2
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
MỞ ĐẦU 3
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 12
1.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 12
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh 12
1.1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh, các cấp độ cạnh tranh 17
1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử 22
1.2.1. Các tiêu chí dựa trên “nguồn lực” và “năng lực” của các doanh nghiệp trong ngành .22
1.2.2. Các tiêu chí dƣ
̣
a trên chiến lƣơ
̣
c sản phẩm cu
̉
a ca
́
c doanh nghiê
̣
p trong nga
̀
nh 23
1.2.3. Các tiêu chí khác 24
1.3. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp
điện tử 28
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc, Malaysia, Hàn Quốc 28
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam 35
Chƣơng 2: ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐIỆN
TỬ VIỆT NAM THEO CÁC TIÊU CHÍ LỰA CHỌN GIAI ĐOẠN 2003-2009 37
2.1. Tổng quan ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam giai đoạn 2003-2009 37
2.1.1. Tổng quan về hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu 37
2.1.2. Các chính sách phát triển ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam 46
2.2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam theo các tiêu chí lựa
chọn giai đoạn 2003-2009 53
2.2.1. Đánh giá năng lực cạnh tranh dựa trên “nguồn lực” và “năng lực” của các doanh
nghiệp trong ngành 53
2.2.2. Đánh giá năng lực cạnh tranh dƣ
̣
a trên chiến lƣơ
̣
c sản phẩm cu
̉
a ca
́
c doanh nghiê
̣
p
trong nga
̀
nh 62
2.2.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh theo các tiêu chí khác 66
2.3. Đánh giá chung 70
2.3.1. Những thành công 70
2.3.2. Những hạn chế 71
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế 72
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ THỜI GIAN TỚI 76
3.1. Quan điểm và định hƣớng phát triển ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đến năm 2020 76
3.1.1. Quan điểm phát triển 76
3.1.2. Định hƣớng, mục tiêu phát triển 76
3.2. Triển vọng phát triển ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam đến năm 2020: cơ hội và
thách thức 78
3.2.1. Các nhân tố trong nƣớc 79
3.2.2. Các nhân tố ngoài nƣớc và xu hƣớng phát triển ngành công nghiệp điện tử thế giới .81
3.3. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới 84
3.3.1. Giải pháp vĩ mô (Đối với Nhà nƣớc) 84
3.3.2. Giải pháp vi mô (Đối với các doanh nghiệp) 97
3.3.3. Giải pháp đối với các Hiệp hội ngành nghề điện tử Việt Nam 103
KẾT LUẬN 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
PHỤ LỤC
3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Nguyên nghĩa
1
ACFTA
ASEAN - China Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
2
AFTA
Asian Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
3
AKFTA
ASEAN - Korea Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Hàn Quốc
4
APEC
Asia - Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn Hợp tác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình
Dương
5
ASEAN
The Association of South East Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
6
ASEM
Asia - Europe Meeting
Diễn đàn Hợp tác Á - Âu
7
BCI
Business Competitiveness Index
Chỉ số năng lực cạnh tranh kinh doanh
8
CEPT
Common Effective Preferential Tariff
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
9
CNĐT
Công nghiệp điện tử
10
CNHT
Công nghiệp hỗ trợ
11
ERP
Effective Rate of Protection
Mức độ bảo hộ hữu hiệu
12
EU
European Union
Cộng đồng Châu Âu
13
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
14
FTAs
Free Trade Agreements
Các hiệp định thương mại tự do
15
GCI
Growth Competitiveness Index
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng
16
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
17
GEVC
Global Electronic Value Chain
Chuỗi giá trị toàn cầu hàng điện tử
18
HNKTQT
Hội nhập kinh tế quốc tế
19
HS
Harmonized System
Hệ thống hài hòa hóa hải quan
20
IT
Information Technology
Công nghệ thông tin
21
ITA
Information Technology Agreement
Hiệp định Công nghệ thông tin
4
22
ITC
International Trade Center
Trung tâm Thương mại Quốc tế
23
KHCN
Khoa học công nghệ
24
MFN
Most Favoured Nation
Ưu đãi tối huệ quốc
25
MNCs
Multi National Corporations
Các công ty đa quốc gia
26
NLCTQG
Năng lực cạnh tranh quốc gia
27
NT
National Treatment
Đối xử quốc gia
28
OBM
Own Brand Manufacturing
Nhà sản xuất đăng ký nhãn hiệu của riêng mình
29
ODA
Official Development Assistance
Viện trợ phát triển chính thức
30
ODM
Own Design Manufacturing
Nhà sản xuất thiết kế gốc
31
OECD
Organization for Economic Co-operation and Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
32
OEM
Original Equipment Manufacturing
Nhà sản xuất thiết bị gốc
33
RCA
Revealed Comparative Advantage
Hệ số lợi thế so sánh hiển thị
34
R&D
Research and Development
Nghiên cứu và phát triển
35
RTAs
Regional Trade Agreements
Các hiệp định thương mại khu vực
36
SITC
Standard International Trade Classification
Phân loại thương mại quốc tế tiêu chuẩn
37
SMEs
Small and Medium Enterprises
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
38
TNCs
Trans National Corporations
Các công ty xuyên quốc gia
39
UNCTAD
United Nations Conference on Trade and Development
Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc
40
UNIDO
The United Nations Industrial Development Organization
Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hợp quốc
41
USD
United States Dollar
Đơn vị tiền tệ Đô la Mỹ
42
VJEPA
The Vietnam- Japan Economic Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
43
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
44
WEF
World Economic Forum
Diễn đàn kinh tế thế giới
45
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Số hiệu
Tên bảng
Trang
1
Bảng 2.1.
Sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam
36
2
Bảng 2.2.
Xuất nhập khẩu hàng điện tử và linh kiện trong tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2003-
2009
39
3
Bảng 2.3.
Thị phần xuất khẩu mặt hàng điện tử của Việt Nam trong so
sánh với Trung Quốc và một số nước khác trên các thị
trường chính
42
4
Bảng 2.4.
Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong WTO đối với sản
phẩm điện tử
49
5
Bảng 2.5.
Lộ trình cắt giảm thuế trong một số Hiệp định thương mại
đa phương và khu vực đối với nhóm ngành công
nghiệp điện tử
50
6
Bảng 2.6.
Giá trị gia tăng ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam
65
7
Bảng 2.7.
Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam so với thế giới và chỉ số
RCA đối với các sản phẩm ngành CNĐT Việt Nam
67
8
Bảng 2.8.
Chỉ số RCA đối với các sản phẩm ngành CNĐT của Việt
Nam so với một số nước giai đoạn 2005-2009
67
9
Bảng 2.9.
Chỉ số RCA của Việt Nam với một số nước châu Á về các
mặt hàng điện tử, viễn thông năm 2009
68
10
Bảng 2.10.
Chỉ số RCA xác định bằng tỷ số giữa mức chênh lệch xuất,
nhập khẩu với tổng xuất, nhập khẩu các mặt hàng điện
tử và linh kiện của Việt Nam
68
11
Bảng 2.11.
Chỉ số chuyên môn hóa Lafay Index đối với các sản phẩm
ngành CNĐT của Việt Nam so với một số nước giai
đoạn 2005-2009
69
12
Bảng 2.12.
Chỉ số cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử một số
nước năm 2009
70
6
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt
được sự tăng trưởng khá, các nhân tố tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ngày
càng được khai thác. Một số ngành, doanh nghiệp đã bắt đầu vươn lên cạnh tranh trên thị
trường xuất khẩu, nhờ đó thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, kim ngạch xuất
khẩu có sự tăng trưởng khá. Những biến đổi tích cực trên đây là tiền đề căn bản để nâng
cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam, thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế, tạo điều kiện để nước ta hội nhập một cách chủ động và có hiệu quả vào nền kinh
tế thế giới.
Đối với ngành công nghiệp điện tử, theo Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam
(VEIA), năm 2009, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng điện tử và linh kiện của Việt Nam đạt
2.763,0 triệu USD, tức là thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và với nước láng
giềng Trung Quốc hiện đang là “công xưởng điện tử số” của thế giới (Indonesia đạt 15 tỷ
USD, Thái Lan 23 tỷ USD, Philippin 37 tỷ USD). Xuất khẩu các mặt hàng điện tử và linh
kiện của Việt Nam năm 2009 mới chiếm khoảng 4,84% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong
khi tỷ lệ này của Malaysia là 15,9%, Philippin là 36,1%. Năm 2010, giá trị sản lượng của
toàn ngành đạt khoảng 6 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 3.590,17 triệu USD, chiếm
4,97% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các sản phẩm điện tử mang thương hiệu Việt vẫn chủ
yếu là các sản phẩm điện tử gia dụng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong thị trường nội
địa. Tới 90-95% kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng điện tử và linh kiện thuộc về các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là những tập đoàn điện tử lớn. Thị phần xuất
khẩu của Việt Nam so sánh với Trung Quốc và các nước khác trên một số thị trường nhập
khẩu mặt hàng điện tử chủ yếu còn rất nhỏ (năm 2009, đối với mặt hàng thiết bị văn
phòng: thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản chỉ chiếm 0,35%, trong khi
Trung Quốc là 38,9%; Mỹ 11,7%; Hàn Quốc 11,6%; Malaysia 5,65%; thị phần xuất khẩu
của Việt Nam sang Mỹ chỉ chiếm 0,08%, trong khi Trung Quốc là 39,5%; Malaysia
9,21%; Nhật Bản 7,63% ).
Để thực hiện mục tiêu, kế hoạch phát triển ngành công nghiệp điện tử Việt Nam
đến năm 2020 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 20 - 30% mỗi năm, Nhà nước đã tạo điều
kiện phát triển ngành này bằng nhiều chính sách khuyến khích thu hút đầu tư và bảo hộ
7
thông qua chính sách thuế, chính sách nội địa hóa… Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của
ngành công nghiệp điện tử Việt Nam, hay khả năng cạnh tranh của các mặt hàng điện tử
và linh kiện xuất khẩu của Việt Nam dựa chủ yếu vào lợi thế về lao động rẻ đang phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc và
Malaysia. Việc phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới đang gặp phải những khó khăn rất
lớn về vốn, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và định hướng thị trường tiêu thụ,
cộng thêm sự yếu kém của các ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT)…
Nằm trong khu vực Đông Á- cứ điểm sản xuất lớn nhất thế giới về các mặt hàng
điện, điện tử gia dụng, công nghệ trong lĩnh vực điện tử lại dễ chuyển giao nên cứ điểm
sản xuất có xu hướng dịch chuyển dần sang các nước có nhân công rẻ và chi phí thấp do
chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam, song Việt Nam chưa
tận dụng được những lợi thế này để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp
điện tử và tham gia hiệu quả vào mạng lưới sản xuất, phân phối khu vực và toàn cầu.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng hiện nay,
yếu tố quyết định để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam, đặc biệt trong việc xuất khẩu các mặt hàng điện tử và linh kiện ra thị trường thế
giới là phải khai thác được lợi thế so sánh động, tức là tăng trưởng xuất khẩu dựa vào các
yếu tố làm tăng năng suất như vốn, công nghệ và chất xám, tri thức. Kinh nghiệm quốc tế
cho thấy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng điện tử và linh kiện, Việt Nam phải chủ
động nâng cao chất lượng lao động, đào tạo đội ngũ kỹ sư tay nghề cao, hoàn thiện các
chính sách thu hút và chuyển giao công nghệ, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và
vươn lên các nấc thang giá trị cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu mặt hàng này.
Trước tình hình đó, việc thực hiện luận văn: “Năng lực cạnh tranh của ngành
công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” là thực sự
cần thiết.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về sự
phát triển ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam và các nước, trong đó phải kể đến:
* Trong nước:
- Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF - 2006), Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam dưới
góc nhìn của các nhà sản xuất Nhật Bản, phân tích thực trạng phát triển của công nghiệp
hỗ trợ Việt Nam trong mạng lưới phát triển công nghiệp khu vực theo quan điểm của các
8
chuyên gia Nhật Bản.
- Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF - 2006), Hoạch định chính sách công nghiệp
ở Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản, phân tích kinh nghiệm xây dựng chính sách công
nghiệp ngành công nghiệp ô tô, xe máy và điện tử của Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản
và đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam.
- Nguyễn Văn Lịch (2009), Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh
tranh của các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế của Việt Nam, phân tích lợi thế cạnh tranh
của các mặt hàng xuất khẩu, chủ yếu tập trung vào lợi thế so sánh động, lợi thế có được
nhờ các chính sách tạo ra giá trị gia tăng cao, tăng trưởng ổn định, tham gia sâu hơn vào
chuỗi giá trị toàn cầu hàng điện tử (GEVC), từ đó đề xuất một số chính sách và giải pháp
phát triển xuất khẩu dựa vào lợi thế cạnh tranh của Việt Nam định hướng đến năm 2020.
- Hồ Lê Nghĩa (2008), Liên kết sản xuất trong ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam- Một số vấn đề đặt ra, phân tích những vấn đề còn tồn tại trong quá trình liên kết
sản xuất giữa các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam, từ đó tìm
ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại và đề xuất một số giải pháp tăng cường liên
kết hiệu quả giữa các doanh nghiệp sản xuất trong ngành.
- Nguyễn Thị Nhiễu (2009), Chuỗi giá trị toàn cầu mặt hàng điện tử và khả
năng tham gia của Việt Nam, nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, quá trình hình
thành, phát triển GEVC và thực tiễn tham gia của Việt Nam trong GEVC từ năm 2001
đến nay; đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường năng lực và hiệu quả
tham gia của Việt Nam trong GEVC giai đoạn đến năm 2015 và những định hướng
lớn cho tới năm 2020.
- Trần Văn Thọ (2006), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa
của Việt Nam, phân tích vị trí của Việt Nam trên bản đồ công nghiệp khu vực và đề xuất
một số giải pháp cho Việt Nam.
* Ngoài nước:
- Hisami Mitarai (2005), Issues in electrical and electronic industries of ASEAN
countries and experiences for Vietnam (Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện
tử của các nước ASEAN và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam), phân tích những vấn đề
nảy sinh trong quá trình phát triển gần đây của ngành công nghiệp điện, điện tử của Thái
Lan, Malaysia, Indonesia và Philipine, cung cấp các bài học kinh nghiệm tham khảo cho
Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển ngành công nghiệp điện tử.
9
- Timothy J. Sturgeon (2003), Exploring the risks of value chain modularity:
electronics outsourcing during the industry cycle of 1992-2002 (Phân tích những rủi
ro của sự thay đổi trong chuỗi giá trị: xu hướng outsourcing trong ngành công nghiệp
điện tử giai đoạn 1992-2002), nghiên cứu xu hướng outsourcing trong ngành công
nghiệp điện tử thế giới giai đoạn 1992-2002 và xu hướng modun hóa trong chuỗi giá
trị ngành điện tử.
- Tomofumi Amano (2008), Competitive Strategy of Global Firms and Industrial
Clusters: Case Study on the HDD Industry (Chiến lược cạnh tranh của các hãng và các
cụm công nghiệp thế giới: trường hợp điển hình ngành công nghiệp phần cứng máy tính
HDD), phân tích chiến lược đầu tư của một số nước vào các cụm công nghiệp sản xuất
phần cứng máy tính tại châu Á và sự tham gia của các cụm công nghiệp châu Á vào
chuỗi giá trị hàng điện tử toàn cầu.
- Toshiyuki Baba (2008), Quantitative analysis on the purchasing structure of
supporting industries in ASEAN+4, Korea and Japan (Phân tích định lượng cơ cấu mua
hàng của công nghiệp hỗ trợ ở ASEAN + 4, Hàn Quốc và Nhật Bản), phân tích sự khác
biệt về cơ cấu giao dịch linh kiện của một số ngành công nghiệp tại châu Á theo đặc điểm
của linh kiện, phụ kiện, đặc điểm về thiết kế và tiêu chuẩn hóa cũng như các đặc điểm
của chính sách , nhằm đề xuất các giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ khu vực.
- Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD - 2005),
Strengthening participation of developing countries in dynamic and new sectors of
world trade: Trend, issues and policies in the electronic sector (Đẩy mạnh sự tham
gia của các nước đang phát triển vào các lĩnh vực mới đầy năng động của thương mại
toàn cầu: Xu hướng, các vấn đề đặt ra và các chính sách trong lĩnh vực điện tử),
nghiên cứu xu hướng phát triển của ngành điện tử thế giới và vai trò của các nước
đang phát triển trong GEVC
Những nghiên cứu kể trên có giá trị kế thừa và tham khảo tốt cho việc thực hiện
luận văn. Tuy nhiên, các công trình trên chưa đi sâu nghiên cứu các tiêu chí đánh giá
năng lực cạnh tranh dưới góc độ của một ngành hay doanh nghiệp, cụ thể là ngành công
nghiệp điện tử (CNĐT), cũng như chưa đánh giá được thực trạng năng lực cạnh tranh của
ngành CNĐT Việt Nam theo các tiêu chí đó trong sự so sánh với các doanh nghiệp cùng
ngành của các nước khác. Do đó, các công trình trên đều chưa đề xuất được các giải pháp
10
một cách toàn diện để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và đánh giá năng lực cạnh tranh
của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu chính của luận văn bao gồm:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh.
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam theo các tiêu chí lựa chọn những năm gần đây.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp
điện tử Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá năng lực cạnh
tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh và đánh giá
năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT Việt Nam theo một số tiêu chí được lựa chọn.
- Về thời gian:
+ Phần đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh giai đoạn từ năm 2003 đến 2009
(2003 là năm Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo cam kết tham
gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), trong đó nhóm hàng điện tử sẽ cắt giảm
thuế suất nhập khẩu từ 40-50% xuống còn 20% và đến năm 2005 còn khoảng 0-5%).
+ Phần đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành này định hướng
đến năm 2020.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để thu thập thông tin về cơ sở lý
luận, các công trình nghiên cứu trước đây, chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ
về định hướng phát triển ngành, kinh nghiệm của các nước
- Phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp để thu thập, xử lý và tổng hợp
số liệu.
11
- Phương pháp so sánh, đối chứng để tiến hành đánh giá thực trạng năng lực cạnh
tranh trong sự so sánh với các nước khác, đánh giá triển vọng phát triển và các nhân tố
tác động đến ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong giai đoạn tới.
- Phương pháp chuyên gia để lấy ý kiến góp ý chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện
luận văn.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Một số điểm mới và khác biệt của luận văn so với các công trình đã công bố như sau:
- Nghiên cứu các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh dưới góc độ của một ngành
hay doanh nghiệp.
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT Việt Nam theo các
tiêu chí được lựa chọn giai đoạn 2003-2009, so sánh với sự phát triển ngành CNĐT của
một số nước.
- Đề xuất các giải pháp (vĩ mô, vi mô) góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành CNĐT Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh.
Chương 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam theo các tiêu chí lựa chọn giai đoạn 2003-2009.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp
điện tử Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới.
12
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1. KHÁI NIỆM VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy vậy, nói
một cách khái quát, cạnh tranh là sự ganh đua giữa một nhóm người hoặc tổ chức, doanh
nghiệp với nhau nhằm nâng cao vị thế của mình và làm giảm vị thế của các đối thủ.
Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh được hiểu và định nghĩa khác nhau, nhưng tựu
chung lại, có thể nêu ra một cách tổng quát về các đặc trưng cơ bản của cạnh tranh trong
kinh doanh, đó là:
+ Cạnh tranh mang bản chất của mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với
nhau. Nói đến cạnh tranh là phải nói đến chủ thể tham gia cạnh tranh, và các chủ thể này
phải mang cùng một mục tiêu thì mới có cạnh tranh.
+ Các chủ thể cạnh tranh phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
+ Các phương pháp cạnh tranh rất đa dạng: thông qua giá cả, mẫu mã, chất lượng
sản phẩm, dịch vụ, tính độc đáo và sự khác biệt… Thực chất của cạnh tranh là vấn đề
giành lợi thế về giá cả hàng hóa - dịch vụ (mua và bán), hay những sự khác biệt và độc
đáo về chất lượng, và đó là con đường, phương thức để giành lấy lợi nhuận cao cho các
chủ thể kinh tế.
+ Cạnh tranh diễn ra trong khoảng thời gian và không gian không cố định. Cạnh
tranh là cuộc chạy đua khốc liệt mà doanh nghiệp muốn tồn tại thì không được lẩn tránh,
phải trực tiếp đối đầu với thử thách, tìm ra những giải pháp để giành thắng lợi trong cuộc
chiến đó.
Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì quan niệm và nhận thức về vấn đề cạnh tranh
là không giống nhau, ở phạm vi và các cấp độ áp dụng khác nhau. Tuy nhiên, xét theo
quan điểm tổng hợp: “Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế
ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt mục
tiêu kinh tế chủ yếu của mình như chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng, đảm bảo
các điều kiện sản xuất, thị trường và tiêu thụ có lợi nhất nhằm nâng cao vị thế của mình.
Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi
ích: đối với người kinh doanh là lợi nhuận, còn đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu
dùng”. [13]
13
* Lợi thế so sánh:
Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo (1772-1823) đã nghiên cứu
và đưa ra Lý thuyết về lợi thế so sánh. Trong nội dung của Lý thuyết lợi thế so sánh,
Ricardo tập trung phân tích chi phí so sánh để sản xuất một loại hàng hóa giữa các quốc
gia với nhau và tìm hiểu bằng cách nào để một quốc gia thu lợi được từ thương mại khi
chi phí thấp hơn tương đối. Lý thuyết này xác định những lợi thế đạt được trong thương
mại bằng cách chứng minh rằng: Trong thương mại quốc tế, khi các quốc gia tập trung
chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi những mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất hoặc những mặt
hàng có lợi lớn nhất thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi, trong đó mỗi nước có những
lợi thế so sánh riêng của mình về nguồn nhân công dồi dào giá rẻ, hay về tài nguyên thiên
nhiên phong phú, về vốn hay công nghệ…
Lợi thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học và là một khái niệm trọng yếu
trong nghiên cứu thương mại quốc tế, được nêu như sau: “Mỗi quốc gia sẽ được lợi khi
chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi
phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại, mỗi quốc
gia sẽ được lợi nếu nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí
tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác)” [13]. Nguyên tắc lợi
thế so sánh cho rằng, một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có
hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi
hàng hóa. Như vậy, nếu tất cả các quốc gia đều chuyên môn hóa vào các lĩnh vực họ có
lợi thế so sánh và cùng tham gia vào thương mại quốc tế thì mức phúc lợi toàn cầu sẽ
tăng lên đáng kể. Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã
viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý
sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh
đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình."
Về mặt định tính, người ta chia thành hai khái niệm, đó là: lợi thế so sánh tĩnh và
lợi thế so sánh động.
+ Lợi thế so sánh tĩnh (Static Advantage): Là lợi thế đang có hay những lợi thế có
được mà không cần phải đầu tư lớn về vốn và tri thức. Nếu sử dụng thuật ngữ của
M.Porter thì đây là những lợi thế “trời cho”, lợi thế “cấp thấp”, như các lợi thế về vị trí
địa lý, khí hậu, nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động dồi dào Những lợi thế này
thường không vững chắc mà chỉ mang tính ngắn hạn và trung hạn; nếu các điều kiện sản
14
xuất hiện có không được cải tạo liên tục và phát triển ở mức độ cao hơn thì có thể lợi thế
cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Với lợi thế so sánh tĩnh, có ngành đã
phát huy được và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế, nhưng cũng có ngành chưa
phát huy được do môi trường hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành còn nhiều hạn
chế.
+ Lợi thế so sánh động (Dynamic Advantage): Là lợi thế “cấp cao”, lợi thế phải có
sự đầu tư lớn về vốn và tri thức mới có được (như đầu tư vào lao động với trình độ kỹ
thuật và tri thức khoa học cao, cơ sở hạ tầng kinh tế hiện đại, công nghệ, trang thiết bị
tiên tiến ). Đây là lợi thế tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai gần hay xa khi các điều
kiện về công nghệ, về nguồn nhân lực và khả năng tích luỹ tư bản cho phép. Nếu có
chính sách tích cực theo hướng tạo ra nhanh các điều kiện đó sẽ làm cho lợi thế so sánh
động sớm chuyển thành sức cạnh tranh hiện thực.
Muốn có lợi thế này, ngoài yếu tố khách quan thuộc về môi trường quốc tế, bên
cạnh việc tận dụng triệt để các nguồn lực tự nhiên và sử dụng chúng có hiệu quả, quốc
gia/doanh nghiệp cần phải đầu tư không ngừng cho quá trình tiếp cận cái mới, cải thiện
môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư trong nước , tạo ra lợi thế tiềm năng làm cơ
sở cho sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp. Lợi thế so sánh động quyết định đến
chỉ số RCA. Hàng hóa được sản xuất dựa vào lợi thế so sánh tĩnh sẽ không có lợi thế
cạnh tranh bằng hàng hóa được sản xuất dựa vào lợi thế so sánh động trên cùng một thị
trường, mặc dù giá cả của “hàng hóa cấp thấp” có thể thấp hơn rất nhiều so với giá cả của
hàng hóa cùng loại được sản xuất dựa vào điều kiện “cấp cao”.
* Lợi thế cạnh tranh:
Lợi thế cạnh tranh là sở hữu của những giá trị đặc thù, có thể sử dụng được để trở
nên “nổi bật giữa đám đông”, từ đó “nắm bắt cơ hội” để kinh doanh có lãi. Lợi thế cạnh
tranh chính là lợi thế mà một quốc gia, doanh nghiệp hay một sản phẩm đang có và có
thể có so với các đối thủ cạnh tranh, bao gồm các lợi thế so sánh tĩnh (lợi thế sẵn có) và
các lợi thế so sánh động (lợi thế tiềm năng) thông qua quá trình tích lũy vốn, đầu tư công
nghệ, lao động trình độ cao, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- kỹ thuật và cải thiện môi
trường kinh doanh trong nước. Trong đó, lợi thế so sánh động quan trọng hơn lợi thế so
sánh tĩnh và mang tính quyết định tới lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, doanh nghiệp
hay một sản phẩm. [13, 14]
15
Theo quan điểm của Michael Porter, nếu doanh nghiệp chỉ tập trung vào hai mục
tiêu tăng trưởng và đa dạng hóa sản phẩm, chiến lược đó không đảm bảo sự thành công
lâu dài cho doanh nghiệp. Điều quan trọng đối với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào là
xây dựng cho mình một lợi thế cạnh tranh bền vững, mà theo Michael Porter, đó là doanh
nghiệp phải liên tục cung cấp cho thị trường một giá trị đặc biệt mà không có đối thủ
cạnh tranh nào có thể cung cấp được.
Để tạo dựng lợi thế cạnh tranh trên thương trường, người ta thường dựa vào ba
chiến lược, được gọi chung là “Chiến lược cạnh tranh phổ quát” (Generic strategies) và
chúng có thể được áp dụng cho mọi ngành với quy mô lớn hay nhỏ, mọi sản phẩm và
dịch vụ, đó là: [9, 13]
Chiến lược chi phí thấp/Cost Leadership (trường hợp hãng hàng không giá rẻ):
Chiến lược này được hiểu là duy trì mức chi phí thấp nhất trong ngành hoặc trên
thị trường. Những doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này cần có:
- Vốn để đầu tư cho những công nghệ giúp tăng năng suất lao động và cắt giảm
chi phí.
- Quy trình vận hành đạt hiệu quả cao.
- Nền tảng nguồn lực để có chi phí thấp (nhân công, nguyên vật liệu, trang
thiết bị…).
- Năng lực quản lý sản xuất, vật tư, nguyên vật liệu nhằm tiết kiệm và giảm chi phí
sản xuất.
Rủi ro lớn nhất khi áp dụng chiến lược này là không phải chỉ có sản phẩm của
doanh nghiệp bạn tiếp cận được các nguồn lực giá rẻ, mà các đối thủ cạnh tranh hoàn
toàn có thể sao chép chiến lược của nhau. Điều quan trọng là liệu doanh nghiệp bạn có
khả năng duy trì chi phí thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trong cuộc cạnh tranh khốc liệt
trên thương trường hay không?
Chiến lược khác biệt hóa/Differentiation (trường hợp hãng hàng không chất
lượng cao):
Nội dung cốt lõi của chiến lược này là làm cho sản phẩm/dịch vụ của một doanh
nghiệp khác biệt, độc đáo và hấp dẫn hơn sản phẩm/dịch vụ của đối thủ cạnh tranh (về
chất lượng sản phẩm, hình thức, tính năng, độ bền, chất lượng dịch vụ, hình ảnh thương
hiệu…). Để áp dụng thành công chiến lược này, một doanh nghiệp cần có:
- Quy trình nghiên cứu và phát triển (R&D), đổi mới sản phẩm tốt.
16
- Khả năng cung cấp sản phẩm/dịch vụ chất lượng cao.
- Hoạt động tiếp thị và bán hàng hiệu quả, nhằm đảm bảo khách hàng có thể cảm
nhận được sự khác biệt và lợi ích mà nó mang lại.
Những doanh nghiệp áp dụng chiến lược này phải rất nhanh nhạy trong quá trình
phát triển sản phẩm mới, nếu không họ sẽ mất một vài “phân đoạn thị trường” cho các
doanh nghiệp cạnh tranh khác theo đuổi chiến lược “Tập trung trên nền tảng khác biệt
hóa” (Differentiation Focus) được mô tả dưới đây.
Chiến lược tập trung hóa/Focus (trường hợp hãng hàng không chuyên bay một
vài lộ trình):
Chiến lược tập trung hóa là nhằm tập trung vào một nhóm khách hàng cụ thể, một
bộ phận trong các loại sản phẩm, dịch vụ hay mảng thị trường nào đó. Nếu như chiến
lược chi phí thấp và khác biệt hóa hướng vào thực hiện các mục tiêu với phạm vi hoạt
động toàn ngành, thì chiến lược trọng tâm hóa được xây dựng xoay quanh việc phục vụ
thật tốt một thị trường mục tiêu và mỗi chính sách kèm theo đều được phát triển theo tư
tưởng này, mảng thị trường ở đây được phân đoạn theo: vị trí địa lý; loại khách hàng và
dòng sản phẩm.
Doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này chỉ tập trung vào những thị trường ngách
(niche markets), đó là những phân khúc thị trường nhỏ với đặc điểm riêng biệt mà doanh
nghiệp lựa chọn và điều chỉnh các chiến lược của mình để phục vụ các phân khúc này mà
không quan tâm đến những mục tiêu khác. Lợi thế cạnh tranh của những doanh nghiệp
này được tạo dựng dựa trên việc thấu hiểu sâu sắc những đặc thù của thị trường và khả
năng cung cấp sản phẩm/dịch vụ phù hợp với những đặc điểm đó. Bằng cách tối ưu hóa
chiến lược nhằm vào các phân khúc mục tiêu, các doanh nghiệp có chiến lược tập trung
tìm kiếm và đạt được lợi thế cạnh tranh ngay trong phân khúc mục tiêu, mặc dù nhìn
chung họ không nắm giữ một lợi thế nào.
Chiến lược trọng tâm hóa cho phép các doanh nghiệp hiểu rất rõ thị trường của
mình, theo sát, gần khách hàng, phản ứng nhanh đối với nhu cầu của họ và thường nhanh
hơn nhiều so với các tổ chức theo đuổi thị trường rộng. Tuy nhiên, việc tập trung vào một
thị trường nhỏ phù hợp với nguồn lực của doanh nghiệp vẫn chưa hẳn là an toàn, vì các
doanh nghiệp lớn với nguồn lực tốt hơn vẫn có thể tấn công vào những phân khúc này.
Hơn nữa, chiến lược này khó cho phép doanh nghiệp giảm chi phí một cách mạnh mẽ.
17
Trước nguy cơ đó, những doanh nghiệp áp dụng chiến lược tập trung thường phải
tiếp tục tạo ra những lợi thế khác (bằng cách cắt giảm chi phí hoặc khác biệt hóa sản
phẩm/dịch vụ), nhằm mang đến nhiều giá trị gia tăng cho khách hàng trong phân khúc
của mình.
Vì thế, chiến lược tập trung còn được chia thành hai chiến lược con: “Chiến lược
tập trung trên nền tảng chi phí thấp” (Cost Focus) và “Chiến lược tập trung trên nền tảng
khác biệt hóa” (Differentiation Focus). Việc lựa chọn chiến lược nào phụ thuộc vào năng
lực cũng như điểm mạnh của từng doanh nghiệp và từng chủng loại sản phẩm.
Lời khuyên của các chuyên gia là không nên theo đuổi nhiều chiến lược cùng một
lúc, bởi mỗi chiến lược đòi hỏi một cách tiếp cận rất khác nhau. Hãy thử dùng mô hình
phân tích SWOT (Strengths, Weaknesses, Opportunities, Threats) để phân tích điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp bạn khi áp dụng mỗi kiểu chiến
lược nói trên, để hiểu được chiến lược nào có khả năng thành công cao nhất. Đồng thời,
cần phải biết kết hợp kết quả này với việc phân tích các tác lực cạnh tranh trong ngành
hoặc trên thị trường để có chiến lược cạnh tranh hiệu quả nhất.
1.1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh, các cấp độ cạnh tranh
Thuật ngữ năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trong phạm vi toàn cầu,
nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao giữa các học giả, các nhà chuyên môn về
khái niệm cũng như cách đo lường, phân tích năng lực cạnh tranh ở ba cấp độ: quốc gia,
ngành/ doanh nghiệp và sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ). Và hiện chưa có một lý thuyết
nào hoàn toàn có tính thuyết phục về vấn đề này, do đó không có lý thuyết “chuẩn” về
năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, hai hệ thống lý thuyết với hai phương pháp đánh giá
được các quốc gia và các thiết chế kinh tế quốc tế sử dụng nhiều nhất: Phương pháp thứ
nhất do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong bản Báo cáo cạnh tranh toàn cầu;
Phương pháp thứ hai do Viện Quốc tế về quản lý và phát triển (IMD) đề xuất trong cuốn
niên giám cạnh tranh thế giới. Cả hai phương pháp này đều do một số Giáo sư đại học
Harvard như Michael Porter, Jeffrey Shach và một số chuyên gia của WEF như
Cornelius, Mache Levison tham gia xây dựng. Các lý thuyết đó đều đi đến những điểm
chung, đó là: để có thể hội nhập và chiến thắng trong cạnh tranh trên trường quốc tế, cần
chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh ở ba cấp độ sau đây:
Năng lực cạnh tranh quốc gia
18
Năng lực cạnh tranh quốc gia (NLCTQG) được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau, nhưng tựu chung lại đều căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức sống
thực tế của người dân, đó là: Năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì
mức tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời nâng cao được thu nhập thực tế của người dân,
trên cơ sở các chính sách, thể chế và các đặc trưng kinh tế tương đối vững chắc của quốc
gia. [13]
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là việc xây dựng một
môi trường cạnh tranh kinh tế lành mạnh, đảm bảo phân bổ và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh, lựa chọn của các chủ thể kinh tế theo tín hiệu
của thị trường, nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi trường
cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định chính sách phát triển, cải
thiện môi trường đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập ngày càng có hiệu quả,
đồng thời có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Theo M. Porter, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào năng suất sử dụng các nguồn
lực (con người, tài nguyên và vốn) của một quốc gia. Chỉ có năng suất lao động mới là
yếu tố quyết định cho NLCTQG, bởi vì đây là yếu tố xác định cơ bản cho việc nâng cao
mức sống của nhân dân tại các quốc gia. Điều này lại phụ thuộc vào sự phát triển và tính
năng động của các doanh nghiệp, hay nói cách khác năng suất lao động của quốc gia
chính là năng suất tổng hợp của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Chính vì vậy,
NLCTQG có được là nhờ việc tạo ra một môi trường kinh doanh hiệu quả nhất (mang lại
năng suất cao nhất), là kết quả tổng hợp của năng lực cạnh tranh của những ngành kinh tế
chủ lực cấu thành nền kinh tế của quốc gia đó. Các ngành kinh tế đó có quan hệ với nhau
và với môi trường kinh tế chung của quốc gia. Do vậy có thể nói, NLCTQG và năng lực
cạnh tranh của các ngành/ doanh nghiệp có mối quan hệ qua lại và thúc đẩy lẫn nhau.
Có rất nhiều cách phân loại các tiêu chí khác nhau để đánh giá NLCTQG. Ngoài
những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế, có thể phân thành 8 tiêu chí
chủ yếu tác động đến NLCTQG, bao gồm: (1) Độ mở cửa kinh tế; (2) Vai trò của chính
phủ; (3) Hệ thống tài chính ngân hàng; (4) Công nghệ; (5) Cơ sở hạ tầng; (6) Hệ thống
quản lý chất lượng; (7) Lao động; (8) Thể chế, hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội
đặt nền móng cho nền kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của luật
pháp và quyền sở hữu. Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba
nhóm lớn để đánh giá NLCTQG là: Sáng tạo kinh tế - khoa học công nghệ; Tài chính;
19
Quốc tế hóa. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế - khoa học công nghệ đã tăng mạnh
từ 1/9 lên 1/3. Từ năm 2004, hệ thống tiêu chí được điều chỉnh và phân thành hai nhóm
chỉ tiêu: Năng lực cạnh tranh tăng trưởng (Growth Competitiveness Index - GCI) tức
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô và Năng lực cạnh tranh kinh
doanh (Business Competitiveness Index - BCI). GCI phân tích các yếu tố chủ chốt của
tăng trưởng bền vững, dựa trên phân tích "ba trụ cột" là: (i) Môi trường kinh tế vĩ mô, (ii)
Chất lượng các thể chế công cộng và (iii) Công nghệ.
Tóm lại, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT), cùng với quá trình
gỡ bỏ dần các hàng rào quan thuế và phi quan thuế, yếu tố quyết định sức mạnh kinh tế
của mỗi quốc gia tham gia thị trường thế giới chính là NLCTQG. Trong một thế giới
ngày càng tự do hóa, chiến lược phát triển kinh tế của từng quốc gia cần tập trung vào
việc tạo ra, duy trì và phát triển NLCTQG phù hợp với đặc điểm, trình độ riêng của nền
kinh tế và trình độ phát triển của thị trường.
Năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp
Quan niệm về năng lực cạnh tranh của một ngành/doanh nghiệp cũng có nhiều sự
khác biệt, song một cách chung nhất đó là: Khả năng ngành/doanh nghiệp đó tạo ra được
lợi thế cạnh tranh, tồn tại và phát triển trong kinh doanh; có khả năng đạt được năng
suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh; khai thác tốt các cơ hội thị trường và
chiếm lĩnh thị phần lớn; đạt được một số kết quả mong muốn về doanh thu, khả năng sinh
lời hay lợi nhuận. [13, 14]
Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh hoạt động trên cùng lĩnh vực, cùng một thị
trường, trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày
càng cao. Năng lực cạnh tranh của một ngành/ doanh nghiệp có được là nhờ hai nguồn
chính: Nguồn lực và năng lực bản thân.
+ Nguồn lực của doanh nghiệp có thể được chia thành các nguồn lực hữu hình:
nhân lực (chất lượng, kỹ năng lao động), tiềm lực vốn, trình độ cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
đất đai, nhà xưởng, thiết bị, công nghệ; và nguồn lực vô hình: kỹ năng, thương hiệu, danh
tiếng, bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật hoặc bí quyết marketing , xúc tiến thương mại ,
nghiên cư
́
u pha
́
t triê
̉
n thi
̣
trươ
̀
ng va
̀
sản phẩm mới , khả năng đổi mới , sáng tạo, nhạy bén
của doanh nghiệp . Để tăng khả năng cạnh tranh, nguồn lực của một doanh nghiệp phải
đảm bảo vừa duy nhất, tức là nguồn lực mà không một doanh nghiệp nào khác có được,
20
vừa có giá trị, tức xét theo phương diện nào đó nó tạo ra một nhu cầu mạnh mẽ với sản
phẩm của doanh nghiệp.
+ Năng lực của một ngành/doanh nghiệp chính là thể chế quản trị ngành, cơ cấu tổ
chức và năng lực quản lý của các doanh nghiệp trong ngành, qua đó khuyến khích được
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành và phát huy được lợi thế cạnh tranh. Có
thể nói đây là các kỹ năng của doanh nghiệp trong việc điều phối và sử dụng các nguồn
lực của nó một cách hiệu quả. Những kĩ năng này nằm trong những công việc hàng ngày
của doanh nghiệp, trong cách đưa ra quyết định của doanh nghiệp và cách doanh nghiệp
quản lý các quy trình nội bộ để đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Nói rộng hơn,
năng lực của một doanh nghiệp là sản phẩm của cơ cấu tổ chức và hệ thống quản lý của
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, năng lực của một ngành/doanh nghiệp còn thể hiện ở năng lực của
các ngành công nghiệp hỗ trợ, bởi vì sự phát triển của doanh nghiệp không thể tách rời sự
phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ (nhằm cung cấp nguyên liệu đầu vào, bán
thành phẩm phục vụ sản xuất), từ đó khẳng định vị trí của ngành/ doanh nghiệp trong
chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của doanh nghiệp chưa đủ, bởi
trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, lợi thế bên ngoài hay các nhân tố tác động từ bên
ngoài đôi khi là yếu tố quyết định. Thực tế chứng minh một số doanh nghiệp rất nhỏ,
không có lợi thế nội tại, thực lực bên trong yếu nhưng vẫn tồn tại và phát triển trong một
thế giới cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp không chỉ là việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong doanh nghiệp,
mà còn là việc tận dụng các lợi thế bên ngoài nhằm thu được lợi nhuận ngày càng cao và
cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành kinh doanh tạo ra năng lực
cạnh tranh ngành kinh doanh của quốc gia đó. Các doanh nghiệp trong ngành có thể vừa
cạnh tranh với nhau để tăng hiệu quả, vừa kết hợp với nhau dựa trên lợi thế của ngành để
tạo sức mạnh chung của ngành kinh doanh trên thị trường toàn cầu, đồng thời phát triển
năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp tương ứng với năng lực cạnh tranh của ngành.
Một số doanh nghiệp có thể vượt trội so với ngành, một số luôn đi theo đuôi và tận dụng
lợi thế của người đi sau để thực hiện chiến lược cạnh tranh. Tuy nhiên, toàn bộ ngành tạo
21
ra một trùm công nghiệp mang tính quốc gia và bổ trợ cho nhau để phát triển, vì hiệu quả
và mục tiêu giảm thiểu chi phí biên cho ngành kinh doanh trên thị trường toàn cầu.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ)
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh
trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó và được đo bằng thị phần của sản
phẩm trên thị trường [9, 13, 14]. Hay nói cách khác, mỗi doanh nghiệp có thể nâng cao
được năng lực cạnh tranh thông qua chiến lược sản phẩm của mình, vì sự sáng tạo và ưu
thế của sản phẩm là khía cạnh rất quan trọng của quá trình cạnh tranh. Đó là việc nâng
cao chất lượng sản phẩm, cải tiến kiểu dáng, bao bì mẫu mã, tính hữu dụng, tính độc đáo
và sự khác biệt của sản phẩm; độ tin cậy và ổn định của sản phẩm trên thị trường; hạ giá
thành; phát triển kênh phân phối , các dịch vụ đi kèm , khuyến mãi, quảng cáo; điều kiê
̣
n
và thời hạn giao hàng thuận lợi; nâng cao gia
́
tri
̣
gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu.
Như vậy, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự thể hiện năng lực cạnh tranh của
một doanh nghiệp, bởi đây là các yếu tố dễ định lượng và nhận biết được. Các đặc điểm
của nhà sản xuất thể hiện ra bên ngoài thông qua sản phẩm được đưa ra thị trường. Vì
vậy, các yếu tố xác định năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp hay quốc gia được
kết tinh lại trong sản phẩm, khi sản phẩm đó được đặt trong môi trường cạnh tranh quốc
tế. Sẽ không thể có năng lực cạnh tranh của sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ) khi năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp, vì nó phụ thuộc vào
nhịp độ đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, dịch vụ so với các đối thủ cạnh tranh, vào
sự chuyên môn hóa, mức độ chuyên nghiệp của doanh nghiệp trong sản xuất và phân
phối sản phẩm, dịch vụ. Bên cạnh đó, các yếu tố mang tính quốc gia như thể chế, chính
sách phát triển công nghệ, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng tạo
nên sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ.
Tóm lại, năng lực cạnh tranh của sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ) sẽ quyết định
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, vị thế của quốc gia và ngược lại chúng được định
đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia. Nói cách khác, năng lực cạnh
tranh của sản phẩm trong thương mại quốc tế là kết quả tổng hòa của năng lực cạnh tranh
của ngành/doanh nghiệp và quốc gia. Bởi vì, sản phẩm hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản
là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng (bao hàm cả các chỉ tiêu chất lượng) là do
doanh nghiệp sáng tạo ra. Giá trị sản phẩm được thực hiện thông qua thị trường và thể
hiện bằng giá cả (giá bán sản phẩm). Đó là kết tinh của lao động quá khứ và thực tại được
22
thể hiện thông qua chi phí các yếu tố đầu vào của sản xuất và tổ chức quản lý sản xuất.
Các yếu tố đầu vào của sản xuất có thể được cung ứng trong nước hoặc nhập khẩu và giá
cả của nó không chỉ được hình thành do cạnh tranh trên thị trường mà còn do các tác
động của Chính phủ.
Tựu chung lại, năng lực cạnh tranh được hiểu là những khả năng, nguồn lực, lợi
thế của ngành/doanh nghiệp, quốc gia, mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh
trên thương trường quốc tế tạo ra một số sản phẩm có ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so
với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Năng lực cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nghiệp có
được “Quyền lực thị trường” để thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Mỗi
ngành/doanh nghiệp cần phát huy các lợi thế cạnh tranh của mình, đó là tổng hợp những
lợi thế so sánh tĩnh và động. Lợi thế so sánh tĩnh (như những điều kiện tự nhiên, tài
nguyên hay con người) chỉ là những điều kiện đặc thù tạo ra ưu thế trên một khía cạnh
nào đó của một quốc gia hoặc ngành kinh doanh của quốc gia đó. Nguồn nhân công rẻ,
tài nguyên dồi dào thường được coi là lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Tuy
nhiên, đây mới chỉ là cơ sở cho một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa đủ là một lợi thế cạnh
tranh đảm bảo cho sự thành công trên thị trường quốc tế. Lợi thế cạnh tranh phải bao gồm
cả những lợi thế so sánh động, là khả năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có
liên quan như: khách hàng, nhà đầu tư hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị gia tăng
cao cho doanh nghiệp.
Michael E. Porter, Giám đốc Viện Chiến lược và Cạnh tranh của Trường Đào tạo
Kinh doanh Harvard, “Cha đẻ” chiến lược cạnh tranh đã nhận xét rất xác đáng: “Sự thịnh
vượng của một quốc gia là cái được tạo ra chứ không phải cái được thừa hưởng”. Trong
thế giới cạnh tranh, chỉ có liên tục phát triển và đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh
mới có thể tạo ra sự thịnh vượng cho một quốc gia.
1.2. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGÀNH CÔNG
NGHIỆP ĐIỆN TỬ
1.2.1. Các tiêu chí dựa trên “nguồn lực” và “năng lực” của các doanh nghiệp
trong ngành
1.2.1.1. Các tiêu chí dựa trên “nguồn lực” của doanh nghiệp
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT, người ta căn cứ vào các tiêu
chí đánh giá nguồn lực hay thực lực của các doanh nghiệp trong ngành, cụ thể chia làm
hai nhóm:
23
- Nguồn lực hữu hình bao gồm các yếu tố về: nhân lực (chất lượng, kỹ năng lao
động); tiềm lực vốn; trình độ cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đất đai, nhà xưởng; thiết bị và
công nghệ.
- Nguồn lực vô hình bao gồm: kỹ năng, thương hiệu, danh tiếng; bằng sáng chế, bí
quyết kỹ thuật hoặc bí quyết marketing ; chiến lược sản xuất kinh doanh , xúc tiến thương
mại, nghiên cư
́
u pha
́
t triê
̉
n thi
̣
trươ
̀
ng va
̀
sản phẩm mới ; khả năng đổi mới, sáng tạo, nhạy
bén của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Các tiêu chí dựa trên “năng lực” của doanh nghiệp
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT, người ta căn cứ vào các tiêu
chí đánh giá năng lực quản lý, tổ chức hay kỹ năng điều phối và sử dụng nguồn lực của
các doanh nghiệp trong ngành, cụ thể đó là:
- Thể chế quản trị ngành.
- Cơ cấu tổ chức và năng lực quản lý của các doanh nghiệp trong ngành.
- Năng lực của các ngành công nghiệp hỗ trợ.
- Vị trí của ngành/doanh nghiệp trong chuỗi giá trị toàn cầu hàng điện tử.
1.2.2. Các tiêu chí dư
̣
a trên chiê
́
n lươ
̣
c sản phẩm cu
̉
a ca
́
c doanh nghiê
̣
p trong
ngành
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT, người ta căn cứ vào các tiêu
chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các sản phẩm điện tử được đưa ra thị trường, thông
qua chiến lược phát triển sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Đây là các yếu tố dễ định
lượng và nhận biết được, bao gồm:
- Chất lượng hàng hóa, dịch vụ, mẫu mã, tính hữu dụng, tính độc đáo và sự khác
biệt của sản phẩm.
- Giá cả sản phẩm (so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường).
- Tổ chức tiêu thụ sản phẩm , các kênh phân phối, điều kiê
̣
n va
̀
thơ
̀
i ha
̣
n giao ha
̀
ng ,
khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh.
- Bên cạnh đó, một tiêu chí khá quan trọng nhưng cũng hết sức khó đánh giá về
năng lực cạnh tranh của sản phẩm, đó là giá trị gia tăng của sản phẩm. Đối với các sản
phẩm điện tử, để nâng cao giá trị gia tăng xuất khẩu cần tăng hàm lượng công nghệ có
trong sản phẩm, tăng tỷ trọng các sản phẩm chế tạo kết hợp công nghệ cao thay cho các
sản phẩm lắp ráp giản đơn. Trên thực tế, người ta thường áp dụng công thức tính tỷ lệ
24
giữa tốc độ tăng của giá trị gia tăng và tốc độ tăng giá trị sản lượng, thông qua trị số tỷ lệ
VA/GO.
1.2.3. Các tiêu chí khác (RCA, ERP )
1.2.3.1. Các tiêu chí dựa trên Hệ số lợi thế so sánh hiển thị (RCA)
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu, người ta thường dùng hệ số
RCA- Revealed Comparative Advantage, có nghĩa là Lợi thế so sánh hiển thị (hay Hệ số
cạnh tranh RCA). Hệ số RCA do Balassa (1965) đề xuất, phản ánh vị trí đạt được của
một sản phẩm quốc gia trên thị trường thế giới, hay nó cho biết một quốc gia có lợi thế so
sánh trong việc sản xuất một sản phẩm nhất định hay không, căn cứ vào các số liệu và cơ
cấu xuất khẩu.
Về mặt định lượng, có nhiều cách tính RCA có thể đơn cử như sau:
Cách thứ nhất: Hệ số RCA
1
đối với quốc gia i trong việc sản xuất sản phẩm j được
định nghĩa như sau: [12]
RCA
ij
=
R
1
=
Xij/Xi
Trong đó: Xij và Xwj là giá trị kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa j của nước i
và của thế giới
R
2
Xwj/Xw
Xi và Xw là tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu của nước i và của thế
giới
Hay: R
1
và R
2
là tỉ trọng giá trị kim ngạch
xuất khẩu một loại hàng hóa j trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của một quốc gia i và của cả
thế giới trong cùng khoảng thời gian.
Nếu RCA
1
< 1: Hàng hóa j không có lợi thế so sánh, hay quốc gia i không có lợi
thế so sánh khi sản xuất sản phẩm j.
Nếu 1 < RCA
1
< 2,5: Hàng hóa j tương đối có lợi thế so sánh; mức lợi thế tăng dần
khi RCA tiến dần tới 2,5.
Nếu RCA
1
> 2,5: Hàng hóa j có lợi thế so sánh rất cao, hay quốc gia i có lợi thế
so sánh cao khi sản xuất sản phẩm j.
Xét trong tương quan so sánh lợi thế tương đối, RCA
1
của một sản phẩm nào đó ở
nước nào lớn hơn, càng chứng tỏ vị trí đạt được của sản phẩm đó có lợi thế so sánh cao
hơn so với vị trí của sản phẩm cùng loại tại các quốc gia có hệ số RCA
1
nhỏ hơn. Vậy
RCA
1
cho biết tương quan so sánh thị phần của một loại hàng hóa nào đó (của một quốc
gia) trong tổng thị phần bình quân loại hàng hóa đó của thế giới.
25
Nhược điểm của hệ số RCA
1
nêu trên là bỏ qua yếu tố nhập khẩu và có thể dẫn đến
những sai lệch đáng kể trong đánh giá nếu lượng nhập khẩu sản phẩm tương đối lớn. Để
khắc phục nhược điểm này, có thể sử dụng cách tính thứ hai sau đây.
Cách thứ hai: Công thức tính RCA
2
theo cách này được đưa ra bởi Trường kinh
doanh Copenhagen (Đan Mạch) năm 1998 để xác định lợi thế so sánh hiện hữu của một
ngành kinh tế so với các ngành kinh tế khác. Ở đó, hệ số lợi thế so sánh hiển thị được xác
định bằng tỷ số giữa mức chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu của một mặt hàng nào đó
với tổng xuất và nhập khẩu của mặt hàng đó trong một quốc gia. Cụ thể: [12]
iJiJ
iJiJ
MX
MX
H
Trong đó:
H: Là hệ số lợi thế so sánh hiển thị
X
iJ
: Là giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng j của quốc gia i
M
iJ
: Là giá trị kim ngạch nhập khẩu mặt hàng j của quốc gia i
Nếu chủ yếu là nhập khẩu và hầu như không xuất khẩu, hệ số cạnh tranh RCA
2
sẽ
bằng -1. Đây là trường hợp nước này hoàn toàn không có lợi thế so sánh trong ngành
đang phân tích nên nhu cầu trong nước phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu.
Ngược lại, nếu hầu như chỉ xuất khẩu và không nhập khẩu, hệ số cạnh tranh RCA
2
sẽ là 1. Đây là trường hợp ngành công nghiệp trong nước phát triển mạnh mẽ, có sức
cạnh tranh áp đảo hàng nhập (có lợi thế so sánh rõ rệt trong ngành đang phân tích).
Nếu hệ số RCA
2
có giá trị lớn hơn 0 thì nước đó có lợi thế so sánh ở sản phẩm j,
ngược lại nếu hệ số RCA
2
có giá trị nhỏ hơn 0 thì nước đó không có lợi thế so sánh hay bất
lợi khi sản xuất sản phẩm j.
Giá trị RCA
2
gần bằng không là tình trạng xuất nhập khẩu gần như cân bằng và như
vậy sẽ không có kết luận rõ ràng về lợi thế so sánh đối với sản phẩm j.
Như vậy, hệ số RCA
2
cho thấy với những mặt hàng sử dụng công nghệ cao như
ngành CNĐT, tuy có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhưng Việt Nam lại là nước nhập siêu
về các sản phẩm này, nên hệ số RCA
2
luôn có giá trị âm. Điều này được thể hiện rõ hơn qua
cách tính lợi thế cạnh tranh có tính tới cán cân thương mại nội ngành và mức độ chuyên môn
hóa sản xuất dưới đây.
Cách thứ ba: Công thức tính RCA
3
theo cách này phản ánh lợi thế cạnh tranh của
một ngành có tính tới mức độ chuyên môn hóa sản xuất, cán cân thương mại nội ngành
26
và tương quan của cán cân thương mại với GDP, thường được đo bằng chỉ số chuyên
môn hóa Lafay Index (1992). [4, 17]
LIij = 100[(Xij-Mij)/(Xij+Mij)-Σ(Xij-Mij)/Σ(Xij+Mij)] (Xij+Mij)/ Σ(Xij+Mij)
Trong đó: Xij và Mij là giá trị kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa j của nước i.
Σ: j chạy từ 1 đến N với N là tổng thương mại hàng hóa của nước i.
Chỉ số lợi thế so sánh theo mức độ chuyên môn hóa phản ánh một cách tương đối
mức độ chuyên môn hóa trong xuất khẩu của một nền kinh tế trong mối quan hệ với mức độ
chuyên môn hóa của thế giới. Chỉ số Lafay của một ngành nào đó càng lớn, mức độ chuyên
môn hóa của ngành đó trong một nền kinh tế so với mức độ chuyên môn hóa của thế giới
càng cao, qua đó thể hiện rằng lợi thế so sánh của ngành đó cũng mạnh hơn.
Ngoài ra, chỉ số RCA còn có những cách tính khác nhau với những ý nghĩa nghiên
cứu về các lợi thế so sánh khác nhau tuỳ theo phạm vi nghiên cứu. Chẳng hạn công thức
RCA
4
tính cho một ngành do Viện nghiên cứu phát triển và thông tin quốc tế (Paris) đưa
ra năm 1987, dựa trên các thông số về tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của một ngành
so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Công thức này đưa ra cách tính Lợi
thế so sánh hiện hữu của một ngành dựa trên sự đóng góp của nó vào nền kinh tế quốc
gia thông qua tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu. Nói cách khác, công thức này cho biết
mức đóng góp tương đối của một ngành nào đó vào cán cân thương mại của quốc gia.
Tóm lại, hệ số lợi thế so sánh hiển thị có thể sử dụng để đánh giá sơ bộ khả năng
cạnh tranh của một ngành sản xuất của một nền kinh tế so với nền kinh tế khác, cho phép
so sánh khả năng cạnh tranh ở phạm vi quốc tế.
Các công thức trên đây cho biết sự lựa chọn của Chính phủ để quyết định tập trung
đầu tư vào ngành kinh tế mũi nhọn nào, các ngành có RCA lớn sẽ cho khả năng xuất
khẩu cao hơn.
Tuy nhiên, đây là phương pháp tính đơn giản, do đó, ý nghĩa phân tích của hệ số
lợi thế so sánh hiển thị không lớn. Bởi vì, khi tính RCA theo công thức này, các nhà
nghiên cứu đã bỏ qua sự can thiệp của Chính phủ thông qua chính sách thương mại và
công nghiệp, đồng thời không tính đến chi phí cá biệt của các nhà sản xuất.
1.2.3.2. Các tiêu chí dựa trên Mức độ bảo hộ hữu hiệu (ERP)
ERP đo lường phạm vi mức độ bảo hộ và các can thiệp khác của Chính phủ tác
động đến tỷ lệ “bồi hoàn” đối với các nhân tố sản xuất như đất đai, lao động, vốn (so với
khi không có bảo hộ và các can thiệp khác của Chính phủ). Dưới góc độ thực hành, ERP