Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
*****



TRẦN THỊ NGA








QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG TMCP BƢU ĐIỆN LIÊN VIỆT




LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH





Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


*****



TRẦN THỊ NGA







QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG TMCP BƢU ĐIỆN LIÊN VIỆT

Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh
Mã số: 60 34 05


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN VĂN ĐỊNH



Hà Nội – 2014
MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU ii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NHTM 3
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 3
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng 3
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng 4
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng 5
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
5
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng 5
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng 7
1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 8
1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng 12
1.3. QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NHTM 13
1.3.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng 13
1.3.2. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng của NHTM 13
1.3.3. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng 15
1.3.4 Các chỉ tiêu đánh giá quản lý rủi ro tín dụng 23
1.3.5. Các nhân tố ảnh hƣởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
25
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG TMCP BƢU ĐIỆN BƢU ĐIỆN LIÊN VIỆT 31
2.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG TMCP BƢU ĐIỆN LIÊN VIỆT 31
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 31
2.1.2. Cơ cấu tổ chức 32
2.1.3. Tình hình hoạt động và một số chỉ tiêu hoạt động chính 34
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG

TMCP BƢU ĐIỆN LIÊN VIỆT 40
2.2.1. Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bƣu Điện Liên
Việt 40
2.2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Bƣu Điện Liên Việt 43
2.3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG TMCP BƢU ĐIỆN LIÊN VIỆT 46
2.3.1. Kết quả đạt đƣợc 46
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 47
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ RỦI
RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP BƢU ĐIỆN LIÊN VIỆT 54
3.1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG TMCP
BƢU ĐIỆN LIÊN VIỆT TRONG THỜI GIAN TỚI 54
3.1.1. Định hƣớng phát triển chung của Ngân hàng TMCP Bƣu Điện Liên Việt 54
3.1.2. Định hƣớng tăng cƣờng quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP
Bƣu Điện Liên Việt 55
3.2. GIẢI PHÁP NHẰM QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CÓ HIỆU QUẢ TẠI
NGÂN HÀNG TMCP BƢU ĐIỆN LIÊN VIỆT 56
3.2.1 Hoàn thiện chính sách, cơ chế về quản lý rủi ro tín dụng 57
3.2.2 Hoàn thiện hệ thống cảnh báo rủi ro 60
3.2.3 Tăng cƣờng giám sát chấp hành quy trình cho vay. 63
3.2.4 Tăng cƣờng quản lý sau cho vay 67
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 70
3.3.1. Đối với Chính phủ 70
3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nƣớc 71
KẾT LUẬN 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



Ngân hàng Liên Việt
Ngân hàng TMCP Liên Việt
NHNN
Ngân hàng Nhà nƣớc
NHTM
Ngân hàng Thƣơng mại
TCTD
Tổ chức tín dụng
CBTD
Cán bộ tín dụng
RRTD
Rủi ro tín dụng
HĐQT
Hội đồng quản trị

Quyết định
XLRR
Xử lý rủi ro
QPQ
Quyền phán quyết
DNNN
Doanh nghiệp nhà nƣớc
DPRR
Dự phòng rủi ro
ALCO
Uỷ ban quản lý tài sản nợ có
CIC
Trung tâm thông tin tín dụng



ii

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

STT
Bảng
TÊN BẢNG BIỂU
Trang
1
Sơ đồ 2.1
Mô hình tổ chức của Ngân hàng Bƣu điện Liên Việt
33
2
Bảng 2.1
Cơ cấu nguồn vốn
34
3
Bảng 2.2
Cơ cấu tín dụng theo thời gian
36
4
Bảng 2.3
Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế
37
5
Bảng 2.4
Kết quả hoạt động kinh doanh
38

6
Bảng 2.5
Tỷ lệ nợ quá hạn
39
7
Bảng 2.6
Cơ cấu nhóm nợ
43
8
Bảng 2.7
Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
44
9
Bảng 2.8
Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng so với các khoản
nợ xấu
45



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thƣơng mại (NHTM) nói
chung, NHTM Việt Nam nói riêng, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động mang lại
nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ ảnh hƣởng đến khả năng thu hồi vốn vay,
làm ảnh hƣởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng, làm giảm khả năng
cung cấp vốn cho nền kinh tế và cuối cùng ảnh hƣởng đến lợi nhuận của ngân

hàng. Do vậy, quản lý rủi ro tín dụng tức là làm thế nào để xác định, đo lƣờng và
kiểm soát rủi ro ở mức có thể chấp nhận đƣợc luôn là vấn đề mà các NHTM
quan tâm.
Rủi ro tín dụng luôn song hành với hoạt động tín dụng, không thể loại bỏ
hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp để phòng ngừa
hoặc giảm thiểu thiệt hại tối đa rủi ro xảy ra. Đứng trên quan điểm quan điểm
quản lý hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, một tỷ
lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng phải luôn đƣợc xác định trong
chiến lƣợc hoạt động chung của ngân hàng. Khi ngân hàng kinh doanh với một
mức tổn thấp hoặc bằng mức tỷ lệ tổn thất dự kiến thì đó là sự thành công trong
lĩnh vực quản lý rủi ro. Ngân hàng phải bằng nhiều biện pháp tác động đến hoạt
động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng để góp phần đạt mục đích hoạt động
tín dụng an toàn, hiệu quả.
Một ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có năng lực tài chính
lành mạnh và quản lý rủi ro trong giới hạn cho phép sẽ tạo đƣợc niềm tin của
khách hàng và nâng cao vị thế, uy tín đối với khách hàng, tổ chức tín dụng trong
và ngoài nƣớc. Đây là điều vô cùng quan trọng giúp ngân hàng đạt đƣợc mục
tiêu tăng trƣởng và phát triển bền vững cũng nhƣ thực hiện thành công các hoạt
động khác trong thời kỳ mới.
2
Cũng nhƣ các NHTM Việt Nam, lợi nhuận của Ngân hàng TMCP Bƣu
Điện Liên Việt chủ yếu từ hoạt động tín dụng (chiếm khoảng 70% tổng thu nhập
của ngân hàng). Do đó, quản lý rủi ro tín dụng có ý nghĩa quyết định đối với sự
tồn tại và phát triển của Ngân hàng TMCP Bƣu Điện Liên Việt.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Bưu Điện Liên Việt” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng và thực tiễn
hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bƣu Điện Liên Việt, từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm tăng cƣờng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng

TMCP Bƣu Điện Liên Việt.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Quản lý rủi ro tín dụng của NHTM.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Bƣu Điện Liên Việt từ khi thành lập đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, cùng với việc vận dụng các phƣơng pháp
luận nghiên cứu khoa học nhƣ: duy vật lịch sử, duy vật biện chứng… Luận văn
chú trọng sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể nhƣ:
thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích dựa trên kết quả số liệu lấy từ báo cáo
thƣờng niên của ngân hàng
5. Bố cục Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn chia thành 3 chƣơng chính:
Chương 1: Lý luận chung về quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu
Điện Liên Việt
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt

3

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NHTM

1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng theo nghĩa phổ biến là quan hệ vay mƣợn, gồm cả cho vay và đi
vay. Mối quan hệ tín dụng bao gồm hai mặt cơ bản: (1) quan hệ vay mƣợn về
vốn giữa hai đối tác, (2) quan hệ hoàn trả.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mƣợn giữa ngân hàng với các cá nhân,

doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội và các tổ chức tín dụng khác theo
nguyên tắc có hoàn trả.
Theo Điều 14 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, cấp tín dụng là việc
thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử
dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ
cấp tín dụng khác.
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh
lời trong hoạt động tín dụng, đòi hỏi các ngân hàng phải tuân thủ các nguyên tắc
sau:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn và lãi với thời gian xác định nhƣ
đã thỏa thuận;
- Khách hàng cam kết sử dụng vốn theo đúng mục đích đƣợc thỏa thuận
với ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của
ngân hàng cấp trên;
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phƣơng án hoặc dự án có hiệu quả.
Nhƣ vậy hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM
bởi nó mang lại thu nhập từ lãi lớn nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là

4

hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
- Vai trò của tín dụng đối với ngân hàng:
Các doanh nghiệp, các tổ chức chức kinh tế đều có một mục tiêu chung là
thông qua hoạt động để tạo ra lợi nhuận ròng và mục tiêu của các ngân hàng
cũng không nằm ngoài mục đích đó. Ngân hàng thu đƣợc lợi nhuận thông các
hoạt động dịch vụ, tƣ vẫn và đặc biệt hoạt động tín dụng. Ngân hàng hoạt động
trên nguyên tắc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cƣ, trong tổ chức và

thông qua hoạt động tín dụng để cung cấp vốn cho các nhu cầu khác nhau trong
xã hội. Sự chênh lệch giữa tiền lãi thu đƣợc từ hoạt động cho vay với tiền lãi
phải trả từ hoạt động huy động chính là phần lợi nhuận từ hoạt động tín dụng.
Mặc dù đây chƣa phải toàn bộ lợi nhuận thu đƣợc từ hoạt động ngân hàng nhƣng
lợi nhuận từ hoạt động tín dụng chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng lợi nhuận
của ngân hàng.
Nhƣ vậy, hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM
bởi nó mang lại thu nhập từ lãi lớn nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên đây cũng là
hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho các NHTM.
- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế:
Nhìn chung tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế, nó thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn và phân bổ lại nguồn lực đầu
tƣ của xã hội vào các lĩnh vực của nền kinh tế một cách có hiệu quả. Tín dụng
của một hệ thống ngân hàng lành mạnh phản ánh năng lực hấp thụ vốn của nền
kinh tế quốc gia; mức rủi ro thấp của nền kinh tế chính là điều kiện để kêu gọi
các dòng vốn từ bên ngoài đầu tƣ vào để phát triển kinh tế đất nƣớc. Tuy nhiên
do các ngân hàng cho khách hàng vay đầu tƣ sản xuất kinh doanh thuộc nhiều
lĩnh vực nhƣ xây dựng, sản xuất công nghiệp, thƣơng nghiệp, tiêu dùng, dịch vụ
lữ hành nên sau khi cho vay thì quyền sở hữu vốn tạm thời tách khỏi quyền sử
dụng vốn, do vậy tính chủ động của Ngân hàng kém đi, dễ lâm vào thế bị động

5

đối với ngƣời vay vốn và có thể gặp rủi ro mất một phần vốn hay toàn bộ vốn.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều cách phân loại tín dụng, để phục vụ cho đề tài nghiên cứu tôi xin
đƣa ra hai cách phân loại hoạt động tín dụng của ngân hàng là phân loại theo đối
tƣợng khách hàng.
Theo đối tƣợng khách hàng: Theo cách phân loại này thì tín dụng bao
gồm tín dụng khách hàng doanh nghiệp, tín dụng tổ chức tài chính và tín dụng

khách hàng cá nhân.
Khách hàng doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nƣớc, Hợp tác xã,
Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài, Công ty hợp danh. Hình thức cho vay đối với khách hàng doanh
nghiệp rất đa dạng nhƣ cho vay ngắn hạn theo món, vay theo hạn mức tín dụng
dự phòng, cho vay theo dự án đầu tƣ, cho vay hợp vốn,…
Khách hàng tổ chức tài chính ở đây bao gồm các ngân hàng khác, hợp tác
xã tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính,… Hình thức cho vay
đối với các tổ chức tài chính cũng hết sức đa dạng. Thƣờng cho vay NHTM
nhằm đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn của các ngân hàng này và các giao dịch
thƣờng diễn ra trên thị trƣờng tiền tệ liên ngân hàng.
Khách hàng cá nhân ở đây là tất cả các cá nhân có năng lực pháp luật dân sự,
năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật.
Theo đối tƣợng vay vốn: Đối tƣợng vay vốn đa dạng bao gồm những
khách hàng có nhu cầu vốn nhà ở (mua nhà, sửa chữa nhà, xây dựng nhà), tiêu
dùng (mua ô tô, mua các thiết bị gia dụng, học tập), thực hiện các phƣơng án sản
xuất kinh doanh, thực hiện các dự án đầu tƣ và đáp ứng một số yêu cầu khác.
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NHTM
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng (RRTD) có thể dẫn ra sau đây:

6

Theo khái niệm cơ bản nhất, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng đƣợc
cấp tín dụng không thực hiện hoă
̣
c thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân
hàng, gây tổn thất cho ngân hàng; đó là khả năng khách hàng không trả hoă
̣

c
không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc, lãi và phí cho ngân hàng.
Theo Khoản 1, Điều 2 quyết định 493/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc NHNNVN, đề cập khái niệm “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình theo cam kết”
Có thể có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về RRTD, song các quan
niệm về RRTD đều hội tụ với nhau về bản chất đó là: RRTD là khả năng (xác
suất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng
được cấp tín dụng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với ngân hàng
.
.


RRTD có thể gây tổn thất về tài chính cho NHTM đó là làm giảm thu nhập ròng
và giảm giá trị thị trƣờng của vốn; trong trƣờng hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới thua
lỗ, nếu ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản Ngân hàng.
Cần phải có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ đƣợc đề cập trong các khái
niệm về rủi ro tín dụng đó là rủi ro và tổn thất. Khi ta


hiểu rủi ro tín dụng theo
nghĩa xác suất


là khả năng khách hàng không thực hiện đúng cam kết, khả năng
này



có thể xảy ra, có thể không xảy ra
;
;


khi rủi ro tín dụng xảy ra, khách hàng
thực sự không thực hiện đƣợc cam kết,


số tiền mà ngân hàng không thu hồi được
thì được hiểu là tổn thất Ngân hàng phải gánh chịu
.
.


Trong nội dung về quản trị
rủi ro, Basel II cũng đề cập đến khái niệm tổn thất dự kiến (expected loss-EL) và
tổn thất ngoài dự kiến (unexpected loss- UL). Theo đó, tổn thất dự kiến đƣợc coi
là chi phí hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó thƣờng đƣợc tính vào giá của
khoản tín dụng và đƣợc bù đắp bằng nguồn dự phòng. Tổn thất ngoài dự kiến
mới thực sự là rủi ro tín dụng, cần tính toán cụ thể để dự phòng về vốn tự có.

7

Trên thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lẫn và hiểu đồng nhất giữa giá trị tổn thất
với khái niệm rủi ro tín dụng. Sự nhầm lẫn này sẽ tác động bất lợi đến hoạt động
quản trị rủi ro tín dụng, trong đó ảnh hƣởng lớn nhất đến tính chủ động trong các
biện pháp quản lý rủi ro. Đơn cử, xuất phát từ quan niệm chỉ khi khoản vay phát
sinh quá hạn mới có rủi ro và việc trích lập quĩ dự phòng rủi ro dựa trên cơ sở
những khoản nợ quá hạn, chứ không đánh giá trích lập dự phòng rủi ro tín dụng

trên cơ sở mức độ xác xuất xảy ra nợ quá hạn, sẽ dẫn đến tình trạng: Thứ nhất,
những khoản cho vay mà theo xác xuất thực sự có rủi ro sẽ không đƣợc trích lập;
Thứ hai, làm mất tính chủ động trong quản trị rủi ro tín dụng, mức độ đáp ứng
của nguồn bù đắp rủi ro sẽ rất hạn chế, trong những trƣờng hợp có cú sốc thì
ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc chống đỡ rủi ro; Thứ ba, nó làm cho ngân
hàng không thể hiểu và đánh giá đúng mức độ rủi ro của mình, mặc dù trên thực
tế có những ngân hàng có nợ quá hạn rất thấp, nhƣng danh mục tín dụng lại rủi
ro rất lớn vì tập trung quá nhiều dƣ nợ vào nhóm khách hàng hay ngành rủi ro
phá sản cao. Đây chính là luận cứ xây dựng chính sách phân loại nợ, chủ động
trích lập qũi dự phòng và sử dụng quĩ này trong quá trình quản trị RRTD.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng đƣợc nhìn nhận dƣới 2 góc độ: Rủi ro khách quan và rủi
ro chủ quan.
1.2.2.1. Rủi ro khách quan.
Khi khách hàng nhận đồng vốn vay từ ngân hàng, họ sẽ dùng vốn vào các
mục đích nhƣ: đầu tƣ dây truyền sản xuất, mua nguyên vật liệu, bổ sung vốn
kinh doanh… Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ phát sinh các rủi ro
không mong muốn mà đôi khi khách hàng không lƣờng trƣớc đƣợc nhƣ:
- Rủi ro do nền kinh tế không ổn định.
- Rủi ro các thủ tục pháp lý ở các địa phƣơng còn rƣờm rà.
- Rủi ro thị trường bị bóp méo vì các hàng hóa nhập lậu.


8

1.2.2.2. Rủi ro chủ quan.
Rủi ro chủ quan đến từ cả hai phía là Ngân hàng và Doanh nghiệp.
- Đối với ngân hàng: Rủi ro chủ quan chủ yếu do năng lực thẩm định còn hạn
chế, số liệu thu thập thiếu sự chuẩn xác, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín
dụng bị bóp méo

- Đối với doanh nghiệp: doanh nghiệp đánh giá nhu cầu vốn sai, doanh nghiệp sử
dụng vốn sai mục đích, doanh nghiệp kém trong khâu quản lý…
1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến RRTD, chúng ta có thể phân chia ở các
nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
1.2.3.1 Nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng đƣợc cấp tín
dụng làm cho họ bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng, nhƣ:
thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô (chính sách xuất
nhập khẩu, thuế quan ) nằm ngoài tầm kiểm soát của khách hàng và ngân hàng.
Khi những thay đổi này thƣờng xuyên xảy ra, tác động liên tục đến khách
hàng cũng nhƣ ngân hàng, cũng có khi tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho khách
hàng. Nhiều khách hàng có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những
khó khăn. Có những trƣờng hợp khách hàng bị tổn thất song vẫn có khả năng trả
nợ cho ngân hàng đúng hạn gốc và lãi. Tuy nhiên, hầu hết các khách hàng bị tổn
thất bởi những nguyên nhân bất khả kháng thì đều làm khả năng trả nợ suy giảm
thậm chí không còn khả năng trả nợ.
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay
Trình độ yếu kém của ngƣời vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh,
yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ỳ là nguyên
nhân gây ra rủi ro tín dụng. Nhiều ngƣời vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu
đƣợc lợi nhuận cao, để đạt đƣợc mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ
đoạn ứng phó với ngân hàng, nhƣ cung cấp thông tin sai sự thật, mua

9

chuộc Nhiều khách hàng vay vốn không tính toán kỹ lƣỡng, mở rộng đầu tƣ
quá mức, hoặc không có khả năng tính toán kỹ những bất trắc có thể xảy ra,
không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh.
Trƣờng hợp còn lại là khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi nhƣng vẫn không

trả nợ đúng hạn, họ chây ỳ với hy vọng có thể đƣợc xoá nợ, sử dụng vốn vay
càng lâu càng tốt.
1.2.3.3 Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
Ngoài những nguyên nhân thuộc về chủ quan của phía đối tác (khách
hàng), những nguyên nhân chủ quan thuộc về ngân hàng đƣợc Uỷ ban Basel
(2000) đã thống kê cho thấy , nguồn gốc chủ yếu gây ra RRTD là mức độ tập
trung rủi ro và quy trình cấp tín dụng không lành mạnh.
Mức độ tập trung có thể coi là nguyên nhân quan trọng nhất trong vấn đề
RRTD. Rủi ro tập trung tín dụng tồn tại khi mức độ RRTD của một nội dung
trong danh mục tín dụng trở nên tƣơng đối lớn so với mức vốn hoặc tài sản của
ngân hàng. Rủi ro tập trung tín dụng không chỉ phụ thuộc vào giá trị tín dụng đã
cam kết, mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ mất vốn cao khi xảy ra rủi ro.
Rủi ro tập trung tín dụng gồm hai nhóm chính: Rủi ro tập trung tín dụng
thông thƣờng và rủi ro tập trung tín dụng dựa trên các yếu tố rủi ro chung hay
tƣơng


quan. Rủi ro tập trung tín dụng thông thƣờng xảy ra khi tín dụng đƣợc tập
trung quá nhiều vào một khách hàng, nhóm khách hàng, hoặc ngành/lĩnh vực
nhƣ kinh doanh bất động sản, dầu mỏ, khí đốt.


Trong khi đó, rủi ro tập trung tín
dụng do sự liên hệ qua lại của các yếu tố rủi ro lại liên quan nhiều đến các yếu tố
đặc thù, mà chỉ có thể phát hiện thông qua phân tích nhƣ giữa các thị trƣờng mới
nổi, rủi ro tín dụng và rủi ro thị trƣờng, các rủi ro này với rủi ro thanh khoản.
Điển hình cho loại rủi ro này là cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu á năm 1997
và cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế Mỹ từ cuối năm 2007 đến nay. Trong
cuộc khủng hoảng này, sự liên hệ rủi ro thị trƣờng và rủi ro tín dụng, cũng nhƣ
giữa rủi ro này với rủi ro thanh khoản, đã tạo ra các khoản lỗ/mất vốn rộng khắp.


10

Rủi ro tập trung thƣờng xảy ra do quá trình hoạch định chiến lƣợc, nhất là
ở các nƣớc đang phát triển, các Ngân hàng xác định và lựa chọn một số
ngành/lĩnh vực hay nhóm khách hàng ƣu tiên và do đó lạc quan khi cấp tín dụng
cho các đối tƣợng khách hàng này. Rủi ro lại thƣờng xảy ra đối với các Ngân
hàng lớn do giá trị vốn lớn làm cho các ngân hàng này có thể cấp tín dụng với
giá trị rất lớn cho một khách hàng mà không vi phạm quy định của pháp luật.
Bản chất tái diễn của các vấn đề về tập trung tín dụng, đặc biệt là liên quan đến
tập trung tín dụng thông thƣờng, đặt ra vấn đề là tại sao các ngân hàng lại để cho
tập trung rủi ro phát sinh. Thứ nhất, khi phát triển chiến lƣợc kinh doanh của
mình, hầu hết các ngân hàng đều phải đối mặt với sự đánh đổi cố hữu giữa việc
chọn chuyên môn hoá trong một số lĩnh vực chính với mục tiêu đạt đƣợc vị trí
dẫn đầu thị trƣờng và đa dạng hoá các luồng thu nhập, đặc biệt khi họ tham gia
vào một số phân đoạn thị trƣờng có mức độ biến động cao. Sự đánh đổi này càng
trở nên trầm trọng hơn với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng và tổ chức
phi ngân hàng tƣơng tự trong các hoạt động ngân hàng truyền thống nhƣ cấp tín
dụng cho các doanh nghiệp đƣợc xếp hạng ở mức có thể đầu tƣ. Tập trung rủi ro
xuất hiện thƣờng xuyên nhất vì các ngân hàng phát hiện ra các ngành đang
"nóng" và tăng trƣởng nhanh và sử dụng các giả định quá lạc quan về triển vọng
của ngành, đặc biệt là sự lên giá của tài sản và tiềm năng thu đƣợc mức phí
và/hoặc chênh lệch cao hơn trung bình. Các ngân hàng thƣờng dễ bỏ qua những
nguy hiểm trong các trƣờng hợp này khi họ tập trung vào tăng trƣởng tài sản hay
thị phần.
Các vấn đề trong quy trình cấp tín dụng cũng là một nguyên nhân gây ra
rủi ro tín dụng, trong đó chủ yếu liên quan đến quá trình thẩm định và theo dõi
tín dụng. Rất nhiều ngân hàng thấy rằng rất khó thực hiện một quá trình đánh giá
tín dụng kỹ càng bởi áp lực cạnh tranh trong ngân hàng ngày càng tăng. Do áp
lực này mà nhiều ngân hàng có xu hƣớng dựa vào một số chỉ tiêu đơn giản để


11

cấp tín dụng. Bên cạnh đó, việc không có hệ thống kiểm định và đánh giá các kỹ
thuật tín dụng mới cũng đã gây ra nhiều rủi ro, cụ thể:
- Lạm dụng quá mức hệ thống chấm điểm tín dụng mà không có sự kiểm
định lại sự phù hợp của mô hình. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ
bản gây ra sự sụp đổ thị trƣờng nhà đất Mỹ thời gian qua. Các quyết định cho
vay cá nhân hầu nhƣ phụ thuộc vào hệ thống chấm điểm - xếp hạng – ra hạn mức
cấp tín dụng mà không sử dụng đánh giá của cán bộ tín dụng cũng nhƣ không có
sự kiểm định lại mô hình dẫn đến sự phát triển quá mức của loại hình cho vay
thế chấp nhà. Khi các hộ gia đình không có khả năng trả nợ, đồng thời thị trƣờng
nhà đất suy giảm, hàng loạt các ngân hàng tham gia hoạt động này sụp đổ.
- Không theo dõi, giám sát thƣờng xuyên khách hàng hoặc tài sản bảo
đảm. Điều này làm cho ngân hàng không có cơ sở đƣa ra các biện pháp hành
động sớm nhằm ngăn chặn rủi ro.
- Kỹ thuật định giá theo rủi ro kém, tập trung quá nhiều vào điều kiện phi
giá (điều kiện tín dụng nhƣ hồ sơ, tài chính, tài sản bảo đảm…). Vấn đề này chủ
yếu ảnh hƣởng đến khả năng bù đắp của Ngân hàng trong trƣờng hợp có rủi ro
xảy ra.
- Không thận trọng với các thỏa thuận tín dụng có đòn cân nợ cao. Do đó,
khi khách hàng gặp rủi ro trong kinh doanh thì khả năng chống đỡ bằng vốn tự
có thấp, rủi ro chuyển về phía ngân hàng.
- Không tính đến chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, chu kỳ sống của sản
phẩm hàng hoá, nhất là đối với các ngân hàng có mức độ tập trung cao vào lĩnh
vực bất động sản. Đây là sự yếu kém trong quản lý danh mục tín dụng.
- Không dự kiến phƣơng án trong trƣờng hợp xấu nhất, làm cho ngân
hàng không có sự chuẩn bị kỹ càng. Trong nhiều trƣờng hợp, việc có một cơ chế
hành động rõ ràng, đƣợc phổ biến và tập huấn thƣờng xuyên có thể giúp ngân
hàng phản ứng nhanh chóng, kịp thời và do đó có thể vƣợt qua đƣợc những cú

sốc bất lợi.

12

1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Nhận diện rủi ro, qua đó có những giải pháp tối ƣu giúp ngăn ngừa và xử
lý các khoản tín dụng có rủi ro là khâu quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng. Sau khi khoản vay phát sinh và đƣợc phân loại, ngân hàng
luôn phải theo dõi, giám sát khoản vay để nhận diện rủi ro thông qua các dấu
hiệu cảnh báo sau:
* Nhóm các dấu hiệu từ phía khách hàng:
- Các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng: (1)Trì hoãn hoặc
gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ
hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất
kinh doanh của khách hàng; (2) Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần
không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục; (3) Chậm thanh toán các
khoản lãi khi đến hạn; (4) Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị của tài
sản đảm bảo giảm sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho
ngƣời khác thuê, bán hay trao đổi hoặc đã biến mất không còn tồn tại; (5) Có
chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi
khách hàng đề nghị cấp tín dụng; (6) Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ
lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của khách hàng; (7) Xuất hiện ngày càng
nhiều các khoản chi phí bất hợp lý nhƣ sự gia tăng đột biến trong chi phí quảng
cáo, tiếp khách…; (8)Thay đổi thƣờng xuyên tổ chức của ban điều hành…
* Nhóm các dấu hiệu từ chính sách tín dụng của ngân hàng: (1) Sự đánh
giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, ví dụ nhƣ
đánh giá quá cao năng lực tài chính của khách hàng so với thực tế; đánh giá
khách hàng chỉ qua thông tin do khách hàng cung cấp mà bỏ qua các kênh thông
tin bên ngoài khác…; (2) Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và
thiếu tính bảo đảm của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hay

các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng đƣợc cấp; (3)Tốc độ tăng
trƣởng tín dụng quá nhanh, vƣợt quá khả năng và năng lực kiểm soát cũng nhƣ

13

nguồn vốn của ngân hàng; (4) Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo
để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng; (5) Cung cấp tín dụng với khối lƣợng lớn cho
các khách hàng không thuộc phân đoạn thị trƣờng tối ƣu của ngân hàng; (6) Hồ
sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy
định hiện hành về phê duyệt tín dụng;
1.3. QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA NHTM
1.3.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động tín
dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đƣa ra các
biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa việc không thu đƣợc đầy đủ cả gốc và
lãi của khoản vay, hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn.
1.3.2. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
- Rủi ro tín dụng là căn nguyên chủ yếu tạo ra các vấn đề của ngân hàng:
Sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng tại Việt Nam trong những năm 1989-1990 do
chất lƣợng các khoản cho vay yếu kém, không thu hồi đƣợc. Những năm 1999 -
2000, cũng từ nguyên nhân này NHNN đã đặt một số ngân hàng TMCP vào tình
trạng giám sát đặc biệt, những vụ án lớn và việc xử lý một khối lƣợng hàng
ngàn tỷ đồng nợ tồn đọng của các ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc từ năm 2000
về trƣớc đều bắt nguồn từ những khoản cho vay khó đòi. Cuộc khủng hoảng tài
chính năm 1997 bắt nguồn từ Đông Nam Á đã làm cho nhiều ngân hàng ở Châu
Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, hoặc buộc phải sáp nhập, trong đó nguyên
nhân quan trọng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng tăng cao. Vì vậy, vấn
đề quản trị rủi ro tín dụng luôn luôn là vấn đề sống còn của NHTM.
- Mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng ngày càng gia tăng: Tính cấp

thiết của quản trị RRTD không chỉ xuất phát từ tính chất phức tạp và nguy cơ rất
lớn của RRTD mà còn do xu hƣớng kinh doanh của ngân hàng ngày nay càng trở
nên rủi ro hơn.

14

Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho rủi ro trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng ngày càng gia tăng:
Thứ nhất, do quá trình tự do hoá, nới lỏng qui định trong hoạt động ngân
hàng trên phạm vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu hƣớng toàn
cầu hoá, tự do hoá kinh tế, đề cao cạnh tranh đã trở thành phổ biến. Khi gia tăng
cạnh tranh cũng đồng nghĩa với rủi ro và phá sản gia tăng. Trong lĩnh vực ngân
hàng, cạnh tranh làm cho chênh lệch lãi suất biên ngày càng giảm xuống. Tác
động này làm cho các ngân hàng ngày càng có xu hƣớng mở rộng qui mô kinh
doanh để bù đắp sự sụt giảm lợi nhuận, trong đó mở rộng qui mô tín dụng đồng
nghĩa với việc RRTD cũng có nguy cơ gia tăng. Bên cạnh đó, qui luật đào thải
của cạnh tranh sẽ làm tăng mức độ phá sản của các khách hàng của ngân hàng
kéo theo sự thiệt hại cho ngân hàng.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng theo xu hƣớng
đa năng phức tạp, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hƣớng hội
nhập cạnh tranh gay gắt vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới.
Trong lĩnh vực tín dụng các sản phẩm tín dụng có bƣớc phát triển mạnh mẽ, vƣợt
xa so với sản phẩm tín dụng truyền thống. Các sản phẩm tín dụng dựa trên cơ sở
của sự phát triển công nghệ nhƣ thẻ tín dụng, cho vay cá thể…luôn chứa dựng
rủi ro mới. Nhƣng dƣới áp lực của cạnh tranh thì việc mở rộng và đa dạng hoá
sản phẩm cũng nhƣ phạm vi của hoạt động tín dụng trở nên cấp thiết hơn, mang
ý nghĩa sống còn với các ngân hàng. Với sự đa dạng phức tạp của sản phẩm tín
dụng cũng nhƣ RRTD càng đòi hỏi quản trị RRTD phải đƣợc chú trọng nâng cấp
tƣơng xứng.
Thứ ba, đối với các nƣớc đang phát triển, nhất là các nƣớc đang trong quá

trình chuyển đổi nhƣ Việt Nam, thì môi trƣờng kinh tế chƣa ổn định, hệ thống
pháp luật đang xây dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt động
ngân hàng càng trở nên rủi ro hơn, vì vậy việc bắt tay ngay từ đầu thực hiện tốt
công tác quản trị RRTD là một công việc tối quan trọng.

15

Quản lý rủi ro tốt là một lợi thế cạnh tranh và là công cụ tạo ra giá trị
của NHTM. “Hãy nói cho tôi biết bạn quản lý rủi ro ra sao, tôi sẽ nói Ngân hàng
bạn thế nào?” - Tiến sĩ S. L. Srinivasulu, Chủ tịch tập đoàn KESDEE Inc - nơi
cung cấp các giải pháp học tập trực tuyến (e-learning) về tài chính có trụ sở tại
California, Hoa Kỳ - nói nhƣ vậy để mở đầu câu chuyện về quản lý rủi ro trong
ngân hàng. Dù nền kinh tế thế giới đang hứng chịu hậu quả của sự “sơ suất”
trong công tác quản lý rủi ro của các ngân hàng, song điều ông Srinivasulu muốn
nói là: Hãy quay về những gì đơn giản nhất. Từ lâu, công tác quản trị rủi ro đƣợc
xem nhƣ là một chức năng nhằm thoả mãn yêu cầu tuân thủ pháp chế và kiểm
soát nội bộ. Dƣới góc nhìn này, rủi ro đƣợc xem nhƣ là “điều không mong muốn
nhƣng phải chấp nhận” trong kinh doanh, và hoạt động quản lý rủi ro đƣợc coi là
một trung tâm chi phí. Ông Srinivasulu cho rằng các ngân hàng nên chuyển
hƣớng tiếp cận ngƣợc lại: Quản trị rủi ro tốt chính là một nguồn lợi thế cạnh
tranh và là một công cụ tạo ra giá trị, cũng góp phần tạo ra các chiến lƣợc kinh
doanh hiệu quả hơn.
1.3.3. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng
Quá trình quản lý rủi ro bao gồm 4 nội dung: nhận biết; đo lường; quản
lý và kiểm soát, xử lý tổn thất. Mặc dù có sự phân đoạn trong qui trình quản lý
rủi ro tín dụng song một nguyên tắc có tính xuyên suốt là các khâu đƣợc phân ra
trong qui trình phải luôn có sự liên hệ gắn bó với nhau, tạo thành một chu trình
liên tục có vậy mới bảo đảm kiểm soát đƣợc rủi ro theo mục tiêu đã định. RRTD
một khi đã xác định thì cần phải đƣợc phân tích, đo lƣờng và đƣa ra các biện
pháp quản lý theo dõi. Cũng trong quá trình quản lý theo dõi, hệ thống quản lý

RRTD phải có khả năng xác định tìm ra các nguy cơ rủi ro mới và công việc của
quản lý rủi ro lại đƣợc lặp lại.
1.3.3.1. Nhận biết rủi ro tín dụng
Nhận biết rủi ro tín dụng là việc phát hiện, xác định đƣợc các nguy cơ rủi
ro tồn tại trong hoạt động tín dụng. Sự phát triển của công nghệ, thị trƣờng và xu

16

hƣớng toàn cầu hoá làm cho số lƣợng rủi ro ngày càng gia tăng và khả năng xảy
ra rủi ro sẽ thƣờng xuyên hơn. Vì vậy, một hệ thống quản lý rủi ro có hiệu quả
phải là hệ thống có khả năng nhận biết hầu hết các rủi ro hiện hữu trong tín
dụng. Ngân hàng nắm đƣợc tình hình rủi ro của danh mục tín dụng và trả lời
đƣợc các câu hỏi sau: (1) lý do RRTD là do đánh giá tín dụng chƣa tốt hay do
thoái trào kinh doanh hay do gian lận hay chất lƣợng tài sản thế chấp kém?; (2)
Ngân hàng có thể thấy RRTD tăng dần trong thời điểm này do cho vay tập trung
không đúng thị trƣờng? (3) Ngân hàng có thể đạt đƣợc mục tiêu dài hạn về
RRTD có thể chấp nhận?
Để đánh giá RRTD tiềm tàng của mỗi khách hàng ngay từ khâu phân tích
hồ sơ xin vay, ngân hàng thƣờng tiến hành nghiên cứu chi tiết sáu khía cạnh (6
“C”, chữ cái đầu của tiếng Anh) của hồ sơ xin vay: Tính cách, năng lực, dòng
tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện và sự kiểm soát. Tất cả phải thoả mãn
các yêu cầu đối với một khoản cho vay tốt theo quan điểm của ngƣời cho vay.
Tính cách (Character). Cán bộ tín dụng phải có đƣợc những bằng chứng
cho thấy rằng khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có kế hoạch trả nợ
nghiêm túc. Trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay vốn nghiêm túc, kế
hoạch trả nợ rõ ràng là những tiêu chuẩn tạo dựng nên tính cách của khách hàng
trong cách nhìn nhận của cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng cảm thấy khách
hàng đó không trung thực trong cam kết sử dụng vốn vay hay kế hoạch trả nợ thì
khoản cho vay sẽ không đƣợc thực hiện bởi vì nếu cho vay, nó sẽ rất có thể trở
thành một khoản nợ khó đòi đối với ngân hàng.

Năng lực (Capacity). Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng khách hàng có
đủ tƣ cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn.Ví dụ, ngƣời chƣa đủ 18
tuổi là ngƣời chƣa thành niên không có đủ tƣ cách pháp lý để lập một hợp đồng
tín dụng. Tƣơng tự, cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng ngƣời đại diện cho công
ty để tiến hành thoả thuận và ký kết hợp đồng tín dụng phải đƣợc phê chuâ
̉
n bơ
̉
i

17

cấp co
́
thâ
̉
m quyền theo quy đi
̣
nh ta
̣
i điều lê
̣
công ty , phù hợp với quy định của
pháp luật.
Dòng tiền mặt (Cash folow). Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng đối
với một yêu cầu xin vay và thƣờng tập trung vào câu hỏi: Liệu ngƣời vay có khả
năng tạo ra một dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho ngân hàng
món vay không? Nhìn chung khách hàng vay vốn chỉ có ba nguồn có thể đƣợc
sử dụng để hoàn trả khoản vay: (a) Dòng tiền mặt từ doanh thu bán hàng hoặc
thu nhập, (b) dòng tiền từ việc bán tài sản, (c) các nguồn vốn huy động bằng

cách phát hành nợ hay chứng khoán vốn. Bất cứ nguồn nào trong ba nguồn nêu
trên đều có thể đƣợc sử dụng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt trong việc thanh toán
nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, các ngân hàng rất quan tâm tới dòng tiền tạo ra từ
doanh thu bán hàng và xem đây là một nguồn chính để thanh toán nợ bởi vì việc
bán các tài sản có thể làm suy yếu năng lực hoạt động của ngƣời vay và khiến
cho ngân hàng rơi vào tình trạng một chủ nợ không đƣợc đảm bảo. Hơn nữa, sự
thu hẹp quy mô dòng tiền mặt thƣờng ẩn chứa một sự suy giảm trong kinh doanh
và do đó ngân hàng phải đối mặt với rủi ro về một khoản nợ có vấn đề.
Tài sản thế chấp (collaterral). Trong việc đánh giá tài sản thế chấp dành
cho khoản vay, cán bộ tín phải đặt câu hỏi: Ngƣời vay có sở hữu một tài sản nào
với giá trị ròng tƣơng xứng với khoản vay không? Cán bộ tín dụng phải rất nhậy
cảm với những đặc điểm nhƣ thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ
chuyên môn hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Ở đây, công nghệ có một vị
trí quan trọng. Nếu tài sản của khách hàng quá lỗi thời về công nghệ, giá trị thế
chấp của chúng sẽ bị giảm bởi lý do: ngân hàng có thể gặp nhiều khó khăn trong
việc tìm ngƣời mua lại những tài sản này nếu khoản cho vay không đƣợc hoàn
trả.
Các điều kiện môi trƣờng (Conditions). Cán bộ tín dụng và các chuyên gia
phân tích tín dụng phải nhận biết đƣợc những xu hƣớng tiến triển gần đây của
khách hàng cũng nhƣ của ngành mà khách hàng hoạt động, thấy đƣợc mức độ

18

tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay. Một khoản
cho vay dƣờng nhƣ rất tốt trên giấy tờ nhƣng có thể giá trị của nó bị sụt giảm do
doanh thu hay thu nhập của khách hàng giảm trong thời kỳ suy thoái kinh tế
hoặc do lãi suất tăng cao trƣớc sức ép của lạm phát. Để có thể phân tích nội dung
này, NHTM rất cần lƣu trữ các dữ liệu thông tin từ các báo, tạp chí, báo cáo
nghiên cứu – về các ngành mà ngân hàng phục vụ chủ yếu.
Sự kiểm soát (Control). Nhân tố cuối cùng trong việc đánh giá độ tin cậy

của một khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các câu hỏi nhƣ: Liệu
những thay đổi khi chính sách đƣa ra quy định mới có ảnh hƣởng bất lợi đến
ngƣời vay không và liệu khách hàng có đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn chất lƣợng tín
dụng do các cơ quan quản lý ngân hàng đặt ra?
1.3.3.2 Đo lường rủi ro tín dụng
Đo lƣờng rủi ro tín dụng là bƣớc tiếp theo sau khi đã phát hiện đƣợc nguy
cơ rủi ro. Trên thực tế các bƣớc này khá gần gũi với nhau và thƣờng đƣợc gộp
chung lại trong quá trình thực hiện tác nghiệp. Mục đích của các bƣớc này là
giúp cho toàn bộ bộ máy quản trị rủi ro hiểu chính xác và nhất quán nguy cơ rủi
ro đã xác định, phân tích rõ nguyên nhân và quan trọng nhất là lƣợng hoá mức
độ rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng để định giá rủi ro có thể chấp nhận
đƣợc; trích lập dự phòng rủi ro.
Để duy trì một quá trình quản lý, đo lƣờng và theo dõi tín dụng phù hợp,
theo thông lệ tốt nhất do ủy ban Basel (2000) đề xuất, ngân hàng phải tuân thủ
các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Ngân hàng cần có hệ thống quản lý liên tục các danh mục
đầu tƣ có rủi ro tín dụng.
Nguyên tắc 2: Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng
khoản tín dụng, bao gồm xác định mức độ đủ dự phòng và dự trữ.
Nguyên tắc 3: Khuyến khích các Ngân hàng phát triển và sử dụng hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng. Hệ thống xếp hạng

×