Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

ChChất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng đầu tư và phát triển Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 98 trang )



iii
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC HÌNH VẼ i
DANH MỤC BẢNG BIỂU ii
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH CỦA DOANH
NGHIỆP BẢO HIỂM 5
1.1. Tổng quan về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp 5
1.1.1. Khái niệm đầu tư 5
1.1.2. Phân loại hoạt động đầu tư 5
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư tài chính 6
1.1.4. Vai trò của hoạt động đầu tư tài chính 7
1.2. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm 7
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm 7
1.2.2. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm 11
1.2.3. Các phương thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 16
1.2.4. Các tiêu chí đánh giá hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp
bảo hiểm 22
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư tài chính của doanh
nghiệp bảo hiểm 22
1.3. Kinh nghiệm tổ chức quản lý hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo
hiểm ở một số nước 31
1.3.1. Mô hình tổ chức quản lý hoạt động đầu tư 31
1.3.2. Nội dung quản lý 32
1.3.3. Quản lý nhà nước với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 32




iv
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH CỦA
TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT
TRIỂN VIỆT NAM (BIC) 35
2.1. Khái quát về Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam 35
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty bảo hiểm ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 35
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của BIC 38
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của BIC 41
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Bảo hiểm Đầu tư và
Phát triển Việt Nam 50
2.2.1. Tổ chức hoạt động đầu tư tài chính của BIC 50
2.2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 53
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư tài chính tại BIC 69
2.3.1. Kết quả đạt được 69
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 71
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI
CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM (BIC) 74
3.1. Định hướng phát triển hoạt động đầu tư tài chính của BIC 74
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính BIC 75
3.2.1. Giải pháp tăng cường quy mô và tính ổn định đầu tư tài chính của
BIC 75
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của
BIC 77
3.3. Kiến nghị 88
KẾT LUẬN 92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93



v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
BIC
Công ty Bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2
BIDV
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
3
ĐTTC
Đầu tư tài chính








DANH MỤC HÌNH VẼ


TT
SỐ HIỆU
NỘI DUNG
TRANG
1
Hình 2.1
Cơ cấu tổ chức BIC 2012
40
2
Hình 2.2
Biểu đồ phân chia phí bảo hiểm theo loại hình kinh
doanh năm 2011
42
3
Hình 2.3
Mô hình tổ chức của ban đầu tư
51
4
Hình 2.4
Quy trình đầu tư tài chính tại ban Đầu tư
52

i


ii
DANH MỤC BẢNG

TT
SỐ HIỆU

NỘI DUNG
TRANG
1
Bảng 2.1
Các công ty con hạch toán phụ thuộc của BIC
năm 2011
41
2
Bảng 2.2
Các nghiệp vụ bảo hiểm tại BIC năm 2011
41
3
Bảng 2.3
Phân chia phí bảo hiểm theo loại hình giai đoạn
2008 - 2011
43
4
Bảng 2.4
Chỉ tiêu tài chính của BIC giai đoạn 2008 - 2011
47
5
Bảng 2.5
Bảng phân chia phí tái bảo hiểm của BIC giai
đoạn 2008 - 2011
48
6
Bảng 2.6
Nguồn hình thành vốn đầu tư của BIC
54
7

Bảng 2.7
Quỹ dự phòng nghiệp vụ của BIC giai đoạn
2008 - 2011
55
8
Bảng 2.8
Giá trị đầu tư thực tế trở lại nền kinh tế của BIC
57
9
Bảng 2.9
Bảng cơ cấu danh mục đầu tư của BIC
61
10
Bảng 2.10
Kết quả đầu tư của BIC năm 2008-2011
65
11
Bảng 2.11
Bảng tỷ suất lợi nhuận đầu tư của BIC trong
tương quan so sánh với số liệu trung bình ngành
và tỷ lệ lam phát từ 2008-2011
66


1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động bảo hiểm giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế không
chỉ góp phần phòng chống, hạn chế, khắc phục các thiệt hại, tổn thất cho nền

kinh tế mà còn đóng vai trò là một trong những tổ chức đầu tư lớn trên thị
trường tài chính. Là một trung gian tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm thu hút,
cung ứng vốn, góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy sự luân
chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Đối với doanh
nghiệp bảo hiểm, đầu tư có hiệu quả sẽ tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp
này tăng khả năng tài chính, từ đó tăng năng lực ký kết hợp đồng bảo hiểm và
có điều kiện để giảm phí bảo hiểm, tăng cường khả năng cạnh tranh. Thực tế
kinh doanh bảo hiểm trên thế giới đã chứng tỏ rằng kết quả kinh doanh của
phần lớn các công ty bảo hiểm là nhờ vào hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư
nói chung và đầu tư tài chính nói riêng có vai trò quan trọng, quyết định sự
tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào.
Hoạt động kinh doanh của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam trong những năm qua đã có những bước phát triển vượt
bậc. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư tài chính của Tổng công ty bảo hiểm ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chưa đạt hiệu quả cao do tỷ trọng đầu tư
chưa cao, phạm vi quá bó hẹp, quá thuần tuý, tính chuyên nghiệp trong quản
lý chưa đồng bộ, mức độ tập trung hóa, đa dạng hóa còn thấp. Khi nền kinh tế
đang phát triển ngày một sôi động đòi hỏi Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam cần phải nâng cao hoàn thiện hóa đồng bộ các
hoạt động đầu tư để đem lại khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị
trường. Để thực hiện được công việc này thì đòi hỏi phải có những phân tích,


2
đánh giá quá trình hoạt động đầu tư tài chính tại công ty. Do vậy, tác giả chọn
đề tài “Hoạt động đầu tƣ tài chính của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng
đầu tƣ và phát triển Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở
làm nền tảng cho việc phát triển, nâng cao, hoàn thiện chuẩn mực hoạt động
đầu tư của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
trong tương lai.


2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây vấn đề hoạt động đầu tư tài chính trong
doanh nghiệp bảo hiểm đã được nghiên cứu và đề cập ở nhiều góc độ và khía
cạnh khác nhau. Một số chủ đề được nêu ra trong các công trình nghiên cứu
vào những năm gần đây như:
“Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng công ty Bảo Việt” của
Thạc sĩ Bùi Đức Thịnh (2001).
“Giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư tại các doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ ở Việt Nam” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Tú (2008).
“Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại
Tổng công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam” của Thạc sĩ Ngô Thị Kim Liên
(2001).
Các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên được thực trạng hoạt động
đầu tư tại các công ty bảo hiểm trong giai đoạn nghiên cứu và có nhiều đóng
góp quan trọng trong việc hoàn thiện hoạt động đầu tư tài chính tại các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn khác nhau và mỗi công ty với những
đặc điểm riêng lại có những chiến lược kinh doanh riêng để phù hợp với tình
hình thực tế. Do đó tác giả chọn nghiên cứu tình hình đầu tư tài chính tại
Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.


3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư
tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Công ty bảo hiểm
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trên các phương diện huy động, tạo

lập và sử dùng vốn đầu tư.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động đầu tư tài chính
của Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động đầu tư tài chính của
doanh nghiệp bảo hiểm. Về mặt lý luận là các vấn đề cơ bản về hoạt động đầu
tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Về mặt thực tiễn, phân tích và đánh
giá thực trạng hoạt động và đề xuất định hướng giải pháp phát triển hoạt động
đầu tư tài chính tại của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn hoạt động đầu tư tài chính của Tổng
công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam từ năm 2008 đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp và
sử dụng các bảng số liệu để minh họa. Phương pháp nghiên cứu tình huống và
nghiên cứu điển hình lấy Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp trên cơ sở so sánh với toàn
hệ thống các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn


4
cũng vận dụng kết quả các công trình khoa học liên quan để làm phong phú
và sâu sắc hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn hệ thống hóa các quan niệm về đầu tư, từ đó làm rõ bản chất
hoạt động đầu tư tài chính tại các doanh nghiệp bảo hiểm. Luận văn đưa ra ba
nguyên tắc đầu tư cơ bản đối với doanh nghiệp bảo hiểm là: nguyên tắc an
toàn, nguyên tắc sinh lời và nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường

xuyên trên cơ sở phân tích nguồn vốn đầu tư.
Luận văn trình bày có hệ thống các hình thức đầu tư của doanh nghiệp
bảo hiểm: đầu tư tiền gửi, đầu tư chứng khoán, góp vốn, đầu tư bất động sản,
cho vay thế chấp… Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư và một số chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
Bằng số liệu cụ thể, luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng
hoạt động đầu tư của BIC trong những năm gần đây trên các mặt: tổ chức hoạt
động đầu tư; nguồn vốn đầu tư; quy mô, cơ cấu danh mục đầu tư và hiệu quả
hoạt động đầu tư. Thông qua phân tích, luận văn rút ra một số thành quả đạt
được và những hạn chế cần khắc phục đối với hoạt động đầu tư của BIC.
Trên cơ sở đánh giá thị trường và các mục tiêu cơ bản đối với hoạt
động đầu tư của BIC, chương 3 của luận văn đã đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị để thúc đẩy phát triển hoạt động đầu tư tại BIC trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Tổng công ty
bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIC)


5
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính của Tổng
công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIC)



5
CHƢƠNG 1
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH

CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM

1.1. Tổng quan về hoạt động đầu tƣ của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là việc bỏ vốn hay chi dùng vốn cùng với
các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm
thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
Vốn và các nguồn lực khác cho đầu tư là tiền, là tài nguyên thiên nhiên,
sức lao động, trí tuệ, quyền sở hữu Các nguồn lực này sẽ được chủ đầu tư sử
dụng để tạo ra tài sản mới hoặc nâng cao chất lượng của các tài sản hiện có.
Mục đích cuối cùng của các hoạt động đầu tư là thu được những kết
quả nhất định lớn hơn so với nguồn lực đã bỏ ra. Kết quả này cũng biểu hiện
dưới nhiều hình thức: với chủ đầu tư đó là lợi nhuận, với nền kinh tế đó là sự
thỏa mãn nhu cầu cho sinh hoạt và sản xuất, đóng góp cho ngân sách nhà
nước, giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống cho các
thành viên trong xã hội.

1.1.2. Phân loại hoạt động đầu tư
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có
thể phân loại hoạt động đầu tư thành: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và
đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính: Là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho
vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất cố định trước hoặc lãi
suất tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư


6
tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài
sản tài chính của tổ chức hoặc cá nhân đầu tư.
Đầu tư thương mại: Là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để

mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh
lệch giá khi mua và bán. Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới
cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá
trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với
người đầu tư và người đầu tư với khách hàng.
Đầu tư phát triển: Là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực lao động, trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu
trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng, bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động
của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại
và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.

1.1.3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư tài chính
Hoạt động đầu tư tài chính không tạo ra sản phẩm mới cho nền kinh tế
mà chỉ làm tăng giá trị tài sản chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Đầu tư tài
chính có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các trung gian tài chính.
Đầu tư tài chính trực tiếp là việc các chủ thể dư thừa vốn chuyển vốn
trực tiếp cho các chủ thể thiếu vốn là người chi tiêu cuối cùng bằng cách mua
các tài sản tài chính trực tiếp từ người phát hành, tức là người cần vốn. Trong
trường hợp này, luồng tiền vận động thẳng từ người thừa vốn sang người
thiếu vốn.
Đầu tư tài chính gián tiếp thể hiện ở chỗ các chủ thể thừa vốn không
trực tiếp cung ứng vốn cho người thiếu vốn là người sử dụng cuối cùng mà
gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, các tổ chức nhận


7
tiền gửi tiết kiệm và cho vay, các công ty bảo hiểm hay các tổ chức tài chính
tín dụng khác.


1.1.4. Vai trò của hoạt động đầu tư tài chính
Vai trò nổi bật nhất của hoạt động đầu tư tài chính là hoạt động đầu tư
cung cấp một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tức là chuyển vốn từ
tiết kiệm sang đầu tư. Hoạt động đầu tư tài chính giúp chuyển vốn từ những
người có vốn nhàn rỗi đến những người cần vốn để đầu tư vào tài sản hữu hình,
tạo ra hình thức chuyển vốn theo một phương thức sao cho những rủi ro không
tránh khỏi, liên quan đến dòng tiền mà tài sản hữu hình tạo ra, được phân bổ lại
giữa những người đang gọi vốn và những người cung cấp vốn.
Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được
lưu chuyển một cách dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng thông qua
việc chuyển nhượng, mua bán các công cụ tài chính trên thị trường tài chính,
điều này đã khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư.

1.2. Hoạt động đầu tƣ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm
Theo điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ban hành năm 2000
kinh doanh bảo hiểm được hiểu là “Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lời theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của
người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Cũng theo
điều 3 khoản 5, doanh nghiệp bảo hiểm là “doanh nghiệp được thành lập, tổ
chức và hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy


8
định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm và tái bảo
hiểm”. Công ty bảo hiểm có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, công ty bảo hiểm là doanh nghiệp chuyên ngành. Công ty
bảo hiểm là doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng như các doanh nghiệp khác

hoạt động trong nền kinh tế quốc dân, do đó cũng mang đặc trưng của một
doanh nghiệp, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình và trong
khuôn khổ pháp lý nhất định. Tuy vậy, ngành bảo hiểm là một ngành đặc thù
trong nền kinh tế, ngoài những quy định của Luật doanh nghiệp và hành lang
pháp lý chung, công ty bảo hiểm còn hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật
kinh doanh bảo hiểm và những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật
này. Bên cạnh đó, công ty bảo hiểm còn chịu sự quản lý chặt chẽ của cơ quan
quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm thường là Bộ Tài chính hoặc
những cơ quan có thẩm quyền tương đương do Nhà nước quy định. Sản phẩm
bảo hiểm là loại hình sản phẩm đặc thù, đây là sản phẩm không thể định hình
hay định dạng, người mua không mong đợi được hưởng do sản phẩm này gắn
liền với rủi ro. Chỉ khi xảy ra rủi ro thì người mua bảo hiểm mới nhận thức
được nó thông qua việc bồi thường trên cơ sở số tiền bảo hiểm.
Thứ hai, công ty bảo hiểm là trung gian tài chính. Hoạt động kinh
doanh bảo hiểm thể hiện vai trò trung gian tài chính của công ty bảo hiểm.
Thông qua việc cung cấp những dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng với mức
phí bảo hiểm phù hợp thì tổng nguồn phí bảo hiểm sẽ hình thành nên doanh
thu phí bảo hiểm gốc và những quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Do đặc
điểm của hợp đồng bảo hiểm là phí bảo hiểm được thanh toán trước những
cam kết thanh toán sẽ được thực hiện sau một khoảng thời gian. Chính vì thế,
phí bảo hiểm thu được chính là khoản nợ của công ty bảo hiểm đối với khách
hàng nhằm đảm bảo những cam kết đối với những người tham gia bảo hiểm.
Hoạt động mang tính chất then chốt, mang ý nghĩa sống còn với công ty bảo


9
hiểm chính là hoạt động đầu tư. Nguồn vốn tích tụ dưới dạng phí bảo hiểm sẽ
được mang đi đầu tư nhằm thu lãi. Ngoài ra công ty bảo hiểm còn thực hiện
những hoạt động đặc trưng của trung gian tài chính như: trung gian về quy mô
nguồn vốn tập trung những nguồn vốn với quy mô nhỏ, đối tượng sử dụng

rộng, những khoản tiết kiệm trong từng hộ gia đình thành nguồn vốn quy mô
lớn, tập trung; trung gian về thời hạn từ nguồn phí bảo hiểm thu định kỳ trong
những thời hạn khác nhau thì công ty bảo hiểm có thể chuyển thành nguồn
vốn lớn được đầu tư theo thời hạn cụ thể; trung gian về tài sản tài sản bằng
tiền từ những quỹ dự phòng nghiệp vụ sẽ được chuyển thành những tài sản tài
chính (nếu đầu tư tài chính) hoặc tài sản thực (nếu đầu tư bất động sản, góp
vốn liên doanh sản xuất )
Thứ ba, công ty bảo hiểm thường không vay vốn phục vụ kinh doanh
bảo hiểm. Khi mới thành lập công ty bảo hiểm phải có mức vốn điều lệ nhất
định và thông thường sẽ phải ký quỹ một phần vốn điều lệ để đảm bảo khả
năng thanh toán. Phần còn lại sẽ được sử dụng tích lũy tại công ty dùng cho
những hoạt động đầu tư ban đầu và làm cơ sở đảm bảo cho các hợp đồng bảo
hiểm mới. Sau khi những hợp đồng bảo hiểm được cung cấp, số phí bảo hiểm
thu được sẽ trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ theo quy định, một phần chuyển
tái bảo hiểm. Các quỹ này cùng với vốn chủ sở hữu sẽ được phép đầu tư theo
quy định nhằm thu lợi nhuận. Nguồn lợi nhuận này chiếm tỷ trọng lớn trong
toàn bộ lợi nhuận của công ty bảo hiểm. Theo thời gian hoạt động, quỹ này sẽ
ngày càng lớn và công ty bảo hiểm trở thành những nhà đầu tư hùng mạnh.
Thứ tư, hoạt động của công ty bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế. Tầm quan trọng của công ty bảo hiểm được xét trên hai khía cạnh
là khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Trên khía cạnh kinh tế, công ty bảo
hiểm có vai trò đảm bảo an toàn cho các khoản đầu tư. Có thể nói chính các
công ty bảo hiểm là người xây dựng nên những thành phố, nhà máy rộng


10
lớn bởi vì không có nhà đầu tư nào dám bỏ những khoản tiền khổng lồ để
xây dựng những công trình như vậy nếu không được sự đảm bảo an toàn cho
khoản tiền của mình bằng việc tham gia bảo hiểm. Trên khía cạnh xã hội, mục
đích của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là lấy những khoản tiền do toàn bộ

những người được bảo hiểm đóng góp bồi thường cho một số người trong số
họ gặp rủi ro hay nói cách khác là sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia
bảo hiểm.
Thứ năm, hoạt động của công ty bảo hiểm được Nhà nước kiểm soát
chặt chẽ. Hoạt động của công ty bảo hiểm có ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm, tới thị trường tài chính và tới toàn bộ nền kinh tế
nên được kiểm soát rất chặt chẽ. Pháp luật thường quy định cụ thể và chi tiết
về hoạt động của công ty bảo hiểm để đảm bảo quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm, định hướng lưu chuyển các quỹ đầu tư và giảm nguy cơ tập trung
quyền lực trong lĩnh vực tài chính. Với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước về
hoạt động, đảm bảo cho công ty bảo hiểm bảo toàn được nguồn vốn đầu tư,
tránh tình trạng thất thoát vốn, đảm bảo được quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm. Ngoài ra nguồn vốn tích lũy hàng năm của công ty bảo hiểm được
tổng hợp thành các quỹ đầu tư khổng lồ. Sự luân chuyển vốn của những quỹ
này thường theo nguyên tắc chung là vận hành từ những lĩnh vực có tỷ suất
lợi nhuận thấp sang những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao hơn. Việc
luân chuyển dòng vốn đầu tư khổng lồ như vậy đôi khi ảnh hưởng tới cơ cấu
đầu tư của toàn nền kinh tế và không chú trọng đến những lĩnh vực phi lợi
nhuận và hoạt động cộng đồng. Do đó, cần sự can thiệp của Nhà nước bằng
các chính sách thích hợp để điều chỉnh hoạt động của những quỹ đầu tư này
nhằm đảm bảo cân đối đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế, cân bằng vốn đầu tư
đối với lĩnh vực công cộng, đảm bảo toàn bộ nguồn vốn này được đầu tư vào
nền kinh tế trong nước, tránh đầu tư ra nước ngoài và có thể bổ sung vào cán


11
cân ngân sách của Chính phủ khi cần thiết. Các quỹ đầu tư của công ty bảo
hiểm chỉ đứng sau các ngân hàng thương mại trên thị trường tài chính, vì vậy
Nhà nước phải kiểm soát sự đa dạng hóa danh mục đầu tư của công ty bảo
hiểm nhằm ngăn chặn sự kiểm soát và khống chế của công ty bảo hiểm với

những tổ chức tài chính khác hoặc một ngành, một hoạt động kinh doanh cụ
thể, chống lại sự độc quyền trong việc thâu tóm những hoạt động kinh doanh
lớn thông qua hoạt động đầu tư.

1.2.2. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.2.1. Đặc điểm hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Bảo hiểm là một hoạt động tương trợ, tương hỗ, được hợp bởi sự tiết
kiệm của nhiều cá nhân nhằm bù đắp những hậu quả thiệt hại do những sự
kiện ngẫu nhiên tác động đến con người hoặc tài sản. Đặc thù riêng của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm là “sự đảo ngược của chu kỳ kinh doanh”. Việc
tiêu thụ sản phẩm dựa trên quy trình: phí bảo hiểm (tiền bán sản phẩm bảo
hiểm) được thu trước, còn cam kết bồi thường, trả tiền bảo hiểm (giá trị sử
dụng của sản phẩm) chỉ được thực hiện sau khi mua một khoảng thời gian
nhất định nào đó. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm có trong tay một quỹ tài
chính rất lớn, chưa sử dụng ngay cho hoạt động bồi thường nên các doanh
nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng tiền nhàn rỗi này để đầu tư trở lại nền kinh tế.
Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng tham gia bảo hiểm, các doanh
nghiệp bảo hiểm thường có vốn chủ sở hữu khá lớn để đáp ứng yêu cầu về
vốn pháp định cũng như về quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện. Như vậy, bên
cạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp bảo hiểm còn bao gồm cả hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp bảo hiểm được hiểu là hành động chi dùng vốn nhàn rỗi từ vốn
chủ sở hữu và phí bảo hiểm thu được nhằm mục đích thu lợi nhuận trong


12
tương lai cho doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung, hoạt động đầu tư được phân thành hai
loại chính là đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính. Trong khuôn khổ của luận
văn, tác giả chỉ đề cập nghiên cứu đến hoạt động đầu tư tài chính của doanh

nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm mang những
đặc điểm chung của quá trình đầu tư là nguồn vốn, hình thức và phân chia lợi
nhuận sau quá trình đầu tư. Tuy nhiên do đặc thù của hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm có những
đặc điểm riêng:
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ bao gồm
những nguồn vốn hình thành từ vốn chủ sở hữu và nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ
dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, phần
lớn nguồn vốn có thể đầu tư là nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp
vụ, được tích tụ từ phí bảo hiểm thu được. Trong khi các hoạt động khác được
sử dụng toàn bộ những nguồn vốn có thể để phục vụ quá trình đầu tư thì công
ty bảo hiểm chỉ được phép sử dụng một phần của quỹ dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm để đầu tư. Phần còn lại, theo quy định Luật kinh doanh bảo hiểm,
phải được giữ lại nhằm đảm bảo những nhu cầu thanh toán bồi thường và chi
trả thường xuyên trong kỳ.
Thứ hai, doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu sự giám sát chặt chẽ của
Nhà nước bằng hệ thống những văn bản quy định hình thức và tài sản được
phép đầu tư. Pháp luật sẽ quy định rõ doanh nghiệp bảo hiểm được đầu tư
nguồn vốn nhàn rỗi vào những hình thức đầu tư cụ thể nào và với giới hạn tối
đa nguồn vốn được phép đầu tư là bao nhiêu. Với danh mục đầu tư được quy
định cụ thể, doanh nghiệp bảo hiểm còn phải tuân thủ mức giới hạn cho mỗi
hình thức đầu tư. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng không thể sử dụng toàn bộ


13
nguồn vốn cho một hình thức đầu tư. Tùy theo tính chất hoạt động của công
ty bảo hiểm là nhân thọ hay phi nhân thọ mà giới hạn cho mỗi khoản mục đầu
tư này được quy định khác nhau.
Thứ ba, nguyên tắc đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm ngoài việc

đảm bảo những nguyên tắc chung còn phải tuân thủ những nguyên tắc riêng.
Ngoài những nguyên tắc đầu tư chung như bảo toàn và phát triển vốn đầu tư,
đem lại lợi nhuận đầu tư mong muốn và góp phần vào sự phát triển kinh tế xã
hội thì hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm còn phải đảm bảo những
nguyên tắc riêng sẽ được làm rõ ở mục 1.2.2.2 dưới đây.

1.2.2.2. Nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Đầu tiên là nguyên tắc an toàn: hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
phải đảm bảo độ an toàn cho nguồn vốn một cách cao nhất. Nguyên tắc này
được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu tư, bảo toàn nguồn vốn sử
dụng. Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm luôn đứng trước những
rủi ro đầu tư sau:
- Rủi ro về lãi suất: Rủi ro này xuất phát từ chỗ giá trị của các khoản
đầu tư có lãi suất cố định chịu sự biến động khi lãi suất trên thị trường thay
đổi và tỷ suất thu hồi thực (tức là lãi suất đã điều chỉnh theo lạm phát).
- Rủi ro tín dụng: Rủi ro này xảy ra khi bên vay vốn của doanh nghiệp
bảo hiểm bị phá sản hay tái cơ cấu tổ chức, khiến họ không thể trả lại tiền đầu
tư cho doanh nghiệp bảo hiểm như đã cam kết.
- Rủi ro thị trường: Rủi ro này xuất phát từ sự thay đổi của thị trường
thuộc lĩnh vực mà doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư.
- Rủi ro tiền tệ: Tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ luôn thay
đổi làm cho giá trị các khoản đầu tư không định giá bằng đồng ngoại tệ sẽ
thay đổi theo.


14
Việc đảm bảo nguyên tắc đầu tư vốn an toàn là rất quan trọng, đảm bảo
cho doanh nghiệp thực hiện các cam kết với khách hàng trong các hợp đồng
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nguyên tắc an toàn của các khoản mục đầu tư
được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư với những lĩnh

vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp. Ngoài ra, nguyên tắc này yêu cầu doanh
nghiệp bảo hiểm phải đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình.
Nguyên tắc thứ hai cần đảm bảo là nguyên tắc sinh lời. Hoạt động đầu
tư là nguồn chính tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm - nguồn vô
cùng quan trọng giúp doanh nghiệp bảo hiểm tăng cường sức mạnh tài chính,
thực hiện các chiến lược kinh doanh. Vì vậy, hoạt động đầu tư cần thiết phải
có một tỷ suất sinh lời tốt. Tuy vậy, nguyên lý đầu tư là rủi ro đầu tư càng cao
thì tỷ suất lợi nhuận đầu tư càng cao và ngược lại. Do đó, nhà quản lý quỹ đầu
tư của doanh nghiệp bảo hiểm cần lựa chọn một cơ cấu danh mục cân đối để
đảm bảo cả nguyên tắc an toàn và nguyên tắc sinh lời.
Nguyên tắc thứ ba cần đảm bảo là nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh
toán thường xuyên. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải chi trả bồi thường cho
khách hàng bất kỳ lúc nào khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra bởi vậy danh mục đầu
tư phải cân đối về thời hạn (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) để có thể đáp ứng
nhu cầu thanh toán thường xuyên. Tính thanh khoản của các khoản mục đầu tư
của doanh nghiệp bảo hiểm cũng được pháp luật thể chế hóa bằng việc quy định
danh mục đầu tư với tỷ lệ nhất định. Trong thực tế, việc đồng thời thực hiện các
nguyên tắc trên đối với doanh nghiệp bảo hiểm là một vấn đề rất phức tạp vì khi
thực hiện nguyên tắc an toàn, và khả năng thanh toán thường xuyên thì khả năng
sinh lời sẽ giảm xuống và ngược lại. Việc phân bổ nguồn vốn vào các loại hình
đầu tư, xác định cơ cấu danh mục đầu tư hợp lý là vô cùng quan trọng và đòi hỏi
trình độ và kinh nghiệm của người quản lý quỹ đầu tư.



15
1.2.2.3. Vai trò của hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Có thể nói hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm có vai trò rất lớn
không những với bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, đầu tư có tầm quan trọng sống còn đối

với hoạt động kinh doanh. Hoạt động đầu tư ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao sẽ giúp
doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí bảo hiểm, từ đó dành được
khách hàng từ các đối thủ cạnh tranh. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong điều
kiện thị trường bảo hiểm đang cạnh tranh gay gắt thông qua hạ phí bảo hiểm,
trong khi đó tỷ lệ bồi thường/phí bảo hiểm luôn ở mức cao nên hầu như toàn
bộ chi phí hoạt động và lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm đều lấy từ lãi
đầu tư. Hơn nữa, hoạt động đầu tư còn đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm, giúp mở rộng quy
mô doanh nghiệp, tăng cổ tức cho cổ đông, tăng quỹ phúc lợi và thu nhập cho
người lao động. Ngoài ra, hoạt động đầu tư có thể góp phần thúc đẩy hoạt
động bảo hiểm thông qua việc khuyếch trương quảng cáo công ty thông qua
các dự án góp vốn hoặc yêu cầu sự hợp tác về bảo hiểm với các đơn vị mà
doanh nghiệp bảo hiểm góp vốn, đầu tư trái phiếu, tiền gửi (bán chéo sản
phẩm qua ngân hàng).
Đối với xã hội, vai trò của hoạt động đầu tư được thể hiện rõ nét nhất
thông qua vị trí của doanh nghiệp bảo hiểm trong cấu trúc của hệ thống thị
trường tài chính. Bên cạnh các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu
tư thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng là một trung gian tài chính, thực hiện thu hút
vốn nhàn rỗi từ các tổ chức cá nhân dưới hình thức phí bảo hiểm và cung ứng
vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động đầu tư. Qua đó góp phần đáp ứng nhu
cầu về vốn, thúc đẩy sự luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền
kinh tế. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn có tác


16
động không nhỏ đến sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế,
tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần ổn định xã hội, tăng thu
cho ngân sách nhà nước và tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân.
1.2.3. Các phương thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm

Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm là hoạt động đầu tư tài
chính và chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường tài chính, bao gồm các
hoạt động cơ bản sau:

1.2.3.1. Đầu tư tiền gửi
Đầu tư tiền gửi là việc doanh nghiệp bảo hiểm gửi tiền có kỳ hạn tại
các Tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại, công ty tài chính…) để hưởng
lãi theo lãi suất đã thỏa thuận tại các hợp đồng tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi…
Hoạt động đầu tư tiền gửi đơn giản và có độ rủi ro thấp nhất trong các
loại hình đầu tư. Thực tế, loại hình đầu tư này không bị giới hạn bởi quy định
của pháp luật và thường chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong cơ cấu danh mục
đầu tư do nó đảm bảo tính an toàn nhất định cho doanh nghiệp bảo hiểm.

1.2.3.2. Đầu tư chứng khoán
Các khoản đầu tư chứng khoán có khả năng mang lại lãi cổ tức và lãi vốn
lớn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Đồng thời, các chứng khoán thường có tính
thanh khoản cao, doanh nghiệp bảo hiểm có thể nhanh chóng bán các loại chứng
khoán trên thị trường để đáp ứng nhu cầu chi trả tiền mặt của doanh nghiệp. Hai
công cụ chính trên thị trường chứng khoán là trái phiếu và cổ phiếu.
Đầu tư trái phiếu:
Trái phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức
chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ (gồm vốn gốc và lãi)


17
của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Căn cứ vào
chủ thể phát hành, trái phiếu gồm có 3 loại là:
- Trái phiếu chính phủ: là trái phiếu do Chính phủ và Chính quyền địa
phương phát hành để có nguồn tài chính tài trợ cho việc phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng các công trình công cộng.

- Trái phiếu công ty: là trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn
trong nền kinh tế để tài trợ cho các nhu cầu vốn lớn có tính chất dài hạn của
công ty.
- Trái phiếu của Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phát
hành để huy động nguồn tài chính dài hạn.
Nhìn chung trái phiếu là một loại đầu tư lớn nhất trong danh mục đầu
tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thế giới vì nó là một khoản đầu tư
tương đối an toàn với các ưu thế sau:
- Một là, đầu tư trái phiếu mang lại thu nhập thường xuyên ổn định.
Lãi suất của trái phiếu thường được ấn định ngay từ đầu và cố định
trong suốt vòng đời của trái phiếu nên có thể coi trái phiếu là một loại đầu tư
có thu nhập cố định. Ngoài ra, nhà đầu tư có thể thu được khoản chênh lệch
giá từ việc bán trái phiếu trước hạn. Đặc điểm này tạo điều kiện cho nhà đầu
tư có thể tính được dòng thu nhập dự kiến trong tương lai. Hơn nữa, lãi suất
này thường là cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng cùng kỳ hạn, đặc biệt đối
với trái phiếu công ty.
Khả năng chuyển đổi của trái phiếu trước ngày đáo hạn cũng đảm bảo
cho khả năng huy động vốn dài hạn của người phát hành và thu hồi vốn nhanh
chóng của người mua. Trong trường hợp cần thiết, doanh nghiệp bảo hiểm có
thể bán trái phiếu một cách nhanh chóng để thực hiện nghĩa vụ với khách
hàng. Tuy nhiên, để thực hiện được việc chuyển nhượng trái phiếu dễ dàng,
nhanh chóng đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán phát triển.


18
- Hai là, trái phiếu có độ an toàn cao. Trái phiếu trên thị trường thường
do chính phủ hoặc các tập đoàn lớn, các công ty có uy tín phát hành. Do vậy,
việc thanh toán gốc và lãi trái phiếu thường được đảm bảo khá chắc chắn.
Nếu người phát hành trái phiếu không thể thanh toán đúng hạn, người nắm
giữ trái phiếu có quyền khiếu nại trên số tài sản của người phát hành. Và

trong trường hợp các công ty bị giải thể hoặc thanh lý thì trái phiếu lại được
ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Hơn nữa, đối với mục tiêu mua và lưu
giữ trái phiếu thì việc biến động giá trái phiếu không ảnh hưởng đến dòng thu
nhập từ lãi trái phiếu và số vốn thu hồi. Đặc điểm này rất phù hợp với các công
ty đầu tư bằng nguồn vốn dài hạn.
Với các ưu điểm trên, trong những năm gần đây, đầu tư vào trái phiếu
đang chiếm tỷ trọng khá lớn trong danh mục đầu tư của các doanh nghiệp bảo
hiểm trên thế giới. Tuy nhiên, khi thực hiện đầu tư vào trái phiếu, các nhà đầu
tư phải chịu những rủi ro nhất định. Rủi ro cơ bản nhất đó là rủi ro tín dụng và
rủi ro lãi suất. Mức rủi ro của mỗi trái phiếu phụ thuộc vào tiềm lực tài chính
của đơn vị phát hành, các bảo đảm kèm theo (tài sản bảo đảm, bảo lãnh thanh
toán…) và kỳ hạn, lãi suất (thả nổi hay cố định), tính chất trái phiếu (trái
phiếu có thể thu hồi, trái phiếu có thể chuyển đổi…).
Đầu tư cổ phiếu:
Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi
sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Khi các
doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào cổ phiếu, họ được hưởng các quyền đối
với công ty với tư cách là người sở hữu với mức độ tương ứng với loại hình
cổ phiếu và tỷ lệ cổ phiếu họ nắm giữ.
Có 2 loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Điểm khác
biệt cơ bản giữa 2 loại cổ phiếu này là thu nhập cổ tức hàng năm. Tùy theo
tình hình hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu mà nhà đầu tư


19
nắm giữ cổ phiếu thường (cổ đông thường) có thể nhận được cổ tức cao hoặc
thấp hoặc là không có. Trong khi đó, nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu ưu đãi (cổ
đông ưu đãi) được nhận cổ tức theo tỷ lệ cố định hàng năm trừ khi công ty
không có đủ lợi nhuận để trả và được ưu tiên nhận cổ tức trước cổ đông
thường. Ngoài ra, cổ đông ưu đãi không có quyền bỏ phiếu cho những vấn đề

ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của công ty như cổ đông thường. Như vậy,
đầu tư vào cổ phiếu thường có mức độ rủi ro cao hơn đầu tư vào cổ phiếu ưu
đãi nhưng tỷ suất lợi nhuận cũng lớn hơn.
Khi đầu tư cổ phiếu, trường hợp công ty làm ăn có lãi, nhà đầu tư có thể
thu được lợi nhuận dưới dạng cổ tức, và lãi càng lớn thì cổ tức được chia càng
nhiều, từ đó tăng thu nhập cho nhà đầu tư. Ngoài ra người giữ cổ phiếu nhận
được thu nhập từ cổ phiếu thông qua khoản chênh lệch giá khi bán cổ phiếu.
Bên cạnh đó, khả năng chuyển nhượng của cổ phiếu cho phép nhà đầu
tư có thể bán một phần hoặc toàn bộ số cổ phần mình sở hữu khi cần thiết để
đáp ứng nhu cầu về vốn tại một thời điểm nhất định. Tuy nhiên để thực hiện
được điều này cũng đòi hỏi phải có một thị trường chứng khoán phát triển.
Ngoài ra thu nhập từ cổ phiếu không bị đánh thuế thu nhập vì cổ tức
được chia từ phần lợi nhuận sau thuế của công ty cổ phần.
Bên cạnh những ưu thế trên, đầu tư cổ phiếu cũng có những bất lợi sau:
- Một là, chi phí để thu thập thông tin khi tiến hành đầu tư cao ảnh
hưởng đến lợi nhuận đầu tư.
- Hai là, sự không ổn định của nguồn thu nhập từ cổ phiếu. Do lượng cổ
tức được hưởng phụ thuộc chủ yếu vào kết quả hoạt động kinh doanh của công
ty phát hành và chính sách chia cổ tức của công ty. Trong trường hợp công ty
làm ăn không có lãi hoặc ban quản trị công ty quyết định giữ lại toàn bộ lợi
nhuận để tăng vốn thì nhà đầu tư sẽ không được chia cổ tức. Do vậy, nhà đầu
tư khó dự đoán được chính xác nguồn thu nhập dự kiến trong tương lai.


20
- Ba là, người giữ cổ phiếu có quyền ưu tiên thấp hơn người giữ trái
phiếu đối với các tài sản của công ty trong trường hợp công ty phá sản. Người
giữ cổ phiếu sẽ chỉ được trả tiền nếu quỹ còn lại sau khi thanh toán cho người
giữ trái phiếu và các chủ nợ khác.
- Bốn là, sự biến động bất thường của giá cổ phiếu do tác động của rất

nhiều yếu tố khác nhau làm nhà đầu tư không thể dự đoán trước được. Giá cổ
phiếu thường có xu hướng biến động nhiều hơn giá trái phiếu vì cổ phiếu
không có ngày đáo hạn và không có giá trị đáo hạn.
Vì mức độ rủi ro cao hơn và đặc điểm dòng tiền không đều của cổ
phiếu nên các nhà bảo hiểm bị luật pháp hạn chế về tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu.
Ngoài ra, để đa dạng hoá danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro đầu tư,
doanh nghiệp bảo hiểm cũng thực hiện đầu tư vào các công cụ tài chính khác
như các hợp đồng quyền chọn mua, quyền chọn bán, các hợp đồng kỳ hạn…
Tuy nhiên, việc đầu tư vào các công cụ này chỉ được thực hiện tại các nước có thị
trường tài chính phát triển.

1.2.3.3. Góp vốn
Góp vốn là hình thức doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vốn thành lập hoặc
mua lại phần vốn góp tại công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết.
Với hình thức đầu tư này, chủ đầu tư được tham gia quá trình quản lý công ty,
và được hưởng lãi theo kết quả kinh doanh dưới dạng lãi liên doanh.
Ưu điểm của hình thức này là lãi liên doanh không phải chịu thuế thu
nhập vì nó được trích từ nguồn lợi nhuận sau thuế của công ty. Nếu công ty
làm ăn thuận lợi thì nhà đầu tư có cơ hội có được một khoản thu nhập bền
vững trong dài hạn. Tuy nhiên, ngược lại nếu kinh doanh gặp khó khăn thì
nhà đầu tư sẽ không thu được lãi, thậm chí cả vốn, trong trường hợp công ty
làm ăn thua lỗ phá sản. Một điểm nữa là hiệu quả của công việc góp vốn liên

×