Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 108 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ




LÊ HUY KHÔI




CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Chuyên ngành : KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
Mã số : 60 31 07



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI







HÀ NỘI, 2006






94
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
MỞ ĐẦU
Chương một: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU VÀ CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
1.1. Một số vấn đề lý luận và khái niệm cơ bản
1.1.1. Các lý thuyết về thương mại quốc tế
1.1.2. Khái niệm thương mại, xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
1.2. Vai trò của xuất khẩu
1.3. Một số vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.2. Nội dung, hình thức và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.3. Yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế
1.4. Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới trong chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu và bài học kinh nghiệm đối với việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước
1.4.2. Bài học rút ra cho Việt Nam
Chương hai: CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
2.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu và những cơ chế, chính sách của
Nhà nƣớc tác động đến chuyển dịch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
2.1.1. Tổng quan hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam từ 2001 đến nay
2.1.2. Thực trạng các cơ chế chính sách của Nhà nước tác động đến
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam

2.1.2.1. Các chính sách nhằm mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu, tháo
rợ hạn ngạch và khuyến khích xuất khẩu
2.1.2.2. Các chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại và xuất khẩu
2.1.2.3. Cơ chế theo dõi, ứng phó với những rào cản thương mại mới của
nước ngoài đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, cơ chế quản lý ngoại hối
và chính sách tỷ giá
1

5
5
5
6
11
13
13
15
17
19
19
24

27

27
27

28

28
30


32

35


95
2.1.2.4. Chính sách đầu tư và tài chính khuyến khích xuất khẩu, xây dựng
và triển khai thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển xuất
khẩu hàng hoá
2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu hàng hoá của Việt
Nam trong giai đoạn 2001 - 2005
2.2.1. Về chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
2.2.2. Về chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu
2.2.3. Về chuyển dịch các chủ thể tham gia xuất khẩu
2.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra
2.3.1. Những thành tựu chủ yếu
2.3.2. Những hạn chế cơ bản
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.4. Những bài học kinh nghiệm bước đầu
Phần thứ ba ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƢỚC TA
3.1. Định hƣớng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hoá ở nƣớc ta
trong thời gian tới
3.1.1. Bối cảnh trong nước và ngoài nước ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
3.1.1.1. Bối cảnh trong nước
3.1.1.2. Bố cảnh quốc tế
3.1.2. Định hướng chung chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hoá ở nước ta

thời gian tới
3.1.2.1. Định hướng chung
3.1.2.2. định hướng cụ thể
3.2. Các giải pháp tổng thể nhằm chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam đến năm 2010
3.2.1 Nhóm giải pháp phát triển và đa dạng hoá mặt hàng và thị trường
xuất khẩu đến năm 2010
3.2.1.1. Giải pháp chung nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá thời gian tới

37
37
44
50
51
51
52
55
59


61

61

61
61
67

73
73

74
79

79
79
80
85

88


96
3.2.1.2. Giải pháp cho từng nhóm hàng cụ thể
3.2.1.3. Giải pháp phát triển và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu
3.2.2. Giải pháp phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu và nâng cao năng
lực cạnh tranh xuất khẩu cho doanh nghiệp
3.2.2.1. Phát triển về mặt lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
3.2.2.2. Xây dựng các vườn ươm doanh nghiệp, các cụm công nghiệp để
hỗ trợ và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
3.2.3. Giải pháp phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xuất khẩu của đất nước
(đặc biệt là hạ tầng thông tin và thương mại điện tử)
3.2.3.1. Phát triển mạng lưới thông tin thương mại quốc gia
3.2.3.2. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu
3.2.3.3. Tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các cơ quan, đại
diện thương mại quốc gia cả trong và ngoài nước
3.2.3.4. Nhanh chóng ứng dụng thương mại điện tử
3.2.3.5. Xây dựng mô hình sàn giao dịch hàng hoá cho một số sản phẩm
xuất khẩu
3.2.4. Nhóm giải pháp về cải cách hành chính, thuận lợi hoá hoạt động
xuất khẩu

3.2.4.1. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường ở Việt Nam
3.2.4.2. Minh bạch hoá chính sách thương mại và đảm bảo sự phù hợp với
luật pháp và thông lệ quốc tế đồng thời tạo thuận lợi cho xuất khẩu
3.2.5. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho xuất khẩu
Kết luận
Tài liệu tham khảo
88

89

89
89
90

91
91

92

93
93

93
93
96
97












1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Giai đoạn 2001 - 2005 là giai đoạn 5 năm đầu thực hiện chiến lược phát
triển xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010. Trong giai đoạn này, xuất
khẩu của Việt Nam đã đạt được những thành tích vô cùng to lớn, thể hiện:
Qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá đều đạt và vượt các chỉ tiêu
đặt ra cho giai đoạn 5 năm đầu của chiến lược xuất khẩu 2001 - 2010. Trong
đó, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trung bình cả giai đoạn
đạt 17,5%/năm vượt 1,5% so với chỉ tiêu đặt ra trong chiến lược là 16%/năm.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt trên 32,4 tỷ USD, vượt hơn 4 tỷ USD so
với chỉ tiêu đặt ra trong chiến lược là 28,4 tỷ USD. Tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá trong giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 44,7%
năm 2000 lên 61,3% năm 2005 so với chỉ tiêu đặt ra trong chiến lược là
66,3%. Cơ cấu xuất khẩu đã có sự chuyển biến tích cực, tỷ trọng xuất khẩu
các sản phẩm thô đã ngày một giảm, thay và đó là các sản phẩm có mức độ
chế biến sâu, giá trị gia tăng cao, cơ cấu thị trường đã có thay đổi tích cực, thị
trường xuất khẩu không ngừng được mở rộng; các chủ thể tham gia xuất khẩu
cũng ngày một đa dạng hơn. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của
Việt Nam trong suốt thời gian vừa qua thì chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của
chúng ta vẫn còn những hạn chế cần phải tiếp tục khắc phục:
Thứ nhất, hầu hết các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu đều là những
sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, hàm lượng chất xám-công nghệ trong sản

phẩm xuất khẩu không cao.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến sâu
còn chưa cao và không ổn định. Từ năm 1992 đến 1998, tỷ trọng hàng xuất
khẩu chế biến tăng từ 32,3% lên 57,9%, sau đó chững lại và sụt giảm. Đến
năm 2002 giảm xuống còn 48,7%. Điều này cho thấy chuyển dịch cơ cấu của
ta chưa thật bền vững, còn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro.
Thứ ba, tỷ lệ chế biến trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam còn có sự
chênh lệch đáng kể so với các nước trong khu vực.


2
Thứ tư, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung vào một số tương đối
ít thị trường chính: Nhật Bản, Trung Quốc, Australia và Singapore chiếm đến
gần 40% tổng xuất khẩu. Đài Loan, Mỹ và Đức mỗi thị trường chiếm khoảng
5% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam. Phần lớn các thị trường xuất khẩu
quan trọng khác thuộc về các nước ở Đông Nam Á (Philippin, Malaysia, Thái
Lan, Inđônêsia và Campuchia) hoặc ở châu Âu (Hà Lan, Pháp, Bỉ, Italia,
Thuỵ sĩ và Tây Ban Nha).
Việt Nam muốn thực hiện được mục tiêu đưa đất nước về cơ bản trở
thành một nước công nghiệp hoá vào năm 2020 (tức là trong khoảng gần 15
năm nữa - một quãng thời gian đủ để Thái Lan, Malaysia, Indonesia thực
hiện thành công quá trình công nghiệp hoá từ những nước kém phát triển
thành những nền kinh tế công nghiệp hoá mới) và thực hiện thành công quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta cần phải có một sự thay đổi cơ
bản cơ cấu hàng hoá xuất khẩu hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, các bài tham luận, báo chí
đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu thương mại trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam như:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu của ThS. Phạm Thị Cải -

Viện Nghiên cứu Thương mại (năm 1999); Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn; Chuyển dịch cơ cấu thương mại trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam - PGS.TS Đinh Văn Thành - Viện
Nghiên cứu Thương mại (năm 1998); Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhằm phát triển xuất khẩu của Việt Nam phù hợp với xu hướng biến
đổi của thị trường hàng hoá và dịch vụ thế giới - PGS.TS. Nguyễn Văn Nam
- Viện Nghiên cứu Thương mại (năm 2003)
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang
diễn ra một cách mạnh mẽ, sự ra đời của khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
Trung Quốc và việc Việt Nam đa chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) ngày 07/11/2006, vấn đề phát triển xuất
khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu một cách hợp lý, có hiệu quả góp phần


3
đáng kể vào thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế“ và đưa ra
những giải pháp mang tính đột phá sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là: đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hoá, phát huy lợi thế của Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Để đạt mục tiêu đó, nhiệm vụ cơ bản mà tác giả đặt ra cho luận văn là:
- Làm rõ một số khía cạnh lý luận về chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu và
hội nhập kinh tế quốc tế;
- Nghiên cứu, khảo sát một số kinh nghiệm quốc tế về chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu hàng hoá và rút ra bài học cho Việt Nam;
- Phân tích thực trạng cơ cấu xuất khẩu hàng hoá và quá trình chuyển

dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, đánh giá những thành công và chỉ ra những hạn chế của tình hình
này;
- Làm rõ bối cảnh hiện nay và tìm kiếm các giải pháp cho chuyển dịch
cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện mới của hội nhập quốc tế
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng
hoá và quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, cũng
như các chính sách của Nhà nước trong đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu xuất
khẩu của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam và một số nước mà tác giả chọn làm đối
tượng nghiên cứu để học hỏi kinh nghiệm.


4
+ Về mặt thời gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động XK và quá trình
chuyển dịch cơ cấu XK hàng hoá của Việt Nam từ năm 2001 đến nay và dự
báo năm 2010.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật lịch sử
- Phương pháp tổng hợp, phân tích thông tin tài liệu
- Phương pháp kế thừa
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
6. Đóng góp mới của luận văn
- Đánh giá thực trạng vấn đề chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay và chỉ ra được những vấn đề còn
tồn tại, những nguyên nhân và vấn đề cần giải quyết.
- Đề xuất một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương một: Một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
hàng hoá
Chương hai: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005
Chương ba: Định hƣớng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nƣớc ta



5
Chương một
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XUẤT KHẨU VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Các lý thuyết thƣơng mại quốc tế
Bắt đầu với quan niệm của chủ nghĩa trọng thương thế kỷ 16 (1500 đến
1800) về thương mại quốc tế. Quan niệm này cho rằng nền kinh tế càng xuất
khẩu nhiều càng tốt, nhưng nhập khẩu phải bị hạn chế nhiều. Ý tưởng cơ bản
là nhằm tích luỹ càng nhiều vàng bạc hay kim loại quý càng tốt.
- Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith: Vào năm 1776, Tác
phẩm "Một tìm hiểu về nguyên nhân và bản chất sự thịnh vượng của các
quốc gia" của Adam Smith được xuất bản, trong tác phẩm này Ông đã đưa ra
một quan điểm khác về thương mại. Với "sự thịnh vượng của các quốc gia"
chúng ta bước vào thời đại kinh tế học cổ điển, tán thành gỡ bỏ toàn bộ các
rào cản hạn chế từ thương mại và các khía cạnh khác của nền kinh tế. Ý
tưởng của Adam Smith về thương mại và lợi ích của nó đối với xã hội được

biết đến như "Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối", ở đó Ông cho rằng "Một đất
nước nên sản xuất, chuyên môn hoá sâu và xuất khẩu những hàng hoá mà đất
nước đó có một lợi thế tuyệt đối.
- Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo: Vào năm 1817, "Các
nguyên tắc cơ bản của kinh tế chính trị" của David Ricardo đã được xuất bản.
Ricardo, một nhà kinh tế cổ điển xuất chúng khác, đã chỉ ra rằng Adam Smith
đã không chú ý đến các tình huống mà một quốc gia không có lợi thế chi phí
tuyệt đối so với các quốc gia khác. Bằng việc dùng phân tích về chi phí so
sánh, Ricardo đã chỉ ra rằng thậm chí khi một quốc gia hoạt động tương đối
không hiệu quả trong tất cả các ngành sản xuất thì cũng có thể đạt được có
được lợi ích thông qua trao đổi thương mại.


6
Vì thế, lý thuyết về lợi thế so sánh (Theory of Comparative Advantage)
của Ricardo cho thấy mỗi nước nên chuyên môn hoá việc sản xuất các loại
hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh. Các nước nên chuyên môn hoá sản xuất
chỉ một loại hàng hoá, đạt được nhờ trao đổi thương mại, và đáp ứng nhu cầu
của họ về các loại hàng hoá khác thông qua trao đổi thương mại.
- Mô hình Heckscher-Ohlin: Mô hình Heckscher-Ohlin được xây dựng
thay thế cho mô hình cơ bản về lợi thế so sánh của Ricardo. Mặc dù nó phức
tạp hơn và có khả năng dự đoán chính xác hơn, nó vẫn có sự lý tưởng hoá.
Đó là việc bỏ qua lý thuyết giá trị lao động và việc gắn cơ chế giá tân cổ điển
vào lý thuyết thương mại quốc tế. Mô hình Hechscher-Ohlin lập luận rằng cơ
cấu thương mại quốc tế được quyết định bởi sự khác biệt giữa các yếu tố
nguồn lực. Nó dự đoán rằng, một nước sẽ xuất khẩu những sản phẩm sử dụng
nhiều yếu tố nguồn lực mà nước đó có thế mạnh, và nhập khẩu những sản
phẩm sử dụng nhiều yếu tố nguồn lực mà nước đó khan hiếm.
- Mô hình lực hấp dẫn: So với các mô hình lý thuyết trên, mô hình lực
hấp dẫn nghiêng về phân tích định lượng hơn. Ở dạng đơn giản, mô hình lực

hấp dẫn dự đoán rằng trao đổi thương mại phụ thuộc vào khoảng cách giữa
hai nước và quy mô của hai nền kinh tế. Mô hình phỏng theo định luật vạn
vật hấp dẫn của Newton trong đó nói rằng, lực hút của hai vật thể phụ thuộc
vào khoảng cách giữa chúng và khối lượng của mỗi vật. Mô hình đã được
chứng minh rằng nó có tính định lượng tương đối mạnh thông qua các phân
tích kinh tế lượng. Các dạng mở rộng của mô hình này xem xét đến nhiều yếu
tố khác như mức thu nhập, quan hệ ngoại giao giữa hai nước, và chính sách
thương mại của mỗi nước.
1.1.2. Khái niệm thƣơng mại, xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
- Khái niệm thương mại: Có nhiều khái niệm khác nhau về thương mại:
+ Theo từ điển Oxford, thương mại là một nghề, một hoạt động kinh
doanh vì mục tiêu lợi nhuận.


7
+ Theo từ điển Giải nghĩa kinh doanh, thương mại là việc kinh doanh
mua bán để lấy tiền hoặc đổi lấy hàng hoá. Theo các khái niệm này, thương
mại chỉ đơn thuần là hoạt động mua bán, đổi chác, không bao gồm các hoạt
động đầu tư, sản xuất có liên quan.
+ Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAIL) đưa
ra khái niệm thương mại theo nghĩa rộng bao quát được các vấn đề nổi cộm
từ tất cả các mối quan hệ có tính chất thương mại như các giao dịch cung cấp
hay trao đổi hàng hoá và dịch vụ, phân phối, đại diện hay đại lý thương mại,
cho thuê, tư vấn, vận tải
+ Luật Thương mại lại đưa ra khái niệm “hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Trong khái niệm này, hàng hoá bao gồm tất các các loại động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai.
+ Theo Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm thương

mại được hiểu là tất cả những hoạt động kinh doanh sinh lời, chứ không phải
chỉ có hoạt động mua bán hay xuất nhập khẩu thông thường. Khái niệm
thương mại ở đây bao hàm cả thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ,
thương mại quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư. Khái niệm hiện đại này tuy là còn
mới mẻ đối với Việt Nam, nhưng khá phổ biến trên thế giới và được hầu hết
các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế thừa nhận, điển hình là Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).
+ Thương mại trong tiếng Việt được hiểu là hành động mua bán của các
thể nhân (các cá nhân có tư cách pháp lý) hay pháp nhân (các tổ chức, cơ
quan hoạt động kinh doanh có giấy phép hợp pháp) với nhau hoặc sự mua
sắm của các tổ chức Nhà nước (chính phủ chẳng hạn), tuỳ theo từng ngữ
cảnh.


8
Như vậy, theo ngôn ngữ luật thì khái niệm “Thương mại” không chỉ bao
gồm hoạt động kinh doanh, trao đổi mà bao trùm toàn bộ quá trình đầu tư,
sản xuất, kinh doanh hàng hoá và thậm chí cả việc cung cấp dịch vụ kèm
theo.
- Khái niệm xuất khẩu
Trên thực tế, cho đến nay mặc dù đã có khá nhiều khái niệm về “xuất
khẩu”, mỗi một tác giả đưa ra khái niệm đều dựa trên những góc độ xem xét
khác nhau. Vì vậy, vẫn chưa có sự thống nhất chính thức về khái niệm “xuất
khẩu”. Tuy nhiên, xuất khẩu nói một cách đơn giản nhất là việc bán một sản
phẩm hay một dịch vụ ra thị trường nước ngoài để thu ngoại tệ, xuất khẩu
thuần tuý là một chức năng của hoạt động thương mại.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó
không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ
mua bán phức tạp, có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi
nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi kinh tế, ổn định

từng bước nâng cao mức sống của dân cư. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh
đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu
với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước phải
tham gia xuất nhập khẩu không dễ dàng khống chế được.
Trong quan hệ ngoại thương của các nước, xuất khẩu được chia làm hai
loại: xuất khẩu hữu hình tức xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu vô hình tức
xuất khẩu dịch vụ. Ngoài ra, đối với xuất khẩu hàng hoá còn được chia ra
xuất khẩu thuần tuý và xuất khẩu chung. Xuất khẩu thuần tuý bao gồm hàng
hoá sản xuất ở trong nước và hàng từ nước ngoài nhập vào trong nước được
chế biến rồi tái xuất. Xuất khẩu chung bao gồm ngoài hai loại trên, còn
những hàng hoá từ nước ngoài nhập vào, không qua chế biến ở trong nước rồi
lại được tái xuất và những hàng hoá quá cảnh.
- Cơ cấu xuất khẩu:


9
Cơ cấu xuất khẩu là tổ hợp các yếu tố cấu thành xuất khẩu, thể hiện cả
về mặt định tính lẫn định lượng, chúng quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động
với nhau trong không gian và thời gian, trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định, phù hợp với mục tiêu xuất khẩu đã được xác định.
Hay cơ cấu xuất khẩu là tổng thể của các ngành hàng, lĩnh vực, bộ
phận, thành phần và thị trường với vị trí, tỷ trọng tương ứng với chúng và
mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Cơ cấu xuất khẩu phản ánh
mối quan hệ tỷ lệ về lượng và mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các
bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động xuất khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu phải được hiểu là tổng thể các quan hệ chủ yếu về số
lượng và chất lượng của các bộ phận cấu thành. Vì vậy, cơ cấu xuất khẩu
phải được đặt trong điều kiện về không gian và thời gian cụ thể, trong điều
kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội cụ thể và thích hợp với mỗi nước. Cơ cấu xuất
khẩu không bất biến mà nó luôn biến động, chuyển dịch cần thiết để ngày

càng hợp lý hơn, tạo ra hiệu quả cho xã hội. Mọi sự duy trì quá lâu hay thay
đổi quá nhanh chóng cơ cấu xuất khẩu, không phù hợp với những biến đổi tự
nhiên-kinh tế- xã hội, đều ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình sản xuất
kinh doanh, ngăn cản tăng trưởng kinh tế. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu
xuất khẩu không phải là mục đích mà là phương tiện để đạt được hiệu quả
của hoạt động xuất khẩu và sự tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Cơ cấu xuất khẩu là vấn đề mang tính lịch sử và không ngừng biến đổi.
Sự hình thành và biến đổi cơ cấu xuất khẩu phụ thuộc vào trình độ phát triển
của các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, điều kiện tự nhiên, trình độ
khoa học công nghệ của quốc gia.
Cơ cấu xuất khẩu được hình thành như là một sự tất yếu, vừa chịu tác
động của các quy luật kinh tế khách quan lại vừa phụ thuộc vào sự vận động
chủ quan. Cơ cấu xuất khẩu ở nước ta trong những năm vừa qua đã có những


10
chuyển biến tích cực phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Những yếu tố cơ bản của cơ cấu xuất khẩu:
+ Tổng thể các nhóm ngành hàng, các yếu tố cấu thành hệ thống xuất
khẩu của một quốc gia, của một địa phương và một vùng lãnh thổ;
+ Số lượng về giá trị và tỷ trọng của các nhóm ngành hàng và các yếu tố
cấu thành hệ thống xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước;
+ Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm, ngành, các yếu tố
hướng vào mục tiêu đã xác định;
Cơ cấu xuất khẩu có thể được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Tuy
nhiên tác giả chỉ đề cập đến 3 nội dung chủ yếu là: Cơ cấu mặt hàng, cơ cấu
thị trường và cơ cấu thành phần tham gia xuất khẩu.
- Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu:
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu là sự biến đổi cơ cấu về quy mô và số

lượng các yếu tố cấu thành xuất khẩu theo mục tiêu và phương hướng
nhất định. Sự thay đổi về số lượng và quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các
nhóm, các mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu có thể dẫn đến sự xuất hiện hoặc
mất đi của một số ngành, số mặt hàng hay số thị trường. Sự thay đổi này làm
cơ cấu xuất khẩu chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp
với môi trường phát triển. Đây không đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự
biến đổi cả về lượng và về chất trong nội bộ cơ cấu.
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu là sự thay đổi các mối quan hệ đã được
hình thành giữa các bộ phận cấu thành cơ cấu xuất khẩu trong toàn bộ
hoạt động xuất khẩu của đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu là quá trình vận động nhằm phát huy tốt
nhất những thế mạnh của quốc gia, đặc biệt là những thế mạnh tiềm ẩn có khả


11
năng tạo ra sức bật, sức cạnh tranh và những thế mạnh vốn có bằng các chính
sách tạo môi trường thuận lợi, ổn định cho hoạt động xuất khẩu.
Thực chất, sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu là sự phá vỡ kết cấu cũ của
hoạt động xuất khẩu và thay vào đó là một kết cấu mới phù hợp với xu thế
phát triển của đất nước và phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện
có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ chưa phù hợp
xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu về thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên các mặt biểu
hiện của cơ cấu nhằm hướng tới sự phát triển của xuất khẩu theo các mục tiêu
đã xác định cho từng thời kỳ phát triển.
Đối với các nước đang phát triển thì chuyển dịch cơ cấu nhằm đáp ứng
tới mức cao nhất nhu cầu của thị trường, tận dụng tốt được nguồn lực sẵn có
của đất nước, tạo nên hiệu quả cao trong hoạt động xuất khẩu, đáp ứng được
yêu cầu của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Đối với các nước công nghiệp phát triển, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
là chuyển giao những công nghệ cấp thấp thay vào đó là đầu tư công nghệ
mới, hiện đại cho ra những sản phẩm có chất lượng cao, những sản phẩm mới
có giá trị gia tăng cao phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
1.2. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU
- Xuất khẩu là một bộ phận quan trọng của cơ cấu kinh tế, một mặt nó bị
chi phối và quyết định bởi cơ cấu của ngành và lĩnh vực chủ yếu, mặt khác nó
có vai trò tạo tiền đề và thúc đẩy các ngành nhằm hình thành và phát triển
một cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp
hoá và hiện đại hoá. Thực tế đã cho thấy, bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần
phải nhập khẩu nhằm tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đảm bảo đầu vào
cho sản xuất và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Tuy nhiên, để hoạt


12
động nhập khẩu diễn ra thuận lợi thì cần phải có một lượng ngoại tệ cần thiết.
Xuất khẩu chính là một trong những hoạt động đem lại lượng ngoại tệ lớn và
tương đối ổn định cho nhập khẩu.
- Xuất khẩu là một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp, có tổ chức
cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng
hoá phát triển, chuyển đổi kinh tế, ổn định từng bước nâng cao mức sống của
dân cư.
- Xuất khẩu tạo điều kiện để trong nước có thể sản xuất với quy mô lớn
hơn trên cơ sở chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế, tạo công ăn việc làm, tạo
giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài. Nhờ sản xuất
với quy mô lớn có thể thuận lợi cho đầu tư, cho hiện đại hoá kỹ thuật, công
nghệ, cho hợp lý hoá sản xuất, cho việc tăng năng suất và hạ giá thành sản
phẩm.
- Xuất khẩu là khâu đưa chất lượng, trình độ kỹ thuật của sản phẩm

trong nước ra đọ sức với thị trường quốc tế. Ở đây, mọi sản phẩm đều gặp
phải sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt của các đối thủ cạnh tranh trên toàn thế
giới. Thông qua xuất khẩu mà có thể tự khẳng định mình và học hỏi được
trình độ trên thế giới, đặc biệt là công nghệ và kỹ thuật của các nước đang
phát triển. Cũng chính sự cạnh tranh quyết liệt trong xuất khẩu mà việc hạ giá
thành sản phẩm là mục tiêu phấn đấu trong việc xuất khẩu của từng quốc gia.
- Xuất khẩu tạo điều kiện vật chất không những cho ngoại thương mà
còn cho các mặt cân đối khác về thanh toán, về tài chính và tín dụng. Đồng
thời thông qua xuất khẩu có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
một chính sách ngoại thương chủ động và tích cực.
- Xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh tế trọng yếu của bất kỳ
quốc gia nào dù là phát triển hay đang phát triển. Việc thực hiện xuất khẩu hay
phát triển xuất khẩu sẽ tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều
việc làm mới và góp phần cải thiện thu nhập cho người lao động. Mặt khác, phát


13
triển xuất khẩu sẽ tạo nguồn thu ngoại tệ lớn hơn để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ
cho mua sắm máy móc thiết bị, nhập khẩu các sản phẩm trung gian phục vụ yêu
cầu phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia, đồng thời là nguồn để trả nợ
nước ngoài, giúp cân bằng và lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế, ổn định
tình hình kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển
- Ở các nước trên thế giới, nghiên cứu và xác định hướng phát triển và
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu được Chính phủ coi trọng. Thông qua các kết
quả nghiên cứu, Chính phủ và các doanh nghiệp có được các chính sách và
đối sách phù hợp nhằm mở rộng và phát triển các mặt hàng và thị trường.
- Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hợp lý có ý nghĩa thiết thực trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế, đa dạng hoá các mặt hàng và thị trường xuất khẩu,
phát huy lợi thế, tiềm năng về nguồn nhân lực, vật lực và tài lực của đất nước,
nâng cao được khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế

1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.3.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Từ đầu những năm 1950, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học
giả, các nhà nghiên cứu kinh tế về hội nhập kinh tế quốc tế và khái niệm hội
nhập (integration) kinh tế quốc tế đã xuất hiện. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn
có nhiều khái niệm khác nhau, với những quan điểm và cách tiếp cận khác
nhau về hội nhập kinh tế quốc tế mặc dù xét về bản chất thì hội nhập kinh tế
quốc tế là những bước đi cụ thể của một nền kinh tế nhầm tham gia có hiệu
quả vào nền kinh tế toàn cầu.
- Theo quan niệm của trường phái tư tưởng liên bang (Ferderalist School
of Thught), hội nhập được coi là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá
trình. Sản phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu Hoa Kỳ và
Thuỵ Sỹ. Những người theo trường phái này quan tâm chủ yếu tới khía cạnh
luật định và thể chế.


14
- Nhà kinh tế học người Hungary, Bela Balassa trong tác phẩm “Lý
thuyết về hội nhập toàn cầu” đã đưa ra định nghĩa “Hội nhập kinh tế quốc tế
là hiện tượng xảy ra trong quan hệ giữa các quốc gia nhằm xoá bỏ các sự
khác biệt kinh tế giữa những nền kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau”. Đây
là định nghĩa mang tính khái quát cao những chưa nêu bật được nội dung và
bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế.
- Một định nghĩa khác cho rằng: “Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá
trình đi liền với toàn cầu hoá kinh tế mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tham
gia phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực
trong nước với bên ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và
chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế”.
- Học giả Karl W.Deutsch đã xem hội nhập trước hết là sự liên kết các
quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu thương mại, thư tín, thông

tin, du lịch, di trú… từ đó hình thành dần các cộng đồng an ninh.
Tuy nhiên, cũng có một số cách tiếp cận khác về hội nhập kinh tế quốc
tế như:
- Hội nhập vừa là quá trình vừa là kết quả (trường phái này quan tâm
đến vấn đề hợp tác trong quá trình hoạch định chính sách và thái độ của tầng
lớp tinh tuý).
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động của một quốc gia trong
xu thế toàn cầu hoá nhằm xoá bỏ sự khác biệt và ngăn cách giữa các nền kinh
tế hội nhập kinh tế quốc tế có thành công hay không được biểu hiện ở mức độ
cam kết mở cửa thị trường hay mức độ hoàn thiện của các thể chế tham gia.
Đó chính là mức độ tham gia vào phân công lao động quốc tế và vị thế của
quốc gia trong hệ thống sản xuất và thương mại toàn cầu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế quốc gia
tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song


15
phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ
hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế.
- Loại ý kiến khác lại cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại
bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các
nhân tố sản xuất giữa các nước.
Từ những năm cuối của thập kỷ 90, thực hiện đường lối “mở cửa kinh
tế”, Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và quốc
tế nhưng hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là khái niệm tương đối mới mẻ. Tuy có
nhiều “biến thể” của khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế, song theo Bộ
Ngoại giao Việt Nam thì “Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn
kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới
thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song
phương và đa phương. Đây là khái niệm mang tính khái quát và thể hiện

được bản chất cũng như nội hàm của vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3.2. Nội dung, hình thức và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
a. Nội dung
Những nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm:
Thứ nhất, ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế quốc tế và
khu vực hay vùng lãnh thổ. Các thành viên đàm phán xây dựng các “luật chơi
chung” và thực hiện các quy định, cam kết đối với các thành viên của các
định chế, tổ chức đó.
Thứ hai, tiến hành các công việc cần thiết ở trong nước để bảo đảm đạt
được mục tiêu của quá tình hội nhập cũng như thực hiện các quy định, cam
kết quốc tế về hội nhập. Các nội dung quan trọng cần được triển khai thực
hiện trong mỗi quốc gia gồm:
- Điều chỉnh chính sách theo hướng tự do hoá thương mại và mở cửa
kinh tế, giảm và tiến tới dỡ bỏ các hàng rào thuế và phi thuế quan, làm cho


16
việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sự luân chuyển vốn, lao động, kỹ
thuật - công nghệ giữa các nước thành viên ngày càng thông thoáng hơn.
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế (bao gồm cơ cấu sản xuất - kinh doanh, cơ
cấu ngành hàng, mặt hàng, cơ cấu đầu tư…) phù hợp với quá trình tự do hoá
và mở cửa nhằm làm cho nền kinh tế thích ứng và vận hành có hiệu quả trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế. Mục tiêu cao nhất của sự điều chỉnh này là tạo
ra được một cơ cấu kinh tế tối ưu, có khả năng cạnh tranh cao, phát huy tốt
nhất những ưu thế của đất nước trong quá trình hội nhập. Quá trình điều
chỉnh này có những nét đặc thù rất khác nhau ở mỗi nước.
- Tiến hành các cải cách cần thiết về kinh tế - xã hội, đặc biệt là cải cách
hệ thống doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm bảo đảm thực
hiện quá trình hội nhập đạt hiệu quả cao. Đào tạo và chuẩn bị nguồn nhân
lực, đặc biệt là đội ngũ công chức, những nhà quản lý doanh nghiệp và lực

lượng công nhân lành nghề có thể đáp ứng tốt các đòi hỏi của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
b. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện qua các biện pháp tự do hoá
và mở cửa kinh tế của các quốc gia (nhất là về thương mại và nới lỏng kiểm
soát FDI và các luồng vốn), hay thông qua việc tham gia các cam kết, thoả
thuận song phương, khu vực và đa phương trên phạm vi toàn cầu như Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO).
Các hình thức liên kết kinh tế song phương và khu vực có thể bao gồm
việc nới lỏng/xoá bỏ rào cản đối với thương mại hoặc sự luân chuyển các yếu
tố của sản xuất (như vốn, lao động) cho đến việc thống nhất các chính sách
kinh tế.
Sơ đồ 1.1: Các hình thức liên kết kinh tế song phƣơng và khu vực
Hiệp định thương







17
mại ưu đãi
Khu vực thương
mại tư do






Liên minh thuế
quan





Thị trường chung





Liên minh kinh tế






Giảm thuế
quan trong
nhóm
Loại bỏ
thuế quan
trong nhóm
Thuế quan
chung đối
với ngoài
nhóm

Dịch chuyển
tự do lao
động và vốn
trong nhóm
Chính sách
kinh tế chung
và đồng tiền
chung
Liên kết kinh tế song phương và khu vực được thúc đẩy bởi những lý do
về chính trị (như tạo thế đứng, củng cố vị trí địa - chính trị và sự ổn định
thông qua quan hệ với các nước lớn và các nước có nhiều điểm tương đồng
trong khu vực), về kinh tế (tạo điều kiện thị trường cho phát triển kinh tế) và
đối với các nước đang phát triển thường được xem như “bước tập dượt” và
một hình thức bảo vệ lợi ích của mình cho mức hội nhập cao hơn. Một số tổ
chức kinh tế khu vực ra đời vào trước năm 1995 còn do những lo ngại về sự
thất bại của việc thiết lập một thể chế chung (như WTO) cho thương mại và
các hoạt động liên quan trên phạm vi toàn cầu.
Hiện nay, các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực hay các Hiệp định
song phương tuy có các yêu cầu cụ thể và phương thức hội nhập khác nhau,
nhưng nói chung đều nhất quán với mục tiêu là tiến tới tự do hoá thương mại
và đầu tư trên phạm vi khu vực hoặc toàn cầu, với các nguyên tắc: không
phân biệt đối xử, minh bạch, giảm thuế suất hàng rào thuế quan, không sử
dụng hàng rào phi thuế quan và phạm vi áp dụng ngày càng rộng hơn. Điều
này được thể hiện rõ qua các mục tiêu chung của APEC và các cam kết liên
kết kinh tế khu vực trong ASEAN…
1.3.3. Yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế


18
+ Xác định rõ ràng các yêu cầu và mục tiêu khi tiến hành các cuộc đàm

phán để tham gia các quan hệ kinh tế - thương mại song phương cũng như
các định chế kinh tế quốc tế và khu vực.
Đây là yêu cầu quan trọng nhất để hoạch định chiến lược và xác định
mức độ hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia, mỗi
nền kinh tế. Nếu mục tiêu và yêu cầu của các cuộc đàm phán không được xác
định rõ ràng sẽ dẫn đến các cam kết không phù hợp, thậm chí bất lợi cho
doanh nghiệp và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đặc biệt, đối
với những nước phát triển kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào khai thác nguồn lợi tự
nhiên và nguồn lao động rẻ nhưng có kỹ năng thấp (như Việt Nam) thì các
cam kết phù hợp với sức cạnh tranh của hàng hoá và các doanh nghiệp là hết
sức cần thiết.
+ Tiến trình hội nhập phải được thực hiện trên cơ sở và phù hợp với quá
trình đổi mới bên trong của nền kinh tế.
Hiệu quả ảnh hưởng của hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế sẽ không
đạt được ở mức cao, thậm chí không còn ý nghĩa nếu như những chuyển biến
bên trong của nền kinh tế và của doanh nghiệp không theo kịp tiến trình phát
triển của hội nhập, tự do hoá. Vì thế, nội dung và tiến trình hội nhập của mỗi
quốc gia, mỗi nền kinh tế phải dựa trên cơ sở và phải phù hợp với quá trình
đổi mới bên trong của nền kinh tế. Ngược lại, các quốc gia, các nền kinh tế
cần thực hiện các chương trình cải cách kinh tế như: Cải cách khu vực tài
chính, ngân hàng, đổi mới khu vực doanh nghiệp Nhà nước, hỗ trợ phát triển
khu vực tư nhân mạnh hơn và hiệu quả hơn nhằm theo kịp và thúc đẩy tiến
trình hội nhập.
+ Coi trọng và khác thác mọi cơ hội tham gia đàm phán quốc tế ở mọi
cấp độ.
Việc tôn trọng nguyên tắc này trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế sẽ đảm bảo cho các quốc gia, các nền kinh tế có thể tận dụng tối


19

đa những ưu đãi quốc tế dành cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế
đang trong giai đoạn chuyển đổi. Đây cũng là cơ sở để khai thác và đưa lên
bàn đàm phán về những yếu tố tạo nên ưu thế của quốc gia như: Độ rộng của
thị trường nội địa, chất lượng nguồn nhân lực, vị thế của quốc gia trong khu
vực và trên thế giới…
+ Kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể, giữa lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài trong quá trình hội nhập quốc tế.
Đây là nguyên tắc cần được đề cao khi xem xét, đánh giá cái "được" và
"mất" của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Các quốc gia, các nền kinh tế
khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế cần xem xét, đánh giá cái "được" và
"mất" của nền kinh tế giữa yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
với yêu cầu bảo hộ, giữa nguy cơ giảm sút thị phần của các doanh nghiệp trên
thị trường trong nước với khả năng phát triển thị trường xuất khẩu, giữa mức
độ giảm thu ngân sách do giảm thuế nhập khẩu với khả năng tăng thu nhờ mở
rộng nhập khẩu để đảm bảo tổng lợi ích thu được của toàn nền kinh tế và
trong dài hạn là lớn nhất.
1.4. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI TRONG
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU XUẤT KHẨU VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI
VỚI VIỆT NAM
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc
(1). Kinh nghiệm của các nước ASEAN
Có thể tạm phân chia chiến lược ngoại thương của các nước ASEAN
làm hai giai đoạn chính: giai đoạn I trước những năm 1970 và giai đoạn II từ
những năm 1970 đến nay. ở giai đoạn I, hầu hết các nước ASEAN đều thực
hiện chiến lược thay thế nhập khẩu và đến giai đoạn II thì chuyển sang chính
sách khuyến khích xuất khẩu. áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu là biện
pháp để tiết kiệm ngoại tệ và hỗ trợ các ngành công nghiệp non trẻ trong
nước lớn mạnh. Có thể nói, chiến lược thay thế nhập khẩu tuy không trực tiếp



20
tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế nhưng đã gián tiếp tạo đà cho những
thành công của chiến lược định hướng xuất khẩu sau này.
Inđônêsia: vào đầu những năm 60 đã sử dụng chiến lược thay thế nhập
khẩu, hạn chế buôn bán với nước ngoài. Chính sách này cũng mang lại một
số kết quả tích cực cho nền kinh tế nội địa, tuy nhiên nó không bù đắp được
những hậu quả gây ra. Cuối những năm 60, tình hình kinh tế trở nên rất tồi tệ,
sản xuất trong nước bị đình đốn, giá cả leo thang, lạm phát có lúc lên đến 3
con số, ngân sách nhà nước thâm hụt nặng. Trước tình hình đó, bên cạnh
nhiều biện pháp khôi phục kinh tế khác, Chính phủ đã thực hiện chính sách
thúc đẩy sản xuất hướng về xuất khẩu, đặc biệt đối với dầu mỏ. Chính sách
này đã thực sự mang lại một sức sống mới cho nền kinh tế Indonesia. GDP
tăng bình quân 7%/năm trong giai đoạn 1970 - 1980. Giá trị hàng hoá xuất
khẩu chiếm 22,2% GDP năm 1970 tăng lên 46,8% năm 1980. Tuy nhiên, vào
đầu những năm 80, do giá dầu trên thế giới giảm mạnh, ảnh hưởng rất lớn
đến nền kinh tế Indonesia, buộc Inđônêsia phải thay đổi chính sách mới
khuyến khích tăng xuất khẩu hàng hoá phi dầu mỏ. Bằng những biện pháp
mạnh mẽ như phá giá đồng tiền 2 lần, cải cách các thủ tục hải quan, giảm
thuế cho những người xuất khẩu, xuất khẩu hàng hoá không phải dầu mỏ đã
tăng rõ rệt. Tuy nhiên, nền kinh tế Indonesia trong giai đoạn này vẫn bị giảm
mạnh, tốc độ tăng GDP chỉ còn 0,3% năm 1982 và đến tận những năm 1989,
tốc độ tăng GDP trung bình chỉ đạt 3,3%. Với nỗ lực và hướng đi đúng đắn,
nền kinh tế Indonesia cuối cùng cũng được hồi phục trở lại với sự đóng góp
không nhỏ của xuất khẩu.
Malaysia: Vào đầu những năm 60 đã áp dụng chính sách thay thế nhập
khẩu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Chính sách thay thế nhập khẩu đã
hoàn thành tốt sứ mạng lịch sử của mình, góp phần đẩy mạnh công cuộc công
nghiệp hoá đất nước, cũng như góp phần đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao. Tuy nhiên, chính sách này cũng đã bộc lộ nhược điểm là làm cho nền
kinh tế phụ thuộc vào ngoại tệ. Chiến lược công nghiệp hoá theo hướng thay



21
thế nhập khẩu đã sử dụng công nghệ sử dụng nhiều vốn và nguyên vật liệu.
Hàng rào thuế quan và hạn chế định lượng đã kích thích sự phát triển thị
trường nhập khẩu lậu. Hơn nữa, chính sách thay thế nhập khẩu đã khuyến
khích duy trì đánh giá quá cao đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ, dẫn đến hạn
chế xuất khẩu các loại hàng truyền thống và tiềm năng. Trong giai đoạn sau,
cùng với chính sách khuyến khích xuất khẩu, hàng loạt các biện pháp thúc
đẩy xuất khẩu được đưa ra, như trợ cấp xuất khẩu và cho phép khấu hao
nhanh, miễn giảm thuế, cho vay đầu tư và các kích thích tài chính khác. Kết
quả là, những năm 1970 - 1980, GDP của Malaysia đã tăng bình quân
7%/năm, cơ cấu kinh tế có những chuyển biến tích cực rõ rệt.
Thái Lan: là một trong những ví dụ rõ rệt về tác động của ngoại thương
tới tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các chính sách thương mại của Thái Lan
trong những năm 70 và 80 có xu hướng chung là thay thế hàng nhập khẩu và
khuyến khích xuất khẩu hàng nông nghiệp, là một trong những lợi thế so sánh
của Thái Lan. Cùng với nguồn nhân lực dồi dào, ngành công nghiệp của Thái
Lan trong thời kỳ này đã đóng góp cho nền kinh tế một nguồn thu ngoại tệ
lớn. Đến đầu thập kỷ 80, do giá thị trường nông sản thế giới giảm mạnh làm
cho lợi thế so sánh của Thái Lan bị sa sút. Chính phủ Thái Lan phải thay đổi
chính sách kinh tế, nhờ vậy cơ cấu kinh tế của Thái Lan thay đổi nhanh
chóng, chuyển nhanh từ phát triển nông nghiệp sang phát triển công nghiệp
chế biến.
Như vậy, kết quả của việc thực hiện chính sách công nghiệp hoá theo
hướng xuất khẩu đã giúp cho các nước ASEAN như Inđônêsia, Malaysia,
Thái Lan đạt được thành công lớn trong phát triển kinh tế: tốc độ tăng trưởng
GDP vào loại cao so với các nước trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao, liên
tục đã góp phần quan trọng nâng cao rõ rệt thu nhập GDP trên đầu người của
người dân các nước này.

(2). Kinh nghiệm của Hàn Quốc

×