Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

180 Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập Quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.91 KB, 86 trang )


- 1 -
CHƯƠNG 1 :

GIỚI THIỆU

1.1 Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu :
Trong vòng hai thập kỷ trở lại đây, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một
xu thế tất yếu của thời đại, diễn ra mạnh mẽ trong tất cả các lónh vực của đời
sống kinh tế – xã hội. Trong xu thế đó, Việt Nam đã có những chủ động và đang
từng bước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Năm 1987 được đánh dấu là
năm đầu tiên nước ta bắt đầu mở cửa kinh tế với việc ra đời của Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Có thể xem đó là những bước chập chững đầu tiên của
nước ta trên đường tiến ra thế giới. Đến nay, sau gần 20 năm mở cửa tham gia
vào quá trình hội nhập quốc tế, nước ta đã đạt được những thành tựu nhất đònh
với GDP năm 2004 tính theo giá thực tế đạt 713.071 tỷ đồng, tương đương 45,4
tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 552,9 USD/ người/ năm. Từ một nước
thiếu đói, thường xuyên nhận viện trợ, Việt Nam đã trở thành một nước xuất
khẩu gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới, cơ cấu kinh tế đang chuyển dòch theo
hướng công nghiệp – dòch vụ – nông nghiệp.
Từ tháng 07/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của khối
ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dòch tự do AFTA. Tháng 07/2000 ký hiệp
đònh thương mại song phương với Hoa Kỳ, và hiện đang trong quá trình đàm
phán gia nhập WTO, tham gia vào các quan hệ thương mại song phương và đa
phương khác. Có thể nói rằng “thế nước và vận nước đang lên”, song cũng đặt
chúng ta trong bối cảnh mới, điều kiện mới với những cơ hội nhưng chứa đầy
những thách thức và khó khăn. Xét trên bình diện vó mô, việc hội nhập kinh tế
quốc tế có thể mang lại nhiều lợi ích như phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn

- 2 -
nhân lực, thu hút được các nguồn đầu tư nước ngoài, có điều kiện tiếp cận, ứng


dụng và phát triển được công nghệ tiên tiến, xây dựng được hệ thống tài chính –
ngân hàng đủ mạnh để phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước,
tích lũy được các kinh nghiệm về quản lý và điều hành vó mô. Bên cạnh đó, yêu
cầu tất yếu của quá trình hội nhập và cạnh tranh là chúng ta phải không ngừng
nâng cao trình độ quản lý nhà nước, nhằm giảm thiểu và hạn chế rủi ro, tránh
được những bất ổn và khủng hoảng kinh tế, đảm bảo phát triển bền vững và tối
đa hoá lợi ích cho quốc gia trong quá trình hội nhập.
Với những thành tựu đạt được trong gần hai thập kỷ qua, với những cơ hội
và thách thức đặt ra cho nền kinh tế nước ta trong thời gian tới, hệ thống các
NHTMVN với vai trò huyết mạch, là kênh huy động và cung ứng vốn chủ yếu
cho nền kinh tế, đã có đóng góp to lớn cho những thành tựu trong quá khứ và sẽ
phải tiếp tục thực hiện vai trò ấy trong tiến trình hội nhập của tương lai. Trong
tiến trình đó, các NHTM nước ta chắc chắn có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp
cận các nguồn lực, công nghệ, thò trường, khả năng phát triển mở rộng, song sẽ
đối mặt với những thách thức, rủi ro trong quá trình cạnh tranh đó. Với quy mô
nguồn vốn tương đối thấp so với hệ thống NHTM các nước trong khu vực và thế
giới, trình độ quản lý quốc tế còn nhiều hạn chế, hệ thống mạng lưới các chi
nhánh ở nước ngoài còn ít ỏi, công nghệ áp dụng còn chưa theo kòp xu thế chung,
dòch vụ cung ứng còn nghèo nàn, các tiêu chuẩn về kế toán kiểm toán chưa phù
hợp với thông lệ quốc tế thì những thách thức cho hệ thống NHTM nước ta trong
thời gian tới là rất lớn, khi mà nước ta đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế,
từng bước thực hiện mở cửa thò trường tài chính – ngân hàng.
Trên cơ sở đó, tác giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài : “Đònh hướng nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các NHTMVN trong tiến trình hội nhập quốc
tế”. Qua đó nhằm phân tích, nhận đònh đúng năng lực thực sự của các

- 3 -
NHTMVN so với đối thủ cạnh tranh trong tiến trình hội nhập, nhìn ra những
điểm yếu để có hướng khắc phục, xác đònh những điểm mạnh để phát huy lợi
thế so sánh, giúp các NHTMVN xây dựng cho mình chiến lược phát triển đồng

bộ, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng, tiếp
tục có những đóng góp tích cực trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
1.2 Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu :
Nhằm khẳng đònh lại vai trò của hệ thống NHTMVN đối với tiến trình
phát triển kinh tế đất nước, đánh giá đúng các cơ hội, thách thức đối với hoạt
động ngân hàng, phân tích một cách toàn diện và có chú trọng đến các tiêu điểm
về thực trạng hiện tại của hệ thống NHTMVN. Việc phân tích dựa trên cơ sở các
số liệu thông kê, báo cáo hàng năm của NHNN Việt Nam, NHNN Việt Nam –
Chi nhánh TP.HCM. Ngoài ra, việc phân tích, đánh giá còn được thực hiện bằng
cách thu thập ý kiến thông qua các cuộc hội thảo, các bài phỏng vấn và thực
hiện phỏng vấn một số chuyên gia trong lónh vực ngân hàng. Trên cơ sở đó, đề
ra các đònh hướng và kiến nghò có tính khả thi, nhằm củng cố và nâng cao năng
lực cạnh tranh của các NHTMVN trong tiến trình hội nhập quốc tế, đảm bảo cho
hệ thống NHTMVN duy trì được sức cạnh tranh, tạo ra những khả năng cho việc
phát triển mở rộng, tiếp tục có được những đóng góp hiệu quả cho công cuộc
phát triển đất nước. Để mục tiêu đó trở thành hiện thực, đòi hỏi các NHTMVN
phải chủ động, nhận thức đúng đắn về các cơ hội, thách thức, tích cực chuẩn bò
những điều kiện cần thiết để sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập đó, và
hơn hết là quá trình tự hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động, giữ vững vai
trò huyết mạch và động lực cho khả năng cạnh tranh, phát triển và hội nhập trên
mọi mặt của đất nước.


- 4 -
1.3 Nội dung và ý nghóa của đề tài nghiên cứu :
Với vấn đề và mục tiêu nghiên cứu được xác đònh ở trên thì nội dung
nghiên cứu của luận văn gồm bốn phần, được chia thành bốn chương :
Chương 1 : Giới thiệu. Mục đích của chương này là giới thiệu chung về đề
tài nghiên cứu, sự cần thiết của đề tài nghiên cứu, mục tiêu và phương pháp
nghiên cứu, nội dung và ý nghóa của đề tài nghiên cứu, thể hiện những suy nghó,

nhận đònh của tác giả trong việc xem xét, đánh giá năng lực cạnh tranh của các
NHTMVN khi tham gia hội nhập.
Chương 2 : Quá trình hình thành và vai trò của NHTM trong phát triển
kinh tế. Chương này chủ yếu tập trung vào một số vấn đề có tính chất lý luận
như quá trình hình thành NHTM, chức năng của NHTM, vai trò của NHTM trong
phát triển kinh tế, đồng thời nhìn lại bối cảnh chung của ngành ngân hàng nước
ta trong giai đoạn hiện nay, lấy đó làm cơ sở để phân tích chi tiết các khía cạnh,
yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của NHTMVN ở chương tiếp theo.
Chương 3 : Năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTMVN trong giai đoạn
hiện nay. Chương này tập trung vào một số vấn đề chính như các khuynh hướng
ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng, xu hướng cạnh tranh trong lónh vực ngân
hàng ở Việt Nam, các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các
NHTMVN. Việc phân tích, đánh giá dựa trên các dự báo kinh tế, trên cơ sở các
số liệu, báo cáo của NHNN, của các NHTM, các số liệu báo cáo của các tổ chức
tài chính quốc tế. Nội dung phân tích tập trung vào các vấn đề có tính chất nền
tảng như năng lực quản lý và chất lượng nguồn nhân lực, trình độ và khả năng
ứng dụng công nghệ thông tin, sức mạnh và năng lực tài chính, khả năng phát
triển mạng lưới chi nhánh… Qua đó, giúp chúng ta có nhận thức đúng về thực lực
của hệ thống NHTMVN.

- 5 -
Chương 4 : Đònh hướng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTMVN.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng ở Chương 3, xác đònh lại những thuận
lợi và khó khăn, những cơ hội và thách thức để đưa ra đònh hướng nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các NHTMVN. Các giải pháp sẽ được xây dựng
trên cơ sở phân tích những khó khăn, những lợi thế và tập trung vào những yếu
tố mang tính chất nền tảng như đã phân tích ở Chương 3.
Với nội dung nghiên cứu nêu trên, mục đích của luận văn nhằm góp phần
vào việc đánh giá đúng năng lực thực tế của hệ thống NHTMVN, giúp các nhà
quản lý ngân hàng có thêm kênh tham khảo, chủ động củng cố và nâng cao

năng lực cạnh tranh cho ngân hàng mình, góp phần vào việc nâng cao năng lực
cạnh tranh chung của hệ thống NHTMVN. Bên cạnh đó, cũng đưa ra các kiến
nghò với các cơ quan quản lý nhà nước, nên có những điều chỉnh thích hợp trong
cơ chế chính sách, theo xu hướng phù hợp với các thông lệ quốc tế, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các NHTM, nâng cao hiệu quả, giúp
củng cố và chuẩn bò tốt hơn những điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập,
tăng cường đóng góp cho phát triển kinh tế đất nước.
Mặc dù đã có những nỗ lực trong đầu tư nghiên cứu, song với những hạn
chế về khả năng, thời gian nghiên cứu, khả năng tiếp cận các báo cáo không
phổ biến của NHNN nên kết quả nghiên cứu của luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế nhất đònh. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
chân thành của Quýthầy cô, Quýđồng nghiệp với mong muốn sẽ có được những
đánh giá xác thực hơn, đề ra được những đònh hướng và giải pháp giàu tính thực
tiễn hơn, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho hệ thống các NHTMVN, đóng
góp hiệu quả cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.


- 6 -
CHƯƠNG 2 :

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ VAI TRÒ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ

2.1 Quá trình hình thành và phát triển NHTM :
2.1.1 Khái niệm về NHTM :
NHTM ra đời trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa phát triển đến một
trình độ nhất đònh. Qua một quá trình lâu dài hình thành, tồn tại và phát triển, hệ
thống NHTM ngày càng được hoàn thiện và trở thành một đònh chế không thể
thiếu trong nền kinh tế thò trường. Hoạt động trong lónh vực kinh doanh tiền tệ và
cung cấp các dòch vụ ngân hàng, NHTM có một vai trò to lớn trong việc thúc

đẩy phát triển kinh tế.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước
(Việt Nam) thì “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghóa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997 thì “Tổ chức tín dụng là doanh
nghiệp được thành lập theo quy đònh của Luật này và các quy đònh khác của
pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dòch vụ ngân hàng với nội dung
chủ yếu nhận tiền gửi để cung cấp tín dụng, cung cấp các dòch vụ thanh toán”.
Mặc dù các khái niệm về NHTM có khác nhau qua các thời kỳ, khác nhau
giữa các quan điểm, song có thể hiểu và nhìn nhận NHTM dưới góc độ sau : đó
là loại ngân hàng thực hiện các giao dòch trực tiếp với các cá nhân, tổ chức kinh

- 7 -
tế, với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi để cho vay, thực hiện chiết khấu,
cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng các dòch vụ ngân hàng cho các
đối tượng nói trên.
2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển NHTM :
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã hình thành hệ thống
ngân hàng hai cấp, gồm ngân hàng trung ương, đóng vai trò ngân hàng quản lý
và hệ thống NHTM thực hiện chức năng kinh doanh, thu hút và cung cấp vốn,
cung cấp các dòch vụ ngân hàng cho các hoạt động phát triển kinh tế. Để trở
thành một hệ thống ngân hàng hoạt động chuyên nghiệp như ngày nay, các
NHTM đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, gắn liền với
những chuyển biến của các giai đoạn lòch sử và các hình thái kinh tế trong suốt
quá trình phát triển của nó.
Hơn một ngàn năm trước công nguyên, khi mà các cuộc chiến tranh giữa
các bộ tộc liên tục xảy ra, xã hội ngập trong loạn lạc và cướp bóc, làm xuất hiện

nhu cầu bảo vệ an toàn tiền bạc và các tài sản có giá khác, đảm bảo duy trì được
giá trò của tiền bạc trong lưu thông. Nghề ngân hàng xuất hiện với các nghiệp vụ
giản đơn ban đầu là nhận bảo quản tiền, đổi tiền để được trả thù lao.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, lưu thông và trao đổi hàng hóa, hoạt
động của những người bảo quản, đổi tiền đã có những bước tiến mới. Đến những
năm trước công nguyên đã bắt đầu xuất hiện hoạt động tín dụng, nhưng thực
chất đó là các hoạt động cho vay nặng lãi. Thời kỳ này, đế chế La Mã trở nên
lớn mạnh và giàu có, chính quyền cho phép các người hành nghề ngân hàng mở
các quầy kinh doanh trên các hè phố tại các trung tâm kinh tế, thương mại.
Phương tiện kinh doanh là những cái bàn dài, được chia làm nhiều ngăn để cất

- 8 -
giữ và bảo quản tiền, các sổ sách theo dõi các hoạt động kinh doanh. Thuật ngữ
ngân hàng (tiếng La tinh là Banus, tiếng Pháp là Banque) xuất hiện từ đó.
Giai đoạn từ sau công nguyên đến thế kỷ 16 các nghiệp vụ ngân hàng bắt
đầu phát triển đa dạng và phong phú hơn. Các chủ ngân hàng bắt đầu ứng dụng
các số hiệu tài khoản để ghi chép, theo dõi tiền gửi của các thân chủ, theo dõi
các hoạt động cho vay và thu nợ. Cũng trong thời kỳ này, nghiệp vụ chuyển
ngân (bảo tiêu), chiết khấu, bảo lãnh đã được thực hiện, tuy đơn giản hơn bây
giờ nhưng đã mang lại những tiện ích cho hoạt động của thương nhân và xã hội.
Từ sau thế kỷ 17 đến nay, cùng với sự phát triển của những con đường
thương mại xuyên lục đòa và những tiến bộ trong ngành hàng hải đã dần chuyển
trung tâm thương mại thế giới từ Đòa Trung Hải sang Châu u và quần đảo Anh,
nơi ngân hàng trở thành ngành kinh doanh hàng đầu. Chính giai đoạn này đã
gieo mầm cho các cuộc cách mạng công nghiệp với yêu cầu về một hệ thống tài
chính phát triển, đòi hỏi một sự mở rộng trong thương mại toàn cầu để tiêu thụ
các sản phẩm công nghiệp, xuất hiện các nhu cầu về phương thức thanh toán, tín
dụng mới.
Từ nữa cuối thế kỷ 18, khi các thuộc đòa được thiết lập ở Bắc và Nam Mỹ,
trung tâm của hoạt động ngân hàng được chuyển từ Châu u sang Châu Mỹ.

Sang thế kỷ 19, chính quyền một số bang ở Mỹ bắt đầu cho phép thành lập các
công ty ngân hàng, các ngân hàng lớn, chuyên nghiệp, chủ yếu tập trung ở các
trung tâm thương mại hàng đầu. Chính sự phát triển này cùng với cuộc chạy đua
trong cạnh tranh giữa các ngân hàng đã từng bước hình thành hệ thống ngân
hàng hai cấp : ngân hàng phát hành (issuing bank), sau đó phát triển thành ngân
hàng trung ương (central bank), thực hiện chức năng quản lý và hệ thống NHTM
thực hiện các chức năng kinh doanh. Ngày nay, mô hình ngân hàng hai cấp đã
được phát triển nhân rộng ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.

- 9 -
Qua lòch sử hình thành và phát triển của hệ thống NHTM cho thấy, các
NHTM được hình thành một mặt gắn liền với những yêu cầu khách quan của bối
cảnh lòch sử và giai đoạn kinh tế nhất đònh, xuất phát từ những nhu cầu phát
triển kinh tế – xã hội, một mặt xuất phát từ những áp lực cạnh tranh của các đơn
vò kinh tế cùng ngành và nhu cầu tự hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Bản chất của NHTM là doanh nghiệp hoạt động trong lónh vực kinh doanh tiền
tệ và dòch vụ ngân hàng, có quan hệ mật thiết với những ngành kinh doanh khác
và các mặt của hoạt động kinh tế – xã hội. Các NHTM phải tự chủ về tài chính,
các hoạt động luôn hướng đến mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận chính đáng trên
cơ sở chấp hành các quy đònh của pháp luật, thực hiện các nghóa vụ với nhà nước
và cộng đồng, nơi mà họ tiến hành các hoạt động kinh doanh.
2.2 Chức năng của NHTM :
2.2.1 Chức năng trung gian tài chính :
Trong lòch sử hình thành của mình, các nghiệp vụ giản đơn mà các NHTM
đã thực hiện là nhận bảo quản tiền và đổi tiền để được trả thù lao. Tuy nhiên,
trong điều kiện ngày nay thì một trong những chức năng quan trọng và cơ bản
nhất của các NHTM là thực hiện chức năng trung gian tài chính, trong đó chức
năng trung gian tín dụng giữ vai trò then chốt, thể hiện rõ nét bản chất và chức
năng chính yếu của các NHTM. Theo đó các NHTM sẽ đóng vai trò trung gian,
huy động và tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội (tiền tiết

kiệm, vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư, của các cá nhân, tổ chức
kinh tế), biến nó thành nguồn tài chính tập trung để cung ứng tín dụng cho các
đối tượng có nhu cầu sử dụng vốn, phục vụ cho các mục đích sản xuất kinh
doanh, tiêu dùng cá nhân, thực hiện các hoạt động đầu tư ngắn và dài hạn, đảm
bảo tạo ra sự phát triển bền vững với hiệu quả mang lại cao nhất.

- 10 -
Hình 2.1 : Chức năng trung gian tài chính của NHTM.








Các tầng
lớp dân cư,
các tổ chức
kinh tế,
các đơn vò
sự nghiệp…
có vốn tạm
thời nhàn
rỗi.
Các tầng lớp dân cư, các
tổ chức kinh tế, các đơn
vò sự nghiệp… có nhu cầu
vay vốn phục vụ sản xuất
kinh doanh, tiêu dùng cá

nhân.
Tham gia vốn thực hiện
các các hoạt động đầu tư
ngắn hạn, đầu tư dài hạn.
Cho vay
Đầu tư
Ngân hàng
thương mại
Tiền gửi
tiết kiệm
Mua kỳ
phiếu, trái
phiếu
Hoạt động trung gian tín dụng (huy động và cho vay) đem lại phần lớn lợi
tức cho các NHTM, nhưng nguồn lợi quan trọng thứ hai sau cho vay là lợi tức thu
được từ các khoản đầu tư. Trong các hình thức đầu tư của NHTM thì đầu tư vào
các loại chứng khoán như kỳ phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ là phổ biến
nhất. Ngoài ra, các NHTM còn đầu tư vào các loại hình tài sản khác như bất
động sản, cơ sở hạ tầng, trang thiết bò. Ngoài mục tiêu nâng cao lợi nhuận, hoạt
động đầu tư của các NHTM còn nhằm mục đích đa dạng hóa hoạt động, đa dạng
hóa đầu tư, phục vụ cho các mục đích thanh khoản, vật ký quỹ cho các tài sản nợ
ký thác.
Mỗi ngân hàng đều có chính sách hoạt động, chiến lược phát triển riêng,
song các yếu tố cơ bản quyết đònh mục tiêu trong vai trò trung gian tài chính của
các NHTM là nhu cầu thanh khoản, lợi nhuận và sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro
của nhà quản trò. Với chức năng trung gian tài chính, các NHTM đã góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của toàn xã hội, giúp huy động được các nguồn
tài chính tạm thời nhàn rỗi để phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế. Đối

- 11 -

với các nước có nền kinh tế đang phát triển, hoạt động chủ yếu của các NHTM
là huy động và cho vay thì chức năng trung gian tài chính, trong đó có trung gian
tín dụng càng trở nên quan trọng và có ý nghóa rất lớn trong công cuộc phát triển
kinh tế của quốc gia đó.
2.2.2 Chức năng trung gian thanh toán :
Cùng với sự phát triển của hệ thống thương mại quốc tế như ngày nay thì
chức năng trung gian thanh toán của các NHTM có ý nghóa và vai trò hết sức to
lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và mở rộng giao thương quốc tế. Với
tầm hoạt động mang tính đa quốc gia, mạng lưới chi nhánh và quan hệ đại lý
rộng khắp cho phép các NHTM đảm đương tốt chức năng trung gian thanh toán.
Hình 2.2 : Chức năng trung gian thanh toán của NHTM.





Các tầng
lớp dân
cư, các tổ
chức kinh
tế, các
đơn vò sự
nghiệp…
Người thụ hưởng,
người bán hàng,
người cung cấp
dòch vụ (các công
ty, xí nghiệp, tổ
chức, cá nhân…)
Ngân hàng

thương mại
Lệnh
chuyển tiền
Giấy báo có
hoặc thông
báo nhận tiền
Trong lòch sử phát triển kinh tế, khi chưa có hoạt động ngân hàng hoặc có
nhưng chưa thực hiện chức năng trung gian thanh toán, thì các khoản giao dòch
thanh toán giữa người mua và người bán được thực hiện trực tiếp cho nhau, do đó
các hoạt động thương mại (mua bán và trao đổi hàng hóa) chỉ thực hiện trong
phạm vi hẹp, các hoạt động thương mại quốc tế còn ít, chủ yếu được thực hiện ở
quy mô nhỏ, tính hiệu quả không cao, chi phí di chuyển lớn, việc thẩm đònh uy
tín của đối tác trở nên khó khăn, các hoạt động buôn bán luôn tiềm ẩn nhiều rủi
ro.

- 12 -
Khi các NHTM ra đời và thực hiện chức năng trung gian thanh toán thì
dần dần các giao dòch thanh toán giữa các cá nhân, các tổ chức được thực hiện
thông qua ngân hàng. Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng giúp cho
các tổ chức, cá nhân sử dụng dòch vụ này tiết kiệm được chi phí di chuyển, hạn
chế thanh toán tiền mặt, tiết kiệm được chi phí lưu thông cho bản thân và cho cả
nền kinh tế, giảm được rủi ro so với việc sử dụng phương thức thanh toán truyền
thống, giúp các cá nhân, tổ chức đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh.
2.2.3 Chức năng cung cấp các dòch vụ ngân hàng :
Ngày nay, hầu hết các NHTM đều thực hiện hai chức năng trung gian tài
chính (trong đó có trung gian tín dụng) và chức năng trung gian thanh toán. Tuy
nhiên, do nhu cầu phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM đã
từng bước tạo lập và cung ứng nhiều dòch vụ đi kèm, mang lại những tiện ích
thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh. Có thể nói

rằng, thành công của một ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào khả năng xác đònh
chính xác các dòch vụ mà nền kinh tế có yêu cầu, đồng thời thực hiện cung cấp
các dòch vụ đó kòp thời, hiệu quả và bán chúng với một mức giá cạnh tranh.
Với một ngân hàng hiện đại thì việc cung cấp kòp thời các dòch vụ tiện ích
là điều kiện cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động.
Các dòch vụ đó có thể được chia làm hai nhóm, các dòch vụ truyền thống, có quá
trình hình thành và phát triển lâu dài như hoạt động trao đổi tiền, chiết khấu
thương phiếu, cho vay thương mại, bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của
chính phủ, cung cấp tài khoản giao dòch, cung cấp các dòch vụ ủy thác…; và các
dòch vụ mới phát triển gần đây như cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính, tư vấn
đầu tư, quản lý tiền mặt, dòch vụ thuê mua thiết bò, cho vay dự án, bán các dòch

- 13 -
vụ bảo hiểm, cung cấp kế hoạch hưu trí, cung cấp dòch vụ môi giới đầu tư, môi
giới chứng khoán…
Hình 2.3 : Chức năng cung cấp các dòch vụ ngân hàng của NHTM.






Ngân hàng
thương mại
Chức năng bảo hiểm
Chức năng môi giới
Chức năng đầu tư
và bảo lãnh
Chức năng tư vấn
Chức năng tiết kiệm

Chức năng lập kế
hoạch đầu tư
Chức năng trung
gian tín dụng
Chức năng trung
gian thanh toán
Chức năng quản lý
tiền mặt
Chức năng
khác…




Trong một nền kinh tế năng động, một xã hội phát triển và thònh vượng
thì nhu cầu sử dụng các dòch vụ ngân hàng là rất lớn. Đối với các nước đang phát
triển, có thể các nhu cầu này (trừ các nhu cầu về tín dụng) chưa nhiều, song
trong đònh hướng phát triển lâu dài từ kinh nghiệm của các nước tư bản phát
triển thì các nhu cầu này sẽ không ngừng phát triển theo tiến trình phát triển
kinh tế – xã hội, doanh số và lợi nhuận của mảng hoạt động này sẽ dần chiếm tỷ
trọng đáng kể và trở nên chính yếu trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
2.3 Vai trò của NHTM trong phát triển kinh tế :
Khi kinh tế hàng hoá càng phát triển thì quan hệ cung cầu càng trở nên
phổ biến trong tất cả các lónh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Quan hệ cung

- 14 -
cầu về vốn có vai trò quan trọng trong thúc đẩy và phát triển kinh tế, thúc đẩy
các mối quan hệ khác phát triển. Do yêu cầu điều tiết các mối quan hệ cung cầu
về vốn, đòi hỏi phải có một tổ chức trung gian để tập hợp các khoản cung về
vốn và phân phối các khoản cầu về vốn. Chính vì thế, trong nền kinh tế xuất

hiện một ngành kinh doanh đặc biệt đó là kinh doanh tiền tệ, được đảm trách bởi
những đơn vò chuyên hoạt động trong lónh vực này, đó là các NHTM.
Từ các chức năng cơ bản của NHTM cho thấy, NHTM là tổ chức tài chính
trung gian rất quan trọng của nền kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì các
dòch vụ ngân hàng càng đi sâu vào đời sống xã hội. Phần lớn người dân đều chòu
tác động của NHTM cho dù họ là người gửi tiền, người đi vay, hay đơn giản họ
đang làm việc cho một tổ chức có vay vốn và sử dụng các dòch vụ của ngân
hàng. Ngày nay, ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu
dùng (cá nhân, hộ gia đình), hàng triệu tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế – xã hội
(công ty, xí nghiệp, các tổ chức đoàn thể) và với hầu hết các cơ quan chính
quyền (tỉnh, thành phố, thậm chí cả chính phủ). Đối với các cá nhân, tổ chức
hoạt động kinh doanh thì NHTM là nơi cung cấp tín dụng cơ bản, phục vụ nhu
cầu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh như mua và dự trữ hàng hóa, trả
lương cho người lao động, ứng vốn cho các đối tác… và khi cần các thông tin về
tài chính, lập kế hoạch tài chính, tư vấn đầu tư, tìm hiểu thò trường, họ thường
tìm đến ngân hàng để nhận được những thông tin cần thiết.
Với chức năng là một trung gian tài chính, các NHTM đã tham gia và thực
hiện các hoạt động đầu tư thông qua thò trường chứng khoán, gián tiếp cung cấp
vốn cho các tổ chức kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho chính phủ, các chính
quyền đòa phương. Trong vài thập kỷ trở lại đây, đặc biệt là ở các nước đang
phát triển, NHTM là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thò trường
trái phiếu do chính phủ, các chính quyền đòa phương phát hành để tài trợ cho các

- 15 -
công trình xã hội như trường học, bệnh viện, đường xá, sân bay, bến cảng, hệ
thống điện, nước, vận tải công cộng, hỗ trợ xuất khẩu thông qua các chương trình
khuyến khích phát triển của chính phủ.
Theo báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) năm
2003, năng lực tài chính – ngân hàng mà đặc biệt là trình độ phát triển và khả
năng cạnh tranh của hệ thống NHTM là một trong các chỉ tiêu cơ bản đánh giá

năng lực cạnh tranh quốc gia, trình độ phát triển và khả năng hội nhập kinh tế
của quốc gia đó. Một trong những giải pháp để thúc đẩy và nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia là phát triển mạnh mẽ các dòch vụ tài chính – ngân hàng,
nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTM trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Cùng với những cải cách kinh tế, cải cách trong lónh vực tài chính – ngân
hàng đã làm nên những thay đổi đáng kể bộ mặt kinh tế Việt Nam trong những
năm gần đây. Kinh tế Việt Nam đã liên tục tăng trưởng và duy trì ở mức cao, trở
thành một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Cải cách
và nâng cao hiệu quả hoạt động cho hệ thống ngân hàng, góp phần nâng cao
hiệu quả thò trường tài chính đang là mục tiêu hết sức quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam.
Xin lấy lời ông Stephen Green – Tổng Giám đốc Ngân hàng Hồng Kông
và Thượng Hải (HSBC), nhân dòp đến thăm và dự khai trương chi nhánh Hà Nội,
chi nhánh lớn thứ hai của tập đoàn tại Việt Nam để khẳng đònh lại vai trò của hệ
thống ngân hàng nói chung và của các NHTM nói riêng trong phát triển kinh tế :
“Rất quan trọng cho bất kỳ nền kinh tế nào nếu có một hệ thống ngân hàng vững
chãi và mạnh mẽ, một hệ thống có thể chống đỡ được mọi sự dao động bất thường
không thể tránh khỏi của dòng lưu thông tiền tệ và có thể chủ đònh được lượng
tiền đưa vào lưu thông”.

- 16 -
2.4 Bối cảnh chung của ngành ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay :
Nền kinh tế nước ta đã trải qua gần 20 năm đổi mới, chuyển sang kinh tế
thò trường theo đònh hướng xã hội chủ nghóa. Trong gần 20 năm ấy chúng ta đã
đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt. Những thành tựu đó được đặt
trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Nhìn lại những thành
tựu đạt được trong bối cảnh chung như vậy, nước ta vẫn là nước nghèo, lạc hậu,
nằm ở nhóm dưới của các nước đang phát triển. Chúng ta đang cần phải có
những nỗ lực vượt bậc với những giải pháp đồng bộ từ nhiều phía, để có được

những bước đi dài, tiến bộ, theo kòp những nước có trình độ tiên tiến của khu vực
và thế giới.
Ngành ngân hàng Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh đó, đã 13 năm
chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp, đã tách hoạt động ngân hàng chính
sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các NHTM. Cuối năm 2004, trên cả nước
đã có 5 NHTMNN, 25 NHTMCP đô thò, 12 NHTMCP nông thôn, 5 ngân hàng
liên doanh, 28 chi nhánh NHNNg, 44 văn phòng đại diện NHNNg, 5 công ty tài
chính, 9 công ty cho thuê tài chính và một hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân rộng
khắp trên cả nước. Hệ thống NHTM ở nước ta cũng đã trải qua khoảng thời gian
từ 5-7 năm thực hiện chấn chỉnh và tái cơ cấu. Các NHTMCP đã được chấn
chỉnh, xử lý, sắp xếp lại, những ngân hàng yếu kém đã được giải thể, thu hồi
giấy phép hoạt động, sáp nhập với các NHTMCP khác, hoặc chuyển từ hình thức
NHTMCP đô thò sang NHTMCP nông thôn. Các NHTMNN cũng đang trong quá
trình cơ cấu lại cả về mặt tổ chức hoạt động và khả năng tài chính, đẩy nhanh
quá trình xử lý nợ tồn đọng, được cấp bổ sung vốn điều lệ bằng ngân sách nhà
nước. Chỉ tính riêng trong năm 2004, các NHTMNN đã được cấp bổ sung 3.294,9

- 17 -
tỷ đồng vốn điều lệ, nâng tổng số vốn điều lệ cấp bổ sung cho các NHTMNN
lên 12.641,2 tỷ đồng.
Qua thời gian chấn chỉnh, kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM
nước ta đã được nâng lên một cách rõ rệt cả về chất lẫn về lượng. Hệ thống
ngân hàng đã dần hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, có quan hệ hợp tác
với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, dần dở bỏ các rào cản trong
lónh vực tài chính – ngân hàng, tạo ra sự tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài
vào môi trường đầu tư tại Việt Nam. Dù đã có nhiều nỗ lực song chặng đường
gian nan của các NHTMVN vẫn còn phía trước, còn nhiều việc phải làm để có
thể tham gia sòng phẳng vào môi trường cạnh tranh quốc tế.
Về môi trường kinh doanh : Hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam
nằm trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi, môi trường pháp lý chưa đồng

bộ, chưa tiệm cận được với các quy đònh và chuẩn mực quốc tế. Quá trình hội
nhập sẽ đưa các NHTMVN vào guồng cạnh tranh gay gắt với các chi nhánh,
NHNNg tại Việt Nam, những đối thủ ưu việt về trình độ quản lý, trình độ công
nghệ, năng lực tài chính, quy mô hoạt động. Chúng ta đang nói về quá trình hội
nhập quốc tế của ngành ngân hàng, nhưng rất có thể trong thập niên đầu của thế
kỷ này, quá trình hội nhập chỉ diễn ra một chiều, khả năng mở rộng hoạt động
của các NHTMVN ra thò trường thế giới sẽ có nhiều khó khăn.
Về trình độ quản lý và phát triển nguồn nhân lực : Mặc dù đã giành
nhiều quan tâm trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực, song cách thức quản lý
và trình độ đội ngũ lao động chưa theo kòp yêu cầu của ngân hàng hiện đại.
Trình độ công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ rất yếu so với các nước trong
khu vực. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn ở các NHTMNN do những
bất cập trong cơ chế quản lý, hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra phổ biến và
nằm ngoài khả năng kiểm soát của những nhà quản trò điều hành trực tiếp. Rủi

- 18 -
ro về đạo đức ở các ngân hàng này là rất lớn, cần có những đònh hướng và biện
pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này.
Năng lực tài chính : Trong thời gian qua các NHTMVN đã không ngừng
nỗ lực trong phát triển quy mô nguồn vốn kinh doanh, nhưng nhìn chung năng
lực tài chính của hệ thống các NHTMVN vẫn còn yếu. Vốn tự có, vốn điều lệ
còn thấp, trong khi đó hoạt động kinh doanh vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là
rủi ro trong hoạt động tín dụng. Với điều kiện như vậy, khả năng huy động vốn
và đầu tư tín dụng sẽ có nhiều hạn chế, hạn chế trong khả năng phát triển mở
rộng, hạn chế trong quá trình đổi mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.
Trình độ công nghệ : Xuất phát điểm trình độ kinh tế nước ta thấp và
trình độ công nghệ ngân hàng cũng trong điều kiện như vậy. Đổi mới và hiện
đại hóa công nghệ đòi hỏi phải song hành với tiềm lực tài chính và trình độ
nguồn nhân lực, song đây là là những vấn đề mà các NHTMVN vừa thiếu lại
vừa yếu. Đặc điểm này đã làm cho các NHTMVN còn nặng với các sản phẩm

dòch vụ truyền thống, chất lượng dòch vụ không cao, công tác quản lý, kiểm tra,
kiểm soát gặp nhiều khó khăn. Nếu không khéo chúng ta sẽ rơi vào vòng lẩn
quẩn của lạc hậu.
Đứng trước thềm hội nhập, ngành ngân hàng nước ta còn tồn tại rất nhiều
khó khăn nhưng lại mở ra những vận hội to lớn. Trong quá trình đó, sức ép cạnh
tranh và yêu cầu đổi mới là rất cấp thiết, song chúng ta cũng có những lợi thế
nhất đònh đối với thò trường trong nước, như khả năng am hiểu thò trường, am
hiểu tập quán kinh doanh, khả năng phát triển mạng lưới, chiếm lónh thò trường,
được sự hỗ trợ từ nhiều phía và có một quá trình chuẩn bò tương đối lâu dài.



- 19 -
CHƯƠNG 3 :

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1 Lý luận về cạnh tranh trong lónh vực ngân hàng :
3.1.1 Khái niệm về cạnh tranh :
Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, chúng ta
đã nói rất nhiều, bàn nhiều về cạnh tranh, cạnh tranh trong nội tại nền kinh tế,
cạnh tranh với các đối thủ đến từ bên ngoài, cạnh tranh để tồn tại phát triển,
cạnh tranh để tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động, cạnh tranh để củng cố
và tăng cường các lợi ích kinh tế.
Lòch sử phát triển kinh tế đã chỉ ra rằng, nguồn gốc của cạnh tranh xuất
phát từ hai điều kiện cơ bản nhất, đó là phân công lao động xã hội và tính đa
nguyên chủ thể lợi ích kinh tế. Điều này đã làm xuất hiện các cuộc đấu tranh
giành giật lợi ích kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa, cung cấp dòch vụ
cũng như các tổ chức trung gian, thực hiện phân phối lại các sản phẩm hàng hóa,

dòch vụ. Cuộc đấu tranh đó dựa trên sức mạnh về tài chính, kỹ thuật công nghệ,
chất lượng đội ngũ lao động, quy mô hoạt động của từng chủ thể.
Đối lập với cạnh tranh là độc quyền. Nền kinh tế Việt Nam nói chung và
ngành ngân hàng nói riêng đã qua đi rồi thời độc quyền. Kể từ khi mở cửa hội
nhập kinh tế, chuyển sang cơ chế kinh tế thò trường, đã bắt đầu xuất hiện cạnh
tranh trong nội bộ nền kinh tế, nội bộ ngành, dần xuất hiện yếu tố cạnh tranh
nước ngoài và mang tính quốc tế. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất đònh đối
với các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, đặc biệt là trong lónh vực tài
chính – ngân hàng, song chúng ta đã ý thức rằng hội nhập quốc tế là một hiện
thực và tất yếu, chúng ta đang nỗ lực tham gia các tổ chức, hiệp hội kinh tế quốc

- 20 -
tế, chuẩn bò các điều kiện để từng bước thực hiện các cam kết song phương và
đa phương. Do đó, sức cạnh tranh ngày càng lớn, càng khốc liệt, cạnh tranh để
duy trì và tăng cường lợi ích kinh tế, cạnh tranh để tự hoàn thiện mình, đảm bảo
cho quá trình tồn tại và phát triển lâu dài, hướng tới hoạt động với phạm vi và
quy mô đa quốc gia, thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế và sứ mệnh chính trò của
đất nước.
Một doanh nghiệp, một tổ chức kinh tế muốn xác đònh được xu hướng
cạnh tranh, loại hình cạnh tranh, phương thức cạnh tranh của ngành mình đang
hoạt động thì việc đầu tiên là phải xác đònh các khuynh hướng ảnh hưởng đến
cạnh tranh, xu hướng vận động của nền kinh tế, xu hướng vận động của ngành
và được đặt trong mối tương quan chung của đònh hướng phát triển quốc gia, xu
hướng phát triển của thế giới, từ đó có được những nhận thức đúng đắn để xác
đònh đối thủ cạnh tranh của mình là ai, tiềm lực và lợi thế của họ là gì… Trên cơ
sở đó, hoạch đònh cho mình đònh hướng và xây dựng phương thức cạnh tranh
thích hợp, đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu đề ra.
3.1.2 Các khuynh hướng ảnh hưởng tới cạnh tranh trong lónh vực ngân hàng
3.1.2.1 Quá trình toàn cầu hóa kinh tế dẫn đến quá trình toàn cầu hóa hoạt
động ngân hàng :

Thực tế cho thấy toàn cầu hóa kinh tế là một động lực mạnh mẽ thôi thúc
tiến trình hội nhập của các quốc gia, đặc biệt là việc hội nhập trong lónh vực tài
chính – ngân hàng. Trong quá trình đó, các NHTM đã không ngừng mở rộng quy
mô hoạt động, mở rộng đối tượng khách hàng bằng cách vươn tới những thò
trường xa hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia. Một trong những tiêu chuẩn để
đánh giá mức độ hội nhập và khả năng phát triển của NHTM là tính đa quốc gia
trong phạm vi hoạt động kinh doanh. Vì lẽ đó, nhiều chi nhánh của các NHTM

- 21 -
đã được mở ra trên khắp các châu lục, nhiều vụ hợp nhất, sáp nhập đã diễn ra
giữa các NHTM, quy mô trung bình của các NHTM bắt đầu tăng lên đáng kể.
Xu hướng các NHTM lớn, giàu tiềm lực tài chính đang tìm mọi cách thâm nhập,
thôn tính các NHTM nhỏ ở những quốc gia, nơi mà họ đến để tìm kiếm các cơ
hội kinh doanh. Đây được xem là giải pháp chủ yếu trong việc thâm nhập thò
trường cung cấp dòch vụ ngân hàng ở các nước đang phát triển của các ngân
hàng lớn, tạo ra tính đa quốc gia trong hình thức sở hữu của các NHTM.
Chính xu hướng phi quản lý hoá, sự giảm bớt các quy đònh, các hàng rào
kiểm soát của các chính phủ đã đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Những
lợi ích mang lại từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp cho các NHTM
năng động hơn, cạnh tranh mạnh mẽ hơn. Phạm vò cạnh tranh từ lâu đã không
còn giới hạn trên phạm vi quốc gia mà diễn ra ở khắp các châu lục. Trong cuộc
chơi này, các NHTM ở các nước tư bản phát triển, có quy mô lớn, mạnh về tiềm
lực tài chính, giàu kinh nghiệm trong cạnh tranh quốc tế sẽ có nhiều lợi thế hơn
so với các ngân hàng ở các nước đang phát triển, nguy cơ bò thôn tính của các
ngân hàng ở những quốc gia này dễ xảy ra hơn, song nó cũng tạo ra những động
lực nhất đònh để các ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ ý thức hơn trong việc
nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, nâng vò
thế của ngân hàng mình lên tầm cao mới.
3.1.2.2 Đòi hỏi của khách hàng trong việc nâng cao chất lượng dòch vụ :
Xu hướng quốc tế hoá hoạt động ngân hàng đã đặt các NHTM trước áp

lực rất lớn của sự cạnh tranh, không những phải cạnh tranh với chính nó mà còn
phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác như các công ty tài
chính, các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, bưu điện… Xu hướng này ảnh hưởng
rất lớn đến cở sở khách hàng của các ngân hàng và tương lai của nó. Trong hoạt
động kinh doanh, hầu hết các ngành kinh tế nói chung và lónh vực tài chính –

- 22 -
ngân hàng nói riêng đều lấy khách hàng làm đối tượng và mục tiêu phục vụ, họ
đã không ngừng nỗ lực trong việc đổi mới và xây dựng mô hình phục vụ hướng
tới khách hàng, thỏa mãn tối đa các nhu cầu của khách hàng dựa trên các giới
hạn chi phí cho phép. Do đó, những đòi hỏi của khách hàng trong việc nâng cao
chất lượng dòch vụ đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các NHTM.
Đời sống kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày càng
cao, nhu cầu và đòi hỏi của họ đối với các sản phẩm và dòch vụ ngân hàng ngày
càng phải hoàn thiện, giá trò gia tăng mang lại từ các sản phẩm và dòch vụ đó
ngày càng nhiều. Chúng ta có thể nhìn thấy vấn đề này từ một thực tế, ví dụ như
tốc độ đô thò hóa nhanh, số lượng người lao động trẻ học tập và làm việc tại các
đô thò lớn ngày càng nhiều, nhu cầu về nhà ở và phương tiện đi lại tăng, đòi hỏi
các NHTM phải có những sản phẩm được thiết kế phù hợp để đáp ứng các yêu
cầu này. Hay như tuổi thọ bình quân của người dân ngày càng tăng, tỷ lệ dân số
già ngày càng nhiều, xuất hiện các nhu cầu lên kế hoạch tài chính và hưu trí cho
người lớn tuổi. Rõ ràng với các nhu cầu như vậy, đòi hỏi các ngân hàng phải
nhạy cảm, thấu hiểu và đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng.
Trong điều kiện thò trường tài chính phát triển như ngày nay đã làm xuất
hiện nhiều kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp. Họ có quyền lựa chọn
phương thức và kênh huy động vốn sao cho chi phí sử dụng vốn là thấp nhất,
hướng tới mục tiêu tối đa hoá các lợi ích kinh tế. Nhiều doanh nghiệp lớn, là
những khách hàng hoạt động kinh doanh tốt và vay vốn lớn của các ngân hàng,
trong những năm gần đây đã từ bỏ phương thức huy động vốn bằng cách vay trực
tiếp để tự huy động vốn thông qua các thò trường phi ngân hàng như thò trường

chứng khoán, thò trường mở. Sự thay đổi đó không những làm giảm doanh thu
trong hoạt động cho vay mà còn làm thay đổi cơ cấu doanh mục của các ngân
hàng. Các khoản cho vay lớn, chất lượng cao trên sổ sách giảm dần, các khoản

- 23 -
cho vay nhỏ lẻ, chất lượng thấp, rủi ro cao tăng lên. Các NHTM cần phải có
những giải pháp để hạn chế những rủi ro do xu hướng này mang lại như tăng
cường chất lượng và hiệu quả thẩm đònh các khoản vay, phát triển thêm nhiều
dòch vụ và sản phẩm mới để tăng thu và giảm thiểu rủi ro.
3.1.2.3 Những thay đổi mang tính cách mạng trong công nghệ ngân hàng :
Đáp ứng sự hiểu biết và đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng, sự gia
tăng nhanh chóng trong danh mục dòch vụ tài chính của các NHTM đã được sự
hỗ trợ mạnh mẽ từ những thay đổi mang tính cách mạng trong công nghệ ngân
hàng. Từ nhiều năm trở lại đây, các NHTM đã và đang xúc tiến quá trình ứng
dụng các hệ thống tự động với độ tin cậy cao, để thay thế cho các hệ thống vận
hành dựa trên lao động thủ công, đặc biệt trong lónh vực nhận tiền gửi, thanh
toán bù trừ, hệ thống máy rút tiền tự động, hệ thống xử lý, thống kê và tổng hợp
các giao dòch hàng ngày.
Những thay đổi trong công nghệ ngân hàng không những mang lại sự
nhanh chóng và tiện ích trong công tác thu hút và đáp ứng tốt các nhu cầu khách
hàng mà còn giúp các NHTM hạn chế được sự tăng cao trong chi phí hoạt động.
Các NHTM đang ngày càng sử dụng nhiều vốn và chi phí cố đònh vào các thiết
bò và phương tiện hiện đại để dần thay thế con người trong những lónh vực có
giao dòch lớn. Dù vậy, trong một số lónh vực hoạt động của các NHTM, đặc biệt
là sự tồn tại một tỷ lệ lớn khách hàng vẫn ưa chuộng hình thức cung cấp dòch vụ
thông qua con người, yếu tố con người vẫn duy trì được vai trò rất lớn và mang
tính quyết đònh trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Có thể nói rằng sự
phát triển công nghệ đã giúp cho các NHTM có được những bước đi dài trong
đột phá nâng cao chất lượng dòch vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của
khách hàng, phục vụ tốt hơn cho công tác thống kê, phân tích hiệu quả các hoạt


- 24 -
động kinh doanh. Song những tiến bộ của công nghệ chỉ có thể phát huy, tạo ra
những lợi thế vượt trội khi có sự quản lý và kiểm soát hiệu quả của con người.
3.1.2.4 Sự gia tăng nhanh chóng danh mục dòch vụ ngân hàng :
Như chúng ta thấy, những đòi hỏi của khách hàng trong việc nâng cao
chất lượng dòch vụ đã gây sức ép trong việc đa dạng hóa danh mục dòch vụ của
các NHTM. Trong những năm gần đây các NHTM đã không ngừng mở rộng và
làm phong phú danh mục dòch vụ tài chính để thoả mãn các nhu cầu của khách
hàng. Dưới áp lực cạnh tranh đang ngày càng gia tăng của các tổ chức tài chính
khác (như công ty tài chính, bảo hiểm, bưu điện…), sự hiểu biết và đòi hỏi cao
hơn của khách hàng, cũng như những tiến bộ và thay đổi nhanh chóng của công
nghệ đã góp phần không nhỏ trong việc đa dạng hóa danh mục dòch vụ tài chính.
Các sản phẩm, dòch vụ cung cấp được thiết kế chuyên biệt, mang nhiều tiện ích
và phù hợp với từng nhóm khách hàng có những đặc điểm tương đồng nhau.
Đối với những nước đang phát triển, trình độ phát triển của lónh vực tài
chính ngân hàng còn thấp như Việt Nam thì sự gia tăng nhanh chóng danh mục
dòch vụ tài chính ngân hàng được thể hiện rõ nét như ứng dụng các công cụ tài
chính phái sinh (quyền chọn vàng, quyền chọn ngoại tệ), phát triển các sản
phẩm dòch vụ cá nhân như cho vay mua nhà, phương tiện di chuyển dưới hình
thức trả góp, phát triển hệ thống máy rút tiền tự động (ATM), phát triển dòch vụ
thu hộ tiền điện nước, điện thoại thông qua hệ thống thanh toán tự động. Sự phát
triển này chòu áp lực rất lớn từ đòi hỏi nâng cao chất lượng dòch vụ của khách
hàng và được hỗ trợ tích cực từ những cải tiến công nghệ hiện đại.
3.1.2.5 Sự gia tăng chi phí vốn trong hoạt động ngân hàng :
Một trong những nguồn vốn cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn, ảnh hưởng trọng
yếu đến kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM là nguồn huy động tiết

- 25 -
kiệm và tài khoản tiền gửi khách hàng. Sự gia tăng cạnh tranh từ các lónh vực tài

chính phi ngân hàng như các công ty bảo hiểm, quỹ hỗ tương, công ty chứng
khoán… đã làm cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn, các NHTM trở nên
khó khăn hơn trong việc thu hút các nguồn tiền gửi này. Một trong những giải
pháp để “lập lại trật tự” mà các NHTM thường áp dụng là tăng lãi suất tiền gửi
để thu hút khách hàng. Phương thức này làm tăng chi phí bình quân thực tế từ
các tài khoản tiền gửi, các nguồn huy động tiết kiệm. Có thể nói rằng khách
hàng của các NHTM ngày càng được giáo dục tốt hơn, nhạy cảm với lãi suất
hơn, các tài khoản tiền gửi từ các NHTM có thể dễ dàng bò lôi kéo bởi các đối
thủ cạnh tranh, thu nhập của những khoản tiền gửi liên tục thay đổi theo điều
kiện thò trường.
Thêm vào đó, để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, các chính
phủ yêu cầu các ngân hàng cần có nhiều vốn chủ sở hữu hơn, đây là một trong
những nguồn vốn đắt đỏ do yêu cầu tỷ suất lợi nhuận mang lại từ các cổ đông để
tài trợ cho các tài sản của mình. Một trong những tiêu chí để đánh giá xếp hạng
các NHTM là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, cũng áp lực cho các NHTM
phải duy trì tỷ lệ này theo chuẩn mực tối thiểu của thông lệ quốc tế, điều đó làm
cho chi phí sử dụng vốn của các NHTM không ngừng tăng lên. Để duy trì được
hiệu quả hoạt động, buộc các NHTM phải tìm cách cắt giảm chi phí như tinh
giảm nhân công, thay thế các thiết bò lỗi thời bằng hệ thống xử lý hiện đại, nâng
cao khả năng cạnh tranh bằng cách tăng thu nhập trả cho công chúng gửi tiền.
Tuy vậy, việc gia tăng chi phí vốn nêu trên cũng bò giới hạn trong những chừng
mực nhất đònh, phụ thuộc rất lớn vào diễn biến và tỷ suất sinh lợi bình quân của
nền kinh tế.


×