Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Hàn Quốc ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 105 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ







NGUYỄN VIẾT LỘC






VĂN HÓA KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ HÀN QUỐC Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH

















HÀ NỘI - 2008


1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, cạnh tranh quốc tế ngày càng
trở nên gay gắt, đòi hỏi các DN phải biết khai thác các thế mạnh riêng có,
trong đó khai thác các nhân tố văn hóa là một điển hình. Nền kinh tế toàn cầu
làm cho môi trường kinh doanh biến đổi nhanh hơn, tác động làm nâng các
chuẩn mực văn hóa lên cao khiến các DN phải xây dựng được VHKD có tính
thích nghi tốt.
Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế,
đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng. Tính đến nay đã có 78 quốc gia và
vùng lãnh thổ đầu tư vốn làm ăn tại Việt Nam. Dẫn đầu các quốc gia là Hàn
Quốc với hơn 12,7 tỷ USD (chiếm 15% trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam là 78 tỷ USD). Hàn Quốc cũng là nước có số dự án đầu
tư vào Việt Nam lớn nhất, với trên 8.400 dự án [30].


Với tỷ trọng vốn đầu tư lớn, các DN Hàn Quốc đóng vai trò hết sức
quan trọng và có tác động ảnh hưởng không chỉ đến phát triển kinh tế mà
còn đối với cả văn hóa, xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh các tác
động tích cực, một thực tế đang đặt ra hiện nay là xung đột xẩy ra nhiều
trong các DN có vốn đầu tư Hàn Quốc tại Việt Nam: hiện tượng sa thải nhân
viên tùy tiện, đối xử không công bằng với người làm công, hành vi bạo lực
với nhân công, lừa đảo, làm hàng giả ngày càng gia tăng dẫn đến khiếu
kiện, biểu tình [12, tr.3].
Hiện trạng trên đã đặt ra các câu hỏi: Có phải các ông chủ Hàn Quốc
không đối xử có văn hóa với lao động người Việt Nam hay không ? Hay là do
sự khác biệt về VHKD của Hàn Quốc và Việt Nam ? Hoặc là cả hai lý do
này ? Các câu hỏi này đang trở thành vấn đề lớn, gây trở ngại không chỉ đối

2
với việc phát triển kinh doanh của các DN Hàn Quốc ở Việt Nam mà còn tạo
ra những hình ảnh xấu, ảnh hưởng đến mối quan hệ bang giao giữa hai nước.
Nhằm tìm lời giải cho các câu hỏi đã nêu, luận văn sẽ phân tích, tìm hiểu
thực tiễn các khía cạnh của VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
A. Trong nƣớc
Vấn đề VHKD nói chung và VHKD của các DN có vốn đầu tư nước
ngoài ngoài nói riêng đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam quan tâm. Có
khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Các nghiên cứu đã đề cập đến
các vấn đề chính: Cơ sở lý luận về văn hóa và VHKD; Nghiên cứu, phân tích
thực trạng VHKD của các DN ở một số vùng miền hoặc cũng có một số
nghiên cứu về VHKD của tập đoàn, công ty nước ngoài hay VHKD đặc trưng
của một quốc gia cụ thể; Phân tích ảnh hưởng của cơ chế, chính sách, môi
trường văn hóa xã hội đối với VHKD; Một số nghiên cứu nêu ra một số giải
pháp, gợi ý chính sách để xây dựng và phát triển VHKD ở Việt Nam.

Về cơ sở lý luận của VHKD, các tác giả (Phạm Xuân Nam - 1996; Đỗ
Minh Cương - 2001; Nguyễn Hoàng Anh - 2002; Dương Thị Liễu và các
đồng sự - 2004) đã nghiên cứu khá sâu sắc về mối quan hệ giữa văn hóa và
kinh tế, kinh doanh; tổng quan khá đầy đủ các quan niệm về triết lý kinh
doanh, đạo đức kinh doanh, về văn hóa doanh nhân , các yếu tố cấu thành và
các nhân tố ảnh hưởng tới chúng. Tuy nhiên, các tác giả cũng có các quan điểm
khác nhau về một số vấn đề, chẳng hạn như về các yếu tố cấu thành VHKD, văn
hoá DN. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng bất đồng này là chưa có sự thống
nhất về khái niệm, đặc trưng của VHKD.
Về nghiên cứu VHKD của DN có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và của
DN Hàn Quốc ở Việt Nam nói riêng, đã có một số công trình nghiên cứu về
VHKD của một tập đoàn, doanh nghiệp cụ thể và chủ yếu là nghiên cứu ảnh

3
hưởng của nhân tố văn hóa đến hoạt động kinh doanh của DN, hay văn hoá ứng
xử đặc trưng của các quốc gia (Mai Thanh Lan - 2007; Nguyễn Văn Dân - 2006;
Phạm Mai Hương - 2005). Một số nghiên cứu khác như: Về sự khác biệt tính
cách giữa văn hóa Hàn Quốc so với văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm -
2007); Văn hóa giao tiếp của người Hàn Quốc, so sánh với Việt Nam (của Phan
Thu Hiền - 2007).
Có một số tác giả tập trung phân tích ảnh hưởng của cơ chế, chính sách,
môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội đối với các DN Việt Nam nói chung cũng
như DN nước ngoài nói riêng, hay phân tích ảnh hưởng của các yếu tố môi
trường ở góc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài (Phùng Xuân Nhạ - 2006; Đỗ
Huy - 1996; Nguyễn Anh Dũng - 2000; Vũ Quốc Tuấn - 2001; Nguyễn
Quang Vinh - 2002; Lê Quý Đức - 2005). Các nghiên cứu này đã giới thiệu
và đề xuất được một số giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, phát huy
vai trò các nhân tố của VHKD, nhưng chủ yếu mới dừng ở dạng các kiến nghị
riêng lẻ mà chưa được xây dựng thành một hệ thống cơ chế, chính sách, giải
pháp cụ thể.

B- Ngoài nƣớc
Vấn đề VHKD đã được các nhà nghiên cứu nước ngoài quan tâm từ
những năm 70 của thế kỷ XX. Trong các giáo trình giảng dạy về kinh doanh
của Mỹ và các nước phương Tây đã đề cập nhiều đến văn hóa như là một
nhân tố không thể thiếu của hoạt động kinh doanh.
Một số công trình nổi tiếng về VHKD (G.Hofstede - 1994; John Kotter -
1992); về Đạo đức kinh doanh (Farrell, O.C, Fraedrich, J. & Farrell, L. -
2002) như là những nền tảng lý luận vững chắc để nghiên cứu sâu về VHKD.
Đã có những công trình nghiên cứu về vai trò của các nhân tố văn hoá (như lễ
hội, tập quán, truyền thống, hệ thống các giá trị của công ty, tinh thần doanh
nghiệp, các chuẩn mực đạo đức, triết lý công ty, văn hoá công ty, văn hóa của

4
người lãnh đạo doanh nghiệp ) trong hoạt động kinh doanh (P.Drucke -1989;
T.Peter & R. Waterman - 1996). Một số tác giả Trung quốc đã có nghiên cứu
bước đầu về tinh thần doanh nghiệp, trong đó nhấn mạnh vai trò của các nhân
tố văn hoá (Quách Thái - 1995; Lưu Vĩnh Thuỵ - 2000), hay nghiên cứu về
kinh doanh trong môi trường văn hóa đa dạng, VHKD trong bối cảnh toàn cầu
hóa (Thomas L. Friedmen - 2007; Fons Trompenaars & Charles Hampden -
Turner - 2006); Lịch sử và văn hóa Hàn Quốc, so sánh với Việt Nam (của Lee
Chul Hee - 2007).
Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về
VHKD của các DN có vốn đầu tư nước ngoài đang làm ăn ở Việt Nam nói
chung và VHKD của các DN Hàn Quốc nói riêng. Có chăng mới chí là các
nghiên cứu nhỏ lẻ về một số khía cạnh, đặc điểm mang tính văn hóa về phong
cách quản lý, điều hành, về văn hóa ứng xử của các ông chủ Hàn Quốc. Đặc
biệt chưa có nghiên cứu nào phân tích về thực trạng VHKD của các DN Hàn
Quốc ở Việt Nam và đưa ra các lý giải cho thực tiễn xung đột thường xẩy ra
trong các DN Hàn Quốc hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở khái quát các vấn đề lý luận và thực tiễn về VHKD, đề tài
góp phần làm sáng tỏ thực trạng VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam
nhằm tìm câu trả lời thuyết phục cho các câu hỏi nêu ở phần trên.
Để thực hiện mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ sau:
- Hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn VHKD trong các DN Hàn
Quốc ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam.
- Đưa ra một số gợi ý giải pháp nhằm cải thiện VHKD trong các DN Hàn
Quốc ở Việt Nam.

5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là VHKD của các DN Hàn Quốc ở Việt
Nam.
Đối tượng khảo sát là các DN Hàn Quốc ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là VHKD được nghiên cứu dưới góc độ nghĩa rộng,
tức là toàn bộ các nhân tố văn hóa trong hoạt động kinh doanh của DN.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp kế thừa: Thu thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các tài
liệu từ các nghiên cứu trước, kế thừa có chọn lọc những tài liệu này.
- Khảo sát thực tiễn: Do một số vấn đề nghiên cứu của đề tài còn khá
mới mẻ, do đó cần phải khảo sát thực tế ở một số DN Hàn Quốc điển hình
trên cả nước. Phương pháp chọn mẫu sẽ được sử dụng khi tiến hành khảo sát,
điều tra xã hội học để các đánh giá được sát thực.
- Nghiên cứu liên ngành: Nội dung nghiên cứu của đề tài liên quan đến
nhiều lĩnh vực khoa học chuyên ngành như: Xã hội học, Tâm lý học, Triết
học, Ngôn ngữ học, Văn hóa học, Kinh tế học, v.v…nên trong quá trình triển
khai, các phương pháp nghiên cứu liên ngành trên được áp dụng.

- Phương pháp luận phép biện chứng duy vật: Quan điểm lịch sử cụ thể
luôn được quán triệt trong quá trình khảo sát, đánh giá, phân tích tình hình
thực tiễn.
- Phương pháp phân tích - so sánh: Đề tài nghiên cứu, phân tích, so sánh
văn hóa và VHKD của Hàn Quốc với Việt Nam để tìm lời giải cho các mâu
thuẫn, xung đột cũng như đưa ra gợi ý các giải pháp cho xây dựng VHKD
trong các DN Hàn Quốc phù hợp với văn hóa Việt Nam.


6
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn
- Hệ thống được lý luận và thực tiễn VHKD trong các DN Hàn Quốc ở
Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam.
- Gợi ý một số giải pháp nhằm cải thiện VHKD trong các DN Hàn Quốc
ở Việt Nam.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, các phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của VHKD trong các DN
Hàn Quốc ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng VHKD của các DN Hàn Quốc ở Việt Nam.
Chương 3: Một số gợi ý giải pháp cải thiện VHKD của các DN Hàn
Quốc ở Việt Nam.

7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
VĂN HÓA KINH DOANH TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC Ở VIỆT NAM


1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Văn hoá kinh doanh
Văn hóa hiện diện và thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống con
người như một yếu tố không thể thiếu được của tổng thể xã hội. Tuy vậy, điều
này không có nghĩa là con người nhận thức được một cách rõ ràng kiến trúc
của văn hóa trong mỗi hoạt động hoặc có thể định liệu được những liên hệ
mật thiết có tính chất văn hóa trước khi đi đến những quyết định. Người ta
ngày càng nhận ra rằng văn hóa tham gia vào mọi quá trình hoạt động của con
người. Và đã đi sâu tìm hiểu những sắc thái văn hóa của các hoạt động của
con người như: văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa giáo dục, văn
hóa gia đình Kinh doanh là một hoạt động đặc thù của con người, do vậy nó
cũng là một phạm trù của văn hóa.
Có khá nhiều quan niệm, định nghĩa về VHKD. Trước khi đi đến một
định nghĩa mang tính khái quát cao, chúng ta khảo sát một số định nghĩa điển
hình:
- Theo các nhà nghiên cứu của Viện Kinh doanh Nhật Bản - Hòa Kỳ
(JABA), "VHKD có thể được định nghĩa như ảnh hưởng của những mô hình
văn hóa của một xã hội đến những thiết chế và thông lệ kinh doanh của xã hội
đó" [5, tr.13].
- Theo Vern Terspstra và Kenneth David (Trường Đại học Michigan -
Hoa Kỳ), "VHKD bao gồm những nguyên tắc điều chỉnh việc kinh doanh, việc

8
ấn định ranh giới giữa hành vi cạnh tranh và các ứng xử vô đạo đức, những
quy tắc phải tuân theo trong các thỏa thuận kinh doanh" [5, tr.14].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số định nghĩa về VHKD
như sau:
- GS.TS Nguyễn Duy Quý: "Trong hoạt động kinh doanh có một nền

VHKD thể hiện sự vận động khoa học và kỹ thuật, tổ chức và quản lý kinh
doanh, ở những cách thức giao tiếp và ứng xử trong kinh doanh thương mại"
[22, tr.16].
- GS Hoàng Trinh: "VHKD (hay kinh doanh có văn hóa) có nghĩa là
hoạt động kinh tế có hiệu quả, đạt năng suất, sản lượng, giá trị cao, giá thành
thấp, sản phẩm đạt chất lượng cao, tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường
trong nước và ngoài nước, làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước" [2, tr.99].
- GS Phạm Xuân Nam: "VHKD là phương pháp kinh doanh bằng nắm
bắt thông tin, ra sức cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu,
nhiên liệu, quan tâm thích đáng đến đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động, bồi dưỡng và phát huy tiềm năng sáng tạo của họ trong việc
tạo ra những hàng hóa và dịch vụ có chất lượng tốt, hình thức đẹp, giá cả
hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, giữ được chữ tín với người
tiêu dùng" [22, tr.15].
Với cách tiếp nhận như trên dẫn đến cách hiểu VHKD là sự vận dụng
các nhân tố văn hóa vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Cụ thể đó là các
nhân tố về khoa học kỹ thuật, công nghệ, phương thức tổ chức và quản lý,
giao tiếp và ứng xử Và nhấn mạnh biểu hiện của VHKD như là tính hiệu
quả, chất lượng sản phẩm, chữ tín, đạo đức.
Một định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu chú ý là của TS. Đỗ Minh
Cương: "VHKD là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt động
kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra

9
trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và
đặc thù của họ" [8, tr.50].
Định nghĩa trên tiếp cận VHKD từ hai phương diện là những nhân tố
văn hóa được lựa chọn từ văn hóa dân tộc đưa vào hoạt động kinh doanh và
những nhân tố văn hóa được chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh
doanh. Tuy nhiên, trên thực tế không có sự tách bạch như vậy mà hai loại

nhân tố hòa quyện, thẩm thấu vào nhau để tạo thành các yếu tố cấu thành
VHKD.
Qua các phân tích ở trên, có thể đưa ra một khái niệm chung về VHKD,
đó là: "VHKD là toàn bộ các nhân tố văn hóa đƣợc chủ thể kinh doanh
chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong quá trình hoạt động sản xuất,
kinh doanh từ đó tạo nên bản sắc kinh doanh riêng có của chủ thể".
Chọn lọc các nhân tố văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội (đó là phong tục,
tập quán, thói quen, giá trị, thẩm mỹ, ngôn ngữ, tôn giáo ) để đưa vào quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh; Và trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, chủ thể tạo ra nhân tố văn hóa đặc thù của mình (phong cách, phong
thái kinh doanh, hệ giá trị, hình thức mẫu mã sản phẩm, kiến trúc nội thất
của DN, hay của một dân tộc, quốc gia); Sử dụng các nhân tố văn hóa đã
được chọn lọc và tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh vào việc nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó tạo nên bản sắc kinh
doanh riêng của chủ thể.
1.1.1.2. Văn hoá doanh nghiệp
Văn hóa DN là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng nên trong suốt
quá trình tồn tại và phát triển của một DN, trở thành các giá trị, tiêu chuẩn,
các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của DN ấy và
chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của DN trong
việc theo đuổi và thực hiện mục đích chung.

10
Các giá trị văn hóa đó của DN thường được thể hiện qua những biểu
trưng (symbol) chung thuộc về hình thức (logo, đồng phục…) cùng các yếu tố
tạo nên thương hiệu; qua năng lực, phẩm chất, trình độ tổ chức sản xuất kinh
doanh tạo ra chất lượng sản phẩm và những thành tích, truyền thống; qua
phong cách giao tiếp, ứng xử thống nhất của toàn đơn vị (đối với nội bộ, đối
với khách hàng) trong quá trình sản xuất kinh doanh v.v
Với quan điểm như vậy, có thể nói văn hóa DN biểu hiện VHKD của

DN, còn VHKD biểu đạt lối kinh doanh của nhiều chủ thể kinh doanh như:
VHKD của một cộng đồng, một dân tộc, một khu vực hay một cá nhân, tổ
chức kinh doanh nào đó.
Cho đến nay có khá nhiều định nghĩa về văn hóa DN được đưa ra:
Theo Georges de Saite Marie, chuyên gia người Pháp đã đưa ra định
nghĩa như sau: “Văn hóa DN là tổng hợp các giá trị, các biểu tượng, huyền
thoại, nghi thức, các điều cấm kỵ, các quan điểm triết học, đạo đức tạo thành
nền móng sâu xa của DN” [6, tr.259]
Theo định nghĩa của tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour
Organization – ILO): “Văn hóa DN là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, các
tiêu chuẩn, thói quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà
toàn bộ chúng là duy nhất đối với một tổ chức đã biết” [6, tr.259].
Một định nghĩa được chấp nhận khá rộng rãi là định nghĩa của chuyên
gia nghiên cứu các tổ chức Edgar Schein: “Văn hóa DN là tổng hợp những
quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá trình
giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi trường xung
quanh”. [6, tr.26].
Theo PGS.TS Dương Thị Liễu: “Văn hóa DN là toàn bộ giá trị tinh thần
mang đặc trưng riêng biệt của DN có tác động tới tình cảm, lý trí và hành vi
của tất cả các thành viên DN”.

11
Qua các định nghĩa trên cho thấy, phần lớn các ý kiến mới chỉ dừng lại ở
những giá trị cần phải có bên trong DN mà chưa đề cập đến những yếu tố có
thể nằm vượt ra bên ngoài DN mà có tác động đến việc tạo nên bản sắc riêng
của DN, đó chính là môi trường văn hoá và những yếu tố văn hoá hợp thành
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Với quan niệm như vậy, văn hóa DN sẽ bao gồm:
- Môi trường văn hoá của DN;
- Hệ thống các giá trị của DN;

- Các nhân tố văn hoá trong sản xuất, kinh doanh của DN.
Và chính văn hóa DN tạo nên sự đặc thù, khác biệt cho DN, là cái phân
biệt giữa DN này với DN khác; là một “tiểu văn hoá” và là cái bộ phận nếu so
sánh với nền văn hoá của một dân tộc hay một quốc gia.
Một định nghĩa thể hiện được các quan điểm nêu trên là của TS. Đỗ
Minh Cương: “Văn hóa DN là một dạng của văn hoá tổ chức bao gồm
những giá trị, những nhân tố văn hoá mà DN kế thừa và sáng tạo ra trong
quá trình sản xuất kinh doanh, tạo nên cái bản sắc của DN và tác động tới
tình cảm, lý trí và hành vi của tất cả các thành viên của nó”.
Để phục vụ cho việc nhận diện văn hóa của một DN, người ta đưa ra các
mô hình về văn hóa DN hiện nay.
Các mô hình văn hóa DN:
Có thể khi thành lập DN, nhà sáng lập thường "vay mượn" ý tưởng các
mô hình mẫu hay mô hình lý tưởng phù hợp. Với môi trường kinh doanh đa
văn hoá ngày nay, các nhà kinh tế đã khái quát hoá nên bốn mô hình văn hóa
DN và chỉ ra những nền văn hoá bản địa khác nhau có ảnh hưởng như thế nào
đến từng mô hình là: i) Mô hình văn hoá gia đình; ii) Mô hình văn hoá tháp
Eiffel; iii) Mô hình văn hoá tên lửa dẫn đường; iv) Mô hình văn hoá lò ấp trứng.


12
1. Mô hình văn hoá gia đình:
Nghĩa ẩn dụ "gia đình" trong khái niệm văn hoá để chỉ tính nhân văn, đó
là mối quan hệ trực tiếp, gần gũi nhưng có tính thứ bậc trên dưới, như một gia
đình, "người cha" là người có kinh nghiệm, quyền lực đối với "con cái". Kết
quả là sự hình thành văn hoá hướng "quyền lực". Tuy nhiên đây là thứ "quyền
lực" hết sức thân thiện, không có tính đe doạ, quân phiệt.
Trong mô hình văn hóa gia đình hướng quyền lực, việc thực thi quyền
lực lớn nhất thông qua sự hòa hợp giữa các thành viên. Sự trừng phạt lớn đối
với các thành viên là không được yêu mến hay không còn có vị trí trong gia

đình nữa. Vì vậy áp lực chính đối với họ là tính đạo đức và xã hội chứ không
phải là tài chính hay tính pháp lý. Điển hình cho lựa chọn mô hình này là ở
các DN của Ai cập, Italia, Nhật, Singapore, Bắc Triều tiên, Tây Ban Nha.
2. Mô hình tháp Eiffel
Ở phương Tây, thường chia lao động theo vai trò và chức năng. Mô hình
tháp Eiffel được lựa chọn làm biểu trượng cho mô hình văn hoá này vì tháp
có độ dốc đứng, cân đối, thu hẹp ở đỉnh và nới rộng ở đáy, chắc chắn, vững
chãi. Hệ thống cấp bậc trong mô hình tháp khác xa so với mô hình gia đình.
Thứ bậc cao hơn được phân chia một cách rõ ràng, thể hiện chức năng điều
hành thứ bậc thấp hơn. Cấp dưới phải tuân thủ ông chủ vì họ có vai trò chỉ
đạo bạn. Mục đích là bạn phải tuân thủ theo ý của ông chủ. Ông chủ có đủ
quyền lực pháp lý để ra lệnh cho bạn, quyết định một cách áp chế, hay đơn
giản là buộc bạn phải làm việc theo sự chỉ đạo của ông ta. Nếu bạn hay bất cứ
một cấp dưới nào không tuân thủ, hệ thống không thể thực hiện được chức
năng của mình. Trong mô hình tháp Eiffel, mỗi vị trí có một vai trò nhất định.
Điều này là hiển nhiên. Hệ thống cấp bậc trong mô hình tháp rất khách quan,
dựa trên pháp lý, trong đó tất cả mọi người đều tuân thủ các quy định của
công ty và các quy định này áp dụng cho mọi cấp bậc.

13
Một sự khác biệt nữa của mô hình tháp Eiffel là quá trình phát triển của
DN được hỗ trợ rất nhiều bởi năng lực chuyên môn. Và vì thế hầu hết các DN
theo mô hình gia đình thường không chấp nhận mô hình tháp Eiffel. Quan hệ
cá nhân làm thiên lệch sự phán quyết, tạo nên chủ nghĩa thiên vị, tạo ra rất
nhiều ngoại lệ và làm mờ ranh giới của giữa vai trò và trách nhiệm.
Hệ thống thứ bậc trong DN theo mô hình này được mô tả, xếp loại theo
mức độ khó, phức tạp và tính trách nhiệm cùng với mức lương tương ứng.
Tiếp đó là sự tìm kiếm ứng viên cho các vị trí đó. Điều này khiến cho công
việc tuyển dụng công bằng, khách quan và kỹ càng và tuân thủ theo nguyên
tắc việc tìm người, giao việc cho những người thích hợp nhất.

Mô hình tháp Eiffel thường được thấy nhiều ở các DN Đức, Australia,
Colombia, Hàn Quốc.
3. Mô hình văn hoá tên lửa dẫn đường
Mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường khác với cả hai mô hình văn hoá gia
đình và tháp Eiffel ở chủ nghĩa quân bình, nhưng khác mô hình gia đình và
giống mô hình tháp ở tính khách quan và hướng nhiệm vụ. Mô hình văn hóa
tên lửa dẫn đường gần giống với mô hình tổ chức làm việc theo nhóm (team
work). Mỗi người đều biết rõ phần việc của mình. Làm thế nào để tất cả các
thành viên cùng tham gia hoạt động ? Tất cả đều ngang nhau, hoặc ít nhất gần
như ngang nhau. Người đứng đầu mang tính chất điều phối, phối hợp vì mục
tiêu chung.
Trong mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường, sự thay đổi diễn ra nhanh
chóng, mục tiêu luôn vận động, nhiều mục tiêu mới xuất hiện, nhóm làm việc
mới hình thành, nhóm cũ giải tán. Người chuyển từ nhóm này sang nhóm
khác đi đôi với việc chuyển từ việc này sang việc khác dẫn đến xu hướng luân
chuyển công việc cao, lòng trung thành với chuyên môn và công việc lớn hơn
lòng trung thành với công ty. Do đó, xét về nhiều mặt, mô hình văn hóa tên

14
lửa dẫn đường đối lập với mô hình văn hóa gia đình với sợi dây liên hệ bền
vững, dài lâu và tràn đầy tình cảm. Với đặc điểm như vậy, mô hình văn hóa
tên lửa dẫn đường thường thấy ở các tổ chức nghiên cứu, mà Cơ quan Hàng
không Vũ trụ (NASA) là một ví dụ điển hình.
4. Mô hình văn hoá lò ấp trứng
Mô hình văn hoá lò ấp trứng dựa trên quan điểm về thuyết hiện sinh: Cơ
cấu tổ chức không quan trọng bằng sự hoàn thiện cá nhân. Đề cao sự tự thể
hiện và tự hoàn thiện của cá nhân. Mô hình này mang tính chất cá nhân và
quân bình. Do đó mô hình văn hóa này tạo nên sân chơi lành mạnh để phát
huy ý tưởng và đáp lại một cách thông minh những sáng kiến mới. Tuy vậy
mô hình này thường xuyên, nếu không muốn nói là liên tục, hoạt động ở một

môi trường tình cảm tận tâm, nhưng sự tận tâm ở đây ít hướng đến con người
mà là hướng đến sự thay đổi thế giới, chinh phục thế giới.
Một trong những hạn chế của mô hình lò ấp trứng là sự gắn bó các thành
viên phụ thuộc vào sự hứng thú với công việc, và sự gắn bó này hoàn toàn tự
nguyện, được nuôi dưỡng bởi hy vọng và lý tưởng. Điều này khiến mô hình lò
ấp trứng có sự giới hạn về quy mô do "sự kiểm soát" của người lãnh đạo.
Với đặc điểm như vậy, mô hình văn hóa lò ấp trứng thường thấy ở
Thung lũng Silicon (Mỹ), Glen (Scotlen) hay một số công ty công nghệ cao
của Anh.
Trong thực tế, sẽ không có DN nào chỉ tuân thủ theo một trong bốn mô
hình nêu trên, mà sẽ có sự vận dụng hoà trộn giữa các mô hình và có xu
hướng nổi trội về một mô hình nào đó. Hình 1.1 dưới đây có thể sử dụng để
nhận diện về VHKD của một DN. (Xem phụ lục 1: Đặc điểm của bốn mô hình
văn hóa DN nêu trên).



15




Con ngƣời
Chủ nghĩa bình quân



Nhiệm vụ

Mô hình lò ấp trứng:

Hướng hoàn thiện
cá nhân

Mô hình tên lửa iều
khiển:
Hướng nhiệm vụ

Mô hình gia đình:
Hướng cá nhân

Mô hình Eiffel:
Hướng vai trò


Hệ thống thứ bậc

Hình 1.1. Mô hình văn hoá doanh nghiệp
Nguồn: Fons Trompenaars - Charle Hampden - Turner (2006), Chinh
phục các làn sáng văn hóa, Nxb Trí thức, Hà Nội, trang 289.

1.1.1.3. Văn hoá doanh nhân
Trước hết "Doanh nhân" là ai ?
Một số nhà kinh tế cho rằng doanh nhân là những người thực sự làm chủ
các quan hệ kinh tế trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh tư nhân. Họ cho
rằng: "Doanh nhân là người chủ sở hữu đối với vốn, tiền bạc, tài sản trí tuệ
và cả quyền lực trong hoạt động sản xuất, buôn bán để đạt được sự gia tăng
không ngừng về mặt lợi nhuận, sở hữu tư nhân. Doanh nhân là người coi lợi
nhuận, sở hữu tư nhân gia tăng không ngừng, là định hướng giá trị cơ bản
của hoạt động và quan hệ của bản thân, cũng là lợi ích sống còn của chính
mình". [7, tr.9] Theo quan điểm này thì đối tượng được gọi là doanh nhân bị

giới hạn và không phù hợp với tình hình Việt Nam khi có nhiều loại hình DN.
Theo Schumpeter: "Doanh nhân là một tính cách không phải một nghề"
và xem doanh nhân như là lực lượng tạo nên bước đột phá trong công nghiệp
và thương mại, nhờ đó mà nền kinh tế mới tăng trưởng.
Theo Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp

16
Việt Nam: "Doanh nhân là nhà đầu tư, nhà quản lý, là người chèo lái con
thuyền DN mà điểm khác biệt của doanh nhân với những người khác là ở chỗ
họ là người dám chấp nhận mạo hiểm, rủi ro khi dấn thân vào con đường
kinh doanh".
Tóm lại, có thể nói: Doanh nhân là người làm kinh doanh, chịu trách
nhiệm đại diện cho DN trước pháp luật và xã hội. Doanh nhân là người sở
hữu và điều hành DN.
Văn hóa Doanh nhân ?
Văn hóa của một cá nhân là những hiểu biết cơ bản, trên bình diện rộng
về thế giới tự nhiên và xã hội của cá nhân đó.
Theo PGS. Hồ Sĩ Quý: "Văn hóa doanh nhân là tập hợp của những giá
trị căn bản nhất, những khuôn mẫu văn hóa xác lập nên nhân cách của con
người doanh nhân, đó là con người của khát vọng làm giàu, biết cách làm
giàu và dấn thân để làm giàu, dám chịu trách nhiệm, dám chịu rủi ro đem
toàn bộ tâm hồn, nghị lực và sự nghiệp của mình ra để làm giàu cho mình,
cho DN và cho xã hội" [7, tr.11].
Như vậy, Văn hóa doanh nhân là toàn bộ các nhân tố văn hóa mà các
doanh nhân chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện chúng trong quá trình
hoạt động kinh doanh của mình.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành VHKD
Các nhân tố văn hóa đã được chọn lọc và tạo ra trong quá trình sản xuất
kinh doanh không thể tách bạch sử dụng độc lập mà chúng hòa quyện với
nhau tạo thành hệ thống các nhân tố cấu thành nên VHKD của một DN. Có

thể khái quát thành các nhóm yếu tố cơ bản sau:
1.1.2.1. Triết lý kinh doanh
Khi xem xét quan hệ văn hóa và quản trị theo nghĩa rộng, hoạt động
quản trị, cụ thể là quản trị kinh doanh, vừa là một bộ phận cấu thành văn hóa,

17
vừa là yếu tố chịu ảnh hưởng, chịu sự quy định bởi các yếu tố cấu thành văn
hóa. Phương thức quản trị, hành vi ứng xử đều có bản chất văn hóa theo hai
khía cạnh như vậy, có thể phân theo hai quan hệ ảnh hưởng là:
Thứ nhất, văn hóa tác động đến việc lựa chọn chiến lược kinh doanh của
DN trong môi trường cạnh tranh khốc liệt và đa văn hóa.
Thứ hai, liên quan đến sự ứng xử của chủ thể kinh tế với đối tác: thành
viên trong nội bộ DN (với cấp trên, cấp dưới, người lao động ), với khách
hàng, đối thủ cạnh tranh, các liên minh
Hai quan hệ nêu trên vừa có tính độc lập tương đối vừa tác động lẫn
nhau và có sự xuyên suốt của sợi chỉ đỏ - Triết lý kinh doanh.
Nói đến Triết lý kinh doanh của một DN là nói đến mục đích, ý nghĩa
cao nhất của quản trị DN. Đó là những vấn đề mang tính chất triết lý - lý lẽ để
tồn tại và phát triển bền vững của DN. Mỗi một DN có ngành nghề kinh
doanh khác nhau, có quan niệm về hệ thống giá trị khác nhau, do đó, triết lý
kinh doanh sẽ là một hệ thống tư tưởng chủ đạo, thể hiện quan điểm riêng của
mỗi DN về giá trị vật chất và tinh thần.
Tóm lại, Triết lý kinh doanh là những tƣ tƣởng triết học chủ đạo, có
hệ thống đƣợc vận dụng vào hoạt động kinh doanh, phản ánh các niềm tin,
giá trị, các nguyện vọng cơ bản và những tƣ tƣởng chủ đạo mà các nhà
quản trị theo đuổi, gắn bó. Và tất cả những điều đó tạo nên sợi chỉ đỏ chỉ
dẫn cho hoạt động kinh doanh (xem hộp 1.1 và 1.2).
Kết cấu nội dung của triết lý kinh doanh của DN thường gồm những bộ
phận sau: (xem hộp 1.2)
- Sứ mệnh và các mục tiêu cơ bản.

- Các phương thức hành động để đạt được những sứ mệnh và mục tiêu.
- Các nguyên tắc tạo ra một phong cách ứng xử, giao tiếp và hoạt động
kinh doanh đặc thù của DN.

18


Hộp 1.1. Giá trị cốt lõi so sánh

Merck
Walt Disney
Trách nhiệm xã hội của công ty
Tính ưu việt, nổi bật trong mọi
khía cạnh của công ty
Tính trung thực và kiên định
Lợi nhuận từ lao động và có lợi
ích cho nhân loại
Không hoài nghi
Nuôi dưỡng và truyền bá
những giá trị tốt đẹp
Tính sáng tạo, ước mơ, trí
tưởng tượng
Tính nhất quán và kỹ lưỡng
Bảo tồn sự kỳ diệu thế giới
Disney
Nordstrom
Sony
Phục vụ khách hàng là tiên
quyết
Tính cần cụ và năng suất cá

nhân
Không bao giờ tự mãn
Tính ưu việt về danh tiếng: sự
đặc biệt.
Nâng cao nền văn hóa Nhật và
vị thế quốc gia
Tiên phong thực hiện điều
tưởng chừng bất khả thi
Khuyến khích khả năng và tính
sáng tạo của cá nhân.

Nguồn: Bộ môn Văn hóa Kinh doanh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2006), Bài
giảng Văn hóa Kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.





19


Hộp 1.2. Giá trị cốt lõi của SAMSUNG

Cơ cấu giá trị của Samsung dựa theo hệ thống P-V-P; triết lý quản lý, giá trị cốt lõi, và quy
chuẩn đạo đức (nguyên tắc) toàn cầu.


Con người :
Chúng tôi luôn đánh giá cao vai trò nhân viên của mình. Tin tưởng rằng “Con
người là linh hồn của một công ty”,chúng tôi tạo mọi cơ hội để họ thể hiện năng lực

của mình.
Tính ưu tú :
Với niềm đam mê vô tận và với tinh thần đầy thách thức, chúng tôi nỗ lực hết sức
mình nhằm mang lại cho thế giới những điều tốt đẹp nhất.
Sự Thay đổi :
Chúng tôi nhanh chóng thực hiện thay đổi và cải tiến dựa trên nhận thức về khủng
hoảng: chúng tôi không thể tồn tại nếu chúng tôi không liên tục phấn đấu để đổi
mới.
Tính đồng nhất :
Chúng tôi luôn hành động đúng đắn và có đạo đức,đảm bảo sự công bằng với sự
tôn trọng và lịch thiệp.
Cùng nhau thịnh vượng :
Là một doanh nghiệp gương mẫu, chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc
theo đuổi sự thịnh vượng của cộng đồng, quốc gia, và trong cả xã hội loài người.

20




Nguồn: www.samsung.com/vn/aboutsamsung/companyprofile/digitallvision/
CompanyProfile_DigitallVision.htm


1.1.2.2. Đạo đức kinh doanh
Đạo đức kinh doanh (business ethics) là một chủ đề được nêu ra đầu tiên
trong giới DN Mỹ, và đã sớm trở thành một môn học trong các khoa kinh tế và
quản trị ở các đại học Mỹ kể từ thập niên 70. Tuy nhiên, phần lớn các DN Mỹ
đều tiếp cận vấn đề đạo đức dựa trên nền tảng của các lý thuyết duy lợi
(utilitarism) và thực dụng (pragmatism). Thực ra đạo đức kinh doanh không phải

là một lý tưởng cao xa, mà chủ yếu nhằm tạo dựng hình ảnh uy tín cho DN và
tạo nên sự phát triển bền vững, hiệu quả cao hơn cho DN. Ở các nước phương
Tây thường có quan điểm gắn vấn đề đạo đức kinh doanh với trách nhiệm xã hội
của DN. Sự cam kết về trách nhiệm xã hội này của các DN vượt ra ngoài những
yêu cầu pháp lý thông thường mà DN phải tuân thủ. "Các DN phải nỗ lực nâng
cao các tiêu chuẩn liên quan tới việc phát triển xã hội, bảo vệ môi trường và tôn
trọng các quyền cơ bản, áp dụng một phương thức quản trị công khai, kết hợp
hài hòa các lợi ích của những người có liên quan tới DN trong một cách tiếp cận
tổng hợp đối với chất lượng và sự phát triển bền vững" [27, tr.34].
Chúng ta có thể định nghĩa đạo đức kinh doanh như sau: Đó là sự tôn

21
trọng luân lý nghề nghiệp và các quy tắc ứng xử (thường do các quốc gia, tổ
chức, hiệp hội ngành nghề quy định)
( )
nhằm làm cho DN có thể đảm nhiệm
được trách nhiệm của mình đối với các đối tác và xã hội. Tổ chức BEN
(European Business Ethic Network) định nghĩa đạo đức kinh doanh như sau:
"Đạo đức không phải là tập hợp những nguyên tắc cố định, nhưng là một tinh
thần cởi mở thôi thúc suy nghĩ không ngừng trong việc đi tìm điều tốt (cho
cộng đồng và cho cá nhân)".
Với quan điểm như vậy, đạo đức kinh doanh gồm hệ thống các nguyên
tắc ứng xử, các chuẩn mực đạo đức, quy chế, nội quy giữ vai trò điều tiết
các hoạt động trong quá trình kinh doanh nhằm hƣớng đến triết lý kinh
doanh đã định của DN (xem hộp 1.2 và hộp 1.3 và Phụ lục 3: Các quy tắc
đạo đức tại bàn đàm phán Caux).
Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh:
Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh là chủ thể hoạt động kinh
doanh. Bao gồm tất cả những ai là chủ thể của các quan hệ và hành vi kinh
doanh như:

- Doanh nhân: Đạo đức kinh doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất
cả các thành viên trong các tổ chức kinh doanh như: Ban giám đốc, các thành
viên hội đồng quản trị, các cán bộ nhân viên Lúc này đạo đức kinh doanh
được gọi là đạo đức nghề nghiệp (đạo đức của doanh nhân sẽ được trình bày
rõ hơn ở mục 1.1.2.3. Văn hóa doanh nhân).
- Khách hàng: Quy luật của quan hệ giữa người mua và người bán là quy
luật "muốn mua rẻ và muốn bán đắt". Ở vị thế khách hàng thường có tâm lý là
"thượng đế" vì vậy cũng cần có định hướng đạo đức kinh doanh phù hợp để
tránh làm xói mòn các tiêu chuẩn đạo đức do đề cao quá lợi ích của một phía.


Ví dụ: Bàn đàm phán Caux tại Thuỷ Sỹ tập hợp các nhà lãnh đạo kinh doanh của các
nước Châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã thống nhất đưa ra một bản quy định đạo đức nghề
nghiệp gồm 13 quy tắc (Chi tiết được trình bày ở phụ lục 3).

22


1.1.2.3. Văn hóa doanh nhân
Như đã trình bày ở phần trên, văn hóa doanh nhân là toàn bộ các nhân
tố văn hóa mà các doanh nhân chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện chúng
trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Có thể khái quát cấu thành cơ bản của văn hóa doanh nhân gồm:
- Năng lực của doanh nhân (là năng lực làm việc), thể hiện qua các năng
lực cơ bản: Trình độ chuyên môn (được thể hiện qua bằng cấp, kiến thức xã
hội, kiến thức kỹ thuật nghiệp vụ, kiến thức tin học, ngoại ngữ ); Năng lực
lãnh đạo (khả năng định hướng, điều khiển người khác hành động ); Trình
độ quản lý kinh doanh.
- Tố chất của doanh nhân, thể hiện qua: Tầm nhìn chiến lược (xác định
được một kế hoạch rõ ràng và đặt ra định hướng chiến lược đúng đắn cho

Hộp 1.3. Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh:

- Tính trung thực: Trong kinh doanh không gian dối, xảo trá, giữ chữ tín,
lời hứa, nhất quán giữa nói và làm. Chấp hành nghiêm túc pháp luật. Không sản
xuất các sản phẩm hay có những hoạt động trái với thuần phong mỹ tục.
- Tôn trọng con người: Phải tôn trọng mọi người (tôn trọng khách hàng,
tôn trọng người lao động, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh ); tôn trọng phẩm
giá, quyền tự do, quyền lợi, hạnh phúc, nhu cầu và tiềm năng của họ.
- Gắn lợi ích của DN với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu
quả gắn với trách nhiệm xã hội.
- Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt.

Nguồn: Bộ môn Văn hóa Kinh doanh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2006),
Bài giảng Văn hóa Kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

23
DN); Khả năng thích ứng với môi trường, nhạy cảm, linh hoạt, sáng tạo; Tính
độc lập, quyết đoán, tự tin; Năng lực quan hệ xã hội; Có nhu cầu cao về sự
thành đạt.
- Đạo đức của doanh nhân: Đạo đức của một con người; Hệ thống giá trị
đạo đức làm nền tảng cho hoạt động của doanh nhân (xem hộp 1.4).
- Phong cách doanh nhân: Các yếu tố làm nên phong cách doanh nhân
(văn hóa cá nhân, tâm lý cá nhân, kinh nghiệm cá nhân, nguồn gốc đào tạo,
môi trường xã hội, sự hội nhập và thách thức ); Các nguyên tắc định hướng
phong cách doanh nhân (Ví dụ: Luôn bị thôi thúc bởi sự hoàn hảo; Vượt qua
mọi rào cản đề tìm chân lý một cách nhanh chóng; Không tự thỏa mãn; Chấp
nhận thách thức ).
Như vậy, văn hóa doanh nhân là một hệ thống cấu thành bởi năng lực, tố
chất, đạo đức, phong cách của doanh nhân. Nó chịu sự tác động mạnh mẽ của
các nhân tố văn hóa, chính trị, kinh tế, pháp luật. Điều này đặt ra khi xem xét

văn hóa doanh nhân phải căn cứ vào hệ thống các tiêu chuẩn như: đạo đức,
trình độ và năng lực, phong cách

Hộp 1.4. Tiêu chuẩn đạo đức doanh nhân
1. Tính trung thực: Biểu hiện ở sự nhất quán giữa nói và làm, danh và thực. Không
dùng thủ đoạn, hành vi vi phạm pháp luật, gian dối để kiếm lời. Coi trọng công
bằng, đạo lý.
2. Tôn trọng con người: Coi trọng phẩm giá, nhu cầu, sở tích, tâm lý, quyền lợi
chính đáng của khách hàng, người lao động
3. Vươn tới sự hoàn hảo: Không ngừng tu dưỡng bản thân, có hoài bão, lý tưởng,
tham vọng. Điều này sẽ giúp doanh nhân hình thành được lý tưởng nghề nghiệp
và nỗ lực để đạt được.

24
4. Đương đầu với thử thách (chấp nhận thách thức): Không ngại khó, ngại khổ.
5. Coi trọng hiệu quả gắn liền với trách nhiệm xã hội: Doanh nhân phải biết không
ngừng nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, phải có những đóng góp
xứng đáng cho xã hội.
Nguồn: Bộ môn Văn hóa Kinh doanh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2006), Bài
giảng Văn hóa Kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

1.1.2.4. Quan hệ và ứng xử trong kinh doanh
Quan hệ và ứng xử trong kinh doanh hay có thể gọi là văn hóa trong các
hoạt động kinh doanh (marketing, xây dựng thương hiệu, định hướng khách
hàng, xây dựng nề nếp công ty ). Văn hóa trong hoạt động kinh doanh có thể
bao gồm trong các nội dung sau:
a) Văn hóa ứng xử trong nội bộ DN
Văn hóa ứng xử trong nội bộ DN được biểu hiện qua: Văn hóa ứng xử của
cấp trên với cấp dưới; Văn hóa ứng xử của cấp dưới với cấp trên; Văn hóa ứng
xử giữa các đồng nghiệp và Văn hóa ứng xử với công việc (xem hộp 1.5).

Vai trò của văn hóa ứng xử trong nội bộ DN
- Văn hóa ứng xử giúp cho DN dễ dàng thành công hơn.
Khi các thành viên trong DN có tiếng nói chung, đoàn kết, hưởng ứng
lúc đó công việc sẽ đạt được kết quả chức chắn hơn.
- Văn hóa ứng xử làm đẹp thêm hình tượng của DN.
Mối quan hệ ứng xử giữa các thành viên trong DN sẽ tạo nên hình ảnh
đẹp trong mắt khách hàng, đối tác từ đó tạo dựng nên uy tín, thương hiệu và
hình tượng tốt về DN.
- Văn hóa ứng xử tạo điều kiện phát huy dân chủ cho mọi thành viên.
Mọi thành viên trong DN nhận được sự tín nhiệm, hỗ trợ cần thiết để chủ
động tiến hành công việc được giao, chịu trách nhiệm cá nhân cao hơn về

×