Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam qua thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN THỊ HOA




THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI
VÀO VIỆT NAM QUA THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN



LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH




Hà Nội – 2009

1

MỤC LỤC
Trang

DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
i



DANH MỤC BẢNG BIỂU
ii

DANH MỤC SƠ ĐỒ
iii

LỜI MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút vốn đầu tƣ gián tiếp
nƣớc ngoài qua thị trƣờng chứng khoán

5
1.1
Khái quát chung về vốn FPI
5
1.1.1
Khái niệm
5
1.1.2
Đặc trưng của vốn FPI
6
1.1.3
Nhân tố tác động đến thu hút vốn FPI
8
1.1.4
Tác động của vốn FPI đối với sự phát triển của nền kinh tế
15
1.2

Vai trò của thị trường chứng khoán trong việc thu hút vốn FPI
19
1.2.1
Chức năng của thị trường chứng khoán
19
1.2.2
Vai trò của thị trường chứng khoán trong việc thu hút vốn FPI
22
1.3
Kinh nghiệm quốc tế về thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài qua thị trường chứng khoán
24
1.3.1
Thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài của một số quốc gia
24
1.3.2
Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong thu hút vốn
FPI qua thị trường chứng khoán
31
Chƣơng 2
Thực trạng thu hút vốn đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài vào
Việt Nam qua thị trƣờng chứng khoán từ năm 2000 đến nay
35
2.1
Khái quát tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
35
2.2
Thực trạng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam qua
thị trường chứng khoán
41

2.2.1
Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam
41
2.2.2
Những biến động về vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào
46

2
Việt Nam qua TTCK thời gian qua
2.3
Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn FPI vào
Việt Nam qua TTCK thời gian qua
48
2.3.1
Sự phát triển kinh tế Việt Nam
48
2.3.2
Những biến động trên thị trường tài chính thế giới
59
2.3.3
Các nhân tố khác
64
2.4
Đánh giá chung về thu hút vốn FPI vào Việt Nam qua thị
trường chứng khoán từ năm 2000 đến nay

73
2.4.1
Mặt tích cực
73

2.4.2
Những hạn chế và nguyên nhân
74
Chƣơng 3
Một số giải pháp tăng cƣờng thu hút vốn đầu tƣ gián tiếp
nƣớc ngoài vào Việt Nam qua thị trƣờng chứng khoán
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế


77
3.1.
Bối cảnh hội nhập
77
3.1.1
Những cơ hội cho thu hút vốn FPI vào Việt Nam qua TTCK
77
3.1.2
Thách thức đối với việc thu hút vốn FPI vào Việt Nam qua
TTCK
79
3.2
Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn FPI vào Việt Nam
qua TTCK

82
3.2.1
Xây dựng môi trường vĩ mô ổn định
82
3.2.2
Linh hoạt trong quy định về sự tham gia của các nhà đầu tư

nước ngoài trên TTCK

83
3.2.3
Khuyến khích phát triển nhà đầu tư có tổ chức trong nước
làm nòng cốt cho TTCK Việt Nam, tạo đối trọng với các
định chế đầu tư nước ngoài


85
3.2.4
Nhóm giải pháp thúc đẩy TTCK phát triển
86

KẾT LUẬN
91

TÀI LIỆU THAM KHẢO
92

PHỤ LỤC


3
DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
CPH
Cổ phần hóa

GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
FPI
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHTW
Ngân hàng trung ương
TTCK
Thị trường chứng khoán
UBCKNN
Ủy ban chứng khoán nhà nước
WB
Ngân hàng thế giới
WEF
Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO
Tổ chức thương mại thế giới


4
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Thứ tự
Tên bảng biểu
Trang

Bảng 2.1
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép năm
1988 - 2008 phân theo đối tác đầu tư
36
Bảng 2.2
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép năm
2008 phân theo đối tác đầu tư chủ yếu
38
Bảng 2.3
Tỷ lệ thu hút vốn FPI so với vốn FDI của Việt Nam
41
Bảng 2.4
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam và một số quốc gia
châu Á
49
Bảng 2.5
Xếp hạng năng lực cạnh tranh một số quốc gia Châu Á
50
Bảng 2.6
Giá trị vốn hóa toàn thị trường và tỷ lệ giá trị vốn hóa thị
trường trong GDP giai đoạn 2001-2008
51
Bảng 2.7
Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam
53
Bảng 2.8
Số lượng các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam
54
Bảng 2.9
Số lượng tài khoản của các nhà ĐTNN trên TTCK Việt Nam

55
Bảng 2.10
Số lượng các doanh nghiệp nhà nước CPH qua các năm
56
Bảng 2.11
Tỷ lệ nắm giữ một số loại cổ phiếu của nhà đầu tư nước
ngoài tính đến thời điểm 22/5/2009
58
Bảng 2.12
Sự sụt giảm của các chỉ số chứng khoán thế giới năm 2008
60
Bảng 2.13
Tương quan chặt chẽ giữa các chỉ số chứng khoán
62
Bảng 2.14
Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trên sàn giao dịch
thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2008
63
Biểu đồ 2.1
Sự sụt giảm các chỉ số chứng khoán tiêu biểu năm 2008
61


5
DANH MỤC SƠ ĐỒ

Thứ tự
Tên sơ đồ
Trang
Sơ đồ 2.1

Mô hình hoạt động của quỹ đầu tư
44


6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã trở thành thành viên tổ chức thương mại thế giới vào ngày
7-11-2006. Gia nhập WTO mở ra cho Việt Nam những vận hội mới, nhưng
cũng đầy thách thức. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước, Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư rất lớn để xây
dựng, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Do đó,
thu hút vốn đầu tư và cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài trở
thành vấn đề quan trọng đối với Việt Nam.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài đã hình thành và phát triển từ lâu ở Mỹ và
các nước châu Âu, nơi có thị trường tài chính phát triển mạnh mẽ. Loại hình
đầu tư này đã mở ra cho các doanh nghiệp cách thức tiếp cận với các nguồn
vốn mới, góp phần vào việc thúc đẩy kinh tế phát triển, đồng thời cũng thúc
đẩy đầu tư trên thế giới phát triển theo một xu thế mới. Các làn sóng đầu tư
gián tiếp trên thế giới đang có xu hướng đổ về châu Á, một trong những khu
vực kinh tế năng động và phát triển nhất hiện nay. Đối với Việt Nam, thu hút
vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài mang một ý nghĩa rất quan trọng bởi lẽ Việt
Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng do
vậy, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư là hết sức cần thiết để phát triển kinh
tế, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn của nền kinh tế.
Mặc dù Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là thị trường tiềm
năng có thể thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư quốc tế trong tương lai
nhưng hiện tại lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam còn thấp.
Trong thời gian qua chính phủ mới chỉ chú trọng đến việc thu hút FDI mà vẫn

chưa có những chính sách quan tâm thu hút vốn FPI. Do vậy, một trong
những vấn đề quan trọng hiện nay là phải có giải pháp để đẩy mạnh việc thu

7
hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam qua thị trường chứng
khoán. Chính vì lý do đó, tôi đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ của mình là:
“Thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam qua thị trường
chứng khoán”
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam là một vấn
đề có ý nghĩa thiết thực đối với thị trường tài chính Việt Nam hiện nay, vì vậy
đã có một số tác giả nghiên cứu về đề tài này:
“Điều tiết sự di chuyển của dòng vốn tư nhân gián tiếp nước ngoài ở
một số nước đang phát triển", Nguyễn Hồng Sơn chủ biên, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, năm 2005.
Nội dung cuốn sách giới thiệu khái quát về các loại hình vốn tư nhân
gián tiếp nước ngoài, những đặc trưng cơ bản và tác động của nó đối với nền
kinh tế; thực trạng thu hút và điều tiết dòng vốn này ở một số nước đang phát
triển như Chi Lê, Malaisia… qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong
việc điều tiết vốn tư nhân gián tiếp nước ngoài và đưa ra một số khuyến nghị,
chính sách đối với Việt Nam.
“Thị trường chứng khoán Việt Nam với thu hút đầu tư nước ngoài”,
khoá luận tốt nghiệp – Lê Đức Tiến, Đại học kinh tế quốc dân, năm 2006.
“Kiểm soát vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên thị trường chứng
khoán Việt Nam”, luận văn thạc sỹ - Lê Thị Minh Thùy, Đại học kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
Hai công trình nghiên cứu khoa học này một phần phản ánh được thực
trạng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam và đưa ra một số giải pháp về
quản lý nhà nước đối với đầu tư gián tiếp ở Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài không chỉ liên

quan đến quản lý của nhà nước mà còn liên quan trực tiếp đến các hoạt động

8
khác, như hoạt động quản lý doanh nghiệp, tình hình kinh tế tài chính trong
nước và quốc tế. Do vậy, hoạt động thu hút nguồn vốn này vẫn cần được tiếp
tục nghiên cứu để đưa ra những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ
Mục tiêu của luận văn là đánh giá tình hình đầu tư gián tiếp nước ngoài
vào Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời xem xét những yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng thu hút FPI vào Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp thu
hút vốn FPI vàoViệt Nam qua thị trường chứng khoán trong thời gian tới.
Để thực hiện được mục tiêu trên, nhiệm vụ đề ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư gián tiếp nước ngoài và
vai trò của thị trường chứng khoán đối với việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài.
- Đánh giá thực trạng thu hút vốn FPI vào Việt Nam qua thị trường
chứng khoán thời gian qua
- Đề xuất những giải pháp để tăng cường thu hút vốn FPI vào Việt Nam
qua thị trường chứng khoán trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề thu hút vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài qua thị trường chứng khoán của Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam qua thị
trường chứng khoán, vấn đề thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở một số
quốc gia.
Về thời gian: từ năm 2000
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

9

Để thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp
thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tế và trao đổi với các
chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
6. Đóng góp mới của luận văn
-Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về đầu tư gián tiếp nước ngoài qua thị
trường chứng khoán
-Phân tích đánh giá một cách hệ thống, toàn diện tình hình thu hút vốn
FPI vào Việt Nam qua kênh thị trường chứng khoán thời gian qua
-Đề xuất một số giải pháp để tăng cường thu hút vốn FPI vào Việt Nam
qua thị trường chứng khoán
7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo và kết
luận, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài qua thị trường chứng khoán.
Chƣơng 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào
Việt Nam qua thị trường chứng khoán từ năm 2000 đến nay
Chƣơng 3: Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài vào Việt Nam qua thị trường chứng khoán trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế

10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ
GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI QUA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái quát chung về đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm
Vốn có thể chảy vào một quốc gia dưới nhiều hình thức khác nhau và
có xu hướng tạo ra những ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Thông
thường, dòng vốn vào một quốc gia đang phát triển có ba hình thức:
+ Vốn đầu tư trực tiếp FDI: là nguồn vốn của khu vực tư nhân nước

ngoài đầu tư vào một nước khác nhằm thu được lợi ích lâu dài hoặc giành
quyền kiểm soát các doanh nghiệp ở các nước nhận đầu tư. FDI thường đầu tư
cho phát triển sản xuất kèm theo nó là công nghệ, kĩ thuật, kinh nghiệm…
+ Vốn viện trợ phát triển chính thức ODA: là nguồn vốn viện trợ
không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi của các cơ quan chính thức
nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế chuyển giao cho các nước đang
phát triển nhằm thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế và tăng cường phúc lợi.
+ Vốn đầu tư gián tiếp.
“Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, thông qua quỹ đầu tư chứng khoán
và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không
trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư” [14, tr 1]
Theo đó, đầu tư gián tiếp nước ngoài (thường được viết tắt là FPI,
Foreign Portfolio Investment) là hình thức nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào
một quốc gia thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có
giá khác, thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài
chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động đầu tư. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt

11
động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp. Khi thực hiện đầu tư gián tiếp,
các nhà đầu tư nước ngoài không quan tâm đến quá trình sản xuất và kinh
doanh thực tế mà chỉ quan tâm đến lợi tức (với một mức rủi ro nhất định)
hoặc sự an toàn của những chứng khoán mà họ đầu tư vào (với một mức lợi
tức nhất định).
1.1.2. Những đặc trƣng cơ bản của đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
Đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua một số hình thức
cơ bản như:
- Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác được
phát hành tại một quốc gia nào đó.

- Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán hoặc định chế tài chính trung gian
khác trên thị trường tài chính.
- Thông qua các định chế tài chính trung gian khác như ngân hàng
thương mại, các công ty bảo hiểm, công ty tài chính
Với những hình thức biểu hiện như vậy, dòng vốn này có những đặc
trưng riêng biệt, đó là:
- Luồng đầu tư này được thực hiện không nhằm mục đích kiểm soát
quá trình sản xuất và kinh doanh thực tế. Nhà đầu tư chỉ quan tâm đến việc
lựa chọn những danh mục đầu tư đem lại cho họ tỷ suất lợi tức cao nhất với
một mức rủi ro nhất định hoặc một mức tỷ suất lợi tức nhất định với một mức
rủi ro thấp nhất. Đặc trưng này cho thấy sự khác biệt giữa FPI và FDI, bởi lẽ,
với đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư muốn kiểm soát quá trình sản xuất và kinh
doanh thực tế với kì vọng thu được lợi nhuận trong trung hạn và dài hạn
- Vốn FPI có tính thanh khoản cao: Đầu tư gián tiếp chỉ quan tâm đến tỉ
suất lợi nhuận hoặc độ an toàn của chứng khoán nên nó mang tính ngắn hạn,
bất ổn định và dễ đảo ngược. Nhà đầu tư gián tiếp dễ dàng bán lại những
chứng khoán, cổ phiếu mà họ đang nắm giữ để đầu tư vào nơi khác có tỉ suất

12
lợi nhuận cao hơn hoặc ít rủi ro hơn. Tính thanh khoản cao làm cho hình thức
đầu tư này mang tính ngắn hạn, dòng vốn được đưa vào nhanh và rút ra cũng
nhanh, tính theo phiên giao dịch, theo ngày tùy vào động thái nóng lạnh của
giá cổ phiếu, giá trái phiếu trên thị trường chứng khoán hay chính sách quản
lý của nước bản địa và một số yếu tố khác. Do vậy, nguồn vốn này có tính
đầu cơ cao hơn tính đầu tư. Ngược lại, FDI mang tính dài hạn, ổn định và khó
bị đảo ngược.
- Quy mô của dòng vốn vào nước tiếp nhận đầu tư có thể rất lớn và
mức độ rủi ro có thể rất cao, nó mang đến những tác động lớn, trên nhiều mặt
đối với nước tiếp nhận.
- Hình thức đầu tư này thực hiện không kèm theo cam kết chuyển giao

tài sản, vật chất, công nghệ, đào tạo lao động, kinh nghiệm quản lý vì đây là
hình thức đầu tư tài chính thuần túy
- Động thái dòng vốn chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ của các
nhân tố như bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại
giao, môi trường pháp lý thuận lợi), nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà đầu
tư nước ngoài, mức độ tự do hóa, sức cạnh tranh của môi trường đầu tư trong
nước, sự phát triển của hệ thống tiền tệ, của các thể chế trên thị trường tại
nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, FPI chịu ảnh hưởng mạnh hơn từ phía các
nhân tố: sự phát triển, độ mở cửa thị trường chứng khoán, chất lượng các trái
phiếu, cổ phiếu do doanh nghiệp và nhà nước phát hành, sự đa dạng và vận
hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian (Các quỹ đầu tư chứng
khoán, công ty đầu tư tài chính ). Đặc biệt, dòng vốn gián tiếp nước ngoài tỉ
lệ thuận và theo cấp số nhân cùng với sự gia tăng quá trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài hoạt động hiệu quả trong nước.

13
- Về lợi ích đem lại, dòng vốn gián tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy sự
phát triển của thị trường tài chính. Hơn nữa, không phải bất kì hình thức đầu tư
gián tiếp nào cũng đem lại nguồn vốn mới hay tạo ra những đầu tư mới.
- Trong nhiều trường hợp sẽ không có sự phân biệt rõ ràng giữa đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp mà tồn tại giao thoa và liên kết giữa chúng.
Như vậy, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp có liên kết chặt chẽ với
nhau với việc hình thức đầu tư này hoạt động tiếp theo sau hình thức đầu tư
kia trong một giới hạn nhất định. Những nhân tố tác động tới hình thức đầu tư
này cũng sẽ tác động tới hình thức đầu tư kia. Mặc dù các cách tiếp cận chính
sách có thể tính đến sự khác biệt lớn giữa chúng nhưng những chính sách tự
do hoá một hình thức đầu tư còn lại sẽ có tác động tiêu cực tới cả hai.
1.1.3. Nhân tố tác động đến thu hút vốn đầu tƣ gián tiếp
1.1.3.1 Sự phát triển của thị trường chứng khoán

Sự phát triển kinh tế của quốc gia tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, do đó
là nhân tố có tác động lớn đến quá trình thu hút vốn FPI. Dòng vốn gián tiếp
nước ngoài sẽ chảy mạnh vào một quốc gia khi quốc gia đó có nền kinh tế
phát triển với những doanh nghiệp mạnh, hoạt động hiệu quả, hứa hẹn những
cơ hội đầu tư với tỉ suất lợi nhuận tốt.
Thị trường chứng khoán được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế, thể
hiện sức khỏe về kinh tế của một quốc gia. Do vậy, thị trường chứng khoán
hoạt động lành mạnh, phát triển với những hàng hóa tốt là nhân tố thể hiện
sức hấp dẫn về đầu tư của quốc gia.
Tại các nước phát triển, TTCK đã được hình thành từ rất lâu và là một
kênh quan trọng để huy động vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh và phát
triển kinh tế. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu vốn
cho đầu tư rất cao mà nguồn đầu tư trực tiếp lại có hạn thì đây là một kênh
huy động vốn đầu tư gián tiếp có tiềm năng cao.

14
Một trong những chính sách thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển
là chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp. Tuy nó không có tác động trực
tiếp tới việc thu hút vốn FPI nhưng nó góp phần làm phong phú thêm hàng
hóa và làm cho quy mô của thị trường ngày càng phát triển, từ đó tạo sức hấp
dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tạo ra hàng hóa cho thị
trường chứng khoán thông qua việc mua bán cổ phần cho các thành phần kinh
tế trên cơ sở chuyển đổi từ một sở hữu sang nhiều chủ sở hữu khác nhau,
trong đó có cả các nhà đầu tư nước ngoài. Ngược lại, thị trường chứng khoán
cũng tạo cơ sở để luân chuyển các chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tạo động
lực kích thích quá trình cổ phần hóa phát triển. Công ty cổ phần và thị trường
chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và làm tiền đề thúc đẩy nhau
cùng phát triển.
Thị trường chứng khoán với vai trò là nhân tố thu hút vốn FPI sẽ được

tiếp tục xem xét ở phần nội dung tiếp theo của bài viết.
1.1.3.2. Chính sách liên quan đến thu hút vốn đầu tư gián tiếp
* Chính sách tài chính-tiền tệ
Chế độ tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp thích hợp là hai nội
dung quan trọng nhất của chính sách tỷ giá thuộc chính sách tài chính – tiền
tệ. Nói cách khác, chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ
dùng để tác động vào cung – cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp Chính
phủ điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới mục tiêu cần thiết.
Dòng vốn này chảy vào một quốc gia qua kênh thị trường chứng khoán
làm thay đổi cung và cầu về ngoại tệ trên thị trường tiền tệ và do đó tác động
đến tỷ giá. Đến lượt mình chế độ tỷ giá lại tác động trở lại tới lạm phát, các
khoản nợ của quốc gia và đặc biệt là tác động tới cán cân vãng lai của quốc
gia đó mà đại diện là tác động đến xuất khẩu. Do vậy, sự điều chỉnh đến chính
sách tỷ giá có ảnh hưởng nhất định đối với việc thu hút FPI.

15
Để thực hiện mục tiêu của chính sách tài chính – tiền tệ, cần phải sẵn
có một hệ thống các công cụ can thiệp nhất định, kết hợp sử dụng đồng thời
cả hai loại: chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Tùy theo tính chất tác động
trực tiếp hay gián tiếp, các công cụ này được chia thành hai nhóm:
- Nhóm các công cụ tác động trực tiếp: thông thường, đó là hoạt động
của NHTW trên thị trường hối đoái thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm
duy trì một tỷ giá cố định (trong chế độ tỷ giá cố định) hay ảnh hưởng làm cho
tỷ giá thay đổi đạt một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra (trong chế độ tỷ
giá thả nổi). Để tiến hành như vậy, NHTW phải có một lượng dự trữ ngoại hối
đủ mạnh. Tuy nhiên các hoạt động can thiệp trực tiếp của NHTW tạo ra hiệu
ứng thay đổi cung tiền trong lưu thông nên có thể tạo ra áp lực lạm phát hay
thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế. Chính vì vậy mà NHTW còn
phải sử dụng thêm một nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ phần dư cung hay
bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông. Do có những hạn chế nhất định,

nên hoạt động can thiệp trực tiếp kiểu này thường dần dần được thay thế bằng
các công cụ tác động gián tiếp mà chủ yếu là thông qua công cụ lãi suất tái
chiết khấu.
- Nhóm các công cụ tác động gián tiếp: bao gồm các công cụ như lãi
suất tái chiết khấu, thuế quan, hạn ngạch, giá cả,…Trong số các công cụ gián
tiếp, công cụ lãi suất tái chiết khấu thường được sử dụng nhiều nhất và tỏ ra
hiệu quả nhất.
Ngoài những công cụ gián tiếp thông dụng nêu trên, trong từng thời kì,
NHTW các nước đang phát triển còn có thể áp dụng một số biện pháp cá biệt
sau: điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các ngân hàng
thương mại, quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng
ngoại tệ.

16
Chính sách tiền tệ có mối quan hệ rất chặt chẽ với chính sách tỷ giá.
Thông thường để thực hiện một mục tiêu về tài chính chính phủ thường áp
dụng cả hai công cụ này. Cụ thể, các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ đó
bao gồm: lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở,…Tuy nhiên, do nội
dung của đề tài chủ yếu nghiên cứu về sự tác động của các chính sách tới việc
thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên TTCK nên phần này chỉ đề cập đến công
cụ lãi suất tái chiết khấu.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, mức lãi suất cao là
công cụ để chống lạm phát và nó thường được sử dụng để đáp ứng yêu cầu
can thiệp vào nền kinh tế. Ngoài ra, chính sách lãi suất còn được sử dụng vào
mục đích điều chỉnh giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Chính sách lãi suất cao
có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của đồng nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các luồng
vốn tư bản nước ngoài chảy vào trong nước. Đặc biệt đối với vốn FPI, đặc
trưng của nó là dựa trên sự tìm kiếm của nhà đầu tư đối với các quốc gia có
lãi suất cao để đầu tư thì chính sách lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đối với việc
thu hút nguồn vốn này.

Phương pháp dùng lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái
có thể nói là phương pháp thường được sử dụng với mong muốn có những
thay đổi cấp thời về tỷ giá. Cơ chế tác động của công cụ này đến tỷ giá hối
đoái như sau: trong thế cân bằng ban đầu của cung cầu ngoại tệ trên thị
trường, khi lãi suất tái chiết khấu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi cùng chiều
của lãi suất trên thị trường. Cụ thể, nếu lãi suất tăng sẽ dẫn đến xu hướng là
một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ chuyển vào trong nước
và những người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có khuynh hướng chuyển
đổi đồng ngoại tệ của mình để thu lãi cao hơn. Kết quả là tỷ giá giảm (đồng
nội tệ tăng giá). Trong trường hợp ngược lại sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.

17
Qua phân tích trên có thể thấy cơ chế tác động của lãi suất tới tỷ giá
và tới việc thu hút FPI của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, có thể thấy lãi suất
không phải là điều duy nhất tác động đến quyết định của nhà đầu tư khi
tiến hành đầu tư vào một quốc gia mà còn phụ thuộc vào môi trường kinh
tế - chính trị - xã hội của quốc gia đó. Để minh họa cho vấn đề này, có thể
lấy cuộc khủng hoảng thời kì 1971-1973 ở Mỹ làm ví dụ. Vào thời điểm
đó, mặc dù lãi suất trên thị trường NewYork cao gấp rưỡi thị trường
London, gấp 3 thị trường Frankfurk, nhưng vốn FPI không được chuyển
vào Mỹ mà lại được chuyển vào Tây Đức và Nhật Bản mặc dù các nước
này đang thực hiện chính sách lãi suất thấp do nước Mỹ đang đối mặt với
sự mất ổn định về kinh tế và tiền tệ.
Như vậy, lãi suất tái chiết khấu chỉ có ảnh hưởng nhất định và có hạn
đối với tỷ giá hối đoái, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất chỉ có quan hệ logic chứ
không phải quan hệ nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố duy nhất quyết
định sự vận động vốn FPI giữa các nước. Tuy nhiên, nếu tình hình tiền tệ của
các nước đều như nhau thì phương hướng đầu tư FPI sẽ vẫn hướng vào những
nước có lãi suất cao. Do vậy, hiện nay chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có ý
nghĩa của nó.

* Chế độ kế toán và kiểm toán
Ngoài yếu tố chủ quan từ phía doanh nghiệp thực hiện công bố thông
tin, có hai yếu tố khách quan ảnh hưởng một cách rất cơ bản tới chất lượng
công bố thông tin trên TTCK, đó là hệ thống kế toán và chất lượng kiểm toán
Hoạt động kế toán và kiểm toán giúp thông tin trên thị trường chứng
khoán trở nên công khai và minh bạch hơn. Chế độ kế toán và kiểm toán giúp
cho các nhà đầu tư có thể nắm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp,
cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời những thông tin tài chính của doanh
nghiệp. Ngoài ra những thông tin này còn ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định

18
đầu tư của nhà đầu tư. Kinh nghiệm qua các thị trường chứng khoán trên thế
giới cho thấy chất lượng công bố thông tin của các tổ chức phát hành và công
ty niêm yết có ảnh hưởng rất lớn đến giá cả chứng khoán cũng như tính thanh
khoản của chứng khoán và quy mô của thị trường.
* Quy định về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng
khoán trong nước
Tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài được quy định trong các văn bản
pháp luật của các nước. Quy định này ảnh hưởng tới số lượng nhà đầu tư
nước ngoài và lượng vốn FPI vào thị trường chứng khoán. Thực ra, khi tỷ lệ
tham gia của bên nước ngoài bị giới hạn quá nhỏ sẽ khiến nhà đầu tư phải
chia nhỏ nguồn vốn của mình để tiến hành đầu tư, điều này thường gây tâm lý
e ngại cho các nhà đầu tư, đặc biệt khi hàng hóa trên thị trường chứng khoán
còn ít ỏi và chất lượng kém. Ngược lại, khi tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài
lớn hoặc không hạn chế thì đối tác nước ngoài có thể chiếm lĩnh quyền điều
hành hay quản lý khi nắm giữ số lượng cổ phiếu chi phối.
Các quốc gia mới đưa vào vận hành thị trường chứng khoán thường sự
hạn chế việc tham gia của các đối tác bên ngoài. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của thị trường, kinh nghiệm quản lý và điều hành thị trường và xu thế
hội nhập vào kinh tế thế giới mà tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài thường có

xu hướng được mở rộng và tiến đến không còn hạn chế.
Các quốc gia phát triển với lịch sử lâu đời của nền kinh tế thị trường và
thị trường chứng khoán thì quy định việc tham gia của các đối tác nước ngoài
có sự thông thoáng hơn, đặc biệt với các thị trường hoạt động lâu đời thì hầu
như không có sự hạn chế nào đối với phía nước ngoài.
* Quy định về các lĩnh vực nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia
trên thị trường chứng khoán
Nhà nước cũng có thể quy định về các lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước
ngoài được phép tham gia, những lĩnh vực họ không được phép tham gia hay

19
tham gia hạn chế. Sở dĩ tồn tại quy định như vậy là nhằm giữ quyền kiểm soát
của nhà nước đối với một số ngành nghề nhạy cảm, tránh sự thao túng của
nước ngoài đối với những lĩnh vực có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế trong
nước. Thông thường, các ngành nghề mà nhà nước hạn chế nhà đầu tư gián
tiếp nước ngoài tham gia thường là ngân hàng, xăng dầu, bảo hiểm,…
* Quy định về phí, thuế trên những khoản lợi tức chuyển ra nước ngoài
đối với nhà đầu tư
Để hạn chế việc nhà đầu tư rút vốn khỏi thị trường chứng khoán và
tăng thêm nguồn thu cho Nhà nước thì biện pháp đánh thuế đối với dòng vốn
ra hoặc đánh thuế trên khoản lợi tức thu được từ việc đầu tư cổ phiếu của nhà
đầu tư thông qua tài khoản giao dịch của họ được mở tại các ngân hàng
thường được các quốc gia trên thế giới áp dụng.
Sử dụng biện pháp này có ưu điểm là không tạo ra rào cản trực tiếp đối
với nhà đầu tư, không gây ra phản ứng mạnh ngay lập tức mà Nhà nước vẫn
có thể trung hòa giữa quản lý và lợi ích của nhà đầu tư. Nhưng cũng như các
chính sách thuế, phí khác được quy định trong luật pháp thì quy định về thuế
trên lợi tức thu được cũng làm hạn chế một mức nào đó về cầu đầu tư. Do
vậy, thuế suất là điều mà Nhà nước phải cân nhắc cho phù hợp với từng thời
điểm và từng lĩnh vực kinh doanh.

* Các quy định khác có liên quan
Quy định về việc đăng ký, cấp phép thành lập, giám sát giao dịch trên
thị trường chứng khoán đối với các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài… Quy
định này buộc nhà đầu tư phải tuân thủ khi tiến hành đầu tư và là một trong
những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút vốn FPI.
Quy định về cách thức tiến hành giao dịch trên thị trường đối với nhà
ĐTNN bao gồm: quy định về cách thức tiến hành mở tài khoản, cách thức
giao dịch, cách thức tiến hành thanh toán. Hầu như những quy định này liên

20
quan nhiều đến thủ tục hành chính và phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý,
hệ thống thông tin vận hành thị trường chứng khoán. Thủ tục càng rườm rà
phức tạp thì càng gây mất nhiều thời gian và công sức cho nhà đầu tư để tiến
hành hoạt động đầu tư. Quy định này nếu phức tạp có thể là một rào cản, nếu
hợp lý, thuận tiện thì lại là yếu tố thu hút đầu tư.
1.1.4. Tác động của vốn đầu tƣ gián tiếp đối với sự phát triển của
nền kinh tế
1.1.4.1. Tác động tích cực
- FPI góp phần làm tăng vốn trên thị trường vốn nội địa: Với vai trò là
kênh huy động vốn, thị trường chứng khoán sẽ thu hút vốn và cung ứng cho
nền kinh tế từ các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư
nước ngoài có tiềm lực mạnh về tài chính và tính chất trường vốn cao nên đây
sẽ là nguồn ngoại tệ mạnh vô cùng tiềm năng góp phần giải quyết nhu cầu
vốn dài hạn ngày càng lớn của nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay
khi nguồn vốn đầu tư trực tiếp đang có xu hướng giảm xuống, hỗ trợ phát
triển chính thức khó có khả năng gia tăng.
FPI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho nhu cầu vốn nội địa mà các
nước đang phát triển cần để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế. Đối với
các nước này, do mức độ tích luỹ tư bản thấp nên việc tự do cho phép các
dòng vốn vào có thể tạo điều kiện nâng cao nhanh chóng tỷ lệ đầu tư trên đầu

người, giúp phát triển nhanh chóng hạ tầng cơ sở vật chất, đồng thời xây dựng
được cơ chế tự điều chỉnh cơ cấu đầu tư vào các ngành có tiềm năng lớn nhất.
- FPI thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa: vốn FPI thúc
đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa thông qua các kênh khác nhau.
Vốn đầu tư gián tiếp có thể đẩy mạnh mức độ tăng trưởng bằng cách
làm tăng khả năng thanh toán và hiệu suất của thị trường nội địa. Thị trường
vốn với khả năng thanh toán và hiệu suất cao cho phép các nguồn lực được sử

21
dụng theo cách hiệu quả nhất. Khi có một lượng vốn gián tiếp chảy vào theo
hình thức đầu tư trên thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán sẽ có
tính thanh khoản cao hơn, thúc đẩy các nhà đầu tư tiến hành nghiên cứu, rót
thêm vốn vào nền kinh tế, làm cho thị trường vốn phát triển. Khi thị trường
vốn phát triển, tính thanh khoản tăng, rủi ro thanh toán cũng giảm xuống, các
khoản đầu tư dài hạn cũng hấp dẫn hơn cho phép nhà đầu tư lựa chọn đầu tư
chứng khoán như là hình thức hấp dẫn hơn gửi tiết kiệm ngân hàng, từ đó vốn
cho nền kinh tế được tăng cường với mức chi phí thấp hơn và năng lực sản
xuất theo đó cũng được phát triển như: tăng cường tính minh bạch và quản trị
công ty, cung cấp các phương tiện bảo hiểm cho các tổ chức tài chính, giảm
tính bất ổn định của ngoại hối.
- FPI tác động tích cực đến thị trường chứng khoán trong nước: Việc
cho phép các công ty có vốn nước ngoài được niêm yết giao dịch trên thị
trường chứng khoán sẽ tạo một động lực lớn đối với thị trường. Một thực tế
hiện nay là thị trường Việt Nam chưa có nhiều hàng hoá chất lượng cao được
công chúng đầu tư chấp nhận. Các công ty có vốn nước ngoài đưa cổ phiếu
lên niêm yết sẽ nâng cung thị trường cả về chất lượng và số lượng. Với trình
độ quản lý, khoa học công nghệ, năng lực chuyên môn trong các ngành nghề,
thị trường rộng lớn trong và ngoài nước của các công ty này, các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của bản thân doanh nghiệp mình.

- FPI góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo
các nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Việc quản lý
và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được thực hiện nghiêm
túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh bạch
hóa, cập nhật hóa thông tin liên quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp
đã phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ lựa chọn đầu tư vào

22
chứng khoán của các doanh nghiệp tin cậy, có triển vọng. Đó chính là cơ chế
chọn lọc khách quan
Như vậy, thông qua các kênh khác nhau, đầu tư gián tiếp nước ngoài có
thể bổ sung thêm nguồn vốn cho nền kinh tế cũng như thúc đẩy việc củng cố
và cải thiện hoạt động của các thị trường vốn nội địa. Điều này sẽ khiến cho
vốn và các nguồn lực trong nền kinh tế được phân bổ tốt hơn; tạo cơ hội đa
dạng hoá danh mục đầu tư, cải thiện khả năng quản lý rủi ro, thúc đẩy sự gia
tăng của tiết kiệm và đầu tư với kết quả là nền kinh tế sẽ trở nên vững mạnh
hơn và tăng trưởng kinh tế sẽ được thúc đẩy.
1.1.4.2. Những tác động tiêu cực
- Nguy cơ xảy ra hiện tượng đầu cơ có tổ chức lớn: Nguy cơ này xảy ra
khi có thị trường có những yếu điểm, tạo điều kiện cho giới đầu cơ có tiềm
lực tài chính mạnh tấn công thị trường bằng cách dùng vốn của mình tạo ra
thông tin không chính xác, dẫn đến các giao dịch chứng khoán không công
bằng cho các nhà đầu tư.
Hiện tượng này thường xảy ra đối với các thị trường nhỏ, tiềm lực kinh
tế không đủ mạnh hoặc đối với các thị trường chứng khoán mới nổi, hệ thống
kiểm soát chưa chặt chẽ. Tình trạng nền kinh tế suy thoái hay khi một số công
ty lớn có ảnh hưởng mạnh tới thị trường gặp khó khăn cũng có thể là môi
trường tốt cho các kẻ đầu cơ thực hiện ý đồ của mình. Hậu quả của đầu cơ
trước hết là các nhà đầu tư đưa ra quyết định sai lầm gây ảnh hưởng đến
quyền lợi trực tiếp của mình trong khi đem lại lợi nhuận siêu ngạch cho

những kẻ chủ mưu. Đối với nền kinh tế, hiện tượng đầu cơ gây sự bất ổn định
khi nhà nước không thể đương đầu và đối phó. Hơn nữa, qua giao dịch không
công bằng, khả năng các công ty có cổ phiếu bị tấn công rơi vào tình trạng bị
thôn tính, thay đổi cơ cấu tổ chức, phương hướng, chiến lược kinh doanh là
điều hoàn toàn có thể xảy ra. Kết quả xấu nhất có thể tính đến là sự sụp đổ thị

23
trường chứng khoán, kéo theo các khủng hoảng của thị trường tài chính trong
nước, khu vực và quốc tế.
- Sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn FPI sẽ khiến cho nền kinh tế dễ
rơi vào tình trạng phát triển quá nóng, dễ bị tổn thương và sẽ rơi vào khủng
hoảng một khi gặp phải các cú sốc bên trong cũng như bên ngoài, hoặc khi
dòng vốn đảo ngược mạnh
- Nguy cơ rút vốn ồ ạt ra khỏi thị trường: Đây là rủi ro dễ thấy nhất xảy
ra khi các nhà đầu tư rút số lượng lớn vốn một cách đột ngột. Khi tài khoản
vốn được tự do hoá, xuất hiện nguy cơ về khối lượng vốn bị rút do trạng thái
tâm lý tiêu cực của các nhà đầu tư. Nếu tình hình nghiêm trọng có thể kéo
theo những nguy cơ lớn hơn gây mất ổn định về giá chứng khoán, tỷ giá hối
đoái, áp lực thanh toán trả nợ ngoại tệ và sụt giá các tài sản khác. Lý do gây ra
dòng vốn bị rút đột xuất ra nước ngoài là do tâm lý phản ứng dây chuyền của
các nhà đầu tư.
Xu hướng này có thể xuất hiện khi có dấu hiệu về suy thoái kinh tế,
tiềm năng lợi nhuận giảm hay một thông tin bất lợi đối với thị trường, một số
nhà đầu tư sẽ nhanh chóng bán các chứng khoán họ đang nắm giữ, thu hồi
tiền mặt, bảo toàn đồng vốn của mình. Khi thông tin này bị lan truyền, hiệu
ứng “đôminô” sẽ xảy ra. Các nhà đầu tư khác sẽ đổ xô rút vốn ra khỏi thị
trường. Nếu không có biện pháp kịp thời, sẽ dẫn đến khủng hoảng thị trường,
khủng hoảng tài chính.
- FPI có thể mang đến những rủi ro ở tầm vĩ mô: Dòng vốn lớn đổ vào
nền kinh tế có thể gây mất cân bằng ở tầm vĩ mô, đặc biệt khi các chính sách

vĩ mô không nhất quán và hướng tới những mục tiêu mâu thuẫn nhau.
Rủi ro tình trạng tỷ giá hối đoái thực tế tăng xuất hiện trong cả hai cơ
chế tỷ giá cố định và linh hoạt. Trong cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, dòng
vốn lớn đổ vào làm cho tỷ giá danh nghĩa lên cao, kéo theo tỷ giá thực tế cũng

24
lên cao. Trong cơ chế tỷ giá cố định, tác động của chính phủ nhằm vô hiệu
hoá ảnh hưởng để đạt một tỷ giá danh nghĩa không thay đổi sẽ có thể tạo áp
lực về lạm phát. Nỗ lực kìm chế lượng cung tiền không hiệu quả lắm vì can
thiệp chính sách tiền tệ sẽ duy trì lãi suất ở mức cao, tiếp tục thu hút vốn từ
nước ngoài, vốn lại đổ vào nhiều hơn.
Vốn đổ vào cũng có thể gây áp lực về lạm phát, đặc biệt là khi tỷ giá
được giữ cố định. Ngược lại nếu lạm phát cao, giá hàng tiêu dùng, yếu tố sản
xuất và các tài sản liên tục tăng cao thì gây tình trạng bất ổn về tài chính và tài
khoản vốn.
- FPI làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế, lũng đoạn
tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán. Sự gia
tăng tỉ lệ nắm giữ cổ phần sáng lập, biểu quyết của nhà đầu tư nước ngoài đến
một mức nào đó sẽ cho phép họ tham gia trực tiếp chi phối hoạt động sản xuất
kinh doanh, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương hướng kế hoạch,
mục tiêu riêng của họ. Khi đó, tính chất gián tiếp của FPI đã chuyển hóa
thành tính trực tiếp.
1.2.Vai trò của thị trƣờng chứng khoán trong việc thu hút vốn đầu
tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
1.2.1. Chức năng của thị trƣờng chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được
quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung
và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người
mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những
thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát

hành ở thị trường sơ cấp.
“Thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua
bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời” [23, tr8]

×