Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.3 KB, 124 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
***




Vũ Thu Giang







Hoạt động huy động vốn tại
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
trong điều kiện mở cửa và hội nhập
kinh tế quốc tế




Chuyên ngành : Kinh tế
Mã số : 60 31 07




LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ





Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Danh Lương



HÀ NỘI - 2008

120
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 3
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN HUY
ĐỘNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 3
1.1. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động của các ngân hàng
thƣơng mại 3
1.1.1 Khái niệm, vai trò và các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương
mại trong nền kinh tế 3
1.1.1.1. Khái niệm 3
1.1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế 5
1.1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại 8
1.1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 13
1.1.2.1. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại 13
1.1.2.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động của ngân

hàng thương mại 18
1.2. Chất lƣợng huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại 21
1.2.1. Quan niệm về chất lượng huy động vốn của ngân hàng thương mại21
1.2.2. Các chỉ tiêu biểu hiện chất lượng huy động vốn của ngân hàng
thương mại 23
1.2.2.1. Tính ổn định của quy mô và cơ cấu của nguồn vốn huy động 23
1.2.2.2. Sự đa dạng của các hình thức huy động vốn 24
1.2.2.3. Tính thanh khoản của nguồn vốn huy động 26
1.2.2.4. Chi phí huy động vốn 28
1.3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động huy động vốn
của ngân hàng thƣơng mại 30

121
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại 30
1.3.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động huy động vốn
của ngân hàng thương mại 37
CHƢƠNG 2 42
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM 42
2.1.Khái quát tình hình hoạt động của Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt
Nam 42
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam 42
2.1.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của NHNTVN 44
2.1.2.1. Nguồn vốn 44
2.1.2.2. Cho vay và đầu tư 46
2.1.2.3. Các hoạt động khác 50
2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại thƣơng
Việt Nam trong thời gian qua 52

2.2.1. Quy mô và cơ cấu của nguồn vốn huy động 52
2.2.2. Độ đa dạng của các hình thức huy động vốn: 61
2.2.2.1 Độ đa dạng của các công cụ và đối tượng huy động vốn 61
2.2.2.2. Sự đa dạng về kỳ hạn và lãi suất 67
2.2.2.3. Sự đa dạng về các loại tiền tệ 72
2.2.3. Tính thanh khoản và sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn
73
2.2.4. Chi phí huy động vốn và khả năng tiết kiệm chi phí 76
2.3. Đánh giá về hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại thƣơng
Việt Nam 78

122
2.3.1. Kết quả đạt được 78
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 81
2.3.2.1. Hạn chế 81
2.3.2.2. Nguyên nhân: 83
CHƢƠNG 3 86
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HUY
ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM 86
3.1. Định hƣớng phát triển của Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam trong
thời gian tới 86
3.1.1. Chiến lược phát triển chung của Ngân hàng Ngoại thương 86
3.1.2. Chiến lược huy động vốn 87
3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại
thƣơng Việt Nam 89
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với sản phẩm 91
3.2.1.1. Đối với khách hàng thể nhân 91
3.2.1.2. Đối với khách hàng là tổ chức 97
3.2.2 Nhóm giải pháp về dịch vụ và công nghệ 98
3.2.2.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức và phát triển mạng lưới 98

3.2.2.2. Đầu tư phát triển công nghệ 100
3.2.2.3. Tăng cường công tác Marketing và quảng bá sản phẩm dịch vụ
101
3.2.2.4. Thực hiện tốt chính sách khách hàng 103
3.2.2.5. Phát triển đội ngũ nhân sự 105
3.2.3. Các giải pháp khác 107
3.2.3.1. Điều hành chính sách lãi suất linh hoạt 107
3.2.3.2. Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn 109

123
3.2.3.3. Nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường
110
3.2.3.4. Cải thiện cơ cấu nguồn vốn 111
3.2.3.5. Xây dựng được hệ thống thu thập và xử lý thông tin hiệu quả111
3.3. Một số kiến nghị đối với Nhà nƣớc và Ngân hàng Nhà nƣớc 113
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 113
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 115
KẾT LUẬN 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118


1
MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính đóng vai trò quan trọng
trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, trong giai đoạn tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, việc đẩy mạnh huy động vốn qua hệ thống ngân
hàng là một tất yếu.
Tuy nhiên, yêu cầu đặt ra cho các ngân hàng không chỉ là việc tăng khối
lượng vốn huy động để phục vụ cho nhu cầu mở rộng cho vay và đầu tư mà

quan trọng hơn là việc đảm bảo tính hiệu quả và sự an toàn trong kinh doanh,
đồng thời góp phần thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN, ổn định tình hình
tiền tệ trong nước.
Cùng với việc gia nhập WTO, ngành tài chính – ngân hàng của Việt
Nam đứng trước một vận mệnh mới, đó là sự tự do hoá thương mại trong lĩnh
vực tài chính – ngân hàng. Mức độ cạnh tranh ngày một cao sẽ khiến cho các
ngân hàng phải tìm cách phát huy lợi thế so sánh của mình để tồn tại và phát
triển. Để đối mặt với những ngân hàng nước ngoài với tiềm lực kinh tế cùng
với các kinh nghiệm quản lý và khả năng cung cấp dịch vụ tốt hơn và chuyên
nghiệp hơn, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam không còn con
đường nào khác là phải xây dựng được cho mình một mô hình ngân hàng hoạt
động theo chuẩn mực quốc tế nhưng vẫn phát huy được bản sắc của mình.
Là một trong số các ngân hàng thương mại lớn, giữ vai trò quan trọng
trong nền kinh tế và đang phấn đấu trở thành một ngân hàng tầm cỡ trong khu
vực, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đang nỗ lực để khẳng định vị thế của
mình. Để đạt được mục tiêu này, trước tiên, Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam phải chuẩn bị cho mình một nền tảng vốn vững mạnh, từ đó làm điểm
tựa để Ngân hàng triển khai các hoạt động nhằm tăng sức cạnh tranh của

2
mình. Nền tảng vốn vững mạnh không chỉ được xem xét dưới góc độ quy mô
mà cần phải quan tâm hơn nữa đến mặt chất lượng của nguồn vốn huy động.
Trên cơ sở lý luận về huy động vốn và chất lượng huy động vốn của hệ
thống ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường và trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc phân tích thực trạng hoạt động huy
động vốn của Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn từ
2002 – nay, luận văn này xin được đề cập đến “Hoạt động huy động vốn tại
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong điều kiện mở cửa và hội nhập
kinh tế quốc tế”.


3
CHƢƠNG 1
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN HUY
ĐỘNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động của các ngân hàng
thƣơng mại
1.1.1 Khái niệm, vai trò và các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương
mại trong nền kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm
Sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải có một tổ chức kinh
doanh đặc biệt – chuyên kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ trong quan hệ vay
mượn – đó là ngân hàng thương mại, một trung gian tài chính được hình
thành lâu đời nhất.
Có thể hiểu, ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ với chức năng cơ bản:
- Nhận tiền gửi và chi trả hộ cho khách hàng;
- Sử dụng số tiền của khách hàng gửi để cho vay;
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, ngân hàng đã thực hiện thêm những dịch vụ như: chiết
khấu thương phiếu, tài trợ cho các hoạt động của chính phủ, cung cấp các
dịch vụ tài khoản tiền gửi, và cung cấp các dịch vụ khác như thanh toán quốc
tế, môi giới đầu tư, các dịch vụ ngân hàng điện tử, các dịch vụ ngân hàng tự
động,
Ở Việt Nam, khái niệm về ngân hàng thương mại được định nghĩa
trong Pháp lệnh Ngân hàng về ngân hàng thương mại, Hợp tác xã tín dụng và

4
Công ty tài chính ban hành tháng 5/1990 như sau “Ngân hàng thương mại là
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền

gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho
vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Luật
các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua tháng 12/1997 xác định: “Ngân
hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” trong đó
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dụng thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
Như vậy, ngân hàng thương mại được khẳng định là một loại doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, thực hiện hai nghiệp vụ cơ bản:
- Một là, nhận tiền gửi của khách hàng (cá nhân, tổ chức) với trách
nhiệm hoàn trả lại;
- Hai là, sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết khấu và thực hiện các
nghiệp vụ khác. Ngân hàng thương mại cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch
vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong lĩnh vực kinh tế.
Về nghiệp vụ thu hút vốn, ngân hàng thương mại thu hút vốn bằng cách
nhận tiền gửi thanh toán (tiền gửi có thể phát séc), tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn (tiền gửi có thể thanh toán ngay nhưng không cho
phép người gửi viết séc), tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Nguồn vốn từ tiền gửi
là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của ngân hàng
thương mại. Nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi
để cho vay. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại còn huy động vốn từ nhiều

5
nguồn khác nhau như vay từ Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính hoặc các
tổ chức tín dụng khác.
1.1.1.2. Vai trò của ngân hàng thƣơng mại trong nền kinh tế
Là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá, ngân hàng trở

thành yếu tố không thể thiếu và ngày gắn bó mật thiết với sự phát triển kinh tế
của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Dù trình độ phát triển của các hệ thống
tài chính ở các nước khác nhau nhưng các ngân hàng thương mại đã và sẽ còn
chiếm giữ vị trí thống trị trong số các trung gian tài chính của các nền kinh tế.
Ngân hàng có được tầm quan trọng như vậy là do bản thân nó đóng vai trò
không thế thay thế được đối với sự vận hành của nền kinh tế. Có thể kể đến
những vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế như sau:
Thứ nhất, ngân hàng thương mại với hoạt động huy động vốn và cho
vay đã đảm bảo được nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp
có điều kiện sản xuất, kinh doanh.
Ngân hàng thương mại ra đời đã trở thành nơi tích tụ tập trung vốn, là
nơi khơi dậy và thu hút mọi tiềm năng xã hội, làm cho sản phẩm xã hội tăng
lên. Giữa ngân hàng và các thành phần kinh tế có mối quan hệ kinh tế với
nhau. Nhờ vào việc thu gom những khoản tiền nhỏ, rải rác ngân hàng có thể
cung cấp cho doanh nghiệp những khoản tiền lớn trong thời gian ngắn. Đồng
thời, những cá nhân, những tổ chức có tiền nhàn rỗi tạm thời có thể gửi vào
ngân hàng để vừa có thu nhập và vừa bảo quản số tiền một cách an toàn và
hiệu quả nhất. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và đầu tư, ngân
hàng đã huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, cho vay dưới các hình
thức khác nhau đối với các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, đáp ứng
nhu cầu vốn của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

6
Thứ hai, hoạt động cả các ngân hàng thương mại góp phần tăng cường
hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế.
Ngân hàng thương mại với chức năng là một trung gian tài chính – là
chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trên thị trường, giúp cho sản xuất kinh
doanh, đồng thời vận dụng các dịch vụ đa dạng của ngân hàng để đẩy nhanh
hoạt động kinh doanh của mình. Thêm vào đó, hoạt động tín dụng của ngân

hàng là sự vận dụng cơ sở hoàn trả và lợi tức. Qua lãi suất tín dụng, ngân
hàng thúc đẩy các doanh nghiệp phải tăng cường công tác hạch toán, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng khả năng sinh lời,… để có thể hoàn
trả lãi vay và hoàn vốn cho ngân hàng mà vẫn thu được lợi nhuận.
Ngoài ra, công tác thẩm định, chỉ định cho vay hoặc đầu tư với những
dự án có hiệu quả của ngân hàng đã buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm
phương án sản xuất tối ưu, bố trí sản xuất hợp lý, hiệu quả để có cơ hội vay
vốn ngân hàng và đây là điều kiện để các doanh nghiệp sử dụng vốn vay một
cách tối ưu.
Thứ ba, ngân hàng thương mại bằng hoạt động của mình đã thực hiện
việc phân bổ vốn giữa các vùng, qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển kinh
tế đồng đều giữa các vùng trong một quốc gia.
Giữa các vùng trên một lãnh thổ có sự phát triển kinh tế - xã hội không
đồng đều mà nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên,
nguồn huy động vốn tại chỗ không đáp ứng đủ nhu cầu. Ngân hàng sẽ đứng ra
điều hoà vốn đảm bảo thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng, xoá dần sự khác
biệt về kinh tế - xã hội giữa các vùng trên lãnh thổ.
Thứ tư, tích luỹ vốn từ các ngân hàng tạo tiềm lực tài chính cho những
bước đột phá về công nghệ và đời sống xã hội.

7
Đối với các nước đang phát triển, vốn chính là chìa khoá để giải quyết
bài toán tăng trưởng kinh tế. Muốn tăng trưởng và phát triển, mỗi quốc gia
phải khai thác tối đa các nguồn lực, trong đó không thể thiếu vốn đầu tư. Vốn
không chỉ đóng vai trò là một yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất
kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến mối quan hệ nhiều chiều giữa các chủ thể
kinh tế. Cùng với nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn ngân hàng đã góp phần
thực hiện thành công nhiều dự án lớn, nhiều chương trình trọng điểm của
quốc gia. Đây là những chương trình, dự án có tác dụng không nhỏ đến việc
dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong cả nước. Đồng thời, căn cứ vào định hướng

phát triển của nền kinh tế và của từng ngân hàng mà mỗi ngân hàng đã thực
thi các chính sách tín dụng riêng của mình góp phần đáng kể vào việc phát
triển kinh tế - xã hội.
Thứ năm, hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả góp phần thực
hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia như ổn định giá cả, kiềm chế
lạm phát, tạo công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế.
Hệ thống ngân hàng thương mại thường có các phản ứng phù hợp với
sự điều chỉnh của Ngân hàng Trung ương và Chính phủ, góp phần dẫn truyền
sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô đến nền kinh tế.
Khi thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, Ngân hàng Trung ương phải sử
dụng nhiều phương thức để điều hoà lượng tiền trong lưu thông nhằm một
mặt để cung ứng đủ phương tiện thanh toán, mặt khác để giữ ổn định đồng
tiền quốc gia. Khi đó, dưới tác dụng của các công cụ của chính sách tiền tệ
như tái cấp vốn, dữ trự bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ giá, lãi suất, …
ngân hàng thương mại với chức năng tạo tiền và là một trong các chủ thể
tham gia chủ yếu vào quá trình cung ứng tiền tệ sẽ có phản ứng tích cực nhằm
điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Mặc dù, phát hành tiền và điều tiết lượng

8
tiền cung ứng là đặc quyền của Ngân hàng Trung ương nhưng phần lớn các
công cụ của chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có hiệu quả với sự hợp tác
tích cực của các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính khác như
việc chấp hành quy định về dữ trự bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng
tiền mặt và việc nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.
Nhìn chung, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, ngân hàng
thương mại ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng hơn trong việc thúc đẩy quá
trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong
nền kinh tế, góp phần ổn định và phát triển toàn bộ nền kinh tế của một quốc
gia.
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong suốt thời gian 20 năm

đổi mới vừa qua đã đóng vai trò quan trọng trong đẩy lùi và kiềm chế lạm
phát, từng bước duy trì sự ổn định của giá trị đồng tiền và tỷ giá, góp phần
thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, tín
dụng ngân hàng góp phần vào tạo việc làm cho người lao động, tăng trưởng
kinh tế, góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
1.1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thƣơng mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện các
hoạt động cơ bản sau đây:
Hoạt động huy động vốn (nhận tiền gửi)
Đây là hoạt động đầu tiên và quan trọng của một ngân hàng vì nhờ đó
mà ngân hàng tạo ra nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của mình.
Nhận tiền gửi là hoạt động tạo điều kiện cho những hoạt động khác của
ngân hàng và theo suốt quá trình tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng

9
thương mại. Nền kinh tế càng phát triển, các khoản tiền nhàn rỗi phát sinh
trong nền kinh tế ngày càng gia tăng và phong phú. Thông qua hoạt động
nhận tiền gửi, ngân hàng tập hợp được một số tiền tạm thời chưa sử dụng của
các chủ sở hữu để rồi sử dụng lượng tiền đó để tài trợ cho nền kinh tế.
Với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng thương mại huy động
vốn thông qua nhiều nguồn và bằng nhiều biện pháp khác nhau như nhận gửi
từ khách hàng, vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, phát hành các
loại giấy tờ có giá, …
Đứng trên góc độ kinh doanh thì vốn huy động được càng nhiều thì khả
năng cho vay càng lớn, tác dụng và kiểm soát đồng tiền càng được phát huy
mạnh mẽ.
Ở Việt Nam, trong vòng mười lăm năm trở lại đây, huy động vốn qua
ngân hàng là một trong những hoạt động cơ bản nằm đáp ứng nhu cầu vốn
cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây cũng là một trọng trách

của hệ thống ngân hàng thương mại nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Hoạt động sử dụng vốn
Đây là hoạt động mà ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để
cung cấp cho các đối tượng có nhu cầu phục vụ đầu tư sản xuất, kinh doanh
và tiêu dùng cá nhân với những điều kiện nhất định mà hai bên thoả thuận.
Khi đã huy động được nguồn vốn, để có thể tạo ra lợi nhuận ngân hàng
thương mại phải tiến hành “tài trợ” cho nền kinh tế. Hoạt động này bao gồm:
a, Cho vay (tín dụng)
Tín dụng ngân hàng là quan hệ giao dịch giữa ngân hàng với các chủ
thể khác trong đó ngân hàng cho chủ thể sử dụng một lượng tiền tệ trong một
khoảng thời gian được xác định trước và đổi lại, ngân hàng sẽ được nhận lại

10
lượng tiền đó kèm theo một mức lợi tức tương ứng với mức độ sinh lãi mong
đợi và các rủi ro có thể phát sinh. Nguồn vốn để cho vay là các khoản mà
ngân hàng huy động được cùng với số vốn tự có của ngân hàng.
Đây là hoạt động giữ vị trí đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định
đế sự tồn tại và phát triển của ngân hàng vì hoạt động này tạo ra cho ngân
hàng thương mại các khoản thu nhập chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng thu nhập của ngân hàng thương mại.
Dựa trên các tiêu thức khác nhau, người ta chia thành các loại cho vay
khác nhau.
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: cho vay bất động sản, cho vay
công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay cá nhân, …
+ Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Cho vay ngắn hạn đối vớicác doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá
nhân. Vốn cho vay của ngân hàng sẽ tham gia hình thành nên phần vốn ngắn
hạn của các doanh nghiệp.
Cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
và cá nhân. Đặc điểm của loại cho vay này là vốn vay sẽ tham gia cấu thành

nên tài sản cố định của các doanh nghiệp được tồn tại dưới hình thức hiện vật.
+ Căn cứ vào phương pháp hoàn trả: cho vay trả góp, cho vay hoàn trả
theo yêu cầu, …
+ Căn cứ vào thành phần kinh tế: cho vay quốc doanh và cho vay ngoài
quốc doanh.
Thông qua hoạt động tín dụng, các ngân hàng thương mại đã và đang
thực hiện chức năng xã hội của mình, góp phần làm cho sản phẩm xã hội tăng
lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó đời sống nhân dân được cải thiện.

11
Thời gian qua, hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Việt
Nam được mở rộng tới tất cả các thành phần kinh tế và dưới nhiều hình thức
như: cho vay vốn lưu động, cho vay vốn cố định, cho vay đối với sinh viên,
cho vay tiêu dùng, tín dụng thuê mua, tín dụng xoá đói giảm nghèo ở nông
thôn, … và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận như khuyến khích sản
xuất, tăng sản lượng trong nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm.
b, Đầu tư
Ngân hàng thương mại có thể sử dụng nguồn vốn để đầu tư như đầu tư
vốn trực tiếp vào các doanh nghiệp dưới dạng góp vốn, thành lập các công ty,
hùn vốn dưới hình thức liên doanh liên kết. Theo xu hướng phát triển chung,
khi một đơn vị cá biệt thiếu vốn, ngân hàng thương mại có thể hùn vốn liên
doanh liên kết nhằm hỗ trợ thực hiện sản xuất một loại sản phẩm, dịch vụ cho
xã hội. Đây cũng là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra lợi
nhuận cho ngân hàng . Trong hoạt động kinh doanh có những thời điểm phát
sinh các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi, ngân hàng có thể gửi vào các tổ chức
tín dụng khác hay đầu tư vào trái phiếu chính phủ nhằm tăng thêm lợi nhuận.
c, Cho thuê tài chính
Đây là hoạt động tín dụng trung gian dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho
thuê tài sản giữa bên cho thuê là ngân hàng thương mại với khách hàng thuê.
Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng sẽ mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó

theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho
thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng.
Hoạt động thanh toán
Các ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán để đáp ứng nhu cầu
thanh toán của nền kinh tế. Một doanh nghiệp đi mua vật tư không cần mang
theo tiền mặt để trả thay vì uỷ nhiệm cho ngân hàng chuyển một khoản tiền

12
nhất định từ tài khoản tiền gửi của mình trả cho người thụ hưởng. Một người
muốn chuyển tiền cho con du học tại nước ngoài cũng cần phải nhờ đến ngân
hàng . Ngày nay, hoạt động dịch vụ thanh toán của ngân hàng ngày càng phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Các ngân hàng đầu tư các trang thiết bị, cơ
sở vật chất, áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng để đảm bảo
thời gian thanh toán nhanh nhất và an toàn. Hàng loạt các phương thức thanh
toán được ngân hàng thực hiện như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thanh toán
séc, thanh toán bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh, thực hiện thanh toán qua
thẻ tín dụng, …
Thông qua việc giải quyết các nhu cầu về thanh toán, chi trả mà các
ngân hàng thương mại đã góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình lưu
thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn, tiết
kiệm chi phí lưu thông, do đó góp phần tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế thị
trường càng phát triển thì vai trò của ngân hàng thương mại càng được nâng
cao. Hoạt động thanh toán cũng là tiền đề để hỗ trợ các hoạt động huy động
vốn và sử dụng vốn cùng phát triển.
Các hoạt động khác:
Bên cạnh ba mảng nghiệp vụ truyền thống trên, ngân hàng thương mại
còn thực hiện nhiều hoạt động khác như quản lý ngân quỹ, dịch vụ bảo lãnh,
bảo quản vật có giá, kinh doanh ngoại tệ, vàng, chứng khoán, cung cấp các
dịch vụ uỷ thác và tư vấn, các dịch vụ bảo hiểm, …
Các hoạt động của ngân hàng thương mại có mối quan hệ mật thiết,

hữu cơ làm tiền đề, điều kiện cho nhau. Vì vây, ngân hàng thương mại cần
phải thực hiện tốt, đồng bộ tất cả các hoạt động của mình.

13
1.1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại
Để có vốn ngân hàng phải tiến hành huy động vốn từ các nguồn trong
nền kinh tế. Đây là hoạt động khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của
ngân hàng và theo suốt quá trình tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng
thương mại
Nền kinh tế càng phát triển, các khoản tiền nhàn rỗi phát sinh trong nền
kinh tế ngày càng gia tăng và ngày càng phong phú. Các ngân hàng thương
mại có thể huy động vốn từ các nguồn như dân cư, tổ chức kinh tế - xã hội,
các tổ chức tín dụng khác, …

Huy động từ dân cư:
Ngân hàng huy động vốn từ đối tượng này thông qua việc nhận tiền gửi
tiết kiệm, vay, mở và duy trì việc sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của những người muốn
dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài
chính được tính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này cao
hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm:
- Tiết kiệm không kỳ hạn: theo hình thức này, người gửi tiền gửi vào
hay rút ra bất cứ lúc nào theo nhu cầu sử dụng. Loại tiền gửi này cũng được
ngân hàng trả lãi nhưng thấp hơn so với các loại tiền gửi tiết kiệm khác.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: bao gồm hai loại:
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được hưởng lãi: loại tiền gửi này có lãi
suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.


14
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được hưởng lãi có thưởng: đây là hình
thức tiết kiệm có sức hấp dẫn và được ưa chuộng (được áp dụng từ năm 1960
ở các tỉnh miền Nam Việt Nam).
- Tiền gửi tiết kiệm có đảm bảo giá trị: đây là những khoản tiền gửi tiết
kiệm mà ngân hàng cam kết với khách hàng về việc quy đổi số tiền gửi với
một lượng vàng (hoặc ngoại tệ mạnh) tương đương, hoặc có lãi suất thay đổi.
Mục đích của loại hình này thường là huy động các nguồn trung và dài hạn,
trong đó có sự đảm bảo với người gửi một lãi suất thực dương, tránh những
rủi ro cho họ trong những điều kiện kinh tế biến động.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: loại hình này thường được sử dụng
với các cá nhân có thu nhập thấp và trung bình. Người gửi để dành một khoản
tiền gửi vào ngân hàng (thường là khoản tiền gửi tiết kiệm đều đặn hàng năm)
với ý định tích luỹ tiền cho một mục đích nhất định như xây nhà, mua ô tô, …
và cũng được hưởng lãi trên số tiền như những loại tiền gửi khác. Khi khách
hàng có nhu cầu sử dụng tiền vào những mục đích trên, nếu số dư của tài
khoản tiết kiệm chưa đủ, ngân hàng có thể hỗ trợ thêm một phần dưới hình
thức cho vay vói một lãi suất hợp lý đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Đây là
một hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính chất ổn
định, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc hỗ trợ cho các mục đích tiêu
dùng của người dân.
Tài khoản tiền gửi cá nhân
Đây là những tài khoản do khách hàng mở để gửi tiền với mục đích
sinh lời và sử dụng các phương tiện thanh toán qua ngân hàng. Nguồn vốn
này có thể là không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn tuỳ thuộc vào yêu cầu của khách
hàng.

15
Thông thường, phần lớn những khoản tiền gửi là không kỳ hạn, chủ
yếu để thực hiện giao dịch, thanh toán qua ngân hàng . Vì vậy, ngân hàng có

thể huy động được nguồn vốn khá lớn mà chi phí lại rất thấp. Tuy nhiên, việc
sử dụng nguồn tiền này lại có bất lợi vì nó không ổn định, khách hàng có thể
gửi thêm vào hoặc rút ra bất kỳ lúc nào. Vấn đề này đặt ngân hàng trước rủi
ro thanh khoản. Để sử dụng nguồn vốn này hiệu quả thì cần nghiên cứu kỹ
đặc điểm kinh doanh, thu nhập, chi tiêu của khách hàng để có kế hoạch khai
thác trong từng thời kỳ.
Phát hành chứng từ có giá
- Kỳ phiếu ngân hàng: kỳ phiếu ngân hàng là một giấy nhận nợ ngắn
hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu để
phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một
thực hiện một dự án, một chương trình kinh tế, … Kỳ phiếu là một hình thức
huy động vốn khá linh hoạt bởi vì đây là một công cụ có tính lỏng cao, dễ
chuyển sang tiền hoặc hình thức khác. Ký phiếu có các mệnh giá, loại tiền sử
dụng và các phương thức trả lãi đa dạng đáp ứng được các nhu cầu gửi vốn
khác nhau của người gửi tiền. Do tính chủ động, lãi suất kỳ phiếu thường
được ấn định một mức hấp dẫn tuỳ theo mức độ cầu về vốn của ngân hàng.
- Trái phiếu ngân hàng: trái phiếu là một giấy nhận nợ dài hạn của ngân
hàng với cam kết thanh toán tiền gốc vào ngày đáo hạn và thanh toán tiền lãi
vào những thời gian xác định với một mức lãi suất xác định tương ứng. Các
hình thức trái phiếu cũng rất đa dạng. Theo tính chất sở hữu và chuyển
nhượng có trái phiếu vô danh và trái phiếu đích danh. Theo phương thức phát
hành và trả lãi có trái phiếu chiếu khấu, trái phiếu coupon. Tuy nhiên, mỗi
loại trái phiếu đều có yếu tố chung là sự xác định về mệnh giá, ngày đáo hạn,
lãi suất công bố khi phát hành, phương thức thanh toán. Khác với kỳ phiếu,

16
trái phiếu được phát hành nhằm mục đích huy động vốn trung và dài hạn phục
vụ cho những kế hoạch phát triển kinh doanh quy mô lớn và dài hạn. Lãi suất
của trái phiếu cũng rất hấp dẫn, thường cao hơn lãi suất của các công cụ nợ
khác và tỷ lệ thuận với kỳ hạn của khoản nợ.

Theo xu hướng phát triển, nguồn vốn huy động từ dân cư ngày càng gia
tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng . Đây cũng
là nguồn tạo vốn trung và dài hạn ổn định cho ngân hàng.

Huy động từ các doanh nghiệp
Trong hoạt động huy động vốn, các ngân hàng thương mại thường rất
quan tâm đến nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp và các tổ chức tín
dụng khác. Các ngân hàng thương mại thường tìm mọi cách để tiếp cận với
nguồn vốn này vì đây là nguồn vốn đáng kể với giá đầu vào thấp.
Ngân hàng huy động vốn từ đối tượng này thường thông qua hai hình
thức:
- Tiền gửi không kỳ hạn (còn gọi là tiền gửi giao dịch): các doanh
nghiệp, các tổ chức khác trong quá trình hoạt động thường mở tài khoản tiền
gửi không kỳ hạn tại ngân hàng thương mại để thuận lợi cho quá trình thanh
toán, nhận và chi trả thuận tiện, an toàn, và có thể đồng thời nhận được khoản
lãi nhất định trong một khoảng thời gian khi chưa cần tới vốn. Khi mở tài
khoản tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng có gửi tiền, rút tiền mặt hoặc thanh
toán bằng cách phát hành séc hay các lệnh thanh toán. Tiền nằm trên tài
khoản tiền gửi không kỳ hạn là tiền vốn đang nằm trong quá trình vận động,
vì vậy tiền gửi không kỳ hạn là một phần của tiền trong lưu thông. Mục đích
tiền gửi của khách hàng là có thể thực hiện thanh toán một cách nhanh chóng,
chính xác, kịp thời và an toàn, có thể thoả mãn nhu cầu tiền mặt của khách
hàng bất kỳ lúc nào. Lãi suất đối với loại tiền gửi này thường thấp tuy nhiên

17
việc đảm bảo một dịch vụ thích hợp, thuận tiện là yếu tố thu hút tiền gửi
không kỳ hạn.
- Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi về cơ bản không được dùng để
thanh toán mà chủ yếu nhằm kiếm lời cao thay vì đầu tư vào lĩnh vực khác.
Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn tín dụng mang tính chất ổn định, do đó, các

ngân hàng thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền
gửi này. Tiền gửi có kỳ hạn có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả
nổi.

Huy động từ các tổ chức tín dụng
Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn từ các tổ chức tín dụng
thông qua việc nhận mở và duy trì tài khoản tiền gửi hoặc đi vay.
Trong giai đoạn nhất định, ngân hàng thương mại có thể phát sinh nhu
cầu vay vốn khi sử dụng hết các nguồn vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu vay vốn, hoặc thiếu hụt ngân quỹ do có nhiều khách hàng đến rút
tiền, ngân hàng thương mại phải bù đắp nguồn vốn thiếu hụt bằng cách đi
vay. Ngân hàng có thể vay ở các tổ chức tín dụng hoặc vay Ngân hàng Trung
ương.
- Vay từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng khách
Trong trường hợp ngân hàng thương mại phát sinh nhu cầu, ngân hàng
có thể vay các tổ chức tín dụng khác thông qua cơ chế thị trường liên ngân
hàng. Thành viên tham gia thị trường liên ngân hàng là các ngân hàng thương
mại hoạt động hợp pháp, các khoản vay đều phải có tài sản thế chấp (chứng từ
có giá, số dư tài khoản tại NHNN) hoặc ít nhất cũng được NHNN bảo lãnh.



18
- Vay Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng thương mại có thể vay NHNN khi gặp khó khăn dưới hình
thức tái chiết khấu chứng từ có giá. NHNN với vai trò là người cho vay cuối
cùng sẽ xem xét có cho các ngân hàng thương mại vay hay không bởi việc
này sẽ ảnh hưởng đến khối lượng tiền trong lưu thông.
Nguồn vốn đi vay này rất quan trọng vì nó đảm vảo cho các tổ chức tín
dụng hoạt động một cách bình thường.

- Nguồn vốn tài trợ uỷ thác
Sự phát triển của nền kinh tế, sự hình thành các công ty xuyên quốc
gia, sự phụ thuộc lẫn nhau của hệ thống kinh tế thế giới đã làm nảy sinh
những yêu cầu mới như viện trợ, chi trả cho nước ngoài, Để làm cho vốn
vận động có hiệu quả hơn, ngân hàng đứng ra nhận làm nhiệm vụ trung gian
thanh toán, thực hiện việc chi trả cho khách hàng, hoặc phân phối giúp nguồn
tài sản của khách hàng cho những người mà họ yêu cầu. Ngoài việc tạo thêm
thu nhập từ phí dịch vụ, hoạt động này cũng tạo nên vốn ngắn hạn cho ngân
hàng do sự chênh lệch giữa thời gian thu và chi hộ
Vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn vốn của ngân
hàng, đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.1.2.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động của ngân hàng
thƣơng mại
Như đã trình bày, hoạt động chính của một ngân hàng thương mại là
nhận tiền gửi để cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng trong đó hoạt
động được tài trợ chủ yếu bằng nguồn vốn huy động là hoạt động tín dụng.
Vốn huy động là phương tiện tiền tệ do ngân hàng huy động được bằng
các nghiệp vụ của mình để làm vốn kinh doanh. Đây là vốn chủ yếu, chiếm tỷ

19
trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, có vai trò đặc biệt quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thể hiện ở các mặt sau đây:
Thứ nhất, vốn huy động là cơ sở để ngân hàng chủ động trong kinh
doanh.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào dù đó là doanh nghiệp sản xuất hay
cung cấp dịch vụ, muốn tiến hành hoạt động kinh doanh thì phải có vốn để
mua sắm máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, thuê nhân công,… Riêng đối với
ngân hàng thương mại, vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh của mình bởi vì đặc trưng của ngân hàng thương mại là kinh doanh trên
lĩnh vực tài chính, và vốn vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh chủ

yếu của ngân hàng. Trong hoạt động sử dụng vốn, các ngân hàng có lượng
vốn dồi dào sẽ có ưu thế trong việc tài trợ cho các hợp đồng lớn và dài hạn
không chỉ trong lĩnh vực cho vay và đầu tư mà còn trong các lĩnh vực khác
như bảo lãnh, đồng tài trợ, thuê mua tài chính, kinh doanh ngoại tệ,… Tương
tự như vậy, trong hoạt động thanh toán các ngân hàng có nhiều vốn sẽ dễ
dàng thực hiện việc thanh toán, chi trả của mình. Đặc biệt trong điều kiện
khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, các ngân hàng có nguồn vốn lớn sẽ
có nhiều khả năng để tài trợ cho việc triển khai công nghệ mới, ưu việt nhằm
nâng cấp và mở rộng hoạt động của mình.
Như vậy, một ngân hàng chỉ có thể tiến hành hoạt động kinh doanh tốt
khi biết kết hợp hài hoà giữa các nguồn vốn với nhau tạo ra một cơ cấu hợp lý
và ổn định. Vốn huy động đó giúp ngân hàng chủ động đa dạng hoá các hoạt
động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro, thu lợi nhuận cao nhất nếu sử dụng
vốn có hiệu quả.
Thứ hai, vốn huy động đảm bảo uy tín, tăng năng lực cạnh tranh của
ngân hàng

20
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng phát triển, các
ngân hàng buộc phải tạo lập uy tín của mình trên thị trường. Uy tín đó thể
hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng, sẵn sàng cung
cấp các dịch vụ khách hàng yêu cầu. Việc này cũng đòi hỏi ngân hàng phải có
một lượng vốn lớn, linh hoạt. Để đạt được điều đó thì ngân hàng phải nâng
cao hiệu quả kinh doanh nói chung và công tác huy động vốn nói riêng.
Ngoài ra, năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường cũng là yếu
tố quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Điều này phụ thuộc vào
quy mô vốn, trình độ, phương tiện kỹ thuật hiện đại của ngân hàng. Nếu có
nguồn vốn lớn, ổn định sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt
động ở các ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân hàng có nhiều thuận
lợi hơn trong kinh doanh. Ngoài ra, vốn lớn sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng

tài chính, kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ cho vay mà còn mở
rộng hình thức liên doanh, liên kết, dịch vụ thuê mua, Chính những hình
thức kinh doanh đa năng này sẽ giúp phân tán rủi ro trong hoạt động kinh
doanh, tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thương trường.
Thứ ba, vốn huy động ảnh hưởng đến quy mô, chất lượng tín dụng.
Cho vay và đầu tư là hai mảng hoạt động mang lại nguồn thu nhập
chính cho các ngân hàng. Hoạt động cho vay và đầu tư của các ngân hàng
Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như: các điều kiện chung của nền
kinh tế xã hội, các chính sách kinh tế, chính sách tài chính và tiền tệ của chính
phủ, nhu cầu tín dụng của các khách hàng, đặc điểm, chất lượng và tính ổn
định của các nguồn vốn, khả năng và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ và nhân
viên ngân hàng Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu
hẹp khối lượng tín dụng. Thông thường, so với các ngân hàng có nguồn vốn
lớn ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm

×