Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

578 Ứng dụng mô hình Hwa Ert-Cheng để phân tích vai trò của nông nghiệp Việt Nam, giai đoạn 1986 – 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 63 trang )


1


PHẦN MỞ ĐẦU

0.1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu.
Nông nghiệp, bao gồm nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), lâm nghiệp và thủy
sản, là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt là trong giai đoạn đầu
quá trình công nghiệp hoá của các quốc gia đang phát triển, tốc độ tăng trưởng của
ngành nông nghiệp ảnh hưởng nhất định đến tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và vì những mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ (MGDs), các tổ chức quốc tế, các nhà kinh tế học vẫn tiếp tục quan tâm nghiên
cứu, tranh luận, minh chứng, thiết lập những mô hình có ý nghĩa về phương diện lý
thuyết lẫn thực tiễn về mối quan hệ và vai trò của nông nghiệp trong tăng trưởng kinh
tế, phát triển nông thôn, bảo đảm an toàn lương thực thực phẩm, xóa đói giảm nghèo,
nâng cao đời sống của người dân, và bảo vệ tài nguyên - môi trường…
Trong trường hợp Việt Nam, kể từ khi thống nhất đất nước, Chính phủ Việt Nam
đã có những chiến lược và kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội đầy tham vọng,
nhưng không thành công vì nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là đã quá chú
trọng vào phát triển công nghiệp mà xem nhẹ nông nghiệp. Do vậy, đến năm 1986
Chính phủ Việt Nam đã chính thức áp dụng chính sách Đổi mới toàn diện, từng bước cải
cách về kinh tế để hỗ trợ cho chiến lược phát triển quốc gia theo định hướng. Mục tiêu
xuyên suốt của quá trình phát triển là công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, xây dựng
nền kinh tế độc lập-tự chủ, thích ứng với hội nhập kinh tế thế giới, với một cơ cấu hiện
đại hợp lý công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ. Một trong những mục tiêu chủ yếu của sự
phát triển là xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, giảm bớt
khoảng cách chênh lệch về thu nhập của các hộ gia đình giữa các vùng lãnh thổ và giữa
nông thôn với thành thị đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Chính phủ cũng quan tâm
việc duy trì và phát triển một nền kinh tế bền vững, nhằm tránh xu hướng phát triển


không cân đối có thể dẫn đến tình trạng hình thành những đô thị lớn cùng với những
khó khăn về xã hội và môi trường trong các đô thị lớn mà các nước đang phát triển khác
đã từng vấp phải… Theo tiến trình đó, phát triển nông nghiệp-nông thôn được nhìn nhận
là điểm căn bản trong chiến lược phát triển toàn diện của Việt Nam.



2


Có những bằng chứng phản ánh trong 20 năm đổi mới đất nước từ cuối năm
1986 cho đến nay, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng về phát triển kinh tế.
Trong suốt giai đoạn 1986-2004 GDP toàn bộ nền kinh tế trung bình hàng năm tăng
mạnh trên 7% và đạt đỉnh cao trong các năm 1990-1997 với hơn 8%. Riêng GDP của
ngành công nghiệp đạt mức tăng trưởng hàng năm là 9.2%, tăng nhanh hơn các ngành
khác trong nền kinh tế. Sự chuyển đổi kinh tế đầy ấn tượng này diễn ra trong phạm vi
kinh tế vĩ mô. Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát, đưa mức siêu lạm phát từ ba con
số của năm 1986-1989 đến năm 1997 chỉ còn 3,6%, ngoại trừ các năm 2000-2001 có
dấu hiệu giảm phát, và hiện nay giữ ở mức một con số. Về lao động-việc làm, ở giai
đoạn này, tăng trưởng về lao động-việc làm đạt mức trung bình hàng năm là 2.6%, trong
đó theo các ngành công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ tương ứng là 3.3%, 1.2% , và
6.6%. Thu nhập bình quân đầu người cũng không ngừng được nâng cao với tăng trưởng
hàng năm 5.2%
1
, hỗ trợ cho giảm hơn một nửa tỷ lệ nghèo từ trước năm 1990 xuống
còn 29% vào năm 2002 theo chuẩn quốc tế… Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trước
năm 1988 hầu như là con số không, đến năm cuối năm 2004 tổng vốn FDI tích luỹ đã là
26.7 tỷ USD (với 5.130 dự án còn hiệu lực). Điều này chứng tỏ những nhà đầu tư nước
ngoài đã tin tưởng hơn vào cải cách kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp
tục cam kết duy trì những chính sách bảo đảm sự hòa nhập chặt chẽ hơn với nền kinh tế

toàn cầu bằng cách tích cực tham gia vào những tổ chức quốc tế như ASEAN (1996),
APEC (1997), ký Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2000, và hiện đang
đàm phán gia nhập WTO…
Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất về hiệu quả của công cuộc cải cách
kinh tế ở Việt Nam chính là sự phát triển nông nghiệp theo định hướng thị trường: trong
đó, những vấn đề có ý nghiã quyết định bắt đầu từ việc giao quyền sử dụng đất cho các
hộ nông dân và tự do hóa giá cả vật tư - sản phẩm nông nghiệp. Nhờ vậy, cho đến nay,
ngành nông nghiệp Việt Nam đã duy trì được mức tăng trưởng trung bình hàng năm với
3.7%, hiện đóng góp 22% GDP nền kinh tế, giải quyết hàng triệu việc làm ở nông thôn
với một sự chuyển dịch nhẹ: lao động nông nghiệp năm 2004 còn sấp xỉ 58% so với
năm 1985 là 72%. Trước cải cách, Việt Nam phải nhập khẩu lương thực – có năm trên
một triệu tấn, và tình trạng suy dinh dưỡng diễn ra phổ biến với mức độ nghiêm trọng.


1
Số liệu tăng trưởng về việc làm, lao động, thu nhập đầu người (giá 1994) bình quân trong giai đoạn
1986-2004 do tác giả tính toán theo Niên giám Thống kê Việt Nam các năm, có khác biệt nhỏ so với chi
tiết liên quan trong các báo cáo của Chính phủ.



3


Sau cải cách, bằng việc đẩy mạnh các biện pháp thuỷ lợi, khai hoang, tăng vụ, áp dụng
giống mới và chính sách khuyến khích phù hợp, sản xuất lương thực và các nông sản
phẩm đa dạng khác đã tăng trưởng đáng kể giúp Việt Nam bảo đảm được an ninh lương
thực quốc gia, và hơn thế nữa tiến đến xuất khẩu từ những năm cuối thập niên 80. Ngày
nay Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo,
cà phê, tiêu, điều, cao su và thủy sản… góp phần vào tích lũy ngoại tệ cho quốc gia

2
. Có
thể đánh giá tổng quát rằng trong 20 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã phát triển
tương đối toàn diện. Những thành tựu của nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào sự
ổn định kinh tế - xã hội Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo kinh tế thị
trường, đó là nhịp độ tăng trưởng GDP nhanh trên 7% năm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ hiện đại với cơ cấu ngành tương ứng
trong GDP hiện nay là 40% - 22% - 38%, cải thiện đời sống của người dân và xóa đói
giảm nghèo, tạo tiền đề đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam hiện vẫn đứng trước những thử thách lớn
trong tiến trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Thứ nhất, nhiều
nguồn tiềm năng to lớn của nông nghiệp-nông thôn chưa được khai thác có hiệu quả,
đặc biệt là đất đai và lao động. Thứ hai, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch chậm, không
cân đối; qui mô sản xuất vừa nhỏ bé vừa chưa theo sát yêu cầu của thị trường, mà ngay
cả thị trường cũng kém phát triển. Thứ ba, cơ sở vật chất kỹ thuật của nông nghiệp
(đường giao thông, điện, thủy lợi tưới tiêu…) còn thấp kém đã làm hạn chế việc tiếp cận
thị trường, cũng như hỗ trợ gia tăng năng suất ruộng đất, năng suất lao động. Thứ tư,
năng suất lao động nông nghiệp thấp, vì giới hạn bởi chuyên môn sản xuất-quản lý, lao
động thủ công còn phổ biến, máy móc cơ giới nông nghiệp thường do những “kỹ sư
chân đất” nghiên cứu ứng dụng. Thứ năm, hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi ngành nông
nghiệp phải cạnh tranh với các nước trong khu vực có trình độ phát triển cao hơn, có lợi
thế so sánh về các mặt hàng nông sản tương tự như Việt Nam
3
. Hệ quả là, thu nhập và
đời sống của nông dân còn thấp, trên 90% người nghèo sống ở nông thôn, một bộ phận
khá lớn đồng bào dân tộc vẫn sống trong đói nghèo. Ngoài ra, còn nhiếu điểm đáng

2
Hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, sau Thái Lan, với khả năng xuất
khẩu khoảng 4 triệu tấn/năm. Cuối những năm 2000, xuất khẩu nông sản và thủy sản chiếm tỷ lệ 30% kim

ngạch xuất khẩu; năm 2004, riêng kim ngạch xuất khẩu của nhóm bốn mặt hàng gạo, cà phê, cao su và
thủy sản đã chiếm đến 17.3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
3

Lợi thế so sánh của Việt Nam chủ yếu mới là lợi thế do nguồn lao động rẻ và tận dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên là chính, trên thực tế những lợi thế này đang mất dần đi.




4


quan ngại khác như vấn đề sở hữu ruộng đất, khoa học-kỹ thuật-khuyến nông trong sản
xuất nông nghiệp, gìn giữ môi trường và phát triển nông nghiệp bền vững v.v…cần
nghiên cứu, giải quyết mà trong phạm vi giới hạn của đề tài về mô hình và vai trò của
ngành nông nghiệp sẽ không thể bao quát hết được.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các cá nhân, hay các tổ chức trong và
ngoài nước về vị trí - vai trò của nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong những giai
đoạn khác nhau, cũng như về nhiệm vụ - những vấn đề cần giải quyết của nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam cho các năm 2001-2010 hay cho nông nghiệp bền vững với tầm
nhìn 2020. Ở đây, chúng tôi mong muốn góp vào tiếng nói chung đó với luận văn tốt
nghiệp: "Ứng dụng mô hình Hwa Erh-Cheng để phân tích vai trò của nông
nghiệp Việt Nam, giai đoạn 1986-2004". Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi ứng
dụng mô hình kinh tế lượng của Hwa Erh-Cheng để kiểm chứng vai trò nông nghiệp
Việt Nam trong nền kinh tế quốc gia suốt chặng đường chuyển đổi 1986-2004, và xem
xét những chính sách cần thiết để hỗ trợ phát triển nông nghiệp Việt Nam trong một
tương lai gần - giai đoạn 2006-2010.
0.2. Mục đích nghiên cứu.
Trước hết, thiết nghĩ đơn giản nhất và trực tiếp nhất, luận văn nghiên cứu này

liệu có đáp ứng được yêu cầu đào tạo theo chương trình Cao học niên khóa 2002-2005,
ngành kinh tế phát triển của nhà trường hay không?
Thứ đến, nghiên cứu về vai trò của nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 1986-
2004 thông qua mô hình Hwa Erh-Cheng lượng hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng nông
nghiệp với tăng trưởng công nghiệp và nền kinh tế cho kết quả thế nào? để từ đó kiểm
chứng mức độ phù hợp giữa lý thuyết và thực tiễn về vai trò nông nghiệp đối với nền
kinh tế trong trường hợp Việt Nam.
Và cuối cùng, trong tiến trình chuyển đổi kinh tế-xã hội của đất nước theo hướng
công nghiệp hóa-hiện đại hóa và bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, có thể đề đạt những
chính sách áp dụng nào để phát triển nông nghiệp, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh
tế Việt Nam từ nay đến năm 2010.





5


0.3. Phương pháp luận.
Luận văn của chúng tôi được thực hiện bằng cách tiếp cận các khung lý thuyết
và mô hình về vai trò của nông nghiệp đối với tăng trưởng công nghiệp và tăng trưởng
kinh tế tại các nước đang phát triển; trong đó tập trung nghiên cứu vấn đề trên cơ sở mô
hình Hwa Erh-Cheng để lượng hoá vai trò của ngành nông nghiệp Việt Nam đối với
ngành công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong giai đoạn 1986-2004.
Luận văn này kết hợp các phương pháp thống kê, đồ thị, so sánh và phân tích,
kinh tế lượng ứng dụng với với sự hỗ trợ của phần mềm EViews 3.0 và Excel 2003.
Nguồn dữ liệu chủ yếu được thu thập và khai thác số liệu thứ cấp liên quan trong
Niên giám Thống kê Việt Nam (1990, 1995, 2000, và 2004), Asian Development Bank
Key Indicators (2004, 2005), ADB Key Indicators of Developing Asian and Pacific

Countries (1999); từ website của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam và một số tổ
chức quốc tế; ngoài ra còn kế thừa những kết quả nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp
(vai trò và sự đóng góp của nông nghiệp; năng suất ruộng đất và năng suất lao động
nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1976-1999) của TS. Đinh Phi Hổ, Khoa Kinh tế phát
triển, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
0.4. Kết cấu đề tài nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm ba chương chính: thứ nhất,
Vai trò nông nghiệp đối với phát triển kinh tế tại các nước đang phát triển: lý thuyết, mô
hình và bài học kinh nghiệm; thứ hai, Ứng dụng mô hình Hwa Erh-Cheng để phân tích
ảnh hưởng của tăng trưởng nông nghiệp đối với công nghiệp và kinh tế của Việt Nam
giai đoạn 1986-2004; và thứ ba, Gợi ý chính sách phát triển nông nghiệp, tạo tiền đề đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ nay đến năm 2010.














6


Chương 1 – VAI TRÒ CỦA NÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN:LÝ THUYẾT, MÔ HÌNH VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM


Hầu như có rất ít nước trên thế giới (ví dụ như vùng lãnh thổ - nền kinh tế Hồng
Kông hay Singapore) có thể duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững mà không
cần phải bảo đảm tăng trưởng nông nghiệp trước hoặc trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế. Những điển hình thành công của các nước châu Á cho thấy chỉ có thể bảo đảm
tăng trưởng kinh tế nhanh trên cơ sở xây dựng một nền tảng vững mạnh ban đầu từ khu
vực nông nghiệp - nông thôn. Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và
Trung Quốc đều chú trọng đầu tư vào nông nghiệp và đạt được những mức tăng trưởng
nhanh cả trong nông nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Báo cáo Phát triển Con người
của UNDP (1997) cũng chỉ rõ, phát triển nông nghiệp mạnh mẽ là đặc tính của các nước
đã thành công trong tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo trong các thời kỳ khác nhau.
Lịch sử phát triển lại cho chúng ta nhận thấy những hình ảnh khác. Trong quá
trình chuyển đổi nền kinh tế, đa số các nước đang phát triển đều rơi vào cái bẫy nghèo
khổ (Poverty Trap) hay nói cách khác là rơi vào cái “vòng lẩn quẩn của nghèo khổ”. Đó
là tình trạng, xét trên hai khía cạnh kinh tế và xã hội, chứa đựng các yếu tố có tính nhân
quả, tác động kềm giữ quốc gia trong cảnh đói nghèo và kém phát triển.
4
Để thoát khỏi
tình trạng đó, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các nước đang phát triển
thường chọn mô hình phát triển công nghiệp hoá được cho là thích hợp để thúc đẩy đạt
mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, đồng thời nâng cao thu nhập cho người dân. Họ đã
lãng quên nông nghiệp đóng vai trò quan trọng (phổ biến) trong việc thực hiện mục tiêu
kinh tế, đặc biệt đối với các nước có lợi thế so sánh về tiềm năng tự nhiên gắn với nông
nghiệp .

4

Xem Đinh Phi Hổ (2003). Kinh tế nông nghiệp – Lý thuyết và Thực tiễn. Về khía cạnh kinh tế: Xuất
phát từ mức thu nhập bình quân đầu người thấp dẫn đến tích luỹ, đầu tư, và năng suất thấp, rồi trở lại thu
nhập thấp. Về khía cạnh xã hội: Xuất phát từ sinh đẻ nhiều (dân số tăng nhanh) dẫn đến suy dinh dưỡng,
bệnh tật cao, đông con, và đưa đến dốt nát (cơ hội học tập thấp), rồi ảnh hưởng trở lại sinh đẻ nhiều.



7


Thực vậy, nông nghiệp tạo ra phần lớn sản lượng và việc làm trong những giai
đoạn đầu của quá trình phát triển, nên nông nghiệp đã được đề cập trong hầu hết những
lý thuyết về phát triển kinh tế (Peter Timmer, 1988). Qua thời gian, những lý thuyết này
tiếp tục được nghiên cứu, tranh luận và bổ sung, nhưng khái quát có thể phân biệt chúng
theo hai nhóm chính: quan điểm cổ điển coi nông nghiệp như là ngành chỉ đóng góp
“tiêu cực” (khiêm tốn) cho tăng trưởng kinh tế trong những năm 1950 và 1960, và quan
điểm cận đại coi nông nghiệp như là ngành dẫn dắt cho công cuộc công nghiệp hóa
trong những năm 1970 và 1980. Ngoài ra, còn có những quan điểm khác không kém
phần quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn đối với các nước đang phát triển trong quá trình
chuyển đổi kinh tế: lý thuyết thay đổi cơ cấu của trường phái tân cổ điển và mô hình
tăng trưởng kinh tế ở châu Á gió mùa của Harry T. Oshima. Trong chương này, chúng
tôi sẽ tập trung trình bày khung lý thuyết theo những quan điểm và mô hình tăng trưởng
liên quan đến phạm vi của đề tài nghiên cứu.

1.1. Lý thuyết về vai trò của ngành nông nghiệp đối với phát triển kinh tế ở các
nước đang phát triển.
1.1.1. Quan điểm cổ điển: Mô hình hai khu vực của Lewis.
Những lý thuyết gia thuộc trường phái cổ điển, đứng đầu là Adam Smith, David
Ricardo, Thomas Malthus, và đại biểu xuất sắc trong giữa thế kỷ XX là Arthur Lewis
5

,
xem xét sự phát triển kinh tế như là một quá trình tăng trưởng của việc phân bổ các yếu
tố sản xuất, đặc biệt là lao động, từ ngành nông nghiệp với đặc trưng sử dụng công nghệ
truyền thống và năng suất thấp sang ngành công nghiệp hiện đại với năng suất cao hơn.
Sự đóng góp của nông nghiệp được đánh giá là “tiêu cực”, hoạt động chủ yếu chỉ là
nguồn cung cấp thực phẩm và lao động hơn là nguồn động lực của sự phát triển.
Mặc dù giữ vai trò khiêm tốn, nhưng tăng trưởng nông nghiệp vẫn được xem
như sự cần thiết cho quá trình chuyển đổi nền kinh tế, vì hai lý do: (i) nông nghiệp bảo
đảm việc cung cấp thực phẩm nhằm mục đích tránh việc gia tăng giá thực phẩm và tiền
lương thực tế mà điều này có thể làm suy yếu phát triển công nghiệp; và (ii) nông
nghiệp tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên chính – đất đai sẵn có – như một nguồn

5
Xem tiểu sử tóm tắt của Arthur Lewis trong phần phụ lục.



8


đầu vào cộng thêm “không tốn chi phí” cho sự phát triển mà điều này có thể không cạnh
tranh với các nguồn lực dành cho phát triển công nghiệp (Lewis, 1954).
Mô hình hai khu vực (mô hình kinh tế nhị nguyên) của Arthur Lewis đưa ra vào
giữa thập niên 1950. Mô hình của Lewis dựa trên giả định nền kinh tế gồm hai khu vực:
(i) khu vực nông nghiệp/nông thôn truyền thống (KVNN) có năng suất lao động thấp,
tiền lương duy trì ở mức tối thiểu, với sản phẩm biên của lao động nông nghiệp bằng
không: MPL
A
= 0, và do đất đai ngày càng khan hiếm, trong khi dân số - lao động ngày
càng tăng, nên dẫn đến tình trạng dư thừa lao động trong KVNN; (ii) khu vực công

nghiệp / thành thị hiện đại (KVCN) có năng suất lao động cao, tiền lương công nhân cao
và tương đối ổn định, do đó có sức thu hút được lao động dư thừa từ KVNN chuyển
sang.
Khởi thuỷ, mô hình Lewis tập trung phân tích sự chuyển dịch lao động từ
KVNN sang KVCN và sự gia tăng sản lượng công nghiệp cũng như nhân dụng KVCN
thời kỳ 1950-1970 ở các nước đang phát triển. Theo mô hình, sẽ có khả năng mở rộng
KVCN mà vẫn không làm suy giảm tổng sản phẩm KVNN, trên cơ sở bảo đảm các điều
kiện: (1) tiền lương công nhân giả định không đổi, tổng sản phẩm công nghiệp tăng, lợi
nhuận của nhà tư bản công nghiệp tăng; tuy nhiên, tiết kiệm từ lợi nhuận trong KVCN
phải được tái đầu tư mở rộng sản xuất; (2) tiền lương trong KVCN cao hơn thu nhập
trung bình ở KVNN (thông thường là cao hơn khoảng 30%) thì sẽ khuyến khích lao
động nông nghiệp (L
A
) chuyển sang lao động công nghiệp (L
I
).
Trong các điều kiện như thế thì khả năng chuyển dịch lao động từ KVNN sang
KVCN là hoàn toàn co dãn. Quá trình này sẽ diễn ra liên tục cho đến khi hết lao động
dư thừa trong KVNN. (Xem Sơ đồ 1.1).
Nếu KVCN muốn tiếp tục thu hút lao động từ KVNN, tiền lương công nhân bây
giờ phải cao hơn vì MPL
A
> 0. Lợi nhuận công nghiệp sẽ giảm. Do đó, để mở rộng sản
xuất và tìm kiếm lợi nhuận, nhà tư bản công nghiệp sẽ lựa chọn yếu tố khác thay thế lao
động (công nghệ thâm dụng vốn chẳng hạn), quá trình tăng trưởng sẽ tiếp diễn.
Mô hình Lewis cho thấy tăng trưởng của nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở
tăng trưởng của công nghiệp, thông qua tích luỹ vốn từ thu hút lao động dư thừa của
khu vực nông nghiệp. Quá trình này sẽ tạo nên hai tác dụng: (i) di chuyển bớt lao động
ra khỏi nông nghiệp để bố trí cho công nghiệp, chỉ giữ lại số lao động cần thiết để tạo ra




9


sản lượng phù hợp, từ đó năng suất lao động nông nghiệp có thể tăng lên; (ii) việc di
chuyển này sẽ tạo điều kiện tăng lợi nhuận trong công nghiệp, từ đó kích thích nhà đầu
tư mở rộng sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế.
Sơ đồ 1: Mô hình chuyển đổi lao động giữa hai khu vực của Lewis


Khu vực
Nông nghiệp
Khu vực
Công nghiệp
A
W*
E
W
A
I’
I
A’

L*
L
0

0
X

Y
W
I
W
W
Nguồn: Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hoá từ nông nghiệp: Lý luận, thực tiễn và
triển vọng áp dụng ở Việt Nam; theo Yotopoulos, Pan A. (1996).
Ghi chú: AA’ và I I’ tương ứng là đường cầu lao động nông nghiệp và công nghiệp;
W
A
và W
I
là tiền lương lao động nông nghiệp và công nghiệp; W* là tiền lương cân
bằng ở hai khu vực; E là điểm cân bằng không còn lao động dư thừa trong nông nghiệp.
Trên thực tế, lý thuyết của Lewis được áp dụng để bảo vệ cho việc xây dựng
chiến lược phát triển dựa vào công nghiệp hóa của nhiều nước đang phát triển trong
những năm 1950 và 1960, mà thực tế thấy rõ ràng là khuynh hướng phát triển đô thị
trong những quyết định của các chính phủ về chính sách và đầu tư trong suốt thời kỳ



10


này (Lipton, 1977). Vào năm 1961, mô hình của Lewis được hai nhà kinh tế John Fei và
Gustav Ranis nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện.
6
1.1.2. Quan điểm của trường phái tân cổ điển (New Classical School).
Cuối thế kỷ 19, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và tác động đến sự hình
thành và phát triển các trào lưu tư tưởng kinh tế mới. Trường phái tân cổ điển xuất hiện

trong bối cảnh đó, đứng đầu là Alfred Marshall (1842-1924) với tác phẩm kinh điển
“Các nguyên lý của kinh tế học”. Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng: (i) dưới tác động
của khoa học và công nghệ, có nhiều cách kết hợp khác nhau của các nhân tố đầu vào,
đặc biệt là chất lượng ruộng đất không ngừng nâng cao, do đó đường tổng sản phẩm sẽ
không nằm ngang, MPa > 0; và (ii) khi thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, tiền
lương lao động công nghiệp (W
I
) sẽ tăng chứ không phải là không đổi. (Xem Sơ đồ
1.2).
Sơ đồ 1.2: Thay đổi về lao động ở hai khu vực (theo phái tân cổ điển)


L
A
L2
L3
L1
TP
A
L
3
Y3
Y2
Y1
L1
L2
L3
L4
W1
W4

W
I
S
I
D
I

6
Bổ sung của John Fei và Gustar Ranis (1961) cho mô hình của Lewis: (i) Phân tích vai trò to lớn hơn
của nông nghiệp trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá thông qua việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
nâng cao năng suất và sản lượng nông nghiệp; (ii) Giới địa chủ cũng đóng góp vào quá trình tăng trưởng
thông qua việc tích luỹ và đầu tư; (iii) Tỷ lệ lao động thặng dư từ nông nghiệp chuyển sang khu vực công
nghiệp là hàm số của tỷ lệ gia tăng dân số; (iv) Tăng trưởng của vốn trong công nghiệp được qui định bởi
tăng trưởng lợi nhuận trong công nghiệp, thặng dư trong nông nghiệp và tiến bộ kỹ thuật; (v) Ngoại
thương, vay mượn và viện trợ nước ngoài cũng đóng góp quan trọng trong quá trình tăng trưởng.




11


Nguồn : Đinh Phi Hổ (2005), Kinh tế phát triển, chưa xuất bản.
Ghi chú: L
A
và L
I
: lao động trong khu vực nông nghiệp và công nghiệp
TP
A

: tổng sản phẩm nông nghiệp; W
I
: tiền lương lao động công nghiệp
D
I
: đường cầu lao động công nghiệp; S
I
: đường cung lao động công nghiệp
Lý do: Tổng sản phẩm nông nghiệp giảm, cung nhỏ hơn cầu, giá nông sản tăng
và tiền lương khu vực nông nghiệp tăng. Như vậy khu vực công nghiệp sẽ bất lợi trong
quá trình thực hiện tăng trưởng thông qua thu hút lao động từ nông nghiệp.
Để khắc phục tình trạng này cần phải giải quyết: (i) đầu tư cho nông nghiệp ngay
từ đầu để nâng cao năng suất lao động nhằm giảm áp lực tăng giá nông sản; (ii) đồng
thời đầu tư cho cả công nghiệp phát triển theo chiều sâu nhằm giảm áp lực về cầu lao
động từ chính khu vực này. Nói chung, khoa học kỹ thuật là yếu tố không thể thiếu để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và khi tiến đến giai đoạn phát triển thì các sáng chế, các
hoạt động kinh tế đều có khuynh hướng thiên về công nghệ thâm dụng vốn.
1.1.3. Mô hình Harry T. Oshima.
Harry T. Oshima phát hiện mô hình hai khu vực của Lewis không hoàn toàn phù
hợp đối với các nước đang phát triển thuộc khu vực châu Á gió mùa chủ yếu dựa vào
nền sản xuất nông nghiệp (nền văn minh lúa nước). Thực tế tại các nước châu Á gió
mùa có hai mùa mưa – nắng phân biệt, do vậy (i) khu vực nông nghiệp có dư thừa lao
động, nhưng thường chỉ xảy ra trong lúc thời vụ căng thẳng như gieo trồng và thu hoạch
(thường tập trung vào trước và sau mùa mưa), còn thì lao động ở nông thôn vẫn thiếu
việc làm vào mùa khô hạn – thường gọi là thời kỳ nông nhàn, và hệ quả là năng suất lao
động rất thấp; (ii) việc thực hiện đầu tư chiều sâu đồng thời cho cả khu vực nông nghiệp
và khu vực công nghiệp hầu như không khả thi, vì các nguồn lực và trình độ lao động có
hạn của các nước đang phát triển.
Do vậy, Oshima đề nghị thực hiện quá trình tăng trưởng qua ba giai đoạn:
Giai đoạn 1 - Mở đầu quá trình tăng trưởng: Đầu tư phát triển cho nông nghiệp

theo chiều rộng nhằm đa dạng hoá sản xuất, giải quyết nhu cầu lao động – việc làm
ngay tại khu vực nông nghiệp – nông thôn mà không cần dịch chuyển qua khu vực công
nghiệp. Hướng này phù hợp với nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp, trình độ kỹ thuật
nông nghiệp tương đối và không đòi hỏi vốn đầu tư lớn như đầu tư cho khu vực công
nghiệp.



12


Giai đoạn 2 - Hướng tới việc làm đầy đủ: Con đường hướng tới việc làm đầy đủ
bao gồm năm bước. Thứ nhất, xây dựng cơ sở hạ tầng về kinh tế và xã hội… tạo thêm
cơ hội việc làm trong thời kỳ nông nhàn. Thứ hai, việc làm đầy đủ sẽ làm tăng thu nhập
cho nông dân, từ đó tăng nhu cầu thay đổi cơ cấu sản xuất của bản thân ngành nông
nghiệp (mở rộng chăn nuôi, thuỷ sản, lâm nghiệp). Thứ ba, sẽ tạo việc làm cho các hoạt
động phi nông nghiệp cho các thành viên trong gia đình nông dân. Kế tiếp, đa dạng hoá
tăng việc làm phi nông nghiệp ở các doanh nghiệp (non-agribusiness) với qui mô nhỏ và
vừa. Cuối cùng, liên kết phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ…
Giai đoạn 3 - Sau khi có đầy đủ việc làm: Ở giai đoạn này, thị trường lao động
phát triển, tiền lương thực tế tăng nhanh, hầu hết các nông trại, nhà máy phải thực hiện
cơ giới hoá, thay thế lao động chân tay, năng suất lao động tăng; đất đai giới hạn và
chuyển đổi mục đích sử dụng cho công nghiệp và phát triển đô thị; lao động nông
nghiệp chuyển sang khu vực công nghiệp và phi nông nghiệp nhưng sản xuất nông
nghiệp vẫn tiếp tục tăng để bảo đảm lương thực-thực phẩm, nguyên liệu chế biến công
nghiệp, và tham gia xuất khẩu… Khi đó, nền kinh tế sẽ chuyển sang nền kinh tế công
nghiệp và dịch vụ.
1.1.4. Quan điểm cận đại.
Đầu những năm 1960, đã có một sự nhìn nhận mới trong quan điểm phát triển

dẫn đến tranh luận về vai trò trung tâm của nông nghiệp như là động lực của tăng trưởng
kinh tế, đặc biệt là trong những giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. Chúng tôi
tạm gọi đây là “quan điểm cận đại”. Cách lập luận về một nền nông nghiệp vững mạnh
và năng động, như một con đường dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh và công bằng,
được Johnston và Mellor đề xướng từ năm 1961. Theo các nhà kinh tế này, phát triển từ
bản thân ngành nông nghiệp sẽ là tiền đề kích thích tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua
năm mặt chính: (i) cung cấp lương thực-thực phẩm cho tiêu dùng trong nước; (ii) cung
cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp; (iii) cung cấp lao động-việc làm cho các
ngành phi nông nghiệp ngày càng phát triển; (iv) là nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu



13


nông sản phẩm; và (v) tạo nên tích lũy trong nước và cung cấp vốn đầu tư cho nền kinh
tế.
7

Tuy nhiên, sự đóng góp của nông nghiệp có xu hướng giảm dần theo quá trình
phát triển kinh tế vì các yếu tố: (i) độ co dãn của cầu theo thu nhập nhỏ hơn độ co dãn
của nông nghiệp; (ii) sự mở rộng sản xuất nông nghiệp theo một số lượng cố định hay
giảm dần của lực lượng lao động nông nghiệp; và (iii) tiến bộ kỹ thuật (từ nông nghiệp
và các ngành) sẽ “ủng hộ” cho sản xuất công nghiệp
8
.
Không bao lâu, vào năm 1964, Kuznets đã xây dựng được công thức định lượng
mức độ đóng góp của nông nghiệp đối với tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế, nó
được công nhận và mang tên ông – công thức Kuznets. Thực tế, nông nghiệp – được
khuyến khích ở phần lớn các nước châu Á mới nổi – và từ kinh nghiệm của các nước

này có thể thấy sự đóng góp tích cực của nó ở hai điểm chủ yếu. Thứ nhất, người ta
công nhận rằng có thể nhanh chóng chuyển đổi ngành nông nghiệp truyền thống sang
ngành hiện đại thông qua việc tiếp nhận khoa học-công nghệ, từ đó tạo nên sự đóng góp
lớn cho tăng trưởng chung. Thứ hai, các nhà kinh tế có thể đưa ra những bằng chứng
thực nghiệm xác định một cách rõ ràng mối liên hệ đủ mạnh trong sự tăng trưởng và
nhiều hiệu ứng lan toả của nông nghiệp đối với các ngành phi nông nghiệp. Dưới đây là
những đúc kết thực nghiệm quan trọng.
Johnston và Mellor (1961) xác định rằng nông nghiệp có mối liên hệ trực tiếp và
hữu cơ với các ngành công nghiệp nói chung, công nghiệp chế biến nông sản nói riêng.
Chenery và Syrquin (1975) thiết lập mô hình phân tích vai trò của nông nghiệp đối với
tăng trưởng các ngành phi nông nghiệp. Tương tự, nghiên cứu thực nghiệm trong những
giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, Pryor và Holt (1999), hay Gemmell và cộng sự
(2000) cho biết phần lớn ngành sản xuất công nghiệp có liên quan đến nông nghiệp.

7
Ngoài năm hình thức đóng góp trên, Peter Timmer (1992) còn nhấn mạnh đến vai trò ngày càng lớn của
nông nghiệp trong việc bảo đảm an toàn về lương thực, nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các nguồn tài
nguyên và xóa đói giảm nghèo. Timmer cũng lập luận rằng các chính phủ thường "học qua thực hành"
(learning by doing) và chính nhờ kinh nghiệm điều phối các chính sách phát triển nông nghiệp-nông thôn
mà ngày càng trở nên điêu luyện hơn trong việc đề ra chính sách. Theo ông, tất cả các yếu tố trên đều góp
phần thúc đẩy tăng trưởng chung cho nền kinh tế. Và trong một số công trình nghiên cứu gần đây,
Timmer tranh luận rằng, nói chung, trong các nền kinh tế đang phát triển, mỗi một phần trăm tăng trưởng
trong nông nghiệp thường đi đôi với mức tăng trưởng gần như tương tự trong các ngành phi nông nghiệp.
8
Xem Claudio Bravo-Ortega và Daniel Lederman (2005). Agriculture and National Welfare around the
World: Causality and International Heterogeneity Since 1960. World Bank Policy Research Working
Paper 3499, February 2005. The World Bank. tr.11-12.




14


Hiệu ứng nhiều mặt của nông nghiệp cũng có ý nghĩa: Ravallion và Datt (1996) có
nghiên cứu khác giả định rằng mối liên hệ nông nghiệp-công nghiệp còn phụ thuộc vào
loại hình đặc biệt của phát triển kinh tế đô thị. Công trình gần đây của Perry và cộng sự
(2005) cho thấy ở Mỹ La tinh, sau khi tính toán theo mô hình IO, nông nghiệp chiếm
đến 50% GDP nền kinh tế, cao hơn số liệu thống kê chính thức…
Chúng tôi tâm đắc với mô hình Hwa Erh-Cheng. Dựa vào dữ liệu thu thập của
các nước đã và đang phát triển: 63 quốc gia trong giai đoạn 1960-1970 và 87 quốc gia
trong giai đoạn 1970-1979, Hwa Erh-Cheng đã thực hiện và công bố công trình thực
nghiệm: “The Contribution of Agriculture to Economic Growth: Some Empirical
Evidence” (1983). Trong công trình này, ông đã phát triển mô hình của Chenery-
Syrquin (1975) và đưa ra những bằng chứng thuyết phục về vai trò, sự đóng góp có ý
nghĩa của ngành nông nghiệp không những đối với nền kinh tế của các nước công
nghiệp hóa và còn đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển.
Phần tiếp theo chúng tôi sẽ phân tích chi tiết hơn về những vai trò của nông
nghiệp, theo quan điểm cận đại, trong quá trình tăng trưởng kinh tế của các nước đang
phát triển.
1.2. Vai trò chủ yếu của nông nghiệp, theo quan điểm cận đại, trong tăng trưởng
kinh tế ở các nước đang phát triển.
Lý thuyết về kinh tế phát triển cho thấy vai trò của nông nghiệp rất đa dạng,
nhưng dựa trên quan điểm cận đại có thể phân tích những vai trò của chúng qua hai khía
cạnh chính: trước hết nông nghiệp kích thích tăng trưởng nền kinh tế; và thứ đến nông
nghiệp là nguồn căn bản của tăng trưởng kinh tế và xu hướng chung của sự đóng góp ấy
giảm dần tương đối trong dài hạn.
1.2.1. Nông nghiệp kích thích tăng trưởng kinh tế.
Đầu tiên, nông nghiệp kích thích tăng trưởng GDP nền kinh tế thông qua việc
nông nghiệp cung cấp lương thực và thực phẩm - nhu cầu cơ bản nhất của con người.
Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, để mở rộng sản lượng, giải quyết việc làm, nền

kinh tế đòi hỏi đáp ứng hai tiền đề: (i) cung cấp lương thực - thực phẩm với khối lượng
lớn và ổn định; (ii) đồng thời cung cấp lương thực - thực phẩm với giá thấp và ổn định.
Có quan điểm tranh luận rằng đóng góp của nông nghiệp vào lĩnh vực này không
quan trọng, vì sự thiếu hụt lương thực - thực phẩm cho tiêu dùng trong nước có thể giải



15


quyết bằng con đường nhập khẩu. Thực tế, đối với các nước đang phát triển, ngoại tệ rất
khan hiếm, phải dành nguồn ngoại tệ thiếu hụt này
9
cho nhập khẩu thiết bị, công nghệ,
nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp và cả những vật tư cần thiết khác cho sản xuất
nông nghiệp. Như vậy, chi phí cơ hội dùng ngoại tệ nhập khẩu lương thực - thực phẩm
rất cao, không khả thi.
Thứ hai, nông nghiệp kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua việc nông nghiệp
cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Đặc
điểm xuất phát của các nền kinh tế đang phát triển là công nghiệp chế biến được coi là
ngành chìa khoá (key sector): điều này thể hiện ở tỷ trọng của ngành công nghiệp chế
biến chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản lượng công nghiệp, sau đó mới mở rộng sang các
ngành khác của công nghiệp. Nền kinh tế cũng đòi hỏi đáp ứng được hai tiền đề: (i)
cung cấp khối lượng lớn nguyên liệu đồng nhất về chất lượng sản phẩm; (ii) cung cấp
nguyên liệu với giá thấp và ổn định.
Vai trò này của nông nghiệp có thể định lượng bằng chỉ tiêu: Tỷ trọng giá trị
nguyên liệu có nguồn gốc từ nông sản so với giá trị sản lượng công nghiệp chế biến.
- Nếu tỷ lệ này tiến gần đến mức 100% : phản ánh trình độ sơ chế, công nghệ thấp
của công nghiệp chế biến, cũng có nghĩa là vai trò nông nghiệp quan trọng.
- Nếu tỷ lệ này tiến gần đến mức 0% : phản ánh vai trò nông nghiệp giảm dần đi.

- Theo World Bank, tỷ trọng giá trị nguyên liệu từ nông nghiệp so với giá trị sản
lượng công nghiệp chế biến ở các quốc gia như sau (%):
Quốc gia Trung bình Cao nhất
Thu nhập thấp (GNP đầu người < 390 USD) 46 96
Thu nhập trung bình (GNP đầu người 390-3.500 USD) 41 92
Thu nhập cao (GNP đầu người > 3.500 USD) 14 36

Nguồn: Đinh Phi Hổ, (2003), Kinh tế Nông nghiệp – Lý thuyết và Thực tiễn.
Thứ ba, trong tiến trình chuyển đổi, nông nghiệp là nguồn cung cấp lao động rất
dồi dào (không phải là không khan hiếm) cho các ngành phi nông nghiệp ngày càng
phát triển, đặc biệt là nhu cầu lao động của những ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp

9
Nguyễn Hoàng Bảo (2003), Mô hình về hai sự thiếu hụt (Two Gap Model), Chuyên đề Kinh tế phát triển
cho sinh viên Cao học Khóa 12, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.



16


chế biến thâm dụng lao động mới nổi lên trong nền kinh tế. Có thể xem xét diễn biến
mức độ dịch chuyển nguồn lao động nông nghiệp (ký hiệu là ΔLa) theo mô hình sau:
ΔLa = ΔPa – Sa ; trong đó:
ΔPa : dân số trong độ tuổi lao động bổ sung hàng năm cho nông nghiệp.
Sa : số lao động nông nghiệp dịch chuyển ra khỏi ngành nông nghiệp.
Sự thay đổi của lao động nông nghiệp ΔLa có thể giúp chúng ta nhận diện được
nền kinh tế nhất định hiện phát triển ở một trình độ nào, tương ứng với mức thu nhập
bình quân đầu người thấp (có thể xem là đồng nhất với giai đoạn đầu công nghiệp hoá
(1)), với mức thu nhập trung bình (giai đoạn chuyển đổi (2)) và mức thu nhập cao (giai

đoạn phát triển (3)). Các trường hợp có thể xảy ra như sau :
- (1) Giai đoạn đầu công nghiệp hoá ΔLa > 0
- (2) Giai đoạn chuyển đổi: ΔLa = 0
- (3) Giai đoạn phát triển: ΔLa < 0
Lưu ý rằng, trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế khả năng sẽ xảy ra điểm
ngoặt - Turning Point (xem Hộp 1.1). Trong thực tiễn, cần dự báo tốt để hoạch định
chiến lược phát triển kinh tế phù hợp.
Thứ tư, nông nghiệp kích thích tăng trưởng GDP nền kinh tế thông qua việc
nông nghiệp cung cấp ngoại tệ cho nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá
của các nước đang phát triển, ngành công nghiệp còn non trẻ, xu hướng phổ biến là
công nghiệp thay thế nhập khẩu (để tiết kiệm ngoại tệ và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước), trình độ công nghệ thấp, khó cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do vậy,
chủ yếu nguồn thu ngoại tệ trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá là từ xuất khẩu nông
sản phẩm, tuy chỉ xuất khẩu ở dạng nông sản phẩm thô, giá thấp.
Cuối cùng, nông nghiệp đóng vai trò kích thích tăng trưởng nền kinh tế thể hiện
qua việc nông nghiệp cung cấp vốn đầu tư cho nền kinh tế, hoặc trực tiếp, hoặc gián
tiếp.
(a) Về cách trực tiếp: Đó là thông qua thuế đánh vào khu vực nông nghiệp như
thuế đất, thuế xuất nhập khẩu… Đây là nguồn thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn
đầu công nghiệp hóa. Kinh nghiệm của Nhật cho thấy: Thuế đất nông nghiệp chiếm đến
80% nguồn thu ngân sách trong hai thập kỷ đầu quá trình công nghiệp hóa.



17


(b) Về cách gián tiếp: Đó là thông qua chính sách tỷ giá giữa mặt hàng nông sản
phẩm và hàng công nghệ phẩm cũng như vật tư nông nghiệp theo xu hướng cánh kéo
10

.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy: các nước đang phát triển đều áp dụng cả hai cách, trong
đó cách gián tiếp phổ biến hơn.
Việc áp dụng tỷ giá cánh kéo đã đưa đến các quan điểm tranh luận:
- Không công bằng đối với nông nghiệp-nông thôn-nông dân (Unfair).
- Không công bằng, nhưng không có sự lựa chọn nào khác (No Option). Vấn đề
đặt ra là điều tiết nông nghiệp như thế nào trong quá trình công nghiệp hóa?
Kinh nghiệm của Đài Loan: Áp dụng Mô hình 3S – Điều tiết nông nghiệp trong
quá trình công nghiệp hóa qua ba giai đoạn, bằng chính sách thuế và chính sách tỷ giá.
- Squeezing : “vắt ép”, huy động tối đa nguồn lực nông nghiệp.
- Substaning: duy trì cho phát triển nông nghiệp ổn định.
- Subsidizing: trợ cấp, rộng hơn là bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước.
1.2.2. Nông nghiệp đóng góp vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế – Xu
hướng phổ biến trong dài hạn.
(1) Đo lường mức đóng góp của nông nghiệp: công thức Kuznets (1964).
Simon Kuznets (1964)
11
đã tìm ra cách định lượng về đóng góp của nông nghiệp
đối với tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế. Nhưng mãi đến những năm 80 công
thức Kuznets mới được áp dụng rộng rãi trên thế giới.
Giả định: Để thuận tiện trong tính toán và phân tích ứng dụng, Kuznets giả định
rằng nền kinh tế bao gồm hai khu vực: khu vực nông nghiệp và khu vực phi nông
nghiệp (tức các ngành công nghiệp và dịch vụ còn lại), và gọi:
Y : tổng GDP của nền kinh tế;
Ya và Yn : GDP của khu vực nông nghiệp và khu vực phi nông nghiệp;
Rn và Ra : tốc độ tăng trưởng GDP tương ứng của khu vực nông nghiệp và khu
vực phi nông nghiệp;
Pn và Pa : tỷ trọng GDP của các khu vực so với GDP nền kinh tế.

10

Giá cánh kéo giữa công nghiệp và nông nghiệp được đo bằng tỷ lệ giá hàng công nghiệp trên giá hàng
nông nghiệp. Xu hướng giá cánh kéo là một trong những yếu tố quyết định đến sự phân bổ nguồn lực giữa
nông nghiệp và công nghiệp. Nếu tỷ giá cánh kéo biến đổi theo hướng có lợi cho hàng hóa nông nghiệp
thì lượng thặng dư nông nghiệp được giữ lại ở khu vực nông nghiệp-nông thôn càng lớn, và ngược lại.
11
Xem tiểu sử tóm tắt của Simon Kuznets ở phần phụ lục.



18


Mức độ đóng góp của nông nghiệp, sẽ ký hiệu là đối với tăng trưởng
chung của nền kinh tế được xác định bởi biểu thức mang tên Kuznets như sau:
a
GDP%
C
a
GDP%
C
=
1
1
Ya
RnPn
Y
RaPa
Δ
=
Δ

⎛⎞⎛⎞
+
⎜⎟⎜⎟
⎝⎠⎝⎠
(*)

Công thức Kuznets (*) khá đơn giản, nên chủ yếu được áp dụng trong phạm vi
của từng quốc gia-vùng lãnh thổ (khác với kinh tế lượng có thể thực nghiệm ở nhiều
lĩnh vực với phạm vi rộng hơn). Việc ứng dụng công thức Kuznets trong thực tiễn cho
thấy, trong quá trình công nghiệp hóa, xu hướng đóng góp của nông nghiệp vào tốc độ
tăng trưởng GDP của nền kinh tế có thể diễn ra theo các tình huống:
(a) Giai đoạn xuất phát: Ra > Rn và Pa > Pn
Nông nghiệp giữ vai trò chìa khoá, tác động mạnh tăng trưởng nền kinh tế.
(b) Giai đoạn chuyển đổi: Ra < Rn và Pa > Pn
Đóng góp của nông nghiệp giảm dần.
(c) Giai đoạn phát triển: Ra < Rn và Pa < Pn
Đóng góp của nông nghiệp giảm mạnh, nền kinh tế hoàn thành công nghiệp hóa.
(2) Xu hướng chung về sự đóng góp của nông nghiệp vào tăng trưởng kinh
tế trong dài hạn.
Ghatak và Ingersent (1984) và Đinh Phi Hổ (2000) nghiên cứu sự đóng góp của
nông nghiệp trong tốc độ tăng trưởng GDP của nhiều nước đã và đang phát triển trong
các thập niên 1960 và 1970 và ghi nhận như sau:
1960 1978
8 nước ở châu Á và Mỹ La tinh (a) 50% - 24% 28% - 11%
5 nước công nghiệp phát triển (b) 9% - 1% 5% - dưới 1%
Việt Nam (c) 30% (1985) 11% (1998)





19


Ghi chú: (a) bao gồm Bangladesh, India, Sri-Lanka, Pakistan, Indonesia, Egypt,
Thailand, và Colombia; (b) bao gồm Mexico, Italy, United Kingdom, Japan, USA; (c)
nghiên cứu của Đinh Phi Hổ, (2000).
Như vậy, bằng chứng thực tiễn trên thế giới cho thấy, xu hướng đóng góp của
nông nghiệp vào tốc độ tăng trưởng GDP nền kinh tế là rất quan trọng trong ngắn hạn
và giảm dần tương đối trong dài hạn.

1.3. Mô hình HWA ERH-CHENG (1983) lượng hóa mối liên hệ giữa tăng
trưởng công nghiệp với tăng trưởng nông nghiệp và nền kinh tế.
Như đã đề cập ở phần 1.1,

trong những thập niên 60, 70 và 80, các nhà kinh tế
học đã phát triển lý thuyết về vai trò của nông nghiệp đối với nền kinh tế của các nước
đã và đang phát triển. Điểm tương đồng là họ không phủ nhận vai trò của nông nghiệp.
Nhưng xem xét ở những giai đoạn phát triển khác nhau của các quốc gia, một vấn đề thú
vị dẫn đến tranh luận: Liệu tăng trưởng nông nghiệp vẫn liên quan và duy trì vai trò
quyết định hay quan trọng trong suốt tiến trình phát triển? Đi tìm câu trả lời, một giả
thiết đã được đặt ra: Tăng trưởng nông nghiệp không những ảnh hưởng đến tăng trưởng
chung của nền kinh tế trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa (GDP đầu người thấp) mà
còn tiếp tục ảnh hưởng trong giai đoạn phát triển (GDP đầu người cao).
Bằng công trình thực nghiệm của mình, Hwa Erh-Cheng là một trong những
người ở châu Á đi tiên phong giải quyết vấn đề thú vị đó.
1.3.1. Mô hình HWA ERH-CHENG và những giả định của mô hình.
Xây dựng mô hình:
Để kiểm tra giả thiết nêu trên, Hwa Erh-Cheng (1983)
12
đã

thiết lập một mô hình toán kinh tế có dạng tổng quát:
00
2
I = f A, lnY, (lnY)
⎡⎤
⎢⎥
⎣⎦
+ u (1.1)
Trong đó:
0
I : tốc độ tăng trưởng hàng năm của khu vực công nghiệp, %.
0
A
: tốc độ tăng trưởng hàng năm của khu vực nông nghiệp, %.
lnY : tốc độ tăng trưởng hàng năm thu nhập bình quân đầu người, %, với biến Y
là GDP (được coi như thu nhập) bình quân đầu người hàng năm, đơn vị tiền tệ.


12
Xin xem phụ lục : Tóm tắt tiểu sử của Hwa Erh-Cheng.



20


u : sai số ngẫu nhiên.
Giả định của mô hình:
Tốc độ tăng trưởng hàng năm của khu vực công nghiệp
và tốc độ tăng trưởng hàng năm của khu vực nông nghiệp là một hàm phi tuyến (có

dạng bậc 2) với tốc độ tăng trưởng hàng năm thu nhập bình quân đầu người.
0
2
II
I = α lnY + β (lnY) + ε
I
A
(1.2)
0
2
AA
A= α lnY + β (lnY) + ε
(1.3)
Trong đó, và là các sai số ngẫu nhiên.
I
ε
A
ε
GDP được xem như một biến đại diện cho các giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Tương quan hồi qui giữa và thể hiện theo phương trình:
I
ε
A
ε
IA
ε = λε + u ,
λ
>0 (1.4)
Trong đó, u cũng là sai số ngẫu nhiên.
Biến đổi và rút gọn các phương trình (2), (3) và (4), ta có:

0 0
2
I = λA + αlnY + β(lnY) + u (1.5)

Phương trình (5) là một phương trình hồi qui tuyến tính.
Trong đó:
Biến phụ thuộc là .
o
I
Các biến độc lập là , lnY và (lnY)
o
A
2

1.3.2. Kết quả thực nghiệm của mô hình trong thập niên 1960 và 1970.
Số liệu của biến phụ thuộc (hay biến được giải thích) và các biến độc lập (hay
biến giải thích) thu thập từ 63 nước trong thập niên 60 và từ 87 nước trong thập niên 70.
Cả hai mẫu này đều bao gồm cả nước phát triển cũng như nước đang phát triển
13
. GDP
bình quân đầu người của hai giai đoạn xem như tiêu biểu cho giai đoạn đầu và giai đoạn
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá. Kết quả phân tích hồi qui tóm tắt ở Bảng 1C.





13
Hwa Erh-Cheng (1983), “The Contribution of Agriculture to Economic Growth: Some Empirical
Evidence” , the World Bank. Table 3 và Table 4, trang 13-14. Trong luận văn, các tables này được thể

hiện trong các Bảng 1A và Bảng 1B ở phần phụ lục.



21


Bảng 1C: Kết quả phân tích hồi qui Mô hình Hwa Erh-Cheng

Tham số của các biến độc lập
(biến giải thích)
Phương
trình
hồi qui
Giai đoạn
phát triển
Tham số
trục tung
0
A

lnY (lnY)
2
Hệ số
tương quan
R
2
1 1960-1970 -24.331 -
9.277 *
(2.7)

-0.658 *
(2.8)
0.12
2 1970-1979 -40.594 -
13.068 **
(3.4)
-0.904 **
(3.4)
0.13
3 1960-1970 -16.730
0.491 *
(2.1)
6.548
(1.8)
-0.458
(1.8)
0.18
4 1970-1979 -29.873
0.722 **
(4.1)
9.477 **
(2.6)
-0.649 *
(2.6)
0.28

Ghi chú: biến phụ thuộc; (*) với mức ý nghĩa thống kê 5%; (**) với mức ý nghĩa 1%.
0
I


Kết quả Bảng 1C cho thấy:
-

Trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa: tăng trưởng nông nghiệp giải thích đến
0.06% của tăng trưởng công nghiệp (so sánh phương trình hồi qui (1) và (3)).
-

Trong giai đoạn phát triển: tăng trưởng nông nghiệp giải thích đến 0.15% của
tăng trưởng công nghiệp (so sánh phương trình hồi qui (2) và (4)).
-

Trong cả hai giai đoạn, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp có tương quan có ý
nghĩa với tốc độ tăng trưởng nông nghiệp.
1.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia ở châu Á trong việc lựa chọn chiến lược
phát triển nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa.
1.4.1. Phát triển nông nghiệp ở Đài Loan.
Đài Loan đã đầu tư lớn vào lĩnh vực nông nghiệp từ đầu những năm 50, vì phát
triển nông nghiệp được coi là cơ sở quan trọng cho phát triển kinh tế. Năm 1953, chính
phủ Đài Loan đã bắt đầu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 4 năm lần thứ nhất theo
hướng củng cố tăng trưởng nông nghiệp, phát triển nền kinh tế hiện đại, và nâng cao thu
nhập quốc dân. Chỉ trong vòng hai thập kỷ, Đài Loan đã chuyển từ nền kinh tế chủ yếu
dựa vào nông nghiệp với lao động dư thừa sang nền kinh tế mà công nghiệp giữ vị trí trụ
cột. Chúng ta sẽ xem xét sau đây những bằng chứng của tiến trình đó.



22


Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Nếu năm 1952 nông nghiệp chiếm 32% GDP nền

kinh tế thì năm 1972 chỉ còn 12%, và năm 1982 là 7%; trong khi tỷ trọng GDP của công
nghiệp tăng từ gần 20% lên 40% và 45% ở cùng kỳ
14
. Nhưng trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu có hai điểm đáng chú ý. Thứ nhất, với chính sách “đất cho người cày” đã
giúp tổng sản lượng nông nghiệp Đài Loan vẫn duy trì được mức độ gia tăng: nó đã tăng
gấp đôi từ 22.1% năm 1952 đến 44.5% vào năm 1966, rồi tiếp tục tăng lên 88.4% năm
1985 và 104.4% năm 1996 (lấy điểm phân tích vào năm 1991 = 100). Ngành nông
nghiệp bảo đảm và thể hiện được vai trò-nhiệm vụ quan trọng của mình. Thứ hai, nhịp
độ tăng trưởng của nông nghiệp giảm dần từ 4.8% ở giai đoạn đầu xuống còn 2.1% ở
giai đoạn 1981-1995, trong khi nhịp độ tăng trưởng của công nghiệp đã là 13.3% vào
giữa những năm 60, rồi nhanh chóng vượt xa sản xuất nông nghiệp, không những ở tỷ
trọng trong GDP mà còn ở nguồn xuất khẩu chính.
Về chuyển dịch cơ cấu lao động: Năm 1952, khoảng 56% lao động làm việc
trong nông nghiệp và chỉ có 17% trong công nghiệp. Năm 1972, lao động nông nghiệp
giảm mạnh xuống còn 37% trong khi lao động công nghiệp tăng nhanh đến 33%. Xu
hướng này tiếp diễn trong giai đoạn 1970-1980, cho đến năm 1992 thì tỷ lệ nhân công
làm trong khu vực nông nghiệp chiếm 12% và trong khu vực công nghiệp là 38%.
Hiển nhiên, cơ sở và điều kiện cho chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp sang
công nghiệp hóa cơ bản hoàn thành vào đầu những năm 70. Đài Loan xứng đáng là một
trong bốn con hổ của châu lục, góp phần tạo nên sự thần kỳ Đông Á.
1.4.2. Phát triển nông nghiệp ở Hàn Quốc.
Khi phân tích sự tăng trưởng với tốc độ cao và vững vàng của nền kinh tế Hàn
Quốc trong những năm 60 và 70 người ta không thể không đề cập đến vai trò của nhà
nước.
Ở đây, nhà nước đã tập trung các nguồn lực cần thiết cho các ngành kinh tế trong
chiến lược phát triển kinh tế dài hạn (các kế hoạch ngũ niên), chấp nhận rủi ro khi tập
trung phát triển công nghiệp trước, nhưng lấy hiệu quả từ công nghiệp để phát động tinh
thần nông dân, dựa vào cộng đồng để phát triển nông nghiệp-nông thôn.
15


14
Nguồn số liệu ở phần 1.4.1: Đặng Kim Sơn (2001), trích dẫn theo IFPRI, 1985 và Nguyễn Điền 1997.
15
Trong bối cảnh vừa thoát khỏi cuộc nội chiến, xã hội còn bất ổn, Hoa kỳ bắt đầu cắt giảm viện trợ, nên
Chính phủ quân sự Park Chung Hee lên nắm quyền từ năm 1961 buộc phải thiên về kinh tế chỉ huy hơn,
nhưng vẫn tôn trọng những qui luật khe khắt của thị trường. Chính phủ mới đã xây dựng và triển khai Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1962-1966) theo hướng đó.



23


Vào Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1962-1996, chính sách phát triển nông nghiệp
của Hàn Quốc chú trọng vào việc giải quyết tốt nhất vấn đề tự túc lương thực, và mặt
khác, nông nghiệp phải hỗ trợ tất cả cho chiến lược tăng trưởng công nghiệp định hướng
vào xuất khẩu. Sau khi áp dụng những biện pháp cấp bách để thanh toán số nợ nặng lãi
ở nông thôn (tháng 5/1961) và cải cách thể chế trong nông nghiệp: các hợp tác xã, các tổ
chức tín dụng nông thôn… Chính phủ bắt đầu tiến hành chương trình tự túc lương thực.
Đã có hơn 110.000 ha đất bỏ hoang được qui hoạch và đưa vào sản xuất nông nghiệp,
tăng 6% diện tích đất nông nghiệp; hơn một vạn hộ gia đình thị dân nghèo, vốn là nông
dân bị chiến tranh đẩy ra thành phố nay quay trở lai nông thôn, được huy động vào vùng
đất mới khai hoang. Nhờ những nỗ lực đó, tăng trưởng nông nghiệp đạt mức khả quan
theo mức gia tăng của GDP và tỷ lệ tự túc lương thực đạt đến 90%.
Vào Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1967-1971), tăng trưởng công nghiệp vượt trội,
đất đai được chuyển dần sang cho sản xuất công nghiệp và phát triển đô thị; làn sóng di
dân từ nông thôn ra thành thị ngày càng gia tăng, nên tăng trưởng nông nghiệp suy
giảm, tỷ lệ tự túc lương thực chỉ còn 69% và có dấu hiệu mất cân đối giữa thành thị và
nông thôn. Vì vậy, đầu những năm 70, chính phủ đã có sự can thiệp mạnh mẽ hơn vào

khu vực nông nghiệp
16
. Chính sách nông nghiệp được điều chỉnh lại: cải thiện cơ sở hạ
tầng nông thôn (điện khí hóa, nâng cấp đường làng, làm mới nhà cửa...), đẩy mạnh cuộc
cách mạng xanh, mở rộng mạng lưới khuyến nông với sự tham gia của nông dân, nhà
nước hỗ trợ giá lương thực thiết yếu. Kết quả tổng hợp từ thực hiện chính sách nông
nghiệp trong thập niên 60-70 khá tốt, với tỷ trọng GDP của nông nghiệp giảm từ 33%
xuống còn 15% GDP nền kinh tế, và tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chuyển dịch
mạnh từ 80% xuống còn 32%. Tuy nhiên, khoảng cách phát triển giữa nông thôn và
thành thị lại gia tăng: vào năm 1967, thu nhập bình quân hộ gia đình nông thôn bằng
91% thu nhập bình quân hộ gia đình ở thành thị; vào năm 1979 chỉ số này chỉ còn 77%.
Tiếp đến thập niên 80 và 90, sau cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1979, nền kinh
tế Hàn Quốc dần khôi phục và tăng trưởng mạnh từ năm 1983 và chiến lược phát triển
công nghiệp hướng ngoại được coi như thành công. Chính sách nông nghiệp ở giai đoạn
mới này cũng được điều chỉnh cho phù hợp với sự chuyển đổi mạnh mẽ về cơ cấu kinh
tế-lao động trong nước và những yêu cầu mới của xu hướng tự do hoá đầu tư và thương


16
Kể cả phát động phong trào “cộng đồng nông thôn mới” (Saemaul) phấn đấu cho cuộc sống tốt đẹp
hơn, đề cao tinh thần hợp tác nhà nước và nông dân cùng làm được phát triển rộng rãi.



24


mại quốc tế. Đầu những năm 80, Hàn Quốc hướng đến công nghiệp hoá trong nông
nghiệp-nông thôn với các chương trình đa dạng hoá và tăng qui mô sản xuất nông
nghiệp, tạo thêm nhiều ngành nghề phi nông nghiệp và việc làm ở nông thôn, nhằm tăng

năng suất nông nghiệp và nâng cao thu nhập. Năm 1989, Chính phủ đưa ra các "biện
pháp tổng hợp phát triển nông thôn" để thúc đẩy các chương trình đó. Năm 1993, Chính
phủ ban hành "Chính sách nông nghiệp mới" (NPA - New Policy on Agriculture): đầu
tư hiện đại hoá quá trình sản xuất và tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, xoá bỏ hạn điền 3
ha mà cải cách nông nghiệp năm 1950 trước đây ấn định, chuyển từ trợ cấp sang bảo hộ
có chọn lọc những sản phẩm có sức cạnh tranh quốc tế, đào tạo nhân lực và nâng cao
trình độ quản lý nông nghiệp mang phong cách công nghiệp.
1.4.3. Phát triển nông nghiệp ở Trung Quốc.
Trung Quốc bắt đầu công cuộc cải cách kinh tế kể từ năm 1978. Trong hai thập
kỷ, nông nghiệp đã có đóng góp lớn vào quá trình tăng trưởng kinh tế.
Ở giai đoạn 1978-1985, nền kinh tế tăng trưởng rất nhanh với mức bình quân
hàng năm 9.4%. Chính phủ ban hành chính sách nông nghiệp "tái điều chỉnh, củng cố,
và cải tiến" bao gồm: xác định hộ nông dân là chủ thể kinh tế của khu vực nông nghiệp-
nông thôn; tự do hoá sản xuất-tiêu thụ nông sản phẩm; thực hiện tăng giá nông sản
phẩm chính cũng như sản phẩm ngành nghề phụ ở nông thôn để khuyến khích đầu tư
phát triển sản xuất vào lĩnh vực này. Nhờ đó, nông nghiệp-nông thôn khởi sắc, giải
quyết được vấn đề thiếu ăn thiếu mặc cho đa số người dân, tạo môi trường thuận lợi cho
những cải cách tiếp theo: tăng trưởng bình quân hàng năm là 10.1% (tăng nhanh hơn
công nghiệp), đóng góp 42.3% GDP nền kinh tế.
Ở giai đoạn 1986-1990, chính phủ tiếp tục giảm thiểu rồi tiến đến xoá bỏ sự
kiểm soát giá cả vật tư, nông sản phẩm chính và sản phẩm ngành nghề phụ (áp dụng chế
độ giá thị trường sản phẩm), giảm dần trợ giúp đối với các ngành công nghiệp phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Cuối giai đoạn này, khu vực nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng
lớn trong GDP kinh tế với 51.8% nhưng tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp chậm hẳn
lại chỉ còn 5.5% hàng năm (trong khi công nghiệp là 8.4%), lạm phát có nguy cơ gia
tăng, bởi vì các nguồn lực đã bắt đầu chuyển mạnh từ nông nghiệp sang các ngành công
nghiệp và dịch vụ ở đô thị, hay sang các ngành phi nông nghiệp ở ngay nông thôn.




25


Ở giai đoạn 1991-1995, Trung Quốc đẩy mạnh việc phát triển kinh tế thị trường.
Trong nông nghiệp, quyền sử dụng đất đai được mở rộng (gia hạn sử dụng đất nông
nghiệp đến 30 năm, và lần đầu tiên thiết lập cơ cấu chuyển đổi đất đai...); thu hút đầu tư
trong và ngoài nước vào sản xuất-kinh doanh nông nghiệp, chế biến lương thực-thực
phẩm; hình thành hệ thống thị trường nông sản phẩm. Do vậy, kinh tế nông nghiệp và
nông thôn phát triển rất đa dạng, tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 3.6%. Cuối giai
đoạn này, cơ cấu kinh tế Trung Quốc đã là công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp, vai trò
của nông nghiệp trở thành thứ yếu, nông nghiệp chiếm tỷ trọng khiêm tốn với khoảng
20% GDP nền kinh tế
17
.
1.4.4. Phát triển nông nghiệp ở Thái Lan.
Vào những năm 1960, có thể nói khu vực nông nghiệp vẫn là động lực chính của
tăng trưởng kinh tế Thái Lan: ngành này chiếm hơn một phần ba (36%) GDP nền kinh
tế, trong khi của công nghiệp chỉ một phần năm (20.4%) và còn lại của các ngành khác.
Trong thập niên 60 và 70, Thái Lan đã tận dụng tối đa đất có thể canh tác ở các vùng
đồng bằng và đồi núi để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lương thực-thực phẩm; chính phủ
đã hỗ trợ đầu tư công rất lớn cho hạ tầng cơ sở, gồm đường giao thông và hệ thống tưới
tiêu đầu mối. Điều này làm dấy lên làn sóng đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, ngoài
việc duy trì sản xuất những sản phẩm chủ lực trước đây như gạo và cao su, kích thích
tăng trưởng mạnh trong nông nghiệp, thu hút từ 58% lực lượng lao động (vào mùa khô
1979) đến 71% (vào mùa mưa cùng kỳ) và góp phần tích cực giảm nghèo ở nông thôn.
Dưới áp lực của sự chuyển đổi rộng lớn trong toàn bộ nền kinh tế, với sự bùng
nổ của khu vực công nghiệp, tiền lương trong khu vực nông nghiệp tăng lên đáng kể,
nhưng giá cả nông sản phẩm lại giảm xuống. Hệ quả là: (i) tăng trưởng của khu vực
nông nghiệp giảm đi một cách tương đối so với tăng trưởng của khu vực phi nông
nghiệp trong nền kinh tế; (ii) mâu thuẫn trong giải quyết kiểm soát việc di dân từ nông

thôn ra thành thị tăng lên với đòi hỏi thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp để tăng năng
suất lao động, và cơ hội tìm kiếm việc làm trong nông nghiệp càng khó khăn, dù cho
nông nghiệp vẫn bảo đảm 40%-50% lực lượng lao động vào năm 1997; (iii) khoảng
cách giữa nông thôn và thành thị không khép lại, thu nhập từ nông nghiệp-nông thôn
còn thấp, kéo theo sự hạn chế đầu tư vào nông nghiệp; và (iv) đáng chú ý là giữa những


17
Nguồn: Viện Thông tin khoa học xã hội (1999), tr. 183-185.


×