Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.31 KB, 51 trang )

Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn nước ngoài là một nhân tố cực kỳ quan trọng và cần thiết cho quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở bất kỳ một nước hay một nền kinh tế đang phát
triển nào. Đặc biệt là trong giai đoạn hiên nay khi mà xu hướng mở cửa hội nhập
quốc tế đã trở thành phổ biến. Hơn nữa nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu
trình độ kỹ thuật thấp kém, năng suất lao động thấp, tích luỹ nội bộ thấp, lại chịu
hậu quả nặng nề của chiến tranh. Do dó vấn đề về vốn hiện nay đang là vấn đề nan
giải và khó giải quyết nhất. Trước tình hình đó Việt Nam đã thực thi nhiều giải pháp
để tạo nguồn vốn đặc biệt là các giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Tháng 12 năm 1987 nước ta đã ban hành luật đầu tư nước ngoài, từ đó đến
nay đã có trên 60 quốc gia, vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt nam, trong đó có
những tập đoàn lớn như SONY, HONDA …. Đầu tư nước ngoài đã góp phần không
nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong hơn mười năm qua, như giải
quyết vấn đè về vốn, công nghệ, nâng cao trình độ quản lý.
Lý do chọn đề tài : Do nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư
nước ngoài cũng như sự đóng góp của nó vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước
ta trong những năm gần đây, cho nên em đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp
nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”. Với trình độ hiểu biết cũng như thời gian nghiên cứu còn hạn chế cho nên bài
viết không tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm. Em rất mong được sự góp ý của
thầy cô giáo để học hỏi thêm và bổ sung cho bài viết được hoàn thiện hơn.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 2
PHẦN I : LÍ LUẬN CHUNG
1. CÁC KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ
a. Đầu tư
Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận của sản xuất - kinh doanh của


các doanh nghiệp. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm lực của nền kinh tế
nói chung của từng doanh nghiệp nói riêng, là động lực để thúc đẩy xã hội đi lên.
Do vậy, trước hết cần tìm hiểu khái niệm về đầu tư.
Khái niệm: Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức
lao động, của cải vật chất, trí tuệ ...) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho chủ
đầu tư trong tương lai.
Về mặt địa lý, có hai loại hoạt động đầu tư:
- Hoạt động đầu tư trong nước.
- Hoạt động đầu tư nước ngoài.
b. Đầu tư nước ngoài
b.1. Khái niệm
Đầu tư nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến
hành sản xuất - kinh doanh, dịch vụ với mục đích kiếm lợi nhuận và những mục tiêu
kinh tế xã hội nhất định.
b.2 Bản chất và hình thức đầu tư nước ngoài
Xét về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản, một
hình thức cao hơn xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, hai hình thức xuất khẩu này lại
có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và bổ sung nhau trong chiến lược xâm
nhập, chiếm lĩnh thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài.
Hoạt động buôn bán hàng hoá ở nước sở tại là bước đi tìm kiếm thị trường, tìm
hiểu luật lệ để có cơ sở ra quyết định đầu tư. Ngược lại, hoạt động đầu tư tại các
nước sở tại là điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài xuất khẩu máy móc, vật tư,
nguyên liệu và khai thác tài nguyên thiên nhiên của nước đó.
Hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra dưới hai hình thức:
Đầu tư trực tiếp ( FDI ).
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 3
Đầu tư gián tiếp ( PI ).
Trong đó đầu tư trực tiếp là hình thức chủ yếu còn đầu tư gián tiếp là “bước

đệm”, tiền đề để tiến hành đầu tư trực tiếp.
Đầu tư trực tiếp là một hình thức đầu tư nước ngoài trong đó chủ đầu tư, đầu tư
toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư vào các dự án nhằm dành quyền điều hành
hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc
thương mại.
b.3 Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thứ nhất: đây là hình thức đầu tư mà các chủ đầu tư được tự mình ra quyết
định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. Hình
thức đầu tư này mang tính khả thi và có hiệu quả cao, không có những ràng buộc về
chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
Thứ hai: chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ hoặc một phần công việc
của dự án.
Thứ ba: chủ nhà tiếp nhận được công nghệ kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh
nghiệm quản lý hiện đại... của nước ngoài.
Thứ tư: nguồn vốn đầu tư không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu mà còn có
thể được bổ sung, mở rộng từ nguồn lợi nhuận thu được từ chủ đầu tư nước ngoài.
2. CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Theo xu hướng thế giới hiện nay, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra chủ yếu
dưới các hình thức:
Hình thức 1: Thành lập tổ chức kinh tế và thực hiện dự án đầu tư
1. Nhà đầu tư trong nước có dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế
thì thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp,
pháp luật có liên quan và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và
Nghị định này.
2. Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và
thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của
Luật Đầu tư và Nghị định này. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.

Trang 4
3. Đối với nhà đầu tư nước ngoài đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư tại Việt
Nam:
+) Trường hợp có dự án đầu tư mới mà không thành lập tổ chức kinh tế mới thì thực
hiện thủ tục đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của Luật
Đầu tư và Nghị định này;
+) Trường hợp có dự án đầu tư mới gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế mới thì
thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Hình thức 2: Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư
1. Nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo hình thức
100% vốn để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có
liên quan.
2. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được
hợp tác với nhau và với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài mới.
3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp
luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Hình thức 3: Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài
1. Nhà đầu tư nước ngoài được liên doanh với nhà đầu tư trong nước để đầu
tư thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần,
công ty hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
2. Doanh nghiệp thành lập theo quy định tại khoản 1 Điều này được liên doanh
với nhà đầu tư trong nước và với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập tổ chức
kinh tế mới theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
3. Doanh nghiệp thực hiện đầu tư theo hình thức liên doanh có tư cách pháp nhân
theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày cấp Giấy chứng
nhận đầu tư.
Hình Thức 4: Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh

1. Trường hợp đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 5
nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước thì nội dung
hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân
chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên hợp doanh.
2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác
dầu khí và một số tài nguyên khác theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm
thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan và Luật Đầu tư.
3. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký giữa các nhà đầu tư trong nước với
nhau để tiến hành đầu tư, kinh doanh thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp
đồng kinh tế và pháp luật có liên quan.
4. Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả thuận
thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thỏa thuận. Ban điều
phối không phải là cơ quan lãnh đạo của các bên hợp doanh.
5. Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam
để làm đại diện cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu; được mở tài
khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh
trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư và hợp
đồng hợp tác kinh doanh.
Hình Thức 5: Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại
doanh nghiệp
1. Nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp
để tham gia quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp
luật có liên quan. Doanh nghiệp nhận sáp nhập, mua lại kế thừa các quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập, mua lại, trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác.

2. Nhà đầu tư khi góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt
Nam phải: thực hiện các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường; tuân thủ các quy
định về điều kiện tập trung kinh tế của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 6
doanh nghiệp; đáp ứng điều kiện đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư thuộc lĩnh
vực đầu tư có điều kiện.
Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được diễn ra dưới ba hình thức:
Một là: Đầu tư thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết
giữa hai bên hoặc nhiều bên, gọi là các bên hợp doanh, quy định phân chia trách
nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh
ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân.
Hai là: Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên
hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết
giữa chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam, hoặc do doanh nghiệp liên
doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Ba là: Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
Ngoài ra, các hình thức và môi trường thu hút vốn đầu tư là: khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao....
Thực hiện công cuộc đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều Văn bản pháp Luật
liên quan đến đầu tư như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật khuyến khích
đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp nhà nước... tạo nên một
khung pháp lý quan trọng điều chỉnh các hoạt động đầu tư phù hợp với đường lối,
quan điểm của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu cầu hội
nhập; tạo môi trường thuận lợi, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành

phần kinh tế. Nhờ hiệu quả của hệ thống chính sách Pháp luật về đầu tư đã ban
hành, việc huy động nguồn lực đầu tư cho tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tăng.
Như vậy, việc ban hành Luật Đầu tư đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư có nhiều cơ hội đầu tư hơn. Một số điều luật về hình thức đầu tư tại Việt Nam
năm 2005 đang được thực hiện tốt như:
Điều 21. Các hình thức đầu tư trực tiếp
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 7
1. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100%
vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
2. Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài.
3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO,
hợp đồng BT.
4. Đầu tư phát triển kinh doanh.
5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
6. Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
7. Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Điều 22. Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
1. Căn cứ vào các hình thức đầu tư quy định tại Điều 21 của Luật này, nhà đầu
tư được đầu tư để thành lập các tổ chức kinh tế sau đây:
a) Doanh nghiệp tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp;
b) Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và các tổ
chức tài chính khác theo quy định của pháp luật;
c) Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao và các cơ sở dịch
vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi;
d) Các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
2. Ngoài các tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều này, nhà đầu tư trong
nước được đầu tư để thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tổ chức và hoạt động

theo Luật hợp tác xã; hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Điều 23. Đầu tư theo hợp đồng
1. Nhà đầu tư được ký kết hợp đồng BCC (hợp đồng hợp tác kinh doanh) để
hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác
kinh doanh khác.
Đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách
nhiệm của mỗi bên, quan hệ hợp tác giữa các bên và tổ chức quản lý do các bên
thỏa thuận và ghi trong hợp đồng.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 8
Hợp đồng BCC trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và một số
tài nguyên khác dưới hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm được thực hiện theo
quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Nhà đầu tư ký kết hợp đồng BOT (hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển
giao), hợp đồng BTO (hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) và hợp đồng
BT (hợp đồng xây dựng - chuyển giao) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
thực hiện các dự án xây dựng mới, mở rộng, hiện đại hóa và vận hành các dự án kết
cấu hạ tầng trong lĩnh vực giao thông, sản xuất và kinh doanh điện, cấp thoát nước,
xử lý chất thải và các lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Chính phủ quy định lĩnh vực đầu tư, điều kiện, trình tự, thủ tục và phương thức
thực hiện dự án đầu tư; quyền và nghĩa vụ của các bên thực hiện dự án đầu tư theo
hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT.
Điều 24. Đầu tư phát triển kinh doanh
Nhà đầu tư được đầu tư phát triển kinh doanh thông qua các hình thức sau đây:
1. Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh;
2. Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi
trường.
Điều 25. Góp vốn, mua cổ phần và sáp nhập, mua lại
1. Nhà đầu tư được góp vốn, mua cổ phần của các công ty, chi nhánh tại Việt

Nam. Tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đối với một số lĩnh
vực, ngành, nghề do Chính phủ quy định.
2. Nhà đầu tư được quyền sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh.
Điều kiện sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh theo quy định của Luật này,
pháp luật về cạnh tranh và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 26. Đầu tư gián tiếp
1. Nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức sau
đây:
a) Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
b) Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán;
c) Thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 9
2. Đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá
khác của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp theo quy
định của pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên, những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới sâu rộng nền kinh tế, chủ
động hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra những đòi hỏi khách quan đối với việc cần
thiết phải xây dựng một khung khổ pháp lý thống nhất về đầu tư nhằm tăng cường
huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể:
- Đường lối đổi mới kinh tế của nước ta là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng mạnh
mẽ sức sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế quốc tế; nâng cao đời sống
nhân dân. Một trong các giải pháp quan trọng thực hiện chủ trương trên là phải tạo
môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thuận lợi, huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn nội lực và ngoại lực.
- Thực tiễn tiến hành công cuộc Đổi mới thời gian qua cho thấy, hệ thống Pháp
luật về đầu tư tại Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, theo hướng bình đẳng,
không phân biệt, tạo lập “cùng một sân chơi chung” cho các thành phần kinh tế. Tuy

nhiên, do các luật liên quan đến đầu tư trong nước và nước ngoài được ban hành ở
các thời điểm khác nhau, có phạm vi đối tượng khác nhau nên các chính sách đầu tư
chưa có sự nhất quán, chưa thực sự tạo được “một sân chơi” bình đẳng; tình trạng
phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư vẫn còn tồn tại, đã hạn chế việc phát huy các
nguồn lực. Những bất cập của hệ thống pháp luật tách biệt theo thành phần kinh tế
ngày càng bộc lộ rõ trước sự phát triển năng động đa dạng của Doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Do đó, cần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi
trường pháp lý nhằm củng cố niềm tin của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần
kinh tế.
- Nước ta đã ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương liên quan đến
hoạt động đầu tư như những cam kết trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định khung về
khu vực đầu tư ASEAN, Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, Hiệp định
tự do, Khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản và đang tích cực đàm phán gia
nhập WTO. Việc ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế trên một mặt đòi hỏi Việt
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 10
Nam phải mở cửa thị trường, xóa bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan hoặc các
trợ cấp không phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác vẫn phải duy trì một số chính
sách bảo hộ sản xuất trong nước có điều kiện, có thời gian, mở cửa thị trường theo
lộ trình xác định.
- Cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới và khu vực đang
diễn ra ngày càng gay gắt và các nước trong khu vực đang cải cách mạnh mẽ môi
trường đầu tư theo hướng tự do hóa đầu tư, thương mại, làm cho hệ thống luật pháp
về đầu tư nước ngoài của ta được coi là hấp dẫn, nay đang giảm dần tính cạnh tranh
so với các nước trong khu vực. Do đó, cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích có
tính cạnh tranh cao hơn, hoặc ít ra cũng tương đương so với các nước trong khu
vực.
3. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI

a. Tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thế giới, nhiều quốc gia đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế của mình.
Những quốc gia này đã có sự đầu tư rất lớn vào sản xuất và khai thác các dạng tài
nguyên thiên nhiên. Khi trình độ phát triển kinh tế đạt đến mức cao, nhu cầu về vốn
ở trạng thái bão hoà, dư thừa, cơ hội đầu tư ít, chi phí cao thì khi đó các quốc gia có
nhu cầu đầu tư vào các quốc gia khác trên thế giới nhằm tận dụng những lợi thế về
lao động, tài nguyên thiên nhiên, thị trường của những nước đó.
Mặt khác, các quốc gia có những lợi thế đó thì nhu cầu về vốn cho phát triển
kinh tế rất bức xúc. Vì vậy, họ đã có nhiều chính sách để thu hút những nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào. Có nhu cầu vốn, có nguồn cung cấp từ đó làm xuất hiện
những dòng vốn qua lại giữa các quốc gia. Các dòng vốn di chuyển tuân theo đúng
quy luật từ nơi nhiều đến nơi ít một cách khách quan, do vậy hoạt động đầu tư ra
nước ngoài mang tính tất yếu khách quan.
Ngày nay, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra một cách sôi nổi và rộng khắp
trên toàn cầu. Các nguồn vốn đầu tư không chỉ di chuyển từ các nước phát triển, nơi
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 11
nhiều vốn sang các nước đang phát triển, nơi ít vốn, mà còn có sự giao lưu giữa các
quốc gia phát triển với nhau. Hiện tượng này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất: quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra nhanh chóng với
quy mô và tốc độ ngày càng lớn tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu trong
đó tính phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế mỗi quốc gia ngày càng tăng. Quá
trình này diễn ra nhanh chóng sau thời kỳ chiến tranh đã chi phối thế giới trong nửa
thế kỷ, làm cho các nền kinh tế của từng quốc gia đều theo xu hướng mở cửa và
theo quỹ đạo của nền kinh tế thị trường, bằng chứng là phần lớn các quốc gia đã gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), chấp nhận xu hướng tự do hoá thương
mại và đầu tư. Trong điều kiện trình độ phát triển sản xuất, khả năng về vốn và công
nghệ, nguồn tài nguyên thiên nhiên, mức độ chi phí sản xuất ... ở các nước khác

nhau thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ tuân theo những quy luật của thị trường
vốn là đi từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn với mục tiêu lợi nhuận. Mặt khác, cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ đã tạo nên sự biến đổi nhanh chóng và kì diệu của sản
xuất. Thời gian từ khâu nghiên cứu đến ứng dụng vào sản xuất rất ngắn, chu kỳ
sống của sản phẩm ngày càng ngắn lại, sản phẩm hàng hoá phong phú và đa dạng
hơn. Đối với doanh nghiệp, nghiên cứu và đổi mới thiết bị có ý nghĩa sống còn cho
sự hạn chế và phát triển. Còn đối với các quốc gia thì việc làm chủ và đi đầu trong
khoa học - công nghệ sẽ quyết định vị trí lãnh đạo chi phối hay phụ thuộc vào các
nước khác trong tương lai. Chính vì vậy, cuộc đua giữa các quốc gia đặc biệt là các
nước phát triển bên thềm thế kỷ XXI diễn ra ngày càng quyết liệt. Bên cạnh đó, sự
phát triển một cách nhanh chóng của cách mạng thông tin, bưu chính viễn thông,
phương tiện giao thông vận tải đã khắc phục sự xa cách về không gian, giúp các chủ
đầu tư thu thập xử lý thông tin kịp thời, đưa ra những quyết định đầu tư, điều hành
sản xuất kinh doanh đúng đắn mặc dù ở xa hàng vạn km. Những điều này đã tạo nên
một sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia, mở rộng quy mô để chuyển vốn giữa các
quốc gia, mở rộng quy mô để chuyển vốn trên toàn cầu đến các địa chỉ đầu tư hấp
dẫn.
Tại các nước công nghiệp phát triển, khi trình độ kinh tế phát triển ở mức cao
đã góp phần nâng cao mức sống và khả năng tích luỹ vốn của các nước này. Điều
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 12
đó, một mặt dẫn đến hiện tượng “thừa” tương đối vốn ở trong nước, mặt khác làm
cho chi phí tiền lương cao, nguồn tài nguyên thu hẹp và chi phí khai thác tăng đẫn
đến giá thành sản phẩm tăng, tỷ suất lợi nhuận giảm dần, sức cạnh tranh trên thị
trường yếu. Chính vì thế, các nhà đầu tư trong nước tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước
ngoài để giảm chi phí sản xuất, tìm kiếm thị trường mới, nguồn nguyên liệu mới
nhằm thu lợi nhuận cao.
Hiện nay, trình độ phát triển kinh tế giữa các nước công nghiệp phát triển và
các nước đang phát triển ngày càng giãn cách nhưng sự phát triển của một nền kinh

tế toàn cầu đang đòi hỏi phải kết hợp chúng lại. Các nước phát triển không chỉ tìm
thấy ở các nước đang phát triển những cơ hội đầu tư hấp dẫn do chi sản xuất giảm,
lợi nhuận cao, thuận lợi trong việc dịch chuyển thiết bị, công nghệ lạc hậu mà còn
thấy rằng sự thịnh vượng của các nước này sẽ nâng cao sức mua và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Ngược lại, các nước đang phát triển cũng đang trông chờ
và mong muốn thu hút được vốn đầu tư, công nghệ của các nước phát triển để thực
hiện công nghiệp hoá, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa.
b. Tính tất yếu khách quan phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam
Ngày nay xu hướng quốc tế hoá toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ
trên thế giới. Các nền kinh tế tác động, bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau. Các quốc gia
bị cuốn vào vòng xoáy của quá trình hội nhập kinh tế, chuyên môn hoá, hợp tác hoá
nhằm tận dụng vốn, công nghệ và trình độ quản lý của nhau.
Xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Hơn 70% dân số
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp: năng suất lao động thấp, trình độ kỹ thuật
thấp, tích luỹ nội bộ thấp, sử dụng viện trợ nước ngoài không có hiệu quả. Ngoài ra,
nước ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nên những tàn dư mà ta chưa
khắc phục được còn nhiều: cơ sở hạ tầng thấp kém, đời sống nhân dân còn khó
khăn, chính sách chưa đồng bộ .... Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách của chúng ta hiện nay
là phải phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân, xây dựng cơ sở hạ tầng.
Để thực hiện điều đó thì chúng ta cần một lượng vốn rất lớn. Trong điều kiện khả
năng đáp ứng của nền kinh tế là có hạn thì chúng ta không còn con đuờng nào khác
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 13
là thu hút sự hợp tác đầu tư của nước ngoài. Để thực hiện điều đó, tại đại hội VI
(12/1986), Đảng và Nhà nước đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh hoạt
động kinh tế đối ngoại nhằm tận dụng “những khả năng to lớn của nền kinh tế thế
giới về di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm
để bổ sung và phát triển có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực trong nước”. Đảng chủ

trương “Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại” với quan điểm
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Tại đại hội VIII, Đảng
chủ trương “Vốn trong nước là chính, vốn nước ngoài cũng quan trọng”. Tất cả
những tư tưởng đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng.
Như vậy, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là một xu thế tất
yếu phù hợp với xu thế của thế giới và yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
4. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động không nhỏ đối với các
nước nhận đầu tư, đặc biệt các nước phát triển trên cả hai mặt: tích cực và tiêu cực
a Tác động tích cực
Thứ nhất: nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung một nguồn quan
trọng bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ở các nước đang phát
triển.
Thứ hai : đầu tư trực tiếp đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Để tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân
công lao động quốc tế , thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi mỗi
quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế của mình cho phù hợp. Mặt khác, sự gia tăng
của hoạt động đầu tư nước ngoài làm xuất hiện nhiều ngành mới, lĩnh vực mới góp
phần thúc đẩy sự phát tiển nhanh chóng trình độ kĩ thuật - công nghệ của nhiều
ngành kinh tế thúc đẩy sự gia tăng năng suất lao động ở các ngành này và tăng tỷ
phần của nó trong nên kinh tế. Nhiều ngành được kích thích phát triển còn nhiều
ngành bị mai một và đi đến xoá sổ.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 14
Thứ ba: hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần phát triển nguồn
nhân lực, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài thường đòi hỏi nguồn lao động có chất lượng cao do đó sự gia tăng

các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt ở các nước sở tại trước yêu cầu khách quan là
phải nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ ... cho
người lao động.
Thứ tư: hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần tăng tỷ trọng
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước .
Thứ năm: đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở các
quốc gia này. Tận dụng, tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang
phát triển đã sử dụng để thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế
nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trởng kinh tế, thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo
đói.
b. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những ưu điểm trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bộc
lộ nhiều mặt hạn chế.
Một là: đầu tư nước ngoài đã tạo ra một cơ cấu bất hợp lí. Mục đích của các
nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm lợi nhuận ngày càng nhiều do đó họ chủ yếu đầu
tư vào các ngành công nghiệp, dịch vụ nơi có mức tỷ suất lợi nhuận cao.
Hai là :hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại hiện tượng “chảy máu
chất xám”. Các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi về thu nhập, việc
làm do đó đã lôi kéo một bộ phận không nhỏ cán bộ khoa học, nhà nghiên cứu, công
nhân lành nghề của nước ta về làm việc cho họ.
Ba là: chuyển giao công nghệ lạc hậu. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật, quá trình nghiên cứu - ứng dụng ngày càng được rút ngắn, máy
móc thiết bị nhanh chóng trở nên lạc hậu. Để loại bỏ chúng, nhiều nhà đầu tư đã cho
chuyển giao sang các nước nhận đầu tư như một phần vốn góp. Việc làm đó đã làm
cho trình độ công nghệ của các nước nhận đầu tư ngày càng lạc hậu.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 15
Bốn là : chi phí để tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn. Các nước
nhận đầu tư đã phải áp dụng nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: giảm

thuế, miễn thuế, giảm tiền thuê đất, nhà xưởng . . .
Năm là : hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh với các
doanh nghiệp trong nước. Với ưu thế về vốn, công nghệ, các dự án đầu tư nước
ngoài đã đặt các doanh nghiệp trong nước vào vòng xoáy cạnh tranh khốc liệt về thị
trường, lao động và các nguồn lực khác.
Sáu là : các tác động tiêu cực khác. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn
có thể gây ra những bất ổn về chính trị, mang theo nhiều tệ nạn xã hội mới xâm
nhập vào nước ta.
5. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế có vai trò rất lớn đối với các nước
trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển và chưa phát triển. Tuy thế, việc
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ
quan và khách quan.
5.1 Luật đầu tư.
Nhân tố này sẽ kìm hãm hoặc thúc đẩy sự gia tăng của hoạt dộng đầu tư trực
tiếp nước ngoài thông qua cơ chế, chính sách, thủ tục, ưu đãi, được quy định trong
luật.
5.2. Ổn định chính trị.
Đây là nhân tố không thể xem nhẹ bởi vì rủi ro chính trị có thể gây thiệt hại lớn
cho các nhà đầu tư nước ngoài.
5.3. Cơ sở hạ tầng
Việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng như giao thông, vận tải, thông tin
liên lạc, điện nước ... sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
5.4. Đặc điểm thị trường của nước nhận vốn
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 16
Đây có thể nói là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước

ngoài. Nó được thể hiện ở quy mô, dung lượng của thị trường, sức mua của các
tầng lớp dân cư trong nước, khả năng mở rộng quy mô đầu tư ..., đặc biệt là sự hoạt
động của thị trường nhân lực. Mặt khác, với giá nhân công rẻ sẽ là mối quan tâm
hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là với những dự án đầu tư vào lĩnh
vực sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học
vấn, khả năng quản lý... cũng có ý nghĩa nhất định. Bởi vậy, lợi thế về thị trường sẽ
có sức hút rất lớn đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
5.5. Khả năng hồi hương của vốn
Mặt khác, khả năng hồi của vốn cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tơi khả năng
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nếu vốn và lợi nhuận đợc tự do qua lại biên giới.
5.6. Chính sách tiền tệ
Mức độ ổn định của chính sách tiền tệ và mức độ rủi ro của tiền tệ ở nước nhận
vốn đầu tư là một nhân tố góp phần mở rộng hoạt động xuất khẩu của các nhà đầu
tư. Tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu. Mức
độ lạm phát của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất, lợi nhuận
thu được của các dự án có tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm cao.
5.7. Các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chính sách này mà ổn định sẽ góp phần thuận lợi cho hoạt động của các
nhà đầu tư nước ngoài. Không có những biện pháp tích cực chống lạm phát có thể
làm các nhà đầu tư nản lòng khi đầu tư vào các nước này. Một chính sách thương
mại hợp lý với mức thuế quan, hạn ngạch và các hàng rào thương mại sẽ kích thích
hoặc hạn chế đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố khác nhau: hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế, bảo vệ quyền sở hữu Vì
vậy, để hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra một cách thuận lợi
thì chúng ta cần xem xét, đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố trên trong mối
quan hệ biện chứng nhằm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 17

PHẦN II : TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1. THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2000 ĐẾN ĐẦU NĂM 2010
Cơ cấu kinh tế nuớc ta đang từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, đời sống cùa người dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất
và tinh thần, xã hội đang từng ngày thay đổi. Tất cả những thành tựu trên cho thấy
nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và đang từng bước tiến
vào thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Một trong những
nguyên nhân của thành tựu đó là chủ trương mới của. Đảng về hoạt động kinh tế đối
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 18
ngoại, trong đó có hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Trong những năm gần đây, kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
(12/1987) đến hết năm 2005, nước ta đã cấp giấy phép cho 780 dự án đầu tư nước
ngoài với tổng vốn đăng ký 96880 tr.USD.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Năm 1988, là năm đầu
tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chúng ta đã cấp giấi phép đầu tư cho 37 dự
án với tổng vốn đăng ký là 336 tr. USD.
Kết quả đó tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta. Nó đánh
dấu sự thành công ban đầu của công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, thực hiện
đường lối mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Sau ba năm tiến hành thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta đã cấp giấy
phép cho 218 dự án với tổng vốn đăng ký 1417 tr. USD. Tốc độ tăng trưởng hàng
năm đạt 255/năm.
Quy mô mỗi dự án đạt khoảng 7tr.USD/dự án. lĩnh vực đầu tư chủ yếu trong
thời kì này là thăm dò dầu khí 32,2%, khách sạn 20,6% và bưu chính viễn thông,
còn các lĩnh vực khác thì rất ít như chưa được triển khai.
Tổng số vốn thực hiện của cả thời kì đạt 40tr.USD bằng 27% tổng vốn đăng

ký. Nguyên nhân của việc gia tăng vốn đầu tư chậm do đây là một lĩnh vực còn rất
mới đối với nước ta, chúng ta "vừa học, vừa làm", kinh nghiệm chưa có nhiều. Mặt
khác, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nước ta là một thị trường mới mẻ vừa xa
lạ, vừa hấp dẫn do đó họ thận trọng không dám mạo hiểm, vừa làm vừa thăm dò.
Tuy thế những kết quả đạt được trên đây đã chứng minh triển vọng lạc quan
của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam trong thời gian tới. Do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Phần lớn vốn đầu tự trực tiếp nước
ngoài là thu hút từ các nhà đầu tư trong khu vực nên khi xảy ra khủng hoảng, các
nhà đầu tư trong khu vực gặp khó khăn về tài chính do đó họ giảm việc đầu tư ra
nước ngoài dẫn đến lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm. Do sức hấp
dẫn của môi trường đầu tư nước ta ngày càng giảm vì sự thay đổi của một số chủ
trương, chính sách cũng như một sự biến động của tỉ giá hối đoái, giá cả, sức mua
của thị trường trong nước.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 19
Mắc dù có sự giảm mạnh về số lượng đăng kí nhưng mức vốn vẫn không
ngừng tăng lên khoảng 50%/năm và đang có sự chuyển biến lớn trong xu hướng
đầu tư: từ đầu tư theo chiều rộng chuyển sang đầu tư theo chiều sâu.
2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM
Những năm qua, hoạt động đầu tư nước ngoài đã có nhiều đóng góp cho sự
phát triển của kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung một phần quan trọng vào
nguồn vốn cho phát triển kinh tế của đất nước ta, khắc phục tình trạng thiếu vốn của
đất nước ta thời kì đổi mới. Vào thập kỉ 70 và đầu thập kỉ 80 nền kinh tế nước ta
đang vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tỉ lệ tiết kiệm thấp, thậm chí còn
âm. Tuy nhiên, từ sau đổi mới tỉ lệ tiết kiệm nước ta đã tăng lên đáng kể nhưng chưa
đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế trong nước. Hơn nữa, nước ta
hàng năm phải trả nhiều nợ cho nước ngoài trong khi ngân sách nhà nước luôn trong

tình trạng thâm hụt. Chính vì vậy, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành
một nguồn quan trọng cung cấp vốn cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài đã đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế: từ mức đóng góp trung bình 12,4% của GDP trong giai đoạn
2000 – 2005, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng lên 13,3% GDP. Trong
thời kỳ 2005 – 2009, tỷ trọng trên đạt trung bình là 19,6% GDP.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư
đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển toàn xã hội và tăng trưởng kinh tế đất nước
Thứ ba, đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng
lực sản xuất công nghiệp
Thứ tư, đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến
vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn
thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô,
xe máy… Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực đầu tư nước ngoài cao hơn
hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu
vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng phương thức
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 20
quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của
công ty mẹ.
Thứ năm, tác động lan toả của đầu tư nước ngoài đến các thành phần kinh tế
khác trong nền kinh tế:
Thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các
doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đến các thành phần khác của nền kinh tế. Sự
lan toả này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo
hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành.
Thứ sáu, đầu tư nước ngoài đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước và các
cân đối vĩ mô, đồng thời góp phần quan trọng trong tạo ra việc làm cho người lao

động:
Thứ bảy, đầu tư nước ngoài góp phần giúp Việt Nam tiếp cận và mở rộng thị
trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu:
Thứ tám, đầu tư nước ngoài góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội
nhập kinh tế với khu vực và thế giới của Việt Nam:
Đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng và tạo điều kiện mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá, thúc đẩy Việt Nam chủ
động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy mạnh tiến trình tự do hoá thương
mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC,
ASEM và WTO. Đồng thời, đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư,
trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá,
khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của
các nhà đầu tư nước ngoài , hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải
thiện.
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế cần giải quyết. Vốn đầu tư
nước ngoài tăng nhanh, đặc biệt là trong các năm trong năm 2006 và 2007, vốn
thực hiện tăng qua các năm nhưng chậm nên khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn
thực hiện ngày càng giãn ra; đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 21
nghiệp còn thấp; đầu tư từ các nước phát triển có thể mạnh về công nghệ như Hoa
Kỳ, một số quốc gia thuộc EU… tăng chậm; việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng
của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
còn hạn chế; đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao tuy ngày càng gia tăng nhưng vẫn
chậm… Điều này đòi hỏi nước ta cần phải có các giải pháp tổng thể để khắc phục
dần những hạn chế nêu trên trong thời gian tới.
3. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI.
Bên cạnh những vai trò to lớn trên, hoạt động đầu tư nước ngoài còn bộc lộ

nhiều hạn chế không nhỏ.
3.1 Chính sách pháp luật chưa hoàn thiện
Nhiều đối tác nước ngoài đã lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư hay sự sơ hở
trong chính sách và pháp luật của Việt Nam để buôn lậu và trốn thuế, gây thiệt hại
không nhỏ cho nước ta. Điển hình như vụ buôn lậu 1,2 tr gói "caraven"của công ty
trách nhiệm hữu hạn hàng hải Lizera năm1999 hoặc vụ nhà máy thuốc lá Lotabava
nhà máy thuốc lá khánh hoà hợp tác sản xuất Malbro giả để xuất khẩu sang Hà Lan
năm 1995.
3.2 Nguồn thu hút vốn hẹp
Nguồn thu hút vốn chủ yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là từ các
nước trong khu vực. đây là một trong những nguyên nhân lí giải cho sự giảm sút
của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một vài năm trở lại đây.
3.3 Cơ cấu đầu tư chưa hợp lí
Xét về mặt địa lí, qua thực tế mười năm cho thấy vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam chủ yếu tập trung ở những vùng có điều kiện thuận lợi như: Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh ... trong đó chủ yếu là Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Năm 2005, số vốn vào hai địa phương này chiếm 51,28% tổng số
vốn đăng kí của cả nước.
Xét về mặt cơ cấu, phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào các
lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 22
3.4 Về hình thức đầu tư
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào các hình thức: doanh
nghiệp liên doanh (65%), doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (18%), hợp đồng hợp
tác kinh doanh (7%). Về loại hình BOT, nước ta mới chỉ có một vài dự án. Đa số
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều tập trung trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất vì nơi đây đảm bảo các điều kiện về cơ sở hạ tầng, tránh được
nhiều thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp.

Hiện nay, đang có xu hướng chuyển từ loại hình doanh nghiệp liên doanh sang
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Giải thích cho hiện tượng trên, chúng ta thấy
nổi lên một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Sau một thời gian hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đã quen với cách làm
việc, quen với thủ tục hành chính cũng như thị trường và tập quán sống của dân cư
bản địa.
- Các nhà đầu tư nước ngoài muốn được độc lập tự chủ tự mình quản lí doanh
nghiệp.
- Bên Việt Nam thiếu vốn, yếu về trình độ quản lí và đôi khi còn tỏ ra không
hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài.
3.5 Về chuyển giao công nghệ
Nhiều công nghệ lạc hậu, thiếu đồng bộ, củ kĩ, sản xuất từ những năm 1950
vẩn trở thành vốn góp của bên nước ngoài và còn được định giá cao từ 15% - 20%
so với giá thị trường và chuyển giao vào nước ta. Điều đó đã gây cho nước thiệt hại
khoảng 50 tr.USD. ngoài thiệt hại về vật chất có thể tính toán được, việc chuyển
giao đó có nguy cơ biến nước thành "bãi rác công nghệ", gây ô nhiểm môi trường,
ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động và dân cư, gia tăng hơn nguy cơ lạc
hậu về công nghệ của nước ta.
3.6 Hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều
Một số dự án mặc dù đã đi vào hoạt động được 2 đến 3 năm nhưng vẫn bị thua
lỗ. Nguyên nhân có nhiều song chủ yếu là chi phí vật chất và khấu hao tài sản cố
định, chi phí quảng cáo và tiếp thị quá lớn .... Tuy nhiên, cũng không loại trừ trường
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 23
hợp các nhà đầu tư nước ngoài cố ý tạo ra tình trạng kinh doanh thua lỗ để trốn thuế
thông qua hiện tượng chuyển giá.
3.7 Những hạn chế
Đầu tư nước ngoài đã và đang tạo ra sự cạnh tranh gay gắt với các doanh
nghiệp nội địa về lao động, kỉ thuật, thị trường. Bên cạnh các tác động tích cực như:

khuyến khích các doanh nghiệp nội địa đổi mới công nghệ nhằm tăng năng suất, hạ
giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, nâng cáo tính năng động, linh hoạt trong
việc năm bắt nhu cầu thị trường ... thì sự cạnh tranh đó cũng làm xuất hiện nhiều
yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp trong nước, rõ
nhất là sản xuất bia, bột giặt, dệt, da, lắp ráp điện tử ... (ví dụ: công ngiệp điện tử
liên doanh tăng 35% thì khu vực trong nước giảm đi 5%).
Mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận cao do đó
họ luôn tìm cách khai thác lợi thế so sánh của nước ta là giá thuê lao động rẻ. Ở một
số xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư đã tìm cách tăng cường độ
lao động, cắt xén tiền công, điều kiện bảo hiểm, thậm chí xúc phạm nhân phẩm của
người lao động, phản ứng tiêu cực với cán bộ công đoàn ... nên đã dẫn đến nhiều
tranh chấp về lao động xảy ra trong xí nghiệp đó.
Trong thời gian tới, để hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu quả
hơn thì chúng ta cần có biện pháp khắc phục những hạn chế trên. Đây là cách để tạo
ra một môi trường đầu tư lành mạnh nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư
nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước trong
thời gian tới.
4. TRIỂN VỌNG CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT
NAM
Nền kinh tế thế giới được kỳ vọng sẽ thoát khỏi khủng hoảng, tăng trưởng của
một số nền kinh tế lớn của thế giới sẽ tốt hơn trong năm 2010. Điều tra triển vọng
đầu tư thế giới (WIPS) 2009 – 2011 của (Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và
Phát triển) UNCTAD cho thấy Việt Nam vẫn đang được các (các tập đoàn xuyên
quốc gia) TNCs đánh giá như một trong 15 nền kinh tế là điểm đến hấp dẫn cho đầu
tư.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 24
Kết quả điều tra cảm nhận môi trường kinh doanh năm 2009 cũng cho thấy
cộng đồng doanh nghiệp có cái nhìn lạc quan về môi trường kinh doanh năm 2010

và các năm tiếp theo với niềm tin nền kinh tế sẽ sớm phục hồi.
Tình hình chính trị ổn định, vị thế quốc tế của Việt Nam đang được nâng cao
cùng với các hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực trong năm 2009 của lãnh đạo cấp
cao của Đảng và Nhà nước ta sẽ tiếp tục củng cố lòng tin và làm gia tăng mối quan
tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta trong năm 2010 và thời gian tới.
Môi trường pháp lý và thể chế kinh tế thị trường của nước ta tiếp tục được
hoàn thiện hơn và phù hợp với khu vực và thế giới. Các văn bản pháp lý cơ bản
hướng dẫn thực thi Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp đang được tiến hành rà soát
và sẽ được sửa đổi như Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP về đăng ký
kinh doanh. Bên cạnh đó các bộ, ngành và địa phương cũng đang tích cực triển khai
các giải pháp để tiếp tục thu hút và nâng cao hiệu quả của đầu tư nước ngoài theo
Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 7-4-2009 của Chính phủ. Những sửa đổi này sẽ tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cũng
như tiếp tục góp phần đáng kể cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam để thu hút
đầu tư nước ngoài .
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và những năm tiếp
theo, Đảng và Chính phủ đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế trong những năm tới
của Việt Nam là 9% - 10%/năm và phấn đấu đến năm 2020 đưa mức GDP bình
quân đầu người tăng lên 8 - 10 lần so với hiện nay, tương đương 2000 - 3000
USD/người/năm. Để thực hiện mục tiêu đó, yêu cầu về vốn là một trong những
thách thức lớn nhất và khó giải quyết nhất đối với nền kinh tế nước ta hiện nay.
trong giai đoạn 2001 - 2012 chúng ta cần 250 - 300 tỷ USD. So với năng lực tiết
kiệm nội địa hiện tại của Việt Nam thì con số này rất lớn. Mặt khác, nguồn vốn
ODA (Hỗ trợ phát triển chính thức ) không tăng thêm thậm chí còn giảm. vì vậy,
chúng ta cần phải tính đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hơn nữa, hiện nay xu hướng đầu tư nước ngoài đang từng bước chuyển biến về
khu vực châu Á. Nước ta lại nằm ở vị trí thuận lợi của châu Á, là đầu mối của các
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.

Trang 25
tuyến giao thông. Môi trường đầu tư của nước ta đang dần cải thiện nhằm nâng cao
tinh hấp dẫn, mà trước mắt là việc sửa đổi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Chúng ta đã gia nhập nhiều tổ chức trên thế giới như APEC, ASEAN và tiến tới là
WTO .... Tất cả những điều trên đây cho thấy triển vọng hoạt động đầu tư nước
ngoài tại Việt nam sẽ gia tăng nhanh trong thời gian tới.
Trong số các nước đang phát triển, thì các nước Đông, Nam và Đông Nam Á
vẫn nhận được nhiều FDI nhất và triển vọng FDI vào khu vực này vẫn sẽ tiếp tục
tăng trong giai đoạn 2009 – 2012 nhờ thị trường được mở rộng, lao động rẻ. Tuy
nhiên, xu hướng chung của thế giới hiện nay là thu hẹp đầu tư về chính quốc, do đó
việc tìm kiếm những nhà đầu tư nước ngoài mới đối bất cứ một quốc gia nào trên
thế giới đều khó khăn, điều này đòi hỏi sự nỗ lực của các quốc gia trong việc đề ra
những chính sách kinh tế như việc thực hiện xúc tiến đầu tư, theo dõi tình hình kinh
tế thế giới để xác định nơi luồng vốn đầu tư nước ngoài đang đổ về, lựa chọn những
lĩnh vực đầu tư vừa mang lại hiệu quả kinh tế cho các nhà đầu tư nước ngoài, vừa
phù hợp với phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Năm 2010, số dự án đầu tư theo
hướng lâu dài, bền vững sẽ gia tăng và các lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất
của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ là ngành lọc hoá dầu, khai khoáng và bất động
sản. Những nhân tố tích cực đóng góp vào xu hướng tăng trưởng FDI bao gồm môi
trường kinh doanh quốc tế ngày càng tốt hơn, những thay đổi công nghệ và kỹ năng
cạnh tranh của các công ty tốt hơn. Cuộc cạnh tranh toàn cầu thúc đẩy các công ty
tìm kiếm địa điểm đầu tư có chi phí thấp. Xét về mọi mặt thì cả chính phủ nước đầu
tư và chính phủ nước sở tại đều muốn tiếp tục khuyến khích đầu tư nước ngoài và
tin tưởng rằng xu hướng đầu tư nước ngoài sẽ tăng.

×