Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến thị trường tài chính tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.47 KB, 72 trang )

NHẬN XÉT CỦA THẦY GIÁO









































MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
II. Khủng hoảng nợ công Ireland và tác động đến tình hình TCTT: 29
1. Th c tr ng kh ng ho ng n công Ireland:ự ạ ủ ả ợ 29
2. Nguyên nhân gây ra kh ng ho ng n công:ủ ả ợ 31
3. Tác đ ng c a n công đ n tình hình tài chính ti n t :ộ ủ ợ ế ề ệ 32
III. Khủng hoảng nợ công Ý và tác động đến tình hình TCTT: 37
1. Th c tr ng kh ng ho ng n công Ý:ự ạ ủ ả ợ 37
2. Nguyên nhân gây ra kh ng ho ng n công: ủ ả ợ 40
3. Tác đ ng c a n công đ n tình hình tài chính ti n t :ộ ủ ợ ế ề ệ 42
KẾT LUẬN 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng tài chính đang diễn ra ngày càng liên tục với cường độ mạnh và
diễn biến phức tạp gây ra những hậu quả rất nặng nề đối với cả quốc gia công
nghiệp phát triển lẫn các nước đang phát triển. Bên cạnh khủng hoảng tài chính,
ngày nay người ta còn đề cập nhiều và nghiên cứu một cách nghiêm túc hơn một
loại khủng hoảng mới “Khủng hoảng nợ công”. Tình trạng nợ công gia tăng liên tục
ở cả các nước phát triển vượt quá sự tăng trưởng của nền kinh tế (GDP) gây ra tình
trạng mất kiểm soát trong khả năng chi trả của quốc gia. Điển hình là cuộc khủng

hoảng nợ công ở Iceland, Argentina, và gần đây nhất là một số nước trong khu vực
EU như Hy Lạp và Ireland. Chính điều đó đã đánh lên hồi trống báo động cho các
nước trên toàn thế giới phải suy nghĩ chín chắn về tình trạng nợ công của chính
quốc gia mình. Chính vì vậy, nghiên cứu “khủng hoảng nợ công và tác động của nó
đến thị trường tài chính tiền tệ” là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay
không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực và trên toàn thế giới.
Đây là đề tài khá rộng và có tính bao quát cao. Do đó, với kiến thức hạn hẹp
của Nhóm 5_K22, chúng em trình bày một số hiểu biết khái quát về những vấn đề
sau:
Phần 1: Nợ công và khủng hoảng nợ công.
Phần 2: Khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến tình hình tài chính tiền tệ ở 3
nước điển hình là Hy Lạp, Ireland và Italia.
Phần 3: Thực trạng nợ công ở Việt Nam và giải pháp.
Trong suốt quá trình làm việc có nhiều sự tranh luận đồng thời nâng cao kiến
thức chung của cả nhóm. Tuy nhiên, có những hạn chế khách quan mà nhóm khó có
thể kiểm soát hoàn toàn nên chắc sẽ có nhiều sai sót. Mong thầy và các bạn nghiên
cứu và góp ý để bài tiểu luận thêm phần hoàn thiện và góp chút kiến thức cho hành
trang tri thức của các bạn đồng hành.
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
PHẦN 1: NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
I. Nợ công:
1. Định nghĩa:
Trước khi định nghĩa nợ công, ta hãy định nghĩa khu vực công. Khu vực công
bao gồm khu vực nhà nước (gồm cả trung ương và địa phương) và doanh nghiệp
quốc doanh. Doanh nghiệp quốc doanh là doanh nghiệp mà nhà nước chi phối hoặc
chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối và do đó thường vì áp lực chính trị phải chịu trách
nhiệm về nợ nần của chúng. Từ định nghĩa khu vực công như trên theo ngân hàng
thế giới định nghĩa về nợ công gồm bốn nhóm sau:
Nợ của chính phủ trung ương và các bộ, ban ngành trung ương
Nợ của các cấp chính quyền địa phương

Nợ của Ngân hàng trung ương
Nợ của các tổ chức độc lập mà chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc
quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của chính phủ hoặc chính phủ là người
chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ.
Còn theo luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009, nợ công
được hiểu bao gồm ba nhóm là nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ
chính quyền địa phương. Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay
trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh
Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền
phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong
từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức
tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính
quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh
giá là hẹp hơn so với thông lệ quốc tế được định nghĩa như trên.
2. Nguyên nhân nợ công:
Nguyên nhân đầu tiên là chính phủ đương nhiệm chi (chi tiêu về quốc phòng,
an ninh nội địa, hưu trí, thất nghiệp, giáo dục, y tế, cầu đường, hành chánh… luôn
cả các ngân sách “mật” dùng cho tình báo, quốc phòng, ngoại giao ) nhiều hơn thu
(các nguồn thu nhập chính như các loại thuế trực thâu và gián thâu (thuế lương
bổng, thuế tài sản, thuế nhà đất, thuế tiêu thụ, thuế xe…) và tiền gom góp của các
quỹ xã hội như quỹ hưu trí, quỹ sức khỏe, quỹ thất nghiệp…, cộng thêm các phụ
thu cho ngân sách quốc gia) trong thời gian nắm quyền cai trị nước
1
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Nguyên nhân thứ hai là số nợ chồng chất của quá khứ do các chính phủ cũ
để lại, cộng thêm lãi mẹ và lãi con, vẫn còn đó chưa trả hết.
Nguyên nhân thứ ba, là một số luật lệ “cho phép” chính phủ đương nhiệm

vay thêm một số nợ mới một cách hợp pháp.
Nguyên nhân thứ tư là đến một thời gian và mức độ nào đó thì chính phủ
đương nhiệm chỉ vay nợ mới để trả nợ cũ, thậm chí có khi chỉ trả lại được ít vốn mà
phần lớn chỉ trả được tiền lời, vì lãi mẹ đẻ thêm lãi con.
3. Phân loại nợ công:
 Phân theo nguồn vay bao gồm: vay trong nước; vay nước ngoài.
Vay trong nước: Chính phủ vay thông qua phát hành công cụ nợ. Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh vay để đầu tư phát triển kinh tế xã hội thông qua phát
hành, uỷ quyền phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các
nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Vay nước ngoài là khoản vay ngắn hạn, trung - dài hạn phải trả lãi hoặc
không phải trả lãi do Nhà nước, Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức khác
của Việt Nam vay của chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính
quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
 Phân theo chủ thể đi vay bao gồm: Chính phủ; chính quyền địa phương;
doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát
hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký
kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
 Phân theo loại hình vay bao gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay
ODA); vay ưu đãi; vay thương mại.
Vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay ODA) là khoản vay nhân danh Nhà

nước, Chính phủ Việt Nam từ nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, tổ chức tài
trợ song phương, tổ chức liên quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ có yếu tố
không hoàn lại (thành tố ưu đãi) đạt ít nhất 35% đối với khoản vay có ràng
buộc, 25% đối với khoản vay không ràng buộc.
2
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Vay ưu đãi là khoản vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại
nhưng thành tố ưu đãi chưa đạt tiêu chuẩn của vay ODA.
Vay thương mại là khoản vay theo điều kiện thị trường.
 Phân theo thời hạn vay bao gồm: vay ngắn hạn; vay trung – dài hạn;
Khoản vay ngắn hạn là khoản vay có kỳ hạn dưới một năm.
Khoản vay trung - dài hạn là khoản vay có kỳ hạn từ một năm trở lên.
 Phân theo loại lãi suất bao gồm: lãi suất cố định; lãi suất thả nổi.
 Phân theo chủ nợ và nhóm chủ nợ: chủ nợ chính thức; chủ nợ tư nhân.
Chủ nợ chính thức (bao gồm chủ nợ song phương là các Chính phủ hoặc cơ
quan đại diện cho Chính phủ và các chủ nợ đa phương là các tổ chức tài
chính quốc tế đa phương);
Chủ nợ tư nhân (bao gồm các ngân hàng thương mại; người sở hữu trái
phiếu; các chủ nợ tư nhân khác không thuộc chính phủ hoặc không đại diện
cho chính phủ);
 Phân theo công cụ nợ bao gồm: thỏa thuận vay; tín phiếu; trái phiếu; công
trái và các công cụ nợ khác.
4. Những tác động của nợ công.
Nợ công vừa có nhiều tác động tích cực nhưng cũng có một số tác động tiêu cực.
Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện về quản lý nợ
công
* Tác động tích cực
Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn
để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước.Những

nước rong giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường, trong đó cơ sở hạ tầng
là yếu tố có tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và
đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp lý,
nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng
năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong
dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà
nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu
quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính
quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan
3
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng
như muốn hợp tác kinh tế song phương. Nếu biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì
sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
* Tác động tiêu cực
Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách "thắt lưng
buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự
hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng buộc bụng" lại
dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính
trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những
người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của
chính phủ
Khi nợ công liên tục tăng cao, nÒn kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo
của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin
của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu
tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp
hạng tín dụng Standard & Poor's hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ của
A-ten, các quỹ đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua

vào trong các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị
trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy
: tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm nhạy
cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm
trầm trọng, có tác dụng như một "cú huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm vào khó
khăn, bế tắc.
Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ
ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu
quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
việc sử dụng và quản lý nợ công.
5. Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công và ngưỡng an toàn nợ công:
Hệ thống các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia được
quy định tại Điều 7 Nghị định số 79/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/7/2010 về
nghiệp vụ quản lý nợ công Các chỉ tiêu giám sát về nợ công, nợ nước ngoài của
quốc gia bao gồm
a. Nợ công so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ công so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và
được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
b) Chỉ số này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ công so với
GDP
=
Tổng dư nợ công tại thời điểm
31/12
x 100%
GDP luỹ kế đến 31/12
4
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
b. Nợ Chính phủ so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ Chính phủ so với thu nhập của toàn bộ nền kinh

tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ của
Chính
phủ so với GDP
=
Tổng dư nợ của Chính
phủ tại thời điểm 31/12
x 100%
GDP luỹ kế đến 31/12
c. Nợ vay thương mại nước ngoài của Chính phủ so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ vay thương mại nước ngoài Chính phủ so với
thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ vay thương mại

nước ngoài của Chính phủ so
với GDP
=
Tổng dư nợ thương mại nước ngoài
Chính phủ tại thời điểm 31/12
GDP luỹ kế đến 31/12
d. Nợ được Chính phủ bảo lãnh so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ được Chính phủ bảo lãnh so với thu nhập của
toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ được Chính phủ bảo
lãnh so với GDP
=
Tổng dư nợ được Chính phủ
bảo lãnh tại thời điểm 31/12
GDP luỹ kế đến 31/12
e. Nghĩa vụ nợ Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước:

 Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi, phí) của Chính phủ đối với các khoản vay về để cân
đối ngân sách :
Chỉ số này xác định quy mô nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về để
cân đối ngân sách đến hạn hàng năm so với khả năng trả nợ của Chính phủ bằng
nguồn thu ngân sách nhà nước và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của
Chính phủ đối với các khoản
vay về để cân đối ngân sách
so với thu ngân sách nhà nước
=
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối
với các khoản vay về để cân đối
ngân sách luỹ kế đến 31/12
x 100%
Thu ngân sách nhà nước luỹ kế
đến 31/12
 Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi, phí) của Chính phủ đối với các khoản vay về cho
vay lại:
Chỉ số này xác định quy mô nợ gián tiếp của Chính phủ đến hạn hàng năm so
với nguồn thu ngân sách nhà nước.
5
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của

Chính phủ đối với các khoản
vay về cho vay lại so với thu
ngân sách nhà nước
= Nghĩa vụ trả nợ của Chính
phủ đối với các khoản cho
vay lại luỹ kế đến 31/12

x 100%
Thu ngân sách nhà nước
luỹ kế đến 31/12
f. Nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước:
Tỷ lệ này xác định quy mô của nghĩa vụ nợ dự phòng phát sinh từ khoản vay,
phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh so với nguồn thu ngân sách nhà nước
và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
b) Chỉ số này được tính như sau:
Tỷ lệ nghĩa vụ nợ dự phòng

của Chính phủ so với thu
ngân sách nhà nước
=
Nghĩa vụ nợ dự phòng của
Chính phủ luỹ kế đến 31/12
Thu ngân sách nhà nước
luỹ kế đến 31/12
g. Nợ chính quyền địa phương so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ của tất cả Chính quyền địa phương so với thu
nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
b) Chỉ số này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ của địa phương so với
GDP
=
Tổng dư nợ của tất cả các địa
phương tại thời điểm 31/12
x 100%
GDP luỹ kế đến 31/12
 Phương pháp xác định chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài
h. Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP:

Chỉ số này phản ánh tương quan giá trị dư nợ nước ngoài của quốc gia so với
thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ nước ngoài của quốc
gia so với GDP
=
Tổng dư nợ nước ngoài của
quốc gia tại thời điểm 31/12
x 100%
GDP luỹ kế đến 31/12
i. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài (gốc, lãi, phí) của quốc gia hàng năm so với kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ:
Chỉ số này phản ánh khả năng hoàn trả nợ nước ngoài từ nguồn thu xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ, qua đó phản ánh tính thanh khoản của nợ nước ngoài và được
tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Trả nợ nước ngoài của quốc
gia so với XK HH&DV
=
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài
của quốc gia luỹ kế đến
31/12
x 100%
6
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá và dịch vụ luỹ kế đến
31/12
j. Dự trữ ngoại hối nhà nước so với nợ nước ngoài ngắn hạn:
Chỉ số này phản ánh khả năng sử dụng dự trữ ngoại hối nhà nước để trả các
khoản nợ nước ngoài ngắn hạn và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Dự trữ ngoại hối nhà nước so

với nợ nước ngoài ngắn hạn
=
Dự trữ ngoại hối nhà nước tại
thời điểm 31/12
x 100%
Dư nợ nước ngoài ngắn hạn
tại thời điểm 31/12
 Chỉ tiêu giám sát nợ quá hạn
k. Tỷ lệ nợ quá hạn đối với các khoản nợ cho vay lại của Chính phủ:
Chỉ số này phản ánh quy mô của các khoản nợ quá hạn trong tổng số dư nợ cho
vay lại của Chính phủ tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với các
khoản nợ cho vay lại của
Chính phủ
=
Tổng dư nợ của các khoản nợ quá hạn đối với các
khoản nợ cho vay lại của Chính phủ tại thời điểm
31/12
Tổng dư nợ cho vay lại của Chính phủ tại thời
điểm 31/12
l. Tỷ lệ nợ quá hạn đối với các khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ:
Chỉ số này phản ánh quy mô của các khoản nợ quá hạn trong tổng số dư nợ của
các khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với các
khoản vay có bảo lãnh của
Chính phủ
=
Tổng dư nợ các khoản nợ quá hạn đối với các
khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ tại thời
điểm 31/12

Tổng dư nợ được Chính phủ bảo lãnh tại thời
điểm 31/12
m. Tỷ lệ nợ quá hạn đối với các khoản nợ nước ngoài tự vay tự trả:
Chỉ số này phản ánh quy mô của các khoản nợ quá hạn trong tổng số dư nợ của
các khoản vay nước ngoài tự vay tự trả (gồm cả khoản vay ngắn, trung và dài hạn)
tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với các
khoản nợ nước ngoài tự vay
tự trả
=
Tổng dư nợ các khoản nợ quá hạn đối với các
khoản nợ nuớc ngoài tự vay tự trả tại thời điểm
31/12
Tổng dư nợ của các khoản vay nước ngoài tự
vay tự trả tại thời điểm 31/12
7
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
6. Ngưỡng an toàn của nợ công:
Thông thường người ta sử dụng chỉ tiêu nợ công so với tổng sản phẩm quốc
dân (GDP) để xác định tình trạng nợ công của một quốc gia từ đó đưa ra một con số
về ngưỡng an toàn của nợ công như
Theo công trình nghiên cứu năm 2010 của Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc
gia Mỹ (NBER), được khảo sát trên 44 quốc gia, cho ra kết quả: khi tỷ lệ nợ/GDP
vượt ngưỡng 90% thì nó tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế và làm giảm đi 4%
trong tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. Đặc biệt, đối với các nền kinh tế mới nổi
như Việt Nam thì ngưỡng nợ/GDP là 60%, tỷ lệ nợ vượt quá ngưỡng này sẽ làm
giảm tăng trưởng kinh tế hàng năm khoảng 2%.
Tuy nhiên vẫn có một số ý kiến không tình lấy một con số cụ thể của chỉ tiêu nợ
công so với tổng sản phẩm quốc dân để đo lường ngưỡng an toàn:
Theo nhà báo người Đức David Froje, bài học lớn nhất mà thế giới rút ra từ cuộc

khủng hoảng nợ công tại châu Âu, là bất kỳ nền kinh tế nào, nếu lơ là quản lý, đều
có thể sụp đổ vì nợ nần: “Tình hình châu Âu rất khác biệt, mọi quốc gia trên thế giới
đều khác biệt không thể dập khuôn các mô hình phát triển. Vấn đề rút ra ở đây là
không nên tiêu quá nhiều, nhưng bao nhiêu là quá nhiều thì mỗi trường hợp một
khác. Nhớ lại cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á xảy ra năm 1997 khi Thái Lan
chỉ có khoản nợ khoảng 15% GDP. Do đó, nói rằng không chi tiêu nhiều là tránh xa
được khủng hoảng là không đúng. Trong lịch sử, nước Đức cũng từng phải tiêu rất
nhiều, vấn đề là phải luôn ý thức và kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế của
mình”.
Theo TS. Benedict Bingham, đại diện thường trú của IMF tại Việt Nam nêu
quan điểm: cần phải xem các nước có nền kinh tế tương tự có ngưỡng nợ thế nào, và
phải tính đến cả rủi ro về lòng tin. Quan trọng hơn là phải hiểu được phạm vi, quy
mô và chất lượng nợ thực chất như thế nào, bao nhiêu phần trăm để thúc đẩy tăng
trưởng ngắn hạn, dài hạn… Điều đó đòi hỏi thông tin phải phong phú và chi tiết hơn
nữa.
Theo TS. Alex Warren-Rodríguez, Kinh tế trưởng của Chương trình phát triển
Liên Hiệp Quốc (UNDP) cũng lưu ý khi xây dựng luật, quản lý chiến lược tài khóa
không nên dựa quá nhiều vào ngưỡng nợ. Bởi rất nhiều nước khó khăn về tài khóa
khi nợ ở mức độ thấp, vì thế ngưỡng nợ thấp cũng không đảm bảo là sẽ tránh được
khủng hoảng về tài khóa. Theo ông, cơ cấu nợ mới là yếu tố quan trọng. Nếu nợ
nước ngoài cao và nợ ngắn hạn cao thì rủi ro về mặt cơ cấu nợ càng cao.
TS Vũ Quang Việt, chuyên viên của LHQ về lĩnh vực thông tin kinh tế nói về
bài học này: “Vay vốn để phát triển là rất lợi ích. Vấn đề đặt ra là sử dụng nó như
thế nào, có hiệu quả hay không. Phải xem món nợ đó có gây nóng cho nền kinh tế,
chẳng hạn như tạo ra lạm phát, tạo ra những vấn đề khác hay không. Phải suy xét
vay mượn ở chỗ nào và làm như thế nào có lợi nhất
8
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Ngoài ra, cũng cần phải tính đến độ nhạy với các cú sốc. Bởi mức nợ cho dù có
nhỏ hơn ngưỡng, nhưng vẫn có những cú sốc không dự báo được. Ví dụ lạm phát có

thể cao hay tỷ giá có thay đổi thì có thể làm thay đổi hoàn toàn dự báo. Một điều rất
then chốt là cần phải có thông tin chính xác để đưa ra quyết định đúng và tạo niềm
tin cho thị trường.
Một điều nữa cần lưu ý chính là những khoản nợ ngầm, các khoản nợ ngân hàng,
nợ doanh nghiệp của Nhà nước vay mà Chính phủ phải bảo lãnh. Đây là những yếu
tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền kinh tế.
Kết luận của các chuyên gia trên rằng nếu chỉ dựa vào chỉ số nợ công/GDP
không thể xác định được một cách toàn diện mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công
thì chưa thật chính xác mà cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện trong mối
liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân, nhất là: tốc
độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng
vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu
tư toàn xã hội Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại
nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ lưỡng khi đánh
giá tính bền vững nợ công Điển hình như nợ công khoảng 100% đủ để một nước
như Hy Lạp rơi vào tình trạng phá sản, trong khi đó nợ công lên tới hơn 200% như
Nhật Bản vẫn được coi là an toàn, hay trường hợp của Argentina, một quốc gia dù
có mức nợ công dưới 60% và ngân sách tài chính khá tốt, nhưng vẫn xảy ra khủng
hoảng nợ
II. Khủng hoảng nợ công:
Từ sự tìm hiểu về nợ công ,chúng ta tiếp tục tìm hiểu về vấn đề làm đau đầu
nhiều nhà kinh tế hàng đầu đó là khủng hoảng kinh tế do nợ công gây ra
1. Thế nào là khủng hoảng nợ công?
Cuộc khủng hoảng nợ công là khi chính phủ quốc gia nào đó không thể trả nợ
đúng hạn, cả nợ gốc và nợ lãi, nên phải tuyên bố phá sản quốc gia hoặc cầu cứu sự
trợ giúp quốc tế.
Ví dụ như Arghentina tuyên bố vỡ nợ năm 2001
23/4/2010 Hy Lạp cầu cứu EU và IMF
2. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khủng hoảng nợ công:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ nần, ở mỗi nước và tuỳ từng thời kỳ lại có

các nguyên nhân khác nhau, song tình trạng nợ công hiện nay ở nhiều nước đều có
chung một số nguyên nhân cơ bản sau:
Đầu tiên phải kể đến, việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước, lương
và chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước ở các cấp có xu hướng ngày càng phình
to, các chương trình kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng,
đầu tư phát triển có sở hạ tầng không ngừng tăng …, đặc biệt, hậu quả to lớn của
cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi
rất nhiều để khắc phục.
9
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chính phủ không minh bạch các số liệu, chính phủ cố gắng vẽ nên bức tranh
sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách của quốc gia. Thêm vào đó là sự kiểm soát
chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước yếu kém, không chặt chẽ, thậm chí bị buông
lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cùng với
tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước. (điển hình Hy Lạp)
Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một
số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau như thuế
quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ phù hợp với
các quy định của WTO và các thoả thuận thương mại khác mà các quốc gia tham
gia vào. Trong khi đó, vấn đề quản lý các nguồn thu, nhất là từ thuế, gặp không ít
khó khăn ở nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát
không chặt và xử lý không nghiêm của các cơ quan chức năng.
Tâm lý ảo tưởng về sức mạnh, uy tín quốc gia dẫn đến tình trạng vay nợ tràn
lan, đầu tư quá trớn, thiếu tính toán với suy nghĩ dù gì đi chăng nữa chính phủ
cũng dư sức bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào và cả
vay nợ nữa. (điển hình Argentina)
Chính phủ không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của
một số ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng và nhà đất tạo thành bong bóng.
Mặt khác Chính phủ đã lựa chọn bao cấp các ngân hàng này khi họ bị thua lỗ. (điển
hình Ireland)

Tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp đồng nghĩa với việc thâm hụt ngân sách của
quốc gia sẽ khó có thể bù đắp bằng các nguồn vốn nội địa và phải đi vay vốn từ
nước ngoài.
3. Tác động của khủng hoảng nợ công đến tài chính tiền tệ: (ở đây xem
xét đại diện là nợ chính phủ)
Khủng hoảng nợ công tác động đến nền kinh tế thông qua các chỉ số sau:
Cán cân ngân sách thâm hụt
Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng
Lạm phát tăng.
Các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, tốc độ tăng trưởng GDP giảm.
Thất nghiệp tăng
a. Thâm hụt cán cân ngân sách:
Khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, Chính phủ cần huy động để
trả nợ buộc phải vay của công chúng bằng cách phát hành trái phiếu, vay mượn ở
ngân hàng trung ương hoặc cầu viện cứu trợ từ các nước khác, từ các tổ chức quốc
10
Giá
TP

Lãi
suất
TP ↑
Phát
hành
Trái
Phiếu
CÁN CÂN
NGÂN
SÁCH
THÂM

HỤT
Đầu tư gián
tiếp
(chứng khoán)

Đầu tư

↓ Chi
tiêu
↑ Thuế
Thất
nghiệp ↑
GDP ↓
Nợ/GDP

In
tiền
Huy
độn
g
vốn
Lạm phát

Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
tế như IMF hoặc tăng thuế để bù đắp thâm hụt ngân sách bên cạnh đó phải thực
hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm chi tiêu. Việc phát hành thêm trái
phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, lãi suất trái phiếu tăng vì chính
phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua.
Khi cán cân ngân sách thâm hụt, ngân hàng trung ương sẽ tài trợ thâm hụt bằng
cách phát hành thêm tiền làm tăng khối cung tiền gây ra áp lực lạm phát.

Bên cạnh đó, việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư trực tiếp, kìm
hãm kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng (thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP giảm
sút  chỉ số nợ/GDP tăng). Việc giảm chi tiêu, giảm đầu tư sẽ dẫn đến tình trạng
việc làm giảm, thất nghiệp gia tăng.
Mặt khác, cán cân ngân sách thâm hụt đã gây ra sự mất lòng tin của người dân
và của nhà đầu tư mới đối với các nền kinh tế quốc gia khiến đồng tiền quốc gia sụt
giá. Điều đó có thể dẫn tới một đợt tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái
phiếu và cổ phiếu làm giá chứng khoán bị sụt giảm
b. Tác động chính trị - xã hội
Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, mỗi quốc gia với khủng hoảng nợ
công có thể: thay đổi quy trình quản lý nhà nước do phải thay đổi chính sách tài
chính quốc gia để trang trải các khoản nợ; tổn hại đến hệ số tín nhiệm quốc gia;
nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc lập về chính trị hoặc khả năng lãnh đạo
đất nước…Các quốc gia còn phải chịu sức ép từ phía chủ nợ và các tổ chức tài chính
quốc tế về việc phải thắt chặt chi tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội và xa hơn là
những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ máy quản lý, thay đổi các định
hướng kinh tế… Ngoài ra, cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối quan
hệ song phương, đa phương với các đối tác là chủ nợ.
c. Tác động đến thương mại quốc tế
Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu : tốc độ
phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, phải chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát
tăng cao, đồng tiền mất giá, tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế
người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh.
d. Tác động đến tỉ giá hối đoái
Tình trạng khủng hoảng nợ công trầm trọng ở các quốc gia châu Âu đã
làm cho đồng tiền chung châu Âu bị mất giá. Vào thời điểm tháng 5/2010, tỷ giá
Euro/USD có lúcxuống tới 1,22 USD/Euro, thấp nhất trong vòng 4 năm trở lại
đây.Trong nửa năm đầu năm 2010, Euro đã mất giá khoảng 16% so với USD, từ
mức 1 Eurođổi được 1,44 USD. Tính đến thời điểm tháng 11 năm 2011, đồng Euro
giảm1,9%, xuống còn 1,3367 USD. So với một số ngoại tệ mạnh khác, Euro cũng

rớtgiá thê thảm. EUR giảm 1,1% so với France Thụy Sỹ, còn 1,333 France;
giảm2,1% so với Yên Nhật, còn 111,16 Yên
e. Tác động nguồn vốn FDI toàn cầu
Khủng hoảng nợ công có thể tạo ra tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn
FDI trên phạm vi toàn cầu. Như trong khủng hoảng nợ công Châu Âu thì những quốc
11
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn
vốn FDI dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh
thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu.
Ngược lại, các nước đang phát triển lại hoàn toàn không được hưởng lợi từ việc dịch
chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ công nghệ,
trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc
khủng hoảng nợ
12
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
PHẦN 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG & TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN
TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở 3 NƯỚC ĐIỂN HÌNH LÀ HY LẠP,
IRELAND VÀ ITALIA
I. Nợ công của Hy Lạp và tác động đến tình hình TCTT
1. Thực trạng nợ công Hy Lạp.
Hy Lạp là nước có mức nợ công thuộc loại nhiều nhất tại châu Âu so với quy
mô nền kinh tế và được ví như "một con bệnh đang trong thời kỳ nguy kịch". Suốt
một thời gian qua, cụm từ nợ công Hy Lạp đóng đinh trên mặt các tờ báo, xuất hiện
hàng ngày trong các bản tin thời sự trên truyền hình và trở thành nỗi ám ảnh đối với
các nhà lãnh đạo Châu ÂU, Mỹ. Đến nay, lối thoát cho Hy Lạp vẫn đang được EU
và Qũy tiền tệ quốc tế tích cực tìm kiếm nhưng kết cục còn rất mong manh. Là quốc
gia phát triển thuộc khối OECD (các nước có nền kinh tế phát triển) với nền kinh tế
có GDP đứng thứ 27 trên thế giới (315 tỷ USD), có dân số hơn 11 triệu người, thu
nhập trung bình đầu người đạt mức cao 30.035 USD, sở hữu đội tàu thương mại lớn

bậc nhất thế giới nên việc Hy Lạp sa lầy khủng hoảng nợ công là vấn đề đáng quan
tâm cho tất cả các chính phủ trên thế giới nhằm tránh đi theo vết xe đổ của nước
này.
a.Tỷ lệ nợ công trên GDP.
Uy tín của Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề do Hy Lạp vay nợ rất nhiều
trên các thị trường tài chính để đảm bảo thanh khoản cho bội chi ngân sách. Theo
quy định, tỷ lệ nợ công tối đa đối với một quốc gia thành viên của khối sử dụng
đồng euro là 60% GDP trong khi thâm hụt ngân sách hàng năm không được vượt
quá 3%. Tuy nhiên, năm 2009, tổng số nợ công của Hy Lạp lên tới 300 tỷ euro,
chiếm 124 % GDP, thâm hụt ngân sách lên tới hai con số, trong khi tăng trưởng
kinh tế vẫn tiếp tục âm. Đến năm 2011, Hy Lạp năm trong nhóm 10 nước có nợ
công cao nhất thế giới, nợ chính phủ ở mức 489 tỷ USD, chiếm 168,2% GDP. Để
che giấu việc chi tiêu quá tay trong nhiều năm của mình, Chính phủ Hy Lạp đã thực
hiện báo cáo số liệu không nhất quán và sai lệch, đưa ra nhiều khoản mục bất
thường trong ngân sách,không minh bạch hóa chi tiêu ngân sách, dẫn đến mất lòng
tin cho các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài.
13
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
10 nước có nợ công nặng nhất thế giới năm 2011.
Đơn vị: Nghìn tỷ USD, %.
Chỉ tiêu Anh Đức Pháp Mỹ Bỉ Bồ Đào
Nha
Ireland Italy Hy Lạp Nhật
Bản
Tỷ lệ nợ
công/GDP
80,9 81,8 85,4 85,5 97,2 101,6 108,1 120,5 168,2 233,1
Tổng nợ chính
phủ
1,99 2,79 2,26 12,8 0,479 0,257 0,225 2,54 0,489 13,7

GDP danh
nghĩa
2,46 3,56 2,76 15,13 0,514 0,239 0,217 2,2 0,303 5,88
Tỷ lệ thất
nghiệp
8,4 5,5 9,9 8,3 7,2 13,6 14,5 8,9 19,2 4,6
Định mức tín
nhiệm từ
Moody's
AAA AAA AAA AAA AA1 BA3 Ba1 A3 CA AA3
Nguồn: Moody’s.
Từ năm 2009, nợ công Hy Lạp luôn ở mức cao hơn so với mức trung bình của
khu vực Euro, nhất là trong giai đoạn 2008- 2011. Trên biểu đồ, ta có thể thấy đó là
đường khá dốc, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, sự chi tiêu bất
hợp lý của Chính phủ, khả năng quản trị tài chính yếu kém ( Năm 2011, Hy Lạp ở
mức 167% so với 89% của Eurozone)
Vì vậy, thanh khoản của Hy Lạp sụt giảm: Nợ còn hạn của Hy Lạp lên tới gần
400 tỷ đô la Mỹ, trong đó riêng nợ đến hạn năm 2010 đã lên tới 73 tỷ đô la Mỹ. Lãi
suất Hy Lạp phải trả cho các khoản vay nợ lên tới mức kỷ lục cao, trên 9% đối với
14
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
các khoản vay có kỳ hạn. Dù Hy Lạp có thực hiện được kế hoạch điều chỉnh kéo dài
3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm 2013 vẫn lên mức 170% GDP, mức cao này được
dự báo là vẫn duy trì tới 2016.
Đến năm 2010, báo cáo của OECD cho thấy nợ công của Hy Lạp đã lên tới
con số 330 tỷ Euro, tương đương với 147.8% GDP. Các chuyên gia kinh tế dự đoán
dù Hy Lạp có thực hiện được kế hoạch thắt lưng buộc bụng kéo dài 3 năm, nợ của
Hy Lạp đến năm 2012 vẫn tăng lên mức 172% GDP
b. Nợ nước ngoài so với GDP của Hy Lạp.
Nợ nước ngoài so với GDP của Hy Lạp.

Đơn vị: USD, %
Năm Nợ nước ngoài % thay đổi
2003 63,400,000,000
2004 65,510,000,000 3,33%
2005 67,230,000,000 2,36%
2006 75,180,000,000 11,83%
2007 301,900,000,000 301,57%
2008 86,720,000,000 -71.28%
2009 504,600,000,000 481,87%
2010 552,800,000,000 9,55%
2011 439,750,000,000 -20.45%
Nguồn: (Vneconomy-Source: WB)
Mức nợ nước ngoài lớn, tăng mạnh vào 2009 (tăng 481,87% so với 2008), Hy
Lạp phải đối mặt với nguy cơ vỡ nợ cao: Hy Lạp đang đối mặt với 2 vấn đề thâm
hụt cùng một lúc, đó là thâm hụt ngân sách (vượt hơn 10% GDP năm 2010) và thâm
hụt cán cân thanh toán vãng lai (trung bình vào khoảng 9% GDP) so với mức trung
bình của toàn khu vực Eurozone là 1%. Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt
cán cân vãng lai của Hy Lạp đều vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh
Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU), đặc biệt là Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng
của Liên minh châu Âu (EU) với quy định trần thâm hụt ngân sách 3% GDP và trần
nợ nước ngoài 60% GDP. Phần lớn thâm hụt trên tài khoản vãng lai phải bù đắp
bằng nguồn vốn đầu tư gián tiếp chứ không phải vốn đầu tư trực tiếp, nghĩa là Hy
Lạp gần như hoàn toàn kỳ vọng vào bong bóng giá cổ phiếu và các khoản vay nước
ngoài để thu hút ngoại tệ bù đắp cho tài khoản vãng lai. Một khi bong bóng cổ phiếu
vỡ và không thể vay thêm tiền, Hy Lạp đứng trước rủi ro vỡ nợ lớn.
15
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
c. Tình trạng thâm hụt ngân sách.
Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp năm 2009 là 15,4%, đây là thời điểm bắt đầu
cho cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp. Năm 2010 giảm còn 10,3% vẫn cao hơn

so với mức từng dự toán trước đây là 8,1% trên GDP. Mặc dù tình hình nợ nần của
Hy Lạp trong năm 2010 có chuyển biến khả quan hơn so với năm 2009, nhưng con
số trên vẫn xác nhận Hy Lạp lại một lần nữa trượt mục tiêu giảm thâm hụt ngân
sách. Báo cáo ngân sách năm 2011 là 9,1%, trong khi giới hạn bội chi ngân sách cho
phép trong khu vực euro chỉ là 3% GDP.
Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP của Hy Lạp
Đơn vị: %
Năm Tỷ lệ thâm hụt/GDP
2007 4,9%
2008 10,0%
2009 15,4%
2010 10,3%
2011 9,1%
Nguồn: economy.com
Nguồn: Morgan Stanley
2. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công Hy Lạp
16
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Sự phụ thuộc quá nhiều của Hy Lạp vào nguồn tài trợ nước ngoài đã khiến
cho nền kinh tế nước này trở nên dễ tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin
của giới đầu tư. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ vào mùa thu năm
2008 khiến nhiều quốc gia gặp khó khăn trong vấn đề thanh khoản, trong đó có cả
một vài quốc gia Trung và Đông Âu. Mặc dù vậy, chính phủ Hy Lạp bước đầu cho
thấy những ứng phó khá tốt với cuộc khủng hoảng và đã có thể tiếp tục tiếp cận
những nguồn vốn mới từ thị trường quốc tế. Tuy nhiên, suy thoái toàn cầu bắt
nguồn từ khủng hoảng tài chính vẫn tạo căng thẳng cho ngân sách của nhiều chính
phủ, trong đó Hy Lạp không phải là ngoại lệ, do nhu cầu chi tiêu tăng lên trong khi
nguồn thu từ thuế lại giảm đi. Và cũng từ đây, bi kịch nợ công của Hy Lạp bắt đầu
được vén màn.
a. Chi tiêu tăng cao trong khi nguồn thu chính phủ lại yếu

Từ năm 2001 đến năm 2007, tăng trưởng GDP của Hy Lạp vẫn được ca ngợi
với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 4,3% so với mức trung bình của khu vực
Eurozone là 3,1%. Tuy nhiên, trong 6 năm này, trong khi chi tiêu chính phủ tăng
87% thì thu chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức
cho phép 3% GDP của EU. Theo nhận định của nhiều nhà quan sát thì bộ máy công
quyền cồng kềnh và thiếu hiệu quả ở Hy Lạp chính là nhân tố chính đằng sau sự
thâm hụt của quốc gia này.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), vào năm 2004, chi tiêu
cho quản lý công trong tổng số chi tiêu công ở Hy Lạp đã cao hơn nhiều so với các
nước thành viên OECD khác, mà không có bằng chứng nào cho thấy chất lượng hay
số lượng dịch vụ ở nước này cao hơn hẳn. Dân số già đi - dự đoán tỷ lệ số người
trên 64 tuổi sẽ tăng từ 19% năm 2007 lên 32% năm 2060 - cũng là một trong những
gánh nặng cho chi tiêu công và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu
vực châu Âu của quốc gia này (người về hưu được hưởng một khoản tiền tương
đương với 70-80% mức lương của mình chưa kể những lợi ích từ những cơ chế hỗ
trợ khác với đủ 35 năm cống hiến so với mức 40 năm ở các quốc gia châu Âu khác).
Ước tính tổng số tiền chi trả cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ tăng từ
11,5% GDP vào năm 2005 lên 24% vào năm 2050.
17
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có
thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế bởi việc sử dụng một đồng tiền được những
nền kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), các quốc gia thành viên nói chung và Hy
Lạp nói riêng nghiễm nhiên có được hình ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt
các nhà đầu tư. Dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp, trong
gần một thập kỷ qua, chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm
tỷ đôla. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế
hoạch chi tiêu hợp lý. Nhưng điều này không xảy ra, các đời chính phủ Hy Lạp đã
chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các

kế hoạch trả nợ, trong đó có thể kể đến như thế vận hội Olympic 2004 - kỳ thế vận
hội hoành tráng nhất và cũng tốn kém nhất trong lịch sử nhưng chính phủ lại không
cho phép sự xuất hiện của bất kỳ một biển hiệu quảng cáo nào trên đường phố.
Không thể phủ nhận rằng để có vốn tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại
hoá, việc vay nợ nước ngoài là cần thiết. Nhiều quốc gia có những bước phát triển
kinh tế đáng nể như Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc đều phải vay nợ nước
ngoài. Tuy nhiên, chính phủ các quốc gia đó chỉ vay tiền để đầu tư vào hạ tầng cơ sở
thiết yếu nhất để phục vụ phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Tiền vay được
họ quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả. Hạ tầng cơ sở ở những quốc gia này
một khi đã được xây dựng thì chất lượng rất tốt, được quy hoạch với tầm nhìn dài
hạn chứ không phải ngay lập tức hay một thời gian ngắn sau đã phải làm lại, cải tiến
hay mở rộng. Có lẽ cơ hội được tiếp cận dễ dàng nguồn tín dụng rẻ từ khi gia nhập
Eurozone đã khiến cho chính phủ Hy Lạp chi tiêu quá tay mà quên mất những nghĩa
vụ nợ phải trả trong tương lai. Đây là bài học rõ ràng cho những quốc gia đang phát
triển nóng theo đuổi những con số đẹp về chỉ tiêu tăng trưởng, nếu cứ tiếp tục đi vay
và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua, chắc chắn di sản có
thể để lại cho tương lai sẽ là một món nợ khổng lồ.
Bên cạnh việc chi tiêu quá mức, nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn
tới tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp, mà theo nhiều nhà kinh tế, nguyên
nhân thứ nhất kể đến là việc trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở quốc gia này là
nhân tố chính đứng đằng sau. Theo một số nghiên cứu thì nền kinh tế không chính
18
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
thức ở Hy Lạp chiếm tới 25 - 30% GDP của quốc gia này. Về mặt lý thuyết và cả
trên thực tiễn thì, ngoài đặc tính của một nền kinh tế đang phát triển và mới chuyển
đổi, hệ thống luật lệ quá nhiều, quá phức tạp, không rõ ràng, được lý giải không
thống nhất và nhất quán của các cơ quan quản lý được cho là nguyên nhân trước hết
của tình trạng ngầm phổ biến và qui mô lớn trong hoạt động kinh tế. Hy Lạp cũng
không nằm ngoài quy luật này. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, hệ thống thuế
với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu

hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế
ngầm phát triển ở Hy Lạp. Thứ hai kể đến là tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải
vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công. Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình
quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%, thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như
Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy,
đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài. Lợi tức
trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên minh châu Âu EU (năm 1981) và
làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng cho thấy Hy Lạp đã để vuột khỏi tay một
kênh huy động vốn sẵn có buộc chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi
tiêu công.
Chi tiêu chính phủ cao, trốn thuế và tham nhũng được xem là những nguyên
nhân chính dẫn đến sự tích lũy nợ của Hy Lạp trong suốt thập kỷ qua.
b. Sự thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư.
Trong thời đại hội nhập, thì minh bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các nhà đầu
tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do chính phủ không minh bạch các số liệu, cố
gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính sách
sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô
do vậy, đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư mà quốc gia này đã tạo dựng được
với tư cách là một thành viên của Eurozone và nhanh chóng xuất hiện các làn sóng
rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình trạng khó
khăn trong việc huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế
Bắt đầu từ cuối năm 2009, niềm tin của các nhà đầu tư vào chính phủ Hy Lạp
bắt đầu bị lung lay khi vào tháng 10, chính phủ mới do Thủ tướng George
Papandreou lãnh đạo đưa ra con số ước tính thâm hụt ngân sách mới cho năm 2009
19
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
là 12,7% GDP, gần gấp đôi con số ước tính hiện tại lúc đó là 6,7%. Lập tức công bố
này đã khiến cho trái phiếu chính phủ Hy Lạp bị ba tổ chức định mức tín dụng lớn
của thế giới đánh tụt hạng. Tới cuối tháng 11, thì những lo ngại về tình trạng vỡ nợ
của Dubai World lại dấy lên những quan ngại về khả năng xảy ra tình trạng vỡ nợ

quốc gia hàng loạt của các chính phủ dưới sức ép của khủng hoảng tài chính, trong
đó Hy Lạp với những khoản nợ nước ngoài lớn đã trở thành mối quan tâm đặc biệt
của các nhà đầu tư. Những nghi ngờ về việc chính phủ Hy Lạp đã làm sai lệch số
liệu thống kê và cố tình che giấu mức độ nợ thật sự nhờ vào các công cụ tài chính
phức tạp đã khiến các nhà đầu tư giảm sút lòng tin nặng nề vào quốc gia này. Trước
khủng hoảng, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Hy Lạp cao hơn từ 10 đến 40
điểm cơ sở so với trái phiếu cùng kỳ hạn của Đức thì khi khủng hoảng nợ nổ ra,
khoảng cách này tăng lên tới 400 điểm cơ sở vào tháng 01/2010, mức kỷ lục bấy
giờ.
Bất chấp những lo ngại ngày càng tăng xung quanh nền kinh tế Hy Lạp, chính
phủ nước này vẫn tiếp tục thành công trong việc bán ra 8 tỷ euro (tương đương 10,6
tỷ đô la Mỹ) trái phiếu vào cuối tháng 01/2010, 5 tỷ euro (6,7 tỷ đô la Mỹ) vào cuối
tháng 3 và 1,56 tỷ euro (2,07 tỷ đô la Mỹ) vào giữa tháng 4, tất nhiên với mức lãi
suất rất cao. Tuy nhiên số tiền này vẫn chưa đủ, Hy Lạp vẫn cần phải vay mượn
thêm khoảng 54 tỷ euro (71,8 tỷ đô la Mỹ) để chi trả cho các khoản nợ và lãi phải
trả đến hạn của mình và người ta bắt đầu lo ngại về khả năng của chính phủ trong
việc xoay xở với số tiền này.
Sự nghi ngờ của giới đầu tư lên đến đỉnh điểm lần nữa vào tháng 4/2010 khi
Cơ quan Thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) công bố ước tính về thâm hụt
ngân sách của Hy Lạp. Với con số 10,3% GDP, ước tính của Eurostat cao hơn hẳn
so với con số ước tính được chính phủ Hy Lạp đưa ra trước đó vào tháng 10/2009.
Điều này lặp lại một câu hỏi về khả năng trả nợ của Hy Lạp với 8,5 tỷ euro (11,1 tỷ
đô la Mỹ) đến hạn vào giữa tháng 5/2010.
Đến ngày 23/4/2010, chính phủ Hy Lạp đã phải chính thức kêu gọi hỗ trợ tài
chính từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các quốc gia thành viên Eurozone khác. Sau
cuộc họp diễn ra ở Brussels tối 2/5, Bộ trưởng Tài chính các nước Eurozone đã
quyết định khởi động cơ chế hỗ trợ tài chính dành cho Hy Lạp. Theo đó, Hy Lạp sẽ
20
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
được hỗ trợ 110 tỷ euro trong vòng 3 năm với mức lãi suất bình quân ưu đãi là 5%,

trong đó các nước thuộc Eurozone bỏ ra 80 tỷ euro và 30 tỷ còn lại sẽ do IMF đảm
nhận. Đổi lại, Hy Lạp phải cam kết cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 11%
GDP và xuống dưới mức quy định 3% của EU vào năm 2013.
c. Việc không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong liên minh tiền tệ.
Thật vậy, theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào khu vực đồng tiền chung,
các quốc gia thành viên phải đáp ứng nhiều chuẩn mực, trong đó có quy định mức
bội chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP, có xem xét trường hợp mức
thâm hụt đang trong xu hướng được cải thiện hoặc mức thâm hụt lớn hơn 3% nhưng
mang tính tạm thời, không đáng kể, không là mức bội chi cơ cấu; nợ chính phủ nhỏ
hơn hoặc bằng 60% GDP, có xem xét các trường hợp đang điều chỉnh.
Theo quy định này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền
chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1-1-2001, mặc dù vẫn
chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền
chung, sau khi cố công làm đẹp các chỉ số kinh tế của mình để có thể tiếp cận các
nguồn tín dụng lãi suất thấp. Có nhiều lý giải cho vấn đề này có thể kể ra như: Hy
Lạp đã không ghi khoản tiền phải chi trả cho lương hưu như phân tích ở trên; giấu
không ghi chi phí về việc mua vũ khí quốc phòng; không ghi vào nợ công khi nhà
nước phải gánh những khoản nợ tư vì nhận bảo lãnh; ghi khoản tiền nhà nước
chuyển cho doanh nghiệp quốc doanh để bù lỗ là tăng đầu tư mua cổ phần, thay vì là
chi bù lỗ, nhằm làm giảm thiếu hụt ngân sách; ghi thuế thu không theo thực thu và
theo dự báo. Tuy nhiên, sẽ là thiếu sót nếu không khẳng định một phần lỗi trong
việc gian lận thống kê này là từ việc thiếu thực thi chặt chẽ các quy định trong Hiệp
ước Bình ổn và Tăng trưởng của EU xuất phát từ những mục tiêu chính trị của khối.
Ðể vào Eurozone, các quốc gia thành viên phải tuân theo những quy định chặt chẽ
như thâm hụt ngân sách không được vượt quá 3% GDP và nợ không được vượt quá
60% GDP, nếu vi phạm mà không thực hiện các biện pháp khắc phục do Ủy ban
Châu Âu (EC) và Hội đồng Liên minh Châu Âu đưa ra thì các quốc gia vi phạm sẽ
chịu một khoản phạt tương đương với 0,5% GDP. Trên thực tế, sau khi sử dụng
đồng Euro, ngày càng nhiều thành viên thấy khó khăn trong việc tuân thủ các giới
hạn mà Hiệp định đặt ra. Kể từ năm 2003, đã có hơn 30 trường hợp có mức thâm

21
Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
hụt vượt mức cho phép, EU đã có những chỉ trích và buộc các quốc gia này thắt chặt
tài chính, hoặc ít nhất là cam kết làm vậy nhưng chưa bao giờ áp đặt một lệnh trừng
phạt tài chính nào lên các quốc gia thành viên vi phạm. Vào thời điểm Hy Lạp gia
nhập Eurozone, đã có những bằng chứng cho thấy quốc gia này đưa ra những số liệu
không trung thực, ECB cũng tỏ ra quan ngại về tình hình nợ của Hy Lạp đã vượt xa
trần quy định của Eurozone, nhưng các nhà lãnh đạo châu Âu đã không phản đối. Vì
lý do chính trị, họ đã cho Hy Lạp tham gia đồng Euro. Đến năm 2004, bằng chứng
về việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế giả mạo đã được Eurostat thu thập đủ, nhưng
các quan chức của châu Âu vẫn tuyên bố rằng, việc trục xuất Hy Lạp khỏi Eurozone
không phải là lựa chọn của họ và cho Hy Lạp thời gian để sửa chữa. Đến năm 2007,
EC tuyên bố Hy Lạp đã có những biện pháp khắc phục phù hợp, và thâm hụt của
quốc gia này sẽ chỉ còn 2,6% GDP vào năm 2006 và 2,4% vào năm 2007. Ủy ban
cũng đưa ra kết luận rằng “Cơ quan Thống kê của Hy Lạp đã cải thiện quy trình làm
việc của mình” và chất lượng số liệu thống kê của họ đã tốt hơn. Tuy nhiên, đến
năm 2009, thì một lần nữa câu hỏi về sự gian lận số liệu của quốc gia này lại được
lật lại và khủng hoảng nợ đã bùng nổ.
3. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ:
a. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng:
Từ năm 1998 đến năm 2011 Trái phiếu Chính phủ Hy Lạp có lãi trung bình
5,21%, đạt mức cao lịch sử 11,39% trong tháng 12 năm 2010 và một mức thấp kỷ
lục 3,23% trong tháng 9 năm 2005. Lãi suất trái phiếu của Hy Lạp thời gian gần đây
tăng cao vì khủng hoảng nợ công ( vào tháng 11/2012 lãi suất trái phiếu đã ở mức
17,88%), cán cân ngân sách thâm hụt, do đó chính phủ cần huy động vốn để trả nợ
buộc phải phát hành trái phíếu. Việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái
phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì
mới huy động được người mua.
Vào tháng 04/2010, các tổ chức định mức tín nhiệm như S&P, Moody’s và
Fitch Rating đã hạ bậc trái phiếu chính phủ Hy Lạp xuống mức rủi ro cao, trước

nguy cơ mất khả năng thanh khoản. S&P ước tính trong trường hợp Hy Lạp mất khả
năng thanh toán, nhà đầu tư có thể mất 30-50% giá trị khoản đầu tư. Ngay lập tức
sau đó lợi tức trái phiếu chính phủ Hy Lạp đã tăng mạnh. Điều này đã khiến cho
22

×