Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu luận:Trình bày đường lối chính trị của Nho gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.04 KB, 11 trang )

NỘI DUNG KIỂM TRA
Trình bày đường lối chính trị của Nho gia. So sánh với đường lối chính
trị của Pháp gia và Đạo gia và cho nhận xét về ưu điểm và nhược điểm của
mỗi đường lối.
BÀI LÀM
1. Đường lối chính trị của Nho gia:
Vài nét về lịch sử về Nho gia: Nho có nghĩa là Nhu (mềm yếu, chỉ một lớp
người đi học – Nho sinh). Cơ sở của Nho gia được hình thành từ thời Tây Chu, đặc
biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân
Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư
tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì
thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho gia.
Khổng Tử xây dựng thành học thuyết và trải qua các thời kỳ phát triển khác
nhau, Nho giáo có các hình thức biểu hiện khác nhau với từng thời kỳ:
- Nho nguyên thủy do Khổng Tử sáng lập, Mạnh Tử phát triển học thuyết
của ông về hướng duy tâm tiên nghiệm, Tuân Tử phát triển học thuyết theo hướng
duy vật; và sau đó đến Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho, Thanh Nho.
Kinh điển (Sách Nho): gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về
tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo
đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
Tứ Thư gồm: Luận ngũ (Chép những lời dạy mà Khổng Tử nói với học trò);
Mạnh Tử (Cuốn sách chép những câu hỏi và đáp của Mạnh Tử); Đại học (dạy tập
làm quan); Trung dung (là cuốn sách dạy cách làm người). Ngũ kinh gồm: Kinh thi
(gồm 305 bài thơ của Nhã Trung Phong); Kinh thư (là cuốn sách ghi biên niên sử);
Kinh dịch; Kinh lễ nhạc (bàn về phong tục tập quán); Kinh Xuân – Thu (Cuốn sách
chép sử của nước Lỗ từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ V trước Công nguyên).
 Đường lối chính trị của Khổng Tử:
Khổng Tử (551-479) tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ở nước Lỗ (tỉnh Sơn
Đông), trong một gia đình quý tộc đang sa sút. Sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ
“vương đạo suy vi”, “bá đạo nổi lên lấn át vương đạo”, Khổng Tử muốn đem tài


sức của mình giúp nước, trị dân.
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
1
Thời đại của Khổng Tử là thời đại loạn lạc. Ông nói: “Lễ Nhạc hư hỏng” rằng:
”Quân bất Quân, Thần bất Thần, Phụ bất phụ, Tử bất Tử” Các chư hầu không theo
thiên tử nhà Chu. Vì thế mơ ước của Ông là muốn khôi phục lại trật tự của nhà
Chu, Ông nói: ”Ngộ tòng Chu” (Ta theo lễ nhà Chu). do đó Khổng Tử xây dựng
học thuyết Lễ và Chính danh đây chính là tư tưởng Chính trị - Xã hội của Ông.
Khổng Tử là người sáng lập ra đạo Nho, ông được phong là “Chí thánh tiên sư,
Vạn thế sư biểu”, nghĩa là thầy, thánh của muôn đời, muôn nhà. Khổng Tử coi xã hội là
tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, trong đó các quan hệ chính trị-đạo đức
đóng vai trò nền tảng. Đó là các mối quan hệ : vua -tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn
bè.
Năm mối quan hệ này về sau được Nho gia gọi là Ngũ luân. Ba mối quan hệ giềng
mối: vua -tôi, cha-con, chồng-vợ được gọi là Tam cương.
Khổng Tử coi nguyên nhân xã hội loạn lạc là do sự suy thoái đạo đức xã hội. Ông mong
muốn khôi phục lại trật tự xã hội kiểu nhà Chu, một kiểu xã hội được ông coi là mẫu
mực, lý tưởng. Đó là một trật tự xã hội có đẳng cấp, tôn ti trật tự, từ vua quan đến thứ dân
ai cũng phải lấy nhân, nghĩa, lễ, chính danh làm chuẩn mực.
Khổng Tử coi xã hội là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, trong
đó có các quan hệ như: Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ, Anh-em, Bạn bè. Năm mối
quan hệ này về sau được phái Nho gia gọi là Ngũ luân, trong đó 3 mối quan hệ
Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ là những mối quan hệ cơ bản nhất và được gọi là Tam
cương. Tam Cương và Ngũ Thường(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) là lẽ đạo đức mà
nam giới phải theo. Tam Tòng(tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử)
và Tứ Đức(Công - Dung - Ngôn - Hạnh) là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng
Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ
Đức thì xã hội được an bình.
Những phạm trù cơ bản trong thuyết Chính trị - Đạo đức của Khổng Tử là
Nhân, Lễ, Nghĩa và Chính danh:

 Nhân:
Là lòng thương người. Người có nhân là người có đạo đức hoàn toàn. Trung
và Thứ là hai khía cạnh của Nhân: Trung là tính ngay thẳng với người, điều mình
muốn thì hãy làm cho người; Thứ là lòng vị tha, điều mình không muốn thì đừng
làm cho người. Nhân có tính đẳng cấp thể hiện trong các mối quan hệ cụ thể vua-
tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn bè: “Quân nhân, thần trung, phụ tử, tử hiếu”,
“vua lấy lễ khiến bề tôi, bề tôi lấy trung mà thờ”. Trong đạo nhân, hiếu là gốc -
hiếu không chỉ thể hiện ở việc phụng dưỡng cha mẹ mà quan trọng nhất là lòng
thành kính. Khổng Tử nói: “Nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi
thú vật”.
Muốn thực hiện Chính danh, Khổng Tử chủ trương đường lối nhân trị và phê
phán tư tưởng Pháp trị vì thế phạm trù nhân là cốt lõi là sợi chỉ xuyên suốt học
thuyết của Ông, là yếu tố đầu tiên của Ngũ thường (Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí –
Tín).
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
2
Chữ Nhân được nhắc lại rất nhiều lần trong Luận ngữ nhưng có 5 nội dung
chính sau:
- Nhân giả, ái nhân (yêu người như yêu mình);
-Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân (điều mình không muốn đừng làm cho người
khác).
Kỷ sở đạt nhi đạt nhân (Mình thành đạt thì giúp người khác đạt như mình).
Kỷ sở lập nhi lập nhân (mình thành người thì giúp người khác thành như
mình);
- Khắc kỷ, phục lễ-vi nhân (hạn chế dục vọng lòng mình đi về với Lễ ấy là
người có Nhân);
- Xảo ngôn, lệch sắc tiển kỷ nhân(nói không trung thực, ngon ngọt làm biến
đổi sắc diện là người không Nhân); Người có nhân là người
- Hiếu để (có chữ kính trong lòng).
Người làm chính trị nếu có đức nhân thì thực hiện được 5 điều: Kính trọng

dân; Khoan dung và độ lượng; Mẫn cán; Giữ được chử Tín; Đem lòng thương yêu,
lo và đối xử tốt với dân. Còn đấng minh quân trị vì đất nước muốn có chử nhân thì
phải thực hiện được 3 điều sau: Kính sự (chăm lo công việc); Như Tín (giử được
lòng tin); Tiết dục (hạn chế tiêu dùng).
Khổng Tử chủ trương muốn xã hội cường thịnh thì không được để giàu –
nghèo quá cách biệt. Ông nói: “Không lo thiếu chỉ lo không đều, không lo nghèo
chỉ lo không yên”. Ông đề cao “An bần như lạc”(nghèo mà vui). Tôn trọng và yêu
thương nhau như trật tự của lễ. Là vua phải làm được 3 việc: Túc thực (chăm lo sản
xuất); Túc binh (chăm lo quốc phòng); Thành tín (giử được lòng tin).
 Lễ:
Là hình thức thể hiện lòng nhân. Lễ bao gồm mối quan hệ rộng lớn, từ quan
hệ thần linh đến quan hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo dức, phong
tục, tập quán, quan hệ nhà nước, luật pháp… Lễ trong quan niệm của Khổng Tử là
trật tự, kỷ cương và pháp luật của xã hội; là nguyên tắc đạo đức phải tuân theo; là
nghi thức nghi lễ cao nhất trong Tam cương.(Quân-Thần, Phụ - Tử, Phu – Thê).
Khổng Tử nói: “Không biết lễ thì không đứng vững, người quân Tử không
bao giờ làm trái với lễ. Cái gì (điều gì) trái với lễ thì không nhìn, không nghe,
không nói, không làm”.
 Nghĩa:
Là hành vi đạo đức thể hiện đức nhân. Người làm việc nghĩa thì hy sinh lợi
ích của mình vì người khác. Nghĩa và lợi không thể dung hợp với nhau. Khổng Tử
nói: “Quân Tử biết rõ về nghĩa, tiểu nhân biết rõ về lợi”.
 Chính danh: Khổng Tử chủ trương thuyết chính danh để giải quyết đúng
đắn các mối quan hệ. Chính danh trong quan niệm của ông gồm các nội dung sau:
∗ Muốn cho XH thái bình, thịnh trị thì yêu cầu phải bố trí người ở cương vị
phù hợp với năng lực, người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó,
phải làm đúng danh phận, chức trách của mình “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
3
tử”. Nói và làm không được vượt chính danh: “Không phải lễ thì không nói, không

phải lễ thì không làm, không phải lễ thì không nghe”.
∗ Khổng Tử đề cao người hiền tài với tư tưởng Thượng hiền và khuyên các
nhà cai trị nên sử dụng người hiền tài quản lý đất nước và loại bỏ dần những kẻ bất
tài trong bộ máy cai trị.
∗ Phải thực hiện ba điều: thực túc, binh cường, dân tín.
∗ Ông khuyên giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng chăm lo nhân
dân. Đồng thời ông khuyên dân phải an phận, lấy nghèo làm vui, nghèo không oán
trách.
 Đường lối chính trị của Mạnh Tử:
Mạnh Tử sinh năm 372 mất năm 289 tr CN; Mạnh Tử tên là Mạnh Kha, tự là
Tử Dư, người nước Lỗ. Từ nhỏ đã được mẹ giáo dục rất chặt chẽ. Mạnh Tử phát
triển học thuyết của Khổng Tử về phía duy tâm tiên nghiệm. Ông cho rằng chẳng
có việc gì xảy ra mà không do mệnh trời. Theo Ông, vạn vật có đủ trong ta chỉ cần
thành ý, chánh tâm thì có thể nhận thức được tất cả.
Tư tưởng về CT - XH của Mạnh Tử thể hiện ở triết lý nhân sinh (triết lý về
cuộc đời) mà trung tâm là học thuyết về tính thiện. Ông nói: “Nhân chi sơ tính bản
thiện”. Tính thiện của con người có ở 4 đức tính lớn vốn có bẩm sinh, đó là Nhân,
Lễ, Nghĩa, Trí và chúng bắt nguồn từ tứ đoan:
 Ai sinh ra cũng có lòng thương xót nên phải lấy Nhân mà cảm hoá.
 Ai sinh ra cũng có lòng ghen ghét nên phải lấy Nghĩa mà điều chỉnh.
 Ai sinh ra cũng cung kính nên phải lấy Lễ mà giáo hoá.
 Ai sinh ra cũng biết phải trái nên phải lấy Trí mà phân biệt đúng sai.
Tính thiện làm cho con người ta khác loài cầm thú nên đã sinh ra người thì
phải biết nuôi dưỡng Thiện đoan. Tính thiện của con người vốn bắt nguồn từ cái
tâm do trời phú để cho con người ta biết suy nghĩ, phân biệt phải trái đúng sai để
ứng xử với con người và vạn vật.
Dựa trên thuyết tính thiện và tư tưởng đức trị của Khổng Tử, Mạnh Tử đưa ra
thuyết “Nhân chính”, tức là cái trị là chính, phải vì nhân chứ không phải vì lợi.
Chủ trương của thuyết này là lấy đức để thu phục lòng người, phản đối việc cai trị
bằng bạo lực. Ông phân biệt “vương chính” - cai trị bằng nhân nghĩa với “bá

chính” - cai trị bằng bạo lực. Theo ông lấy đức mà thu phục lòng người thì người
ta vui lòng theo mình một cách thành thực.
Trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chủ trương nhân chính, Mạnh Tử đã đề ra
một quan điểm rất độc đáo đó là dân bản. Ông coi dân là quan trọng nhất, kế đến
là giang sơn xã tắc, vua là thường thôi “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.
Và ông giải thích là có dân mới lập nên nước, có nước mới lập nên vua, chứ vua
không thể sinh ra dân. Quan hệ vua tôi là quan hệ hai chiều, tôn trọng lẫn nhau.
Nếu vua coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi sẽ coi vua như kẻ thù. Nếu vua không có
đạo đức thì không còn xứng đáng làm vua nữa mà chỉ là “một thằng” thôi và nhân
dân có quyền đạo đức để lật đổ ngôi vua.
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
4
Thời Mạnh Tử, chế độ công hữu tan rã, chế độ tư hữu ra đời. Mạnh Tử chủ
trương chế độ “Bảo dân”, tức là lo cho dân đủ mọi điều để cho dân vững tin sản
xuất. Ông chủ trương giảm hình phạt, bớt thuế má nhằm tạo cho người dân có một
sản nghiệp để phụng dưỡng bố mẹ và nuôi nấng vợ con để cho: “Năm được mùa
thì no đủ, năm mất mùa thì không bị đói”. Cơ sở của tư tưởng này là: “Có hằng sản
mới có hằng tâm”.
Tóm lại, triết học của Mạnh Tử tuy còn mang yếu tố duy tâm và thần bí (hạn
chế) nhưng trong học thuyết về CT-XH với tư tưởng “nhân chính”, “bảo dân” có
ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử XH. Vì thế,
Mạnh Tử xứng đáng được hậu thế phong là bậc Á thánh.
 Đường lối CT - XH của Tuân Tử:
Tuân Tử (315-220) tên Huống , tự Khanh, cũng tự Tôn Khanh. Đời Hán đặt
tên sách của Tuân Tử là "Tôn Khanh Tử", sang thời Đường mới đổi lại xưng hô
"Tuân Tử". Tuân Tử người nước Triệu.
Tuân Tử là người phát triển học thuyết của Khổng Tử, đề cao nhân, nghĩa, lễ
nhạc và chính danh. Tuy nhiên, ông phản đối quan niệm của Khổng Tử và Mạnh
Tử về những vấn đề chính trị và đạo đức. Tuân Tử đứng trên quan điểm duy vật và
vô thần (tích cực), ông cho rằng tự nhiên gồm 3 bộ phận: trời, đất và người. Trời

chỉ là một bộ phận của tự nhiên, bản thân tự nhiên là cơ sở hình thành và biến hoá
của vạn vật. Như vậy, trời không quyết định vận mệnh của con người. Việc trị hay
loạn, lành hay dữ là do con người làm ra chứ không phải tại trời. Nếu con người
hành động thuận với lẽ tự nhiên thì lành, trái lại sẽ gặp loạn “Lấy sự trị mà đối phó
với đạo thì lành, lấy sự loạn mà đối phó với đạo ấy thì dữ”.
Không chỉ hành động phù hợp với tự nhiên mà con người có thể cải tạo tự
nhiên và XH để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông phê phán mê tín dị đoan, việc
tôn thờ trời, ỷ lại trời, khuyên con người nên tin ở sức mình, ra sức phát triển sản
xuất, thực hành tiết kiệm, ăn ở điều độ, giữ gìn sức khoẻ thì trời sẽ không để cho
nghèo khó và bệnh tật.
Ông chủ trương sửa trị việc nước, giáo dục đạo đức, lễ nghĩa làm cho xã hội
tiến bộ, văn minh hơn. Đó là chức năng của người có thể sánh ngang với trời vậy.
Ông đề cao “lễ trị”, ông cho rằng lễ nghĩa và đẳng cấp trong XH là cần thiết để duy
trì trật tự XH.
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
5
2. So sánh đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia
2.1 Khác nhau:
Nho gia Đạo gia Pháp gia
Người sáng lập: Khổng
Tử; sau đó, Mạnh Tử phát
triển về phía duy tâm tiên
nghiệm, Tuân Tử phát
triển về phía duy vật.
Người sáng lập: Lão Tử
sáng lập và Trang Tử phát
triển, hoàn thiện.
Người sáng lập: Quản
Trọng là người đầu tiên
bàn đến pháp luật như là

phương pháp trị quốc.
Thận Đáo, Thân Bất Hại
chủ trương pháp trị. Được
Hàn Phi phát triển lên
đỉnh cao trên cơ sở tổng
hợp những yếu tố hợp lý
trong 3 học thuyết Nho
gia, Đạo gia và Pháp gia.
Đường lối chính trị: “đức
trị” hay “nhân trị”
- Coi trọng giáo dục, phản
đối bạo lực và chiến
tranh.
- Khổng Tử coi XH là
tổng hợp các mối quan hệ
giữa người với người, đó
là Ngũ luân và Tam
cương.
- Các phạm trù cơ bản
trong học thuyết của
Khổng Tử là Nhân-Nghĩa-
Lễ-Chính danh:
+ Nhân: lòng thương
người có tính đẳng cấp
thể hiện trong các mối
quan hệ.
+ Nghĩa: là hành vi đạo
đức biểu hiện của đức
nhân.
+ Lễ: là hình thức thể

hiện lòng nhân.
+ Chính danh: là điều cơ
bản để trị nước. Nó có
nghĩa là người ở cương
vị nào thì phải xứng
đáng với cương vị đó,
Đường lối chính trị: sử
dụng học thuyết “vô vi”,
có nghĩa là sống, hoạt
động theo lẽ tự nhiên,
thần phái, không làm trái
với tự nhiên, không can
thiệp vào trật tự của tự
nhiên, chỉ làm cho dân no
bụng, xương cốt mạnh mà
lòng hư tĩnh, khiến cho
dân không biết, không
muốn.
- Không dùng luật pháp,
không cần giáo dục nhân,
lễ, nghĩa, trí. “Theo chính
sách vô vi thì mọi việc
đều trị”. Lão Tử cho rằng:
Lễ là biểu hiện sự suy vi
của trung hậu, thành tín,
là đầu mối của sự hỗn
loạn. Dùng trí để tính toán
trước thì chỉ cái loè loẹt
của đạo, mà là nguồn gốc
của sự ngu muội. Dân sở

dĩ khó trị là vì nhiều mưu
trí, cho nên dùng trí mưu
trị nước là cái hoạ cho
nước, không dùng mưu trí
Đường lối chính trị: Hàn
Phi chủ trương đường lối
“pháp trị”. Để cai trị XH
cần phải có 3 yếu tố là
Pháp, Thuật và Thế:
- Pháp là pháp luật, được
công bố cho mọi người
biết, để tuân theo và phải
thay đổi cho phù hợp với
tình hình cụ thể vì không
có một thứ pháp luật luôn
luôn đúng với mọi thời
đại (lý luận “Tham
nghiệm”). Pháp luật mà
biến chuyển được theo với
thời đại thì thiên hạ sẽ
trị… Thời thế thay đổi mà
phép trị dâ không thay đổi
thì loạn. Phải căn cứ vào
tâm lý “tránh bại” và “cầu
lợi” của con người để đặt
ra pháp luật, trọng
thưởng, nghiêm phạt để
duy trì trật tự XH.
- Thế là địa vị, thế lực,
quyền uy của người cầm

đầu.
- Thuật là phương pháp
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
6
phái làm đúng danh
phận, chức trách của
mình.
- Đường lối nhân trị của
Khổng Tử có tính chất
điều hòa mâu thuẫn giai
cấp, phản đối đấu tranh.
Ông khuyên giai cấp
thống trị phải thương yêu,
tôn trọng, chăm lo cho
nhân dân. Đồng thời, ông
cũng khuyên dân phải an
phận, lấy nghèo làm vui,
nghèo mà không oán
trách. Ông coi việc oán
trách cảnh nghèo hèn, ưa
dùng bạo lực, là mầm
mống của loạn
để trị nước là cái phúc cho
nước.
- Lão Tử chủ trương bỏ
nghệ thuật vì ngũ sắc làm
cho người ta mờ mắt, ngũ
âm làm cho người ta ù tai,
ngũ vị làm cho người ta tê
lưỡi, ruỗi ngựa săn bắn

làm cho người ta mê loạn,
vàng bạc châu báu làm
cho người ta đồi bại. Cho
nên Thánh nhân chỉ cần
no bụng mà không cần
vui mắt.
- Lão Tử chủ trương hạn
chế quyền lực của Nhà
nước và hoạt động của
dân đến mức tối đa, để
cho dân sống chất phác
thời nguyên thủy, duy trì
tình trạng nước nhỏ, dân
ít, quay lại thời kỳ cổ xưa
thắt nút ghi dấu. Ông nói:
“Nước nhỏ, dân ít, không
ai đi xa, có gươm gao
không dùng, bỏ văn tự,
sống lại thời kỳ thắt nút
ghi dấu, hai nước ở cạnh
nhau không nghe thấy
tiếng gà gáy, cho sủa và
ngàn đòi không qua lại”.
mưu trí, thủ đoạn trong
việc trị dân.
Nếu pháp được công bố
rộng rãi thì thuật là cơ trí,
thủ đoạn ngấm ngầm của
vua, không để ai biết.
(Thuật của Pháp gia có kế

thừa yếu tố Chính danh
của Nho gia).
2.2Giống nhau:
Mặc dù có những điểm khác nhau như vậy nhưng Nho gia, Đọa gia và Pháp
gia có những điểm giống nhau sau:
• Ý nghĩa của các học thuyết của các trường phái ảnh hưởng rất lớn đến xã
hội Trung Quốc hiện đại và các nước lân cận Trung Quốc trong đó có
Việt Nam đặc biệt là Nho gia.
• Ngày nay trên cơ sở các học thuyết từ Nho gia, Đạo gia và Pháp gia mà
mỗi một quốc gia chịu ảnh hưởng của các học thuyết này con người xem
đó là chuẩn mực đạo đức, cách sống, cách đối xử giữa người với người
trong xã hội.
• Những học thuyết trên còn là cơ sở cho quản lý và cai trị xã hội.
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
7
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
8
3. Nhận xét về ưu điểm và nhược điểm của mỗi đường lối
3.1 Nho gia:
Ưu điểm:
- Nhìn chung quan điểm của Nho gia là rất tiến bộ đối với thời bấy giờ mặc dù
chưa có nước nào áp dụng hết các nguyên tắc trên để xây dựng xã hội để chúng ta
có thể kiểm nghiệm được tính hiệu quả của các nguyên tắc trên. Nhưng chắc chắn
một điều rằng những quan điểm trên của Nho gia ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
xã hội không chỉ trước đây mà đến tận bây giờ, những quan điểm tích cực của Nho
gia tác động đến đạo đức, cách sống và văn hóa không riêng gì tại Trung Quốc mà
còn ảnh hưởng đến các nước lân cận Trung Quốc trong đó có Việt Nam. Những
quan điểm của Nho gia ngày nay trở thành thước đo, chuẩn mực đạo đức, lối sống
của con người (Tam tòng, tứ đức, ).
Nhược điểm

- Việc quản lý một xã hội, một đất nước không chỉ đơn thuần dựa trên những
yếu tố về nhân cách về chủ quan của con người mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác(vị trí địa lý, môi trường, lịch sử, ) Ngày nay để quản lý xã hội thì giai cấp
thống trị (Nhà nước) không chỉ dùng văn hóa, đạo đức truyền thống, những quy
định dân gian trong mối quan hệ mà còn phải dựa vào Pháp luật để điều tiết các
mối quan hệ xã hội.
- Ngày nay cùng với sự phát triển vượt bật của KHCN, và xu thế hội nhập quốc
tế thì ngoài những giá trị truyền thống thì yêu cầu của cuộc sống còn đòi hỏi nhiều
giá trị thực tế khác.
3.2 Đạo gia:
Ưu điểm
- Đạo của Lão Tử vạch một lối thoát cho những ai, là kẻ bất mãn thế cuộc
nhiễu nhương, đầy cạm bẫy như thời Xuân Thu Chiến Quốc, có được một lẽ sống
riêng, hợp với bản chất chân thật của mình. Đồng thời tránh được lối phản kháng
bằng hành động phạm pháp cá nhân, hoặc bạo lực tập thể, khiến cho xã hội mà
mình đã bất mãn càng thêm hỗn loạn, rối ren. Đó là giá trị về xã hội.
- Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, đang lúc vua quan các nước thực thi
chính sách kiêm tính, để trở thành nước lớn, khả dĩ "kẹp thiên Tử nhi lệnh chư
hầu . (Uy hiếp nguyên thủ trung ương, chỉ huy các nước địa phương). Đồng thời,
phần Tử trí thức cũng chủ trương “định ư nhất”, mong sao thực hiện được lý tưởng
thiên hạ thống nhất thịnh trị, thì ngược lại, Lão Tử chủ trương "Tiểu quốc quả dân"
(Nước nhỏ dân ít). Người cho rằng, với nước nhỏ dân thưa, thì ít có tranh chấp và
dễ trị. Nhà nước chẳng phải nhọc lòng làm gì mà dân vẫn tự sống an lành. Lý luận
đó của Lão Tử, lúc bấy giờ chẳng ai nghe theo, cả Khổng Tử cũng chẳng tin. Nào
ngờ thế giới ngày nay lại có lối tư duy mới, chẳng hẹn mà gặp nhau với Lão Tử.
Sau thời kỳ "Chiến tranh lạnh", có nhiều xứ khác nhau về dân tộc, tôn giáo trong
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
9
cùng một quốc gia, đang đua nhau đứng lên tranh đấu, giành quyền độc lập tự chủ,
như các nước cộng hòa trong Liên bang Xô viết, liên bang Nam Tư và khối dân

miền bắc Iraq, ấn Độ hiện nay, cũng như Mông Cổ, Tây Tạng của Trung Quốc từ
trước. Trực diện với vấn đề này, quốc tế tuy chẳng tiện can dự trực tiếp, nhưng
cũng không phản đối, thậm chí còn khuyến khích một cách gián tiếp nữa là khác.
Đó là giá trị về chính trị.
Nhược điểm
- Thuyết "vô vi" của Lão Tử dễ bị người ta mượn cớ trốn tránh trách nhiệm,
nhất là những người công chức ăn lương nhà nước, lại có tâm lý tiêu cực, họ bảo
nhau: "Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi".
- Xây dựng một xã hội dựa trên thuyết vô vi đã vô tình lý tưởng hóa một xã
hội mà ở đó không tồn tại đấu tranh và mâu thuẫn, đó là một xã hội không có thực
mà chỉ có giá trị ở mục tiêu phấn đấu và xây dựng đó là điều mà con người ao ước,
hướng đến.
3.3 Pháp gia:
Ưu điểm:
- Pháp gia coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo. Là một bước tiến lớn, trong
tư tưởng chính trị thời cổ Trung Hoa. Mục đích chính của quyền lực là để giúp cho
nhà lãnh đạo có đủ phương tiện, mưu cầu quốc gia phú cường, bằng chính sách
"Canh chiến" do Hàn Phi đề xướng. Tuy rằng Khổng Tử đã từng chủ trương "Tiên
phú hậu giáo", nhưng thật sự thì chữ "Phú” đó, chỉ chiếm một tỉ số rất nhỏ, trong
nấc thang giá trị của nhà Nho. Đến Mạnh Tử thì lại càng coi trọng nhân nghĩa hơn
phú cường, rõ ràng có khuynh hướng đi ngược lại với đòi hỏi của chính trị thời đại,
nên không được vua chúa các nước hoan nghênh. Mãi cho đến thời Tuân Tử, nhà
Nho mới bắt đầu để ý tới vấn đề làm sao cho quốc gia giàu mạnh, là bởi chịu ảnh
hưởng về tư tưởng và thành quả cụ thể của Pháp gia cùng thời.
- Hàn Phi coi phú cường là mục tiêu tối cao của quốc gia. Để đạt tới mục
tiêu phú cường đó, Hàn Phi chủ trương áp dụng chính sách "Canh chiến", đưa hết
trăm họ vào hệ thống tổ chức "Canh chiến". Được như vậy thì vào thời bình, nhân
dân sẽ nỗ lực canh tác, làm cho nước giàu, nhờ có pháp lệnh khuyến khích; một
khi xây ra chiến tranh, thì khối nông dân đã được tổ chức sẵn trong thời bình, đều
trở thành lính chiến, có thể đưa ngay ra chiến trường chống giặc, như Hàn Phi đã

nói: vô sự tắc quốc phú, hữu sự tắc binh cường". (Ngày thường vô sự, thì làm cho
nước giàu, khi biến cố hữu sự, thì có sẵn quân mạnh) và "Hữu nạn tắc dụng kỳ Tử,
an bình tắc dụng kỳ lực". (Khi hoạn nạn thì họ bỏ mình vì nước, lúc an bình thì họ
ra sức xây dựng quốc gia).
Hạn chế
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
10
- Nếu chúng ta nhìn bằng con mắt thời đại, thì thấy chính sách "Canh chiến"
thời xưa của Hàn Phi, chẳng khác gì cho lắm, so với chế độ "Công xã nhân dân"
thời nay của Mao Trạch Đông, coi nhân dân như l công cụ, nô lệ của tập đoàn
thống trị. Trên lịch sử Trung Hoa, tư tưởng của Pháp gia đã gây nên ảnh hưởng
chính trị, tạo cho Tần Thủy Hoàng thành tên bạo chúa.
- Quá thiên về những nguyên tắc và vũ lực, như vậy sẽ mang đến sự bất ổn
định trong chính xã hội đó và những quốc gia lân cận. Qua từng thời kỳ của lịch sử
thế giới ta tạm rút ra rằng những giải pháp vũ lực chỉ mang lại lợi ích cho thiểu số
còn đa số là rơi vào cảnh khó khăn, nhìn trên tổng thể thì nó không mang lại nhiều
lợi ích hơn những gì mà nó gây ra.
Nguyễn Nhật Tân
Lớp Khoa học máy tính K9
NHO GIA, ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA
11

×