo sự phát triển của các thị
trƣờng kia và ngƣợc lại. Đồng thời, sự xuất hiện của các hãng bảo hiểm nƣớc ngoài cũng
là sự xuất hiện của các nhà đầu tƣ tại thị trƣờng nội địa. Với số vốn huy động đƣợc, cùng
với các cơ hội đầu tƣ tại nƣớc đặt chi nhánh, họ có thể tiến hành các hoạt động đầu tƣ
kinh doanh kiếm lời ngay tại quốc gia đặt chi nhánh, điều này giúp nền kinh tế quốc gia
phát triển và lại càng thu hút nhiều cơ hội đầu tƣ từ quốc tế.
Có thể thấy đƣợc tầm quan trọng của sự xuất hiện các hãng bảo hiểm nƣớc ngoài tại các
quốc gia mở cửa thị trƣờng dịch vụ tài chính nói chung và thị trƣờng bảo hiểm nói riêng.
Qua đó thấy đƣợc vai trò đóng góp to lớn của bảo hiểm trong một nền kinh tế hội nhập,
vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế đang mở cửa còn thể hiện ở chỗ: bảo hiểm đƣợc
coi là đảm bảo cho hoạt động đầu tƣ phát triển một cách gần nhƣ bắt buộc với các
hoạt động đầu tƣ mới. Việc đầu tƣ vào những thị trƣờng mới mang rất nhiều rủi ro, mà
trong điều kiện thế giới đầy những biến động nhƣ hiện nay, việc bảo hiểm cho những rủi

18
ro càng mang một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Những sản phẩm và dịch vụ chỉ đƣợc sản
xuất và bán hay những dự án đầu tƣ cũng chỉ đƣợc cung cấp vốn khi chúng đã đƣợc bảo
hiểm thỏa đáng.
Nhƣ vậy, có thể thấy trong một nền kinh tế mở, vai trò của bảo hiểm ngày càng trở nên

quan trọng, không những làm giảm gánh nặng chịu rủi ro mà còn là các điều kiện đầu tƣ
thƣơng mại quốc tế và là một ngành kinh doanh không thể thiếu trong mỗi nền kinh tế.
1.1.5 Những nhân tố trong nƣớc và quốc tế ảnh hƣởng đến sự phát triển của ngành
kinh doanh bảo hiểm
Sự phát triển của ngành bảo hiểm tại bất kỳ một quốc gia nào đều phải chịu ảnh hƣởng
của các môi trƣờng đặc thù tại các quốc gia đó. Ảnh hƣởng chính đến sự phát triển của
ngành bảo hiểm nằm ở 4 nhóm nhân tố: nhóm nhân tố kinh tế, nhóm nhân tố nhân khẩu,
nhóm các nhân tố chính trị và nhóm nhân tố xã hội.
1.1.5.1 Các nhân tố kinh tế
Nhóm các nhân tố kinh tế này có thể tác động đến sự phát triển của ngành kinh doanh
bảo hiểm theo 4 khía cạnh:
Thứ nhất là sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Tại các nƣớc phƣơng tây, tỷ lệ các
hoạt động kinh tế và cá nhân tham gia bảo hiểm cao hơn rất nhiều so với thực tế tại các
nƣớc đang phát triển. Có thể lý giải một phần do thu nhập của ngƣời dân cao hơn, sở hữu
đối với tài sản cá nhân cao hơn do đó mỗi rủi ro có thể mang lại hậu quả to lớn hơn dẫn
đến ý thức bảo hiểm cho những tài sản có đƣợc cũng cao hơn rất nhiều. Hơn nữa, trong
một xã hội phát triển hơn, phát sinh rất nhiều các hoạt động giao dịch kinh tế với nhiều
bên và khoảng cách gần xa phong phú về địa lý… các giao dịch kinh tế phong phú phức
tạp này có thể khiến cho mỗi cá nhân phải đối diện với rất nhiều rủi ro cần thiết phải
phòng ngừa và đƣợc đảm bảo. Một lý giải nữa cho sự khuyến khích phát triển ngành bảo
hiểm trong những nền kinh tế phát triển là do xuất hiện nhiều các định chế tài chính với
thị trƣờng tài chính phát triển tạo nên nhiều cơ hội kinh doanh kiếm lời cho các doanh
nghiệp bảo hiểm khiến nó dần dần phát triển thành một ngành kinh doanh kiếm lời nóng

19
trong các nền kinh tế phát triển thay vì chỉ là những công cụ để chia sẻ rủi ro nhƣ trƣớc
đây.
Khía cạnh thứ hai là tỷ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế. Bảo hiểm nhân thọ đóng một vai trò
chủ yếu trong tiết kiệm của các hộ gia đình. Nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ trở nên mạnh
mẽ nhất trong các nƣớc có tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ tiết kiệm trên thu nhập cao. Thực vậy,

các nghiên cứu về ngành công nghiệp bảo hiểm đã chỉ ra mức phí bảo hiểm gia tăng
nhanh hơn so với thu nhập của quốc gia. Tại một số nƣớc đang phát triển hoặc mới phát
triển, tham gia bảo hiểm đối với ngƣời dân đồng nghĩa với tiết kiệm một khoản tiền cho
tƣơng lai. Tỷ lệ tiết kiệm cao sẽ dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của thị trƣờng bảo hiểm
với các hợp đồng dài hạn, và do đó kích thích sự phát triển của cả ngành bảo hiểm
Một phần theo nhân tố kinh tế, yếu tố kinh tế nhƣ là lạm phát và chiều sâu thị trƣờng cũng
có ảnh hƣởng đến sự thâm nhập của ngành bảo hiểm. Sự gia tăng lạm phát thƣờng đi đôi
với sự gia tăng các yếu tố bất định chung trong cộng đồng. Trong thời gian có lạm phát
cao và tính không ổn định của nền kinh tế, ngƣời tiêu dùng thƣờng có xu hƣớng tìm kiếm
những khoản đầu tƣ ngắn hạn và có tính thanh khoản cao. Bảo hiểm nhân thọ vẫn là loại
hình đƣợc xem nhƣ là một khoản chi cố định và dài hạn, thế nên lạm phát cao thƣờng đi
đôi với sự suy giảm trong nhu cầu bảo hiểm nhân thọ. Ảnh hƣởng này bị trầm trọng thêm
do sự nhận thức đƣợc rằng lạm phát làm xói mòn giá trị của các hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ cố định danh nghĩa. Khi lạm phát xảy ra, giá trị danh nghĩa trong các hợp đồng bảo
hiểm giảm xuống so với mức gia tăng giá của thị trƣờng chƣa kể đến sự suy giảm của cả
giá trị thực tế. Thế nên có thể kết luận rằng lạm phát có ảnh hƣởng xấu đến thị trƣờng bảo
hiểm
Chiều sâu thị trƣờng cũng có thể ảnh hƣởng đến nhu cầu bảo hiểm. Tại mỗi chiều sâu và
đặc thù của thị trƣờng có thể có những ảnh hƣởng khác nhau lên thị trƣờng bảo hiểm, nhƣ
phân tích ở trên tại các quốc gia có thị trƣờng tài chính phát triển và số lƣợng phong phú
các định chế tài chính thì sẽ tạo nhiều điều kiện tốt cho sự phát triển của thị trƣờng bảo
hiểm. Tuy nhiên, trong những thị trƣờng nhƣ Hàn quốc, nơi mà có cả xu hƣớng tiết kiệm

20
cao và một số lƣợng hạn chế các phƣơng tiện tiết kiệm khác thì sự xâm nhập của bảo
hiểm nhân thọ có thể cao đến mức đáng ngạc nhiên.
1.1.5.2 Các nhân tố thuộc nhân khẩu
Sự thay đổi trong nhân khẩu có ảnh hƣởng đến sức mua của bảo hiểm. Điều này đƣợc thể
hiện ở bốn khía cạnh: tuổi thọ chung trong dân số, giáo dục, các mô hình cấu trúc gia đình
và mức độ chuyên môn hóa của các hoạt động kinh tế ảnh hƣởng đến đời sống.

Hiện nay trên thế giới có một thực trạng đƣợc nhận thức rộng rãi rằng dân số thế giới
đang già đi là kết quả của sự suy giảm tỷ lệ sinh và sự gia tăng của tuổi thọ. Tại một số
nƣớc Châu âu nhƣ tại Đức, chính phủ đã phải khuyến khích gia tăng nhân khẩu và khuyến
khích phụ nữ sinh nở bằng các hỗ trợ dịch vụ y tế, bảo đảm giáo dục đào tạo và việc làm
qua nhiều năm trở lại đây. Nhật bản hiện cũng là quốc gia đang phải bày tỏ sự lo ngại về
tình trạng dân số đang già đi của mình. Sự gia tăng tuổi thọ nói trên dẫn đến triển vọng
cho ngành bảo hiểm cho việc gia tăng trong nhu cầu tiết kiệm theo các sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ hàng năm.
Một yếu tố thuộc nhân khẩu khác cũng có ảnh hƣởng đến nhu cầu về bảo hiểm là giáo
dục. Kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng một dân tộc đƣợc giáo dục tốt hơn
sẽ nhận thức tốt hơn về tầm quan trọng của bảo hiểm, cả nhân thọ và phi nhân thọ. Giáo
dục mang lại nhận thức về những rủi ro có thể gặp phải trong mọi hoạt động, con ngƣời
nhìn thấy trƣớc những rủi ro đó và có ý thức chủ động hơn trong việc phòng ngừa. Việc
không chủ động nhận thức đƣợc những nguy cơ trong tình hình kinh tế có thể dẫn đến
việc mất trắng hoặc phá sản mà không có cách gì cứu chữa. Những thiệt hại kinh tế phải
xảy ra trên một phạm vi rộng và phải mất một thời gian mới tác động vào nhận thức của
ngƣời dân về tầm quan trọng của bảo hiểm. Giáo dục tốt làm thay nhiệm vụ đó, vừa giảm
bớt thiệt hại không đáng có vừa hoàn thành sớm hơn hoạt động tất yếu trong kinh tế và
tạo điều kiện tốt phát triển ngành bảo hiểm. Giáo dục cũng là điều kiện để các thành phần
kinh tế tham gia vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Với nhận thức rằng ngành bảo hiểm
không đơn thuần là một ngành để san sẻ rủi ro đơn thuần, đó còn là một ngành kinh doanh

21
đòi hỏi những kỹ năng hoàn toàn khác biệt với chuyên môn sâu và có thể mang lại nhiều
lợi nhuận, giáo dục và đào tạo mang lại nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của
ngành.
Yếu tố nhân khẩu thứ ba có ảnh hƣởng đến nhu cầu về bảo hiểm là các mô hình cấu trúc
gia đình: Các xã hội phƣơng tây có mô hình gia đình hạt nhân thống trị. Mô hình gia đình
hạt nhân này bao gồm ngƣời chồng, ngƣời vợ và những đứa trẻ sống phụ thuộc. Trong các
xã hội khác thiên về nông nghiệp ruộng đất hoặc trong rất nhiều xã hội có các thị trƣờng

đang mở cửa, cấu trúc gia đình thống trị lại là gia đình mở rộng, trong đó có thế hệ ông bà
và có thể có cả họ hàng sinh sống và làm việc cùng nhau. Theo ý rằng các gia đình mở
rộng này cung cấp nơi nƣơng tựa cho những ngƣời già thì nhu cầu tiết kiệm lƣơng hƣu sẽ
giảm đi và thay vào đó là nhu cầu cho các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Nhƣ vậy là cấu
trúc gia đình có ảnh hƣởng nhất định đến sự gia tăng của các nhu cầu bảo hiểm và sự phát
triển của thị trƣờng bảo hiểm, qua đó cho thấy tiềm năng to lớn của nhu cầu cho thị
trƣờng bảo hiểm nhân thọ tại các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt nam.
Yếu tố cuối cùng trong nhân khẩu có ảnh hƣởng đến sự phát triển của ngành bảo hiểm là
mức độ chuyên môn hóa trong đời sống sản xuất. Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa
dẫn đến sự chuyên môn hóa trong lực lƣợng lao động. Khi đô thị hóa và công nghiệp hóa
xảy ra trong mọi ngành nghề sẽ dẫn đến sự phân hóa sản xuất trong mọi tầng lớp xã hội.
Sự chuyên môn hóa sẽ làm gia tăng tính dễ bị tổn thƣơng trong dân cƣ do hậu quả của
việc phải thay đổi sở thích thị hiếu, thay đổi công nghệ kỹ thuật và thay đổi các môi
trƣờng kinh tế tác động đến môi trƣờng sống. Điều này làm gia tăng sự lo sợ xảy ra những
hậu quả tiêu cực của khả năng bị mất thu nhập, mất sức khỏe và tài sản trong môi trƣờng
thay đổi dẫn đến sự gia tăng nhu cầu đƣợc bảo hiểm.
1.1.5.3 Các nhân tố chính trị
Chính trị luôn mang một tầm ảnh hƣởng trên cả cả hai bình diện: bao quát và cụ thể đối
với từng ngành nghề kinh tế theo cách mà nó muốn. Nhóm các nhân tố chính trị này có
thể ảnh hƣởng đến sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm theo 4 khía cạnh: những tác động

22
của hệ thống thuế, quan điểm của chính phủ có liên quan hoặc không liên quan đến mục
tiêu chính trị, sự ổn định chính trị, các hoạt động kinh doanh của chính phủ và tất cả
những tồn tại của hệ thống luật trong các nƣớc.
Cách hiển nhiên nhất mà một chính phủ tác động vào sự tăng trƣởng của ngành bảo hiểm
là thông qua các chính sách về thuế. Sự phát triển của các định chế tài chính phi ngân
hàng trong đó có ngành bảo hiểm phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thuế. Vai trò của sự
nhƣợng bộ về thuế và những sự khuyến khích khác nhƣ một phƣơng tiện để thúc đẩy sự
phát triển các định chế tài chính đƣợc chứng minh là rất quan trọng qua nhiều trƣờng hợp

tại các nƣớc. Tại Australia nhƣ một ví dụ, những tổ chức quyên tiền có một lịch sử dài
nhƣ là những tổ chức tự giúp lẫn nhau. Những tổ chức này có tự bản thân chúng có liên
quan đến tài chính nói chung và bảo hiểm nói riêng. Nhƣ là kết quả của các cấu trúc phụ
thuộc lẫn nhau và mục tiêu xã hội, các tổ chức này đƣợc chính phủ Australia miễn thuế.
Trong những năm 70, với sự gia tăng nhu cầu tài chính ngoài sự khu vực ngân hàng với
các luật lệ rƣờm rà, một số lƣợng các định chế đã bắt đầu cung cấp các sản phẩm tài chính
mà khai thác đƣợc tình trạng miễn thuế để có đƣợc lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ
thông thƣờng. Trong vòng một thời gian ngắn, họ trở thành những thành viên trọng yếu
của ngành công nghiệp tiết kiệm theo hợp đồng, cung cấp những hợp đồng tiết kiệm miễn
thuế một cách cạnh tranh với các khoản đầu tƣ phải chịu thuế khác. Tƣơng tự nhƣ vậy, tại
các nƣớc nhƣ Hàn quốc và Nam mỹ với các chính sách đƣa ra sự nhƣợng bộ thuế đáng kể
đối với bảo hiểm nhân thọ có xu hƣớng sẽ có một thị trƣờng bảo hiểm nhân thọ phát triển
tốt hơn. Sự khuyến khích về thuế cũng tạo nên một ảnh hƣởng mạnh mẽ trong sự gia tăng
của các quỹ và các công ty bảo hiểm. Hầu hết các chính phủ cung cấp ít nhất một vài
khoản giảm thuế vào các khoản tiết kiệm dài hạn thông qua các công cụ. Trong nhiều
trƣờng hợp, các hoạt động khuyến khích đƣợc tạo ra là để nhằm khuyến khích tiết kiệm
và cung cấp những khoản vay dài hạn.
Ngoài chính sách thuế, các chính phủ cũng có thể gây ảnh hƣởng đến sự tăng trƣởng của
bảo hiểm theo rất nhiều cách khác. Trong số này, một trong những can thiệp cơ bản là sự

23
cung cấp trực tiếp của chính phủ trong lĩnh vực bảo hiểm. Tại hầu hết các nƣớc, chính
phủ là nhà cung cấp lâu năm của bảo hiểm xã hội và cũng tại rất nhiều nƣớc, chính phủ
thậm chí trở thành nhà cung cấp năng động hoạt động trong thị trƣờng bảo hiểm. Động cơ
để khu vực công cung cấp bảo hiểm biến đổi theo từng quốc gia, nhƣng có thể bao gồm
những động cơ nhƣ: chủ nghĩa dân tộc, sở hữu công cộng của các nguồn lực kinh tế (nhƣ
tại các nền kinh tế mệnh lệnh), dự định mở rộng bảo đảm xã hội bằng cách cung cấp bảo
hiểm theo một dải rộng các sự kiện và trƣờng hợp các chính phủ mới tham gia vào các
hoạt động công nghiệp.
Sự ổn định chính trị cũng có thể ảnh hƣởng đến nhu cầu bảo hiểm. Khi bảo hiểm nhân thọ

đƣợc nhận thức có liên quan đến tầm nhìn dài hạn, sự ổn định kinh tế và chính trị có thể
dẫn đến một ngành công nghiệp bảo hiểm vững mạnh. Môi trƣờng chính trị không ổn
định sẽ làm suy giảm nhu cầu bảo hiểm (đặc biệt từ các công ty bảo hiểm địa phƣơng) bởi
vì các cá nhân có xu hƣớng mất niềm tin vào khả năng của các nhà bảo hiểm trong việc
thực hiện lời hứa của họ.
Các chính phủ cũng xác định môi trƣờng cạnh tranh cho các ngành công nghiệp đất nƣớc.
Một vấn đề cạnh tranh quan trọng mà các chính phủ phải đối mặt là liệu có cho phép sự
cạnh tranh quốc tế xâm nhập vào thị trƣờng nội địa hay không. Một số chính phủ coi các
nhà cạnh tranh quốc tế nhƣ là nhân tố tích cực thúc đẩy tăng trƣởng và hiệu quả, với nội
dung rằng đó là nguồn cho cả vốn tài chính và sự thành thạo cho thị trƣờng địa phƣơng và
thậm chí là một phƣơng tiện để đa dạng hóa rủi ro càng rộng rãi càng tốt. Ngƣợc lại, có
những quan điểm coi đó là nhân tố tiêu cực ảnh hƣởng xấu đối với sự phát triển của thị
trƣờng nội địa vì cho rằng các hãng bảo hiểm nƣớc ngoài vốn rất mạnh về tài chính có thể
giành lấy bảo hiểm cho những rủi ro tốt nhất, vì lẽ đó làm suy yếu và thậm chí có thể đe
dọa sự tăng trƣởng của ngành công nghiệp bảo hiểm nội địa.
Các chính phủ cũng có thể có sự ảnh hƣởng không trực tiếp đến sự tăng trƣởng của ngành
công nghiệp bảo hiểm thông qua sự cung cấp của họ các nguồn khác của các khoản tiết
kiệm dài hạn. Dòng lƣơng hƣu hào phóng có thể là sự không khuyến khích đối với sự

24
tăng trƣởng của các hợp đồng tiết kiệm dài hạn trong bảo hiểm nhân thọ. Ngƣợc lại, vẫn
có một vấn đề tranh cãi về một trong những lý do mà ngành công nghiệp bảo hiểm nhân
thọ tại Đức phát triển mạnh mẽ là do sự nhận thức rộng rãi rằng dòng lƣơng hƣu công
cộng sẽ không thể thỏa mãn đƣợc những hứa hẹn của nó.
Cuối cùng, hệ thống luật lệ quản lý các định chế có thể là nhân tố tiêu cực, hoặc tích cực
ảnh hƣởng đến sự phát triển của bảo hiểm. Nếu các quy định quản lý minh bạch, rõ ràng,
đầy đủ và có hiệu lực, đó sẽ là nhân tố tích cực thúc đẩy sự tham gia thị trƣờng của các
định chế, còn ngƣợc lại hệ thống luật chƣa hoàn chỉnh sẽ là một trở ngại đáng kể cho sự
thâm nhập thị trƣờng của tất cả các ngành trong đó có ngành kinh doanh bảo hiểm.
1.1.5.4 Các nhân tố xã hội

Trong nhóm các nhân tố xã hội này, tác động đến sự phát triển của ngành bảo hiểm bao
gồm 2 yếu tố: các yếu tố văn hóa và các tiêu chuẩn xã hội.
Các yếu tố văn hóa có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ thâm
nhập của bảo hiểm vào thị trƣờng. Nhƣ đã phân tích, tại rất nhiều nƣớc đặc biệt tại Châu
á, các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đƣợc mua với mục đích đầu tiên nhƣ một cách tiết
kiệm. Vì vậy những nƣớc với xu hƣớng tiết kiệm cao thƣờng có sự xâm nhập của bảo
hiểm vào thị trƣờng cao hơn. Theo những khác biệt văn hóa thì phƣơng Đông thƣờng tiết
kiệm nhiều hơn phƣơng Tây và những khu vực phía bắc thƣờng có xu hƣớng tiết kiệm
nhiều hơn các khu vực phía nam. Bắc Mỹ là thị trƣờng bảo hiểm lớn nhất thế giới vào
năm 1999 với tổng phí trực tiếp chiếm đến 36% tổng phí bảo hiểm trực tiếp toàn thế giới.
Có 2 quốc gia có thị trƣờng bảo hiểm đƣợc đánh giá lớn nhất trên thế giới là Hoa Kỳ và
Nhật bản (thống kê năm 2000)
Trong một vài nền văn hóa, các tiêu chuẩn xã hội cũng có ảnh hƣởng đến sự xâm nhập
của bảo hiểm. Ví dụ, tại Hàn quốc, sẽ bị coi là bất lịch sự khi từ chối một lời mời từ
những ngƣời bạn thân hoặc họ hàng. Bảo hiểm lại thƣờng đƣợc bán chủ yếu qua phƣơng
thức vận động (từ ngƣời này đến ngƣời kia, qua các mối quan hệ quen biết), do vậy rất
nhiều hợp đồng đã đƣợc bán ở Hàn quốc chỉ với mục đích không bị cho là bất lịch sự.

×