Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 91 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


TRẦN MẠNH HÙNG


MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DA GIẦY TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60 34 05



LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS TRẦN ANH TÀI







Hà Nội - Năm 2006



- 2 -
MỤC LỤC

Trang
Lời nói đầu

Mục lục

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh
tranh
14
1.1. Khái quát về năng lực cạnh tranh
14
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
14
1.1.2. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh
15
1.1.3. Xu thế hội nhập và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp kinh doanh da giầy Việt Nam
22
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
28
1.2.1. Nhóm nhân tố bên ngoài
28
1.2.1.1. Những nhân tố vĩ mô
28
1.2.1.2. Những nhân tố vi mô
33
1.2.2. Nhóm nhân tố bên trong

38
1.3. Các yếu tố chủ yếu phản ánh năng lực cạnh tranh
46
1.3.1. Thị phần và tốc độ tăng thị phần
46
1.3.2. Trình độ kỹ thuật công nghệ
46
1.3.3. Chất lượng sản phẩm
46
1.3.4. Chính sách giá cả
47
1.3.5. Hệ thống phân phối
47
1.3.6. Năng suất lao động
48
1.3.7. Doanh thu
48
1.3.8. Khả năng cung ứng
49
1.4. Một số đặc điểm của ngành kinh doanh da giầy trên thế giới và kinh
nghiệm ở một số nước trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh
50
1.4.1. Một số đặc điểm của ngành kinh doanh da giầy trên thế giới
50
1.4.2. Xu hướng phát triển của ngành da giầy thế giới
52


- 3 -
1.4.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh

58
Chương 2: Thực trạng kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam
65
2.1. Tổng quan về ngành da giầy Việt nam
65
2.1.1. Vai trò của ngành da giầy trong nền kinh tế
65
2.1.2. Hệ thống tổ chức quản lý của ngành da giầy
67
2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu da
giầy trong thời gian qua.
69
2.2.1. Năng lực sản xuất
69
2.2.1.1. Thực trạng về nguồn nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh
69
2.2.1.2. Thực trạng về quy trình công nghệ và thiết kế mẫu mốt
80
2.2.1.3. Thực trạng về lao động và năng suất lao động
88
2.2.1.4. Thực trạng về đầu tư thiết bị công nghệ và hiệu quả sử dụng nhà
xưởng
91
2.2.2. Quy mô và phân bố sản xuất của ngành
97
2.2.3. Cơ cấu sản phẩm của ngành
100
2.2.4. Thị trường và thị phần của ngành da giầy
103

2.2.5. Thực trạng về cơ chế chính sách của nhà nước
126
2.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu da
giầy trong thời gian qua
131
2.3.1.Những điểm mạnh
131
2.3.2. Những điểm yếu
132
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế
137
3.1. Những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp kinh doanh da giầy
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
137
3.1.1. Những cơ hội thuận lợi
137
3.1.2. Những thách thức
143


- 4 -
3.2. Phương hướng phát triển của ngành da giầy Việt Nam trong thời gian
tới
149
3.2.1. Dự báo về tình hình sản xuất và tiêu thụ da giầy trong thời gian tới
149
3.2.2. Định hướng phát triển ngành da giầy phục vụ cho xuất khẩu trong
những năm tới

150
3.3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế
154
3.3.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp
155
3.3.1.1. Xây dựng và lựa chọn chiến lược sản phẩm đúng đắn
155
3.3.1.2. Củng cố, mở rộng thị trường hiện tại và tìm kiếm phát triển thị
trường mới
157
3.3.1.3. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển
giao công nghệ
167
3.3.1.4. Tăng cường đào tạo và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
169
3.3.1.5. Giải quyết tốt vấn đề bảo đảm nguyên vật liệu để chủ động cho sản
xuất và xuất khẩu
170
3.3.1.6. Tích cực xây dựng văn hoá doanh nghiệp
173
3.3.2. Kiến nghị đối với ngành
174
3.3.3. Kiến nghị đối nhà nước
175
Kết luận
181






- 5 -
DANH MỤC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

AFTA
:
Khu vực thương mại tự do ASEAN
ASEAN
:
Hiệp hội các quốc gia Đông nam á
CCI
:
Chỉ số năng lực cạnh tranh hiện hành
CNH - HĐH
:
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
ĐTNN
:
Đầu tư nước ngoài
EC
:
Cộng đồng Châu Âu
EU
:
Liên minh Châu Âu
GCI
:
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng

GDP
:
Tổng sản phẩm quốc nội
GSP
:
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
KHCN
:
Khoa học công nghệ
LDC
:
Các nước chậm phát triển
MNF
:
Quy chế tối huệ quốc
NK
:
Nhập khẩu
NSLĐ
:
Năng suất lao động
OECD
:
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
R&D
:
Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới
SNG
:
Cộng đồng các quốc gia độc lập

SA 8000
:
Đảm bảo trách nhiệm xã hội
SX
:
Sản xuất
SXCN
:
Sản xuất công nghiệp
SXKD
:
Sản xuất kinh doanh
TNHH
:
Trách nhiệm hữu hạn
VN
:
Việt Nam
WEF
:
Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO
:
Tổ chức thương mại thế giới
XK
:
Xuất khẩu


- 6 -

XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa


- 7 -
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ

Số bảng, sơ đồ
Nội dung bảng, biểu
Trang
Bảng 1.1
Đóng góp của công nghiệp da giầy trong nền kinh tế VN
27
Bảng 1.2
So sánh mức thuế đối với một số mặt hàng vào thị trường Mỹ
31
Hình 1.1
Các lực lượng điều khiển cạnh tranh trong ngành
33
Bảng 2.1
Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giầy giai đoạn 2000 - 2005
65
Bảng 2.2
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng dẫn đầu cả nước
66
Bảng 2.3
Giá trị nguyên phụ liệu dệt may da NK giai đoạn 2001 - 2005
69
Sơ đồ 2.1

Sơ đồ tổng quát quy trình sản xuất giầy
81
Bảng 2.4
Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng sản xuất giầy dép
84
Bảng 2.5
Tình hình nghiên cứu, triển khai mẫu mốt giầy dép
87
Bảng 2.6
Giá nhân công ở một số nước trong ngành sản xuất da giầy
90
Bảng 2.7
Năng suất lao động bình quân ở một số nước trong ngành sản
xuất da giầy
91
Bảng 2.8
Tổng vốn đầu tư giai đoạn 1993 - 2005
93
Bảng 2.9
Quy mô doanh nghiệp da giầy Việt Nam
97
Bảng 2.10
Năng lực sản xuất phân theo địa phương năm 2004
99
Bảng 2.11
Cơ cấu sản phẩm ngành da giầy Việt Nam giai đoạn 2003 -
2005
100
Bảng 2.12
Một số thị trường chủ yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu

giầy dép Việt Nam
105
Bảng 2.13
Xuất khẩu giầy dép Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn
2000 - 2005
106
Hình 2.1
Tỷ trọng các nước nhập khẩu da giầy của Việt Nam ở thị
trường EU
107
Bảng 2.14
Các chủng loại giầy dép nhập khẩu vào Hoa Kỳ năm 2005
111
Bảng 2.15
Mười nước xuất khẩu giầy dép lớn nhất vào Canada năm 2005
116
Bảng 2.16
Các nước cung cấp giầy mũ nguyên liệu dệt lớn nhất cho Nhật
118


- 8 -
Số bảng, sơ đồ
Nội dung bảng, biểu
Trang
Bản

Bảng 2.17
Kim ngạch XK giầy mũ nguyên liệu dệt của Việt Nam sang
Nhật Bản

119
Bảng 2.18
Mức thuế đối với một số mã hàng giầy nhập khẩu vào Nhật
Bản
121
Bảng 2.19
Một số thị trường cung cấp giày dép cho Hồng Kông qua các
năm
122
Bảng 3.1
Tình hình sản xuất giầy dép thế giới
138
Bảng 3.2
Kim ngạch xuất khẩu theo châu lục / khu vực giai đoạn 2001 -
2005
138
Hình 3.1
Cơ cấu xuất khẩu theo khu vực
139
Bảng 3.3
Sản xuất giầy dép của EU giai đoạn 2000 - 2004
139
Bảng 3.4
Ma trận SWOT của ngành da giầy Việt Nam
148
Bảng 3.5
Mục tiêu xuất khẩu giầy dép đến năm 2010
150
Bảng 3.6
Phân vùng thị trường cho giầy dép xuất khẩu

158
Bảng 3.7
Dự báo nhu cầu nguyên phụ liệu trong nước cho ngành da
giầy Việt Nam
172


- 9 -
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp da giầy là ngành sản xuất hàng tiêu dùng quan trọng gắn liền với nhu
cầu không thể thiếu được của đời sống xã hội, là bộ phận quan trọng của nhu cầu mặc,
thời trang. Đời sống kinh tế - xã hội càng phát triển thì nhu cầu về sản phẩm da giầy càng
cao.
Ngành công nghiệp da giầy trong những năm qua luôn giữ vị trí quan trọng đối
với nền kinh tế của nước ta, là ngành thu hút và giải quyết nhiều việc làm cho người lao
động. Xét trên bình diện quốc gia, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giầy luôn đứng ở vị
trí thứ ba sau Dầu khí và Dệt may xuất khẩu trong nhiều năm qua. Công nghệ da giầy
đơn giản, vốn đầu tư thấp, nhưng hiệu quả kinh tế - xã hội cao nên rất phù hợp với điều
kiện kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Da giầy cũng là một trong những ngành nghề truyền thống ở nước ta từ lâu. Năm
1912 nhà máy thuộc da đầu tiên ở Đông Dương được chủ tư bản Pháp xây dựng tại số
151 phố Thuỵ Khê - Hà Nội. Ngoài ra, nhiều làng nghề truyền thống sản xuất giầy, dép,
bóng các loại cũng xuất hiện từ lâu, nhưng sản xuất thủ công là chủ yếu .
Trong những năm qua, với những lợi thế của mình, ngành da giầy Việt Nam đã
tiếp nhận một cách có hiệu quả sự chuyển dịch của ngành da giầy thế giới và đã có những
bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, ngành còn bộc lộ nhiều nhược điểm như: Phát triển một
cách tự phát, thiếu quy hoạch, mất cân đối, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước
ngoài, năng lực thiết kế kém… dẫn tới hiệu quả mang lại chưa tương xứng với tiềm năng

của nó. Đặc biệt, khi chuyển sang cơ chế thị trường, hoà nhập với thế giới và khu vực,
ngành da giầy của nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn là làm thế
nào để tồn tại và ngày càng phát triển trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Con đường đúng đắn duy nhất là phải thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá
ngành da giầy, bảo đảm tiếp nhận có hiệu quả sự chuyển dịch của ngành da giầy thế giới
vào nước ta, tranh thủ tiếp thu khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các
nước công nghiệp phát triển và các nước công nghiệp mới.


- 10 -
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ: “ Ngành dệt may và da giầy, chú
trọng tìm kiếm và mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Tăng cường đầu tư, hiện
đại hoá một số khâu sản xuất sợi, dệt, thuộc da chú trọng phát triển nguồn bông và khai
thác nguồn da các loại, tăng phần sản xuất trong nước về các nguyên liệu và phụ liệu
trong ngành dệt may và da giầy để nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu. Đến
năm 2010 nâng sản lượng giầy dép lên trên 610 triệu đôi ”
Trong bối cảnh thời điểm thực hiện các cam kết của hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta đang tới gần, để tận dụng cơ hội thuận lợi và vượt qua những khó khăn thách
thức thì các doanh nghiệp da giầy Việt Nam phải không ngừng tìm ra những giải pháp
phù hợp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thương trường. Từ trước tới nay đã
có một số nghiên cứu về quy hoạch phát triển ngành da giầy Việt Nam đến năm 2010.
Tuy nhiên, cho đến hiện tại vẫn chưa có một nghiên cứu nào đầy đủ về việc nâng cao khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp da giầy Việt Nam trước các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế. Với lý do đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế” nhằm góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn đang
đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu của ngành, để ngành da giầy Việt Nam ngày càng
phát triển tương xứng với vị trí và tiềm năng của nó.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh

đối với một số loại hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam trước những thay đổi trên thị trường
trong nước và quốc tế như:
- TS. Lê Đăng Doanh (1998), Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất
trong nước (Kinh nghiệm Nhật Bản), Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
- Trần Văn Hà (2000), "Chiến lược phát triển khoa học công nghệ ngành da giầy
Việt Nam đến năm 2010", Tạp chí công nghiệp da giầy Việt Nam, (5 / 2000)
- Lưu Thị Trúc Oanh (2000), "Triển vọng về thị trường xuất khẩu đối với sản
phẩm giầy dép Việt Nam", Tạp chí Công nghiệp da giầy Việt Nam, (5 / 2000).


- 11 -
- Vũ Văn Cường (2000), ''Ngành da giầy Việt Nam - Thời cơ và thách thức", Tạp
chí Công nghiệp da giầy Việt Nam, (12 / 2000), Tr.8 - 10
- Nguyễn Hồng Liên (2000), " Thực trạng và chiến lược phát triển nguyên phụ liệu
cho ngành giầy" Tạp chí Công nghiệp da giầy Việt Nam, Tr 15 - 16.
- Bộ Công nghiệp (2000), Quy hoạch phát triển ngành da giầy theo vùng lãnh thổ
đến năm 2010, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội
- Đại học Kinh tế Quốc dân (2000), Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp công nghiệp trong điều kiện hội nhập, Đề tài khoa học cấp bộ.
- Vũ Văn Cường (2001): " Triển vọng ngành da giầy Việt Nam", Tạp chí thông tin
kinh tế Nhật - Việt, (2 / 2001), Tr.20 - 23.
- Vũ Văn Cường (2001), "Phát triển nguyên liệu cho ngành da giầy Việt Nam",
Tạp chí Kinh tế và dự báo, (6 / 2001), Tr.32 - 33
- Cao Hùng (2001), “Ngành da giầy Việt Nam bao giờ mới đủ sức cạnh tranh”,
Báo Lao động ra ngày 22 / 10 / 2001.
- PGS. TS Võ Thanh Thu (2001), Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ, Nhà xuất
bản Thống kê, Hà Nội.
- Hiệp Hội da giầy Việt Nam (2002), Kế hoạch tiếp thị xuất khẩu giầy dép giai
đoạn 2001 - 2010, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
- Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong

quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Bách Khoa (2004), Phương pháp luận xác định năng lực cạnh tranh và
hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp, Tạp chí Khoa học Thương mại số 4, Hà Nội.
v.v…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ tập trung vào phân tích các khía
cạnh khác nhau về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp da giầy Việt Nam trong
trạng thái tĩnh một cách rời rạc, chủ yếu dựa vào đánh giá hiện trạng năng lực cạnh tranh
của từng yếu tố riêng biệt nhờ lợi thế so sánh. Vì vậy, cần phải có những nghiên cứu tiếp
tục, có tính khái quát về năng lực cạnh tranh xuất khẩu chung của các doanh nghiệp da


- 12 -
giầy Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó tạo cơ sở để đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy
nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp da giầy Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế. Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh ở các
cấp độ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng kinh doanh và năng lực cạnh tranh của một số
doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam trong những năm gần đây.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam, đáp ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động sản xuất kinh doanh và những biện pháp nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam ở một số thị
trường ngoài nước

- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong lĩnh vực hoạt
động kinh tế của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam. Cụ thể là:
+ Giới hạn nội dung: Tập trung nghiên cứu tình hình kinh doanh và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam, không đi sâu nghiên cứu chi tiết
những vấn đề về kỹ thuật sản xuất.
+ Giới hạn không gian nghiên cứu: Khảo sát một số doanh nghiệp sản xuất và xuất
khẩu giầy dép ở các trung tâm chính như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Dương, Đồng Nai. Tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
xuất khẩu da giầy Việt Nam vào một số thị trường nhập khẩu giầy dép chính là: Mỹ, EU,


- 13 -
Nhật Bản không nghiên cứu hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này ở thị
trường nội địa
+ Giới hạn thời gian nghiên cứu: Luận văn chủ yếu phân tích, đánh giá thực trạng
sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt
Nam từ năm 2000 tới nay, dự báo phát triển đến năm 2010.
+ Giới hạn mặt hàng: Thuật ngữ da giầy đề cập đến các sản phẩm da, giả da và các
sản phẩm chế biến từ nó bao gồm: Giầy da, giầy vải, giầy thể thao, dép, cặp, túi xách,
ví các loại. Tuy nhiên, trong luận văn chỉ tập trung nghiên cứu chủ yếu về mặt hàng
giầy dép như: Giầy mũ da, giầy mũ bằng nguyên liệu dệt, giầy vải, giầy không cao su và
cao su plastic, giầy thể thao.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương
pháp nghiên cứu cơ bản. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng thêm các phương pháp nghiên cứu
như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra và khảo sát
- Phương pháp phân tích hệ thống, tổng hợp
- Phương pháp thống kê, so sánh

- Phương pháp Hội đồng: Nghe phân tích của các chuyên gia
6. Đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu để tìm hiểu một cách
có hệ thống về những vấn đề xoay quanh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp da giầy Việt Nam nói riêng, tác giả mong muốn có những đóng
góp nhất định về mặt nghiên cứu khoa học cũng như thực tiễn về việc làm thế nào để
nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp da giầy Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể là:


- 14 -
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
ở các cấp độ khác nhau
- Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam
trên cơ sở phân tích thực trạng tình hình kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp này trong thời gian qua
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam trong thời gian tới
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, sơ đồ,
bảng biểu, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trong xu thế hội nhập
- Chương 2: Thực trạng kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
xuất khẩu da giầy Việt Nam
- Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế





- -

1
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH TRONG XU THẾ HỘI NHẬP
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Các học thuyết kinh tế thị trường, dù trường phái nào cũng đều thừa nhận
rằng: cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung -
cầu và giá cả hàng hóa là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản
của cơ chế thị trường, cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, do cách tiếp cận khác
nhau, nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh, đặc biệt là phạm vi của thuật
ngữ này. Có thể dẫn ra như sau:
Theo Các Mác: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà
tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để
thu được lợi nhuận siêu ngạch” [8].
Cuốn Từ điển kinh doanh của Mariam Webster xuất bản năm 1992 thì: “Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm
giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình” [36].
Theo Từ điển Bách Khoa của Việt Nam thì: “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất” [6].
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của các doanh nghiệp, ngành,
quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh

tranh quốc tế” [18].
Theo cuốn Kinh tế học của M.Samuelson thì: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa
các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường” [35].
- -

2
Theo các tác giả của cuốn Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: “Cạnh tranh có thể được hiểu là sự
ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách
hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh
doanh cụ thể” [9].
Ngoài ra, còn có thể dẫn ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm cạnh
tranh Song qua các định nghĩa trên có thể tiếp cận về cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần thắng
của nhiều chủ thể cùng tham dự.
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó mà
các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm, dự án…). Một loạt điều
kiện có lợi (một thị trường, một khách hàng ). Mục đích cuối cùng là kiếm được lợi
nhuận cao.
Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc
chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: Đặc điểm sản phẩm, thị trường, các
điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh
Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử
dụng nhiều công cụ khác nhau: Cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm,
cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm (chính sách định giá thấp; chính sách định giá cao;
chính sách ổn định giá; định giá theo thị trường; chính sách giá phân biệt; bán phá
giá); cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm (tổ chức các kênh tiêu thụ); cạnh
tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt; cạnh tranh thông qua hình thức thanh toán
Với cách tiếp cận trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn khái niệm cạnh
tranh có thể hiểu như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế

ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế
của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các
điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh
tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh
doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi [10].
1.1.2. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ cạnh tranh
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu còn sử dụng các khái niệm
sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, Tuy nhiên, các khái niệm này là một khái
- -

3
niệm phức hợp được xem xét ở các cấp độ khác nhau như: Năng lực cạnh tranh của
quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm
và dịch vụ. Một số tác giả như Paul Krugman phê phán khái niệm năng lực/sức cạnh
tranh của quốc gia vì - theo Krugman - không có quốc gia nào bị phá sản vì năng lực
cạnh tranh kém nhưng doanh nghiệp có thể bị phá sản vì không cạnh tranh được trên
thị trường. Do đó, việc nhận biết và phân loại những khái niệm sức cạnh tranh khác
nhau là rất cần thiết, nếu muốn hiểu một cách đầy đủ khái niệm năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo định nghĩa của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF - World Economic
Forum) thì năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng của một nền kinh tế có
thể tạo ra tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị
trường thế giới [11]. Ngoài những yếu tố về vị trí địa lý kinh tế, tài nguyên thiên
nhiên…năng lực cạnh tranh của quốc gia chịu sự chi phối bởi các nhóm nhân tố:
- Nhóm 1: Mức độ mở của nền kinh tế, bao gồm độ mở của thương mại và
đầu tư (thuế quan và hàng rào phi thuế quan, chính sách xuất nhập khẩu, tỷ giá hối
đoái, đầu tư trực tiếp của nước ngoài).
- Nhóm 2: Vai trò và hoạt động của chính phủ (mức độ can thiệp của Nhà
nước, năng lực của Chính phủ, quy mô của Chính phủ, chính sách tài khóa, hệ thống

thuế, lạm phát).
- Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính (khả năng hoạt động trung gian tài chính,
rủi ro tài chính, hiệu quả cạnh tranh, đầu tư và tiết kiệm).
- Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ (năng lực công nghệ nội sinh, công nghệ
chuyển giao, mức độ đầu tư cho nghiên cứu và triển khai).
- Nhóm 5: Các yếu tố về kết cấu hạ tầng (chất lượng hệ thống giao thông vận
tải, mạng viễn thông, điện, nước, kho tàng và các phương tiện vật chất).
- Nhóm 6: Quản lý kinh doanh, quản lý nhân lực.
- Nhóm 7: Các yếu tố về lao động (số lượng lao động, trình độ tay nghề và
năng suất lao động, hiệu quả và tính linh hoạt của thị trường lao động, chương trình
xã hội)
- -

4
- Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế (chất lượng của các thể chể pháp lý).
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn
để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ,
tài chính, quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ
đã tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3, với hai chỉ số mới - chỉ số năng lực cạnh tranh tăng
trưởng (Growth Competitiveness Index - GCI) và chỉ số năng lực cạnh tranh hiện
hành (Current Competitiveness Index - CCI). Theo phân tích và đánh giá của WEF
thì sức vươn lên trong hội nhập, cạnh tranh của nền kinh tế nước ta chưa mạnh, trong
khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra yêu cầu rất cao tới năng lực cạnh
tranh của các quốc gia và năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia ảnh hưởng rất lớn
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy rằng năng lực cạnh tranh của quốc gia được xác định
trước hết bằng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, và sự có mặt (hay thiếu
vắng) các yếu tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách
kinh tế đã thực hiện. Tuy nhiên, khái niệm này lại không bao hàm được tất cả các
khía cạnh về giá trị gia tăng, chẳng hạn sự tiến bộ về giáo dục, khoa học và công

nghệ, những vấn đề được coi là quan trọng đối với tiềm năng tăng trưởng dài hạn
của một quốc gia. Đồng thời, nó cũng không phản ánh được nguyên nhân tạo ra năng
lực cạnh tranh và kết quả của cạnh tranh.
Một số nhà kinh tế khác lại đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của quốc gia
dựa trên năng suất lao động, M. Porter cho rằng: “Khái niệm có ý nghĩa nhất về năng
lực cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động” [9]. Mở rộng khái niệm này thì
năng lực cạnh tranh của quốc gia gần hơn với lý thuyết về lợi thế so sánh. Ngay
trong lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ricardo, một quốc gia có khả năng cạnh tranh
hơn các quốc gia khác bởi trội hơn về một hay một vài yếu tố. Ông cho rằng, khả
năng cạnh tranh của một quốc gia là một hệ thống gồm nhiều yếu tố liên quan với
nhau, có tác động qua lại và bổ sung cho nhau. Các yếu tố này là nền móng, chỗ dựa
cho các công ty, giữ vai trò quyết định, cho phép các công ty sáng tạo và duy trì lợi
thế cạnh tranh trên một lĩnh vực cụ thể mà nước đó có lợi thế về tài nguyên. Tuy
nhiên, mọi yếu tố đều có thể thay đổi và do đó, năng lực cạnh tranh cũng có thể bị
thay đổi. Trong trường hợp này, Uỷ ban về Cạnh tranh Công nghiệp Hoa kỳ đã đưa
ra khái niệm “ở quy mô một quốc gia, năng lực cạnh tranh được hiểu là mức độ mà ở
- -

5
đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng có thể sản xuất các hàng hóa và
dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng
thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”.
Đối với Fagerberg (1988) vấn đề lại được xem xét ở một góc độ khác,
Fagerberg định nghĩa năng lực cạnh của một quốc gia như là “khả năng của một đất
nước trong việc nhận thức rõ mục đích của chính sách kinh tế tập trung, nhất là đối
với tăng trưởng thu nhập và việc làm, mà không gặp phải các khó khăn trong cán cân
thanh toán” [14]. Đây là khái niệm vừa mang tính kinh tế vĩ mô, vừa mang tính ngẫu
nhiên, bởi vì, khi tính cạnh tranh được xác định như là năng lực để duy trì thị phần
có khả năng tạo ra lợi nhuận thì năng lực này lại có triển vọng chưa rõ ràng và mang
tính ngẫu nhiên.

Như vậy, những khái niệm trên chỉ là một số khái niệm và lý thuyết về năng
lực cạnh tranh ở tầm quốc gia và đa số các quan niệm chấp nhận năng lực cạnh tranh
của quốc gia phụ thuộc vào khả năng khai thác cơ hội trên thị trường. Do đó, có thể
hiểu, năng lực cạnh tranh của quốc gia là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra
tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới.
1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Về khái niệm này, phần lớn các tác giả đều gắn năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường hoặc gắn năng
lực cạnh tranh với vị trí của doanh nghiệp trên thị trường theo thị phần mà nó chiếm
giữ thông qua khả năng tổ chức, quản trị kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ,
giảm chi phí nhằm duy trì hay gia tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền
vững của doanh nghiệp.
Trước tiên, trong lý thuyết tổ chức công nghiệp, khái niệm năng lực cạnh
tranh được áp dụng ở phạm vi xí nghiệp. Một xí nghiệp được xem là có năng lực
cạnh tranh khi xí nghiệp đó duy trì được vị thế của mình trên thị trường cùng với các
nhà sản xuất khác với các sản phẩm thay thế, hoặc đưa ra thị trường các sản phẩm
tương tự với mức giá thấp hơn, hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc
tính về chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn [7].
Theo Fafchamps, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh
nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của
nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm
- -

6
có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhưng với chi phí thấp
hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn [15].
Randall lại cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng giành
được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định [15].
Dunning lập luận rằng, năng lực cạnh tranh là khả năng cung ứng sản phẩm
của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí

sản xuất của doanh nghiệp đó [15].
Theo Philip Lasser, năng lực cạnh tranh của một công ty trong một lĩnh vực
được xác định bằng những thế mạnh mà công ty có hoặc huy động được để có thể
cạnh tranh thắng lợi [22].
Markusen (1992) đã đưa ra một khái niệm “một nhà sản xuất là cạnh tranh
nếu như nó có một mức chi phí đơn vị trung bình bằng hoặc thấp hơn chi phí đơn vị
của các nhà cạnh tranh quốc tế” [22].
Một quan niệm khác cho rằng, “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được
hiểu là tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần, lợi
nhuận và định vị những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó trong mối quan hệ với
đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu xác định” [18].
Như vậy, trên thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm cụ thể, khác nhau về năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Song tựu chung lại, khi tiếp cận năng lực cạnh
tranh doanh nghiệp, cần chú ý tới 4 vấn đề cơ bản sau:
Một là, trong điều kiện kinh tế thị trường, phải lấy yêu cầu của khách hàng là
chuẩn mực đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi lẽ, yêu cầu của khách
hàng vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sản xuất, kinh doanh. Cùng một loại sản
phẩm các nhóm khách hàng khác nhau có những nhu cầu rất khác nhau.
Hai là, yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong việc lôi kéo khách hàng phải là
thực lực của doanh nghiệp. Thực lực này chủ yếu được tạo thành từ những yếu tố nội
tại của doanh nghiệp và được thể hiện ở uy tín của doanh nghiệp.
Ba là, khi nói tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp luôn hàm ý so sánh với
doanh nghiệp hữu quan (các đối thủ cạnh tranh) cùng hoạt động trên thị trường.
Muốn tạo nên năng lực cạnh tranh thực thụ, thực lực của doanh nghiệp phải tạo nên
- -

7
lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Chính nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có
thể giữ được khách hàng của mình và lôi kéo khách hàng của các đối thủ cạnh tranh.
Bốn là, các biểu hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có quan hệ ràng

buộc nhau. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh khi nó có khả năng thoả
mãn đầy đủ nhất tất cả những yêu cầu của khách hàng. Song khó có doanh nghiệp
nào có được yêu cầu này, thường thì có lợi thế về mặt này, lại có thế yếu về mặt
khác. Bởi vậy, việc đánh giá đúng đắn những mặt mạnh và mặt yếu của từng doanh
nghiệp có ý nghĩa trọng yếu với việc tìm các giải pháp tăng năng lực cạnh tranh.
Do đó, theo tác giả luận văn có thể hiểu: năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong
việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho
doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước.
Trong thực tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa phụ thuộc vào
những yếu tố do bản thân doanh nghiệp quyết định, vừa phụ thuộc vào những yếu tố
do Chính phủ quy định. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc cả vào những yếu tố mà Chính
phủ cũng như doanh nghiệp chỉ kiểm soát được ở một mức độ hạn chế hoặc hoàn
toàn không thể quyết định được. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp có thể được chia thành các nhóm:
- Nhóm 1: Các yếu tố do doanh nghiệp quyết định bao gồm chiến lược phát
triển doanh nghiệp, sản phẩm sản xuất, lựa chọn công nghệ, đào tạo cán bộ, đầu tư
nghiên cứu công nghệ và phát triển sản phẩm, chi phí sản xuất và quan hệ với bạn
hàng
- Nhóm 2: Các yếu tố do Chính phủ quyết định, tạo ra môi trường kinh doanh
bao gồm: Thuế, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái, chi ngân sách cho hoạt động
nghiên cứu triển khai, hệ thống luật pháp điều chỉnh các quan hệ giữa các bên tham
gia thị trường
- Nhóm 3: Các yếu tố mà Chính phủ và doanh nghiệp chỉ quyết định được
một phần như nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, nhu cầu của người tiêu dùng, môi
trường thương mại quốc tế
- Nhóm 4: Các yếu tố hoàn toàn không thể quyết định được như môi trường tự
nhiên, các quy luật kinh tế…
- -


8
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết cần sự nỗ lực
của bản thân doanh nghiệp và một phần rất quan trọng khác là các chính sách của
nhà nước nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi
1.1.2.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Đối với khái niệm này, cho đến nay các tác giả, nhà nghiên cứu kinh tế cũng
chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất. Các khái niệm mà các tác giả đưa ra dựa trên
khái niệm về năng lực cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp.
Theo một số tác giả, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó
(về các chỉ tiêu) so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng
một thị trường [11]. Khái niệm này cho thấy, việc xác định sản phẩm có năng lực
cạnh tranh hay không trên thị trường, là xác định mức độ tin cậy của người tiêu dùng
đối với sản phẩm về giá cả, đổi mới công nghệ, dịch vụ sau bán hàng, so với sản
phẩm cùng loại mà đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường, chứ không quan
tâm đến việc nó có vượt trội hơn so với mọi sản phẩm xuất khẩu tại chỗ hay không.
Một số tác giả khác lại cho rằng: năng lực cạnh tranh của sản phẩm chính là
năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung
ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại của các chủ thể sản xuất,
cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường và thời gian nhất định
[20].
Như vậy, mặc dù vẫn chưa thống nhất khái niệm, song có thể hiểu rằng, năng
lực cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi các nhiều yếu tố, nhưng có những
yếu tố chính như: khả năng sử dụng thay thế cho công dụng kinh tế của một loại sản
phẩm khác biệt tương tự với loại sản phẩm đó; yếu tố về chất lượng của sản phẩm,
yếu tố về giá cả của sản phẩm thường gắn liền với chủ thể sản xuất, cung ứng ra nó
so với sản phẩm của các chủ thể sản xuất và cung ứng khác có thể thoả mãn cao hơn
yêu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, được người tiêu dùng lựa chọn chấp nhận tiêu
thụ, đồng thời đem lại lợi nhuận có thể chấp nhận được cho nhà sản xuất, cung ứng;
ngoài các yếu tố chính trên, còn nhiều yếu tố khác như kiểu dáng, tính năng sử dụng,
kiểu dáng, mẫu mã, hình thức độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì của sản

phẩm, phương thức tiêu thụ, quảng cáo, bán hàng…
Các cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo
điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng
- -

9
lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có sức cạnh tranh, ngược lại
để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh, môi trường kinh doanh của nền
kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được,
nền kinh tế phải ổn định, bộ máy Nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả,
có tính chuyên nghiệp.
Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh nghiệp cũng là một
yếu tố quan trọng, vì trong cùng một môi trường kinh doanh có doanh nghiệp rất
thành công trong khi doanh nghiệp khác lại thất bại. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được đo thông qua lợi
nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế, sức cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho
năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực
cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp
có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm và dịch vụ có năng lực cạnh tranh.
Ngược lại, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm
hàng hoá cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản
phẩm đó thấp. Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhung có quan
hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng lực cạnh
tranh của chủ thể (doanh nghiệp) tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá mà có, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực

cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá có ảnh hưởng lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Như vậy, có thể khẳng định, doanh nghiệp - một nhân tố quan trọng quyết
định năng lực cạnh tranh của quốc gia. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, của sản phẩm vừa là bộ phận cấu thành, vừa là một trong những mục tiêu
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
- -

10
1.1.3. Xu thế hội nhập và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp da giầy Việt nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế vận động tất yếu khách quan của các nền
kinh tế thế giới trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và
quốc tế hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần
đây. Nhưng cho đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh
tế quốc tế. Có loại ý kiến cho rằng: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình
các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam
kết song phương, đa dạng và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ
hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Loại ý kiến khác lại cho
rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc
tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng
hiện nay khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như
sau: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ
chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các thành viên
có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối.
Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc
gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài

chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư và các hoạt
động kinh tế đối ngoại khác. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết sáu vấn đề
chủ yếu sau:
- Đàm phán cắt giảm thuế quan
- Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan
- Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ
- Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế
- Điều chỉnh các chính sách thương mại khác
- Triển khai các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, có tính chất toàn cầu.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền
sản xuất hàng hóa, là một nội dung trong cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất
- -

11
hàng hóa càng phát triển, hàng hóa bán ra càng nhiều, số lượng người cung cấp càng
đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả cạnh tranh sẽ là một số doanh nghiệp bị
thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi một số doanh nghiệp khác vẫn tồn
tại và phát triển hơn nữa. Cũng chính nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế
thị trường vận động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội - yếu
tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. Trong nền
kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi không phụ thuộc vào ý
muốn của riêng ai, nên cạnh tranh trở thành một quy luật quan trọng thúc đẩy sự phát
triển. Mọi doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế đều phải tự mình vận
động để đứng được trong cơ chế này. Doanh nghiệp nào không thích nghi được cơ
chế mới sẽ phải cầm chắc sự phá sản và theo quy luật đào thải nó sẽ bị gạt ra khỏi thị
trường. Thay vào đó thị trường lại mở đường cho doanh nghiệp nào biết nắm thời cơ,
biết phát huy tối đa những thế mạnh của mình và hạn chế được tối thiểu những bất
lợi để giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Ngày nay, toàn cầu hóa mà trước hết và về thực chất là toàn cầu hóa kinh tế
đang trở thành một xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới, đó là quá

trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới vượt qua khỏi biên giới quốc gia,
hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học
kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng,
tính chất xã hội hóa của sản xuất ngày càng tăng. Nội dung biểu hiện của quá trình
này bao gồm: sự gia tăng của luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư, vốn, tài
chính, công nghệ, dịch vụ, nhân công hình thành và phát triển các thị trường có
tính thống nhất toàn cầu và các khu vực, đồng thời với việc hình thành các chế định
(luật chơi) và cơ chế điều hành các hoạt động, giao dịch kinh tế quốc tế. Toàn cầu
hóa kinh tế tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình,
tăng trưởng và làm ổn định kinh tế. Nhưng toàn cầu hóa kinh tế cũng làm gia tăng
tình trạng tuỳ thuộc lẫn nhau và đang đặt ra những thách thức cực kỳ gay gắt cho các
nước đang phát triển: sức ép cạnh tranh và sức ép về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong thời gian ngắn và sự lệ thuộc ngày càng tăng vào các thành tố có độ ổn định
kém của nền kinh tế thế giới (như luồng vốn đấu tư, chỉ số của thị trường tài chính
và thị trường chứng khoán).

×