Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Định giá Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu niên tiền phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.4 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ






TRẦN THỊ THÙY HƯƠNG







ĐỊNH GIÁ CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA THIẾU NIÊN
TIỀN PHONG





LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
















Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




TRẦN THỊ THÙY HƯƠNG







ĐỊNH GIÁ CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA THIẾU NIÊN
TIỀN PHONG

Chuyên ngành: Tài chính và Ngân hàng
Mã số : 60 34 20




LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ KIM SƠN








Hà Nội – 2012

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan bản luận văn “Định giá Công ty Cổ phần Nhựa
Thiếu Niên Tiền Phong ” tôi đã thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn trực
tiếp của TS. Đỗ Kim Sơn. Luận văn không hề sao chép các công trình nghiên
cứu hay đề tài khoa học đã được công bố. Trường hợp có sử dụng tư liệu trích
dẫn đều có giải thích về nguồn trích dẫn và tác giả.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Kim Sơn, người đã
tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn trong suốt quá trình thực hiện luận
văn.
MỤC LỤC
Trang

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC BẢNG BIỂU ii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ iii
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP 5
1.1. GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 5
1.1.1. Giá trị doanh nghiệp 5
1.1.2. Các căn cứ để định giá doanh nghiệp 7
1.2.ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 10
1.2.1. Khái niệm về định giá doanh nghiệp và công tác định giá doanh nghiệp 10
1.2.2. Sự cần thiết phải định giá doanh nghiệp 11
1.2.3. Mục tiêu của định giá doanh nghiệp 13
1.2.4. Phương pháp định giá doanh nghiệp 15
1.3. YÊU CẦU CỦA ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP 33
1.3.1. Đảm bảo tính chính xác 33
1.3.2. Đảm bảo tính nhanh chóng và đúng thời điểm 33
1.3.3. Đảm bảo tính khách quan và trung thực 34
1.3.4. Phương pháp định giá doanh nghiệp phải phù hợp 34
CHƯƠNG 2: ĐỊNH GIÁ CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA THIẾU NIÊN TIỀN
PHONG 35
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA THIẾU NIÊN TIỀN
PHONG 35
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 35
2.1.2. Ngành nghề kinh doanh 37
2.1.3. Sản phẩm chủ yếu 37
2.1.4. Cơ cấu tổ chức và lao động 39


2

2.1.5. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong thời gian qua 40

2.2. ĐỊNH GIÁ CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA THIẾU NIÊN TIỀN PHONG. 42
2.2.1. Cơ sở pháp lý 42
2.2.2. Những điểm đột phá của văn bản áp dụng hiện hành 42
2.2.3. Định giá Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong 44
2.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐỊNH GIÁ CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA THIẾU
NIÊN TIỀN PHONG 58
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾT QUẢ ĐỊNH GIÁ CÔNG TY
CỔ PHẦN NHỰA THIẾU NIÊN TIỀN PHONG 61
3.1. CÁC GIẢI PHÁP 61
3.1.1. Xây dựng quy trình định giá doanh nghiệp cho Công ty Cổ phần Nhựa
Thiếu niên Tiền Phong 61
3.1.2. Thực hiện định giá doanh nghiệp theo các phương pháp có điều chỉnh:
Vận dụng thước đo EVA trong việc đánh giá thành quả hoạt động của Công ty
Cổ phần Nhựa Thiếu niên Tiền Phong. 67
3.1.3. Cho điểm tín nhiệm doanh nghiệp, từ đó điều chỉnh giá trị doanh nghiệp 75
3.1.4. Áp dụng định giá tài sản cố định vô hình như giá trị thương hiệu, bản
quyền, phát minh sáng chế vào định giá doanh nghiệp 77
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP HIỆN NAY 80
3.2.1. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tham chiếu phục vụ cho công tác định
giá doanh nghiệp 81
3.2.2. Lành mạnh hoá tài chính và xử lý tồn đọng tài sản trước khi định giá 82
3.2.3. Thành lập Hiệp hội Định giá doanh nghiệp Việt Nam 83
3.2.4. Thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm 84
3.2.5. Xây dựng các chuẩn mực hành nghề và chuẩn mực đạo đức cho việc
thực hiện định giá doanh nghiệp 85



3
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
PHỤ LỤC



i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu Nghĩa đầy đủ
1 CAMP Mô hình định giá tài sản vốn
2 CF Giá trị dòng tiền thuần
3 CPI Chỉ số giá tiêu dùng
4 CRA Tổ chức định mức tín nhiệm
5 DCF Phương pháp chiết khấu dòng tiền
6 DDM Phương pháp chiết khấu dòng cổ tức
7
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
8 EVA Phương pháp giá trị kinh tế gia tăng
9 FCFF Phương pháp chiết khấu dòng tiền tự do
10 FDI Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
11 NĐ/CP Nghị định – Chính phủ
12 ODA Vốn viện trợ của nước ngoài
13 P/E Phương pháp hệ số giá thị trường trên thu nhập
14 SWOT Đây là phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội,
thách thức đối với một tổ chức, một doanh nghiệp.

15 TNDN Thu nhập doanh nghiệp
16 TPCP Trái phiếu Chính phủ
17 TSCĐ Tài sản cố định
18 TSLĐ Tài sản lưu động
19 TT - BTC Thông tư – Bộ Tài chính
20 UBND Ủy ban nhân dân
21 USD Đô la Mỹ
22 VNĐ Việt Nam Đồng
23
VNN
Vốn Nhà nước



ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU


STT

Số hiệu Nội dung Trang
1 Bảng 1.1 Các phương pháp định giá doanh nghiệp trên thế giới 16
2 Bảng 2.1 Tình hình lao động 40
3 Bảng 2.2 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 2007-2011 41
4 Bảng 2.3 Kết quả định giá theo phương pháp FCFF 51
5 Bảng 2.4 Kết quả định giá công ty cổ phần nhựa thiếu niên Tiền
Phong theo phương pháp DCF
56
6 Bảng 2.5 EVA của công ty cổ phần nhựa thiếu niên Tiền Phong 59
7 Bảng 3.1 Lãi suất sử dụng vốn bình quân của công ty cổ phần

nhựa thiếu niên Tiền Phong
69
8 Bảng 3.2 EVA của công ty cổ phần nhựa thiếu niên Tiền Phong
năm 2011
70
9 Bảng 3.3 Phân tích ảnh hưởng của các khoản mục 76













iii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

STT

Số hiệu Nội dung Trang
1 Sơ đồ 2.1 Bộ máy quản lý 39
2 Sơ đồ 3.1 Quy trình định giá doanh nghiệp 64
3 Biểu đồ 3.1 Tiêu thụ sản phẩm nhựa bình quân theo đầu người
tại Việt Nam
66




















1

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Chuyển đổi hình thức sở hữu được coi là nhiệm vụ chiến lược trong
công cuộc đổi mới của đất nước ta, là động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh
và là kênh huy động vốn rất hiệu quả đối với các doanh nghiệp. Một trong
những khâu quan trọng của quá trình này là xác định giá trị doanh nghiệp, nó
là cơ sở có sức chi phối rất lớn đến các quyết định và hành động của chính
phủ, nhà đầu tư, nhà quản lý và các bên liên quan.
Tất cả đều thừa nhận, giá trị doanh nghiệp được xác định hợp lý sẽ đảm

bảo lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích của Nhà nước. Nhưng nhiều ý kiến cho
rằng việc định giá trị doanh nghiệp hiện nay vẫn còn mang tính chủ quan,
hành chính, thiếu sự hỗ trợ của cơ quan tư vấn chuyên môn. Bên cạnh đó việc
xử lý tài chính cũng gây không ít khó khăn cho việc định giá trị doanh nghiệp
cổ phần hoá. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn về tài chính khi chuyển
doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhưng đến nay vấn đề này vẫn
chưa được giải quyết triệt để.
Mỗi doanh nghiệp có đặc điểm riêng về tài sản đầu tư, lao động, ngành
nghề kinh doanh nên việc xác định giá trị doanh nghiệp ở những thời điểm
nhất định là một việc rất phức tạp. Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu Niên Tiền
Phong là một doanh nghiệp có cổ phần Nhà nước chi phối và đang tiến hành
định giá doanh nghiệp lần thứ hai. Trong quá trình xác định giá trị doanh
nghiệp đã gặp phải một số khó khăn như lựa chọn phương pháp xác định,
cách xác định giá trị của tài sản vô hình… điều này cho kết quả xác định giá
trị doanh không đúng hoàn toàn với giá trị thực của nó.
Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
ngoài phương pháp mà Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu niên Tiền Phong đã áp
dụng trong việc định giá doanh nghiệp lần thứ nhất, từ đó đưa ra các đề xuất


2

nhằm khắc phục những sai sót, hạn chế cho các lần định giá sau là rất cần
thiết.
Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Định giá Công ty Cổ phần Nhựa
Thiếu Niên Tiền Phong” làm luận văn thạc sỹ.
2.Tình hình nghiên cứu.
Đã có một số tài liệu, đề tài ở Việt Nam hiện nay có một số công trình,
bài viết đề cập đến vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp như:
- PGS. PTS. Nguyễn Đình Kiệm, PTS. Nguyễn Đăng Nam, “ Quản trị

tài chính doanh nghiệp ”, Nhà xuất bản tài chính – 1999.
- Nguyễn Hải Sản, “Định giá và xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp”,
Nhà xuất bản trẻ – 1999.
- Đỗ Văn Thuận, “Đánh giá giá trị doanh nghiệp khi chuyển nhượng
quyền sở hữu, thanh lý, nhượng bán, giải thể, cổ phần hoá”, Nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Minh Hoàng, “Nguyên lý chung định giá tài sản và giá trị
doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Tài chính - 2005.
Và một số Luận văn thạc sĩ:
- Lê Trần Phương Linh, “Định giá doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá,
thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ - 2005.
- Phạm Quang Anh, “Định giá doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá”,
Luận văn thạc sĩ - 2004…
Có thể thấy phạm vi của các nghiên cứu và các bài viết này chỉ đề cập
đến một số phương pháp phổ biến trong số rất nhiều phương pháp định giá
doanh nghiệp hoặc một số khía cạnh của phương pháp định giá doanh nghiệp
mà thôi.
Tuy nhiên, luận văn này chỉ giới hạn về xác định giá trị doanh nghiệp
với phạm vi nghiên cứu đến năm 2011, đối tượng khảo sát là Công ty Cổ phần


3

Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong và có so sánh với một số doanh nghiệp trong lĩnh
vực bao bì nhựa niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Tổng quan các kết quả nghiên cứu về những vấn đề lý luận cơ bản định
giá doanh nghiệp, công tác định giá doanh nghiệp.
- Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu: Xét về hình thức cổ phần hoá là việc
nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá cổ phần của mình trong doanh nghiệp

cho các tổ chức trong và ngoài doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay
thông qua thị trường chứng khoán .Việc xác định chính xác giá trị doanh
nghiệp sẽ tránh thiệt hại cho hai bên tham gia mua và bán, khi giá trị doanh
nghiệp được định giá thấp hơn giá trị của nó thì làm mất vốn của nhà nước ,
ngược lại định giá cao hơn giá trị doanh nghiệp thì gây thiệt hại cho người
mua và không bán được cổ phần của doanh nghiệp.
- Đối tượng hưởng lợi: Trên cơ sở kết quả định giá doanh nghiệp sẽ giúp
cho các nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư chính xác và hợp lý.
- Định giá doanh nghiệp tại Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu Niên Tiền
Phong qua một số phương pháp khác nhau như Luồng tiền tự do (FCFF),
Luồng tiền chiết khấu (DCF) và giá trị kinh tế gia tăng (EVA).
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện kết quả xác định giá trị doanh
nghiệp tại Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong nói riêng và áp
dụng cho công tác định giá doanh nghiệp nói chung
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: tập trung vào trình tự, công tác tổ chức, thực
hiện định giá doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các phương pháp định giá doanh
nghiệp tại Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong từ năm 2009 đến


4

năm 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu các nội dung của đề tài, tác giả đã dùng
phương pháp phân tích thống kê, tổng hợp và đối chiếu so sánh để nghiên cứu
thực trạng và đưa ra những giải pháp cho hiện tại và tương lai.
6. Dự kiến những đóng góp cho luận văn.
- Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về công tác định giá doanh

nghiệp.
- Định giá doanh nghiệp tại Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu Niên Tiền
Phong qua một số phương pháp khác nhau như Luồng tiền tự do (FCFF),
Luồng tiền chiết khấu (DCF) và giá trị kinh tế gia tăng (EVA).
- Đưa ra giải pháp hoàn thiện kết quả định giá doanh nghiệp tại Công ty
Cổ phần Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong và một số kiến nghị đối với Nhà nước.
7. Bố cục luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày theo 3 chương:
Chương 1 : Lý luận cơ bản về công tác định giá doanh nghiệp
Chương 2 : Định giá doanh nghiệp tại Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu
Niên Tiền Phong.
Chương 3 : Giải pháp hoàn thiện kết quả định giá tại Công ty Cổ
phần Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
1.1
. GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Giá trị doanh nghiệp
Khái niệm về giá trị doanh nghiệp cần được xem xét trên các góc độ về
đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp.
- Thứ nhất: Là một tổ chức, một đơn vị kinh doanh. Nhưng đồng thời
cũng là một hàng hoá đặc biệt. Theo đó, doanh nghiệp cũng có thể trao đổi,
mua bán như những hàng hoá thông thường khác. Khái niệm “doanh nghiệp”
cũng như khái niệm về “giá trị doanh nghiệp” là những khái niệm thuộc phạm
trù của kinh tế thị trường. Quan niệm về giá trị, cũng như tiêu chuẩn để nhận

biết giá trị như đã nêu ở phần trên được sử dụng để định giá doanh nghiệp.
- Thứ hai: Là một tổ chức, một đơn vị kinh tế, không giống như những
tài sản thông thường. Doanh nghiệp là một thực thể kinh tế luôn vận động.
Thông qua sự vận động để nhận ra doanh nghiệp.Doanh nghiệp không phải là
một tập hợp các loại tài sản với nhau. Khi phá sản, doanh nghiệp không còn
tồn tại với tư cách của một tổ chức kinh doanh nữa và chỉ là một sự hỗn hợp
các loại tài sản đơn lẻ, rời rạc để thanh lý, phát mãi như những hàng hoá
thông thường. Nó không còn đầy đủ ý nghĩa của một doanh nghiệp. Chính vì
vậy, giá trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ dùng cho những doanh nghiệp
đang trong quá trình liên tục hoạt động.
- Thứ ba: Là một tổ chức, một đơn vị, một hệ thống và đồng thời cũng
là một phần tử trong hệ thống lớn - nền kinh tế. Do đó, sự tồn tại của doanh
nghiệp là ở mối quan hệ của nó với các phần tử khác của hệ thống, tức là mối
quan hệ với các cơ quan, các thể nhân và pháp nhân kinh tế khác. Sự tồn tại
của doanh nghiệp không chỉ được quyết định bởi các mối quan hệ bên trong
doanh nghiệp mà còn bởi mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài, như: môi


6

trường kinh doanh, nguồn lực, nhà cung cấp ….
Sự phát triển của doanh nghiệp ở mức độ nào là tuỳ thuộc vào mức đô
bền chặt của các mối quan hệ đó với môi trường xung quanh. Doanh nghiệp
có đạt được mục tiêu lợi nhuận của mình hay không sẽ phụ thuộc có tính
quyết định ở các mối quan hệ đó. Chính vì vậy, công tác định giá doanh
nghiệp đòi hỏi phải xem xét tất cả các mối quan hệ nói trên không chỉ đơn
thuần bao gồm nội dung đánh giá về những tài sản trong doanh nghiệp, mà
điều quan trọng hơn là phải đánh giá nó về mặt tổ chức, nguồn nhân lực,
danh tiếng, những triển vọng …
- Thứ tư: Các nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp không nhằm vào việc

sở hữu các tài sản cố định, tài sản lưu động hay sở hữu một bộ máy kinh
doanh năng động mà nhằm vào mục tiêu chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận. Tiêu
chuẩn để đánh giá hiệu quả hoạt động - lợi ích doanh nghiệp đối với các nhà
đầu tư là ở các khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, tại
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, giá trị doanh nghiệp được xác
định căn cứ vào các khoản thu nhập trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Nói tóm lại, giá trị doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền về các khoản
thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đầu tư trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Để định giá doanh nghiệp, xét về mặt nguyên lý, chỉ có thể
tồn tại hai cách tiếp cận, đó là:
(1) Trực tiếp đánh giá giá trị của các tài sản trong doanh nghiệp và
đánh giá giá trị của yếu tố tổ chức.
(2) Bằng một phương pháp nào đó để lượng hoá các khoản thu nhập
mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư một cách đáng tin cậy. Do
đó, trong công tác định giá doanh nghiệp, một phương pháp định giá doanh
nghiệp, được gọi là cơ bản và khoa học, trước hết, phải thuộc vào một trong
hai cách tiếp cận nói trên. Đồng thời, kết quả định giá doanh nghiệp không


7

phải là giá cả của doanh nghiệp vì cũng giống như các loại hàng hoá khác, giá
trị thị trường của doanh nghiệp chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế
khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu … nên kết quả định giá
doanh nghiệp chỉ là một căn cứ, một cơ sở tin cậy để các bên xem xét thương
lượng và thống nhất còn giá cả là giá được thỏa thuận và chấp nhận giữa các
bên.
1.1.2. Các căn cứ để định giá doanh nghiệp
Định giá doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các khoản
thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh,

làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường.
1.1.2.1. Giá trị thị trường
Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán
trên thị trường vào thời điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn
sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán
khách quan và độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường:
+ “Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua
bán trên thị trường ” là số tiền ước tính để tài sản có thể được mua, bán trên
thị trường trong điều kiện thương mại bình thường mà sự mua bán đó thoả
mãn những điều kiện của thị trường tại thời điểm thẩm định giá.
+ “vào thời điểm thẩm định giá ” là ngày, tháng, năm cụ thể khi tiến
hành thẩm định giá, được gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức
mua trên thị trường khi thực hiện thẩm định giá trị tài sản.
+ “giữa một bên là người mua sẵn sàng mua ” là người đang có khả
năng thanh toán và có nhu cầu mua tài sản được xác định giá trị thị trường.
+ “và một bên là người bán sẵn sàng bán ” là người bán đang có
quyền sở hữu tài sản (trừ đất), có quyền sử dụng đất có nhu cầu muốn bán tài
sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường.


8

+ “Điều kiện thương mại bình thường” là việc mua bán được tiến hành
khi các yếu tố cung, cầu, giá cả, sức mua không xảy ra những đột biến do chịu
tác động của thiên tai, địch họa; nền kinh tế không bị suy thoái hoặc phát triển
quá nóng…; thông tin về cung, cầu, giá cả tài sản được thể hiện công khai
trên thị trường.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá hình thành trên thị trường công khai
và cạnh tranh. Thị trường này có thể là thị trường trong nước hoặc thị trường
quốc tế, có thể bao gồm nhiều người mua, người bán hoặc bao gồm một số

lượng hạn chế người mua, người bán.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá ước tính mà trên cơ sở đó, bên bán
và bên mua thoả thuận tại một thời điểm sau khi cả hai bên đã khảo sát, cân
nhắc đầy đủ các cơ hội và lựa chọn tốt nhất cho mình từ các thông tin trên thị
trường trước khi đưa ra quyết định mua hoặc quyết định bán một cách hoàn
toàn tự nguyện, không nhiệt tình mua hoặc nhiệt tình bán quá mức.
1.1.2.2. Giá trị phi thị trường
Giá trị phi thị trường là số tiền ước tính của một tài sản dựa trên việc
đánh giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể
mua bán tài sản trên thị trường.
Cơ sở của việc đưa ra khái niệm giá trị phi thị trường cũng xuất phát
trực tiếp từ khái niệm giá trị tài sản: là biểu hiện bằng tiền về những lợi ích
mà tài sản mang lại cho chủ thể nào đó tại một thời điểm nhất định.
Sau đây một số khái niệm giá trị phi thị trường thường dùng:
- Giá trị còn lại (salvage value): là giá trị của tài sản (bao gồm cả đất
đai) không còn được tiếp tục sửa chữa hay sử dụng nữa. Giá trị này có thể coi
như giá trị ròng của chi phí dỡ bỏ. Trong mọi trường hợp, khi định giá tài sản
cần xác định rõ những bộ phận dỡ bỏ và những bộ phận còn lại của tài sản.


9

- Giá trị tài sản bắt buộc phải bán (forcedsale value): là tổng số tiền hợp
lý có thể thu về từ bán tài sản trong phạm vị thời gian quá ngắn so với thời
gian trung bình cần có để giao dịch mua bán theo giá trị thị trường. Tại một số
nước, giá trị tài sản bắt buộc phải bán có thể liên quan đến tình huống người
bán tài sản chưa sẵn sàng bán và người mua tài sản biết rõ việc chưa sẵn sàng
bán đó.
- Giá trị đặc biệt (special value): là khái niệm có liên quan đến những
yếu tố đặc biệt có thể làm tăng giá trị tài sản lên vượt quá giá trị thị trường.

Giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi một tài sản này có thể gắn liền với một tài
sản khác về mặt kỹ thuật hoặc kinh tế mà sự liên kết đó chỉ thu hút mối quan
tâm đặc biệt của một số ít khách hàng mà không thu hút sự quan tâm của
nhiều người. Các yếu tố của giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi xem xét yếu tố
của giá trị tài sản đang quan tâm hoặc giá trị đầu tư. Thẩm định viên phải
phân biệt rõ ràng những thông số và nguyên nhân để vận dụng các khái niệm
giá trị thị trường nói trên thay vì sử dụng khái niệm giá trị thị trường.
- Giá trị có thể bảo hiểm (insurable value): là giá trị của tài sản quy
định trong hợp đồng bảo hiểm.
- Giá trị có thể tính thuế (taxable value): là giá trị trong phạm vi luật
pháp liên quan đến việc thuê mướn hoặc thu thuế tài sản. Mặc dù một số văn
bản pháp quy trích
- Giá trị đầu tư (investment value): là giá trị của một tài sản đối với một
số nhà đầu tư áp dụng cho một dự án đầu tư nhất định. Khái niệm này liên quan
đến những tài sản riêng biệt với những nhà đầu tư riêng biệt. Không nên nhầm lẫn
giữa giá trị đầu tư và giá trị thị trường. Giá trị đầu tư của một tài sản có thể cao
hơn hoặc thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đó. Tuy nhiên giá trị thị trường có
thể phản ánh một số đánh giá cá nhân về giá trị đầu tư. Giá trị đầu tư có liên quan
đến giá trị đặc biệt


10

- Giá trị đang sử dụng (Value in use): là giá trị các tài sản khi nói đang
được một người cụ thể sử dụng cho một mục đích nhất định. Vì vậy, tài sản
đó không liên quan đến thị trường. Loại giá trị này đóng góp vào một doanh
nghiệp với tư cách là một bộ phận của tài sản doanh nghiệp, không tính đến
giá trị sử dụng tối ưu và tốt nhất của tài sản cũng như số tiền mà tài sản đó
mang lại khi nó được mang ra bán. Xét trên giác độ kế toán, giá trị đang sử
dụng là giá trị hiện tại của luồng tiền mặt ước tính có thể mang lại trong

tương lai kể từ khi bắt đầu sử dụng tài sản đến khi thanh lý tài sản.
Giá trị doanh nghiệp đang hoạt động (going concern): là giá trị toàn bộ
của một doanh nghiệp. Khái niệm này liên quan đến định giá tài sản một
doanh nghiệp đang hoạt động mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh
nghiệp đó không thể tách rời và cũng không thể thẩm định trên cơ sở giá trị
thị trường.
1.2.
ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.2.1. Khái niệm về định giá doanh nghiệp và công tác định giá doanh
nghiệp
Định giá doanh nghiệp là một khâu rất quan trọng trong quá trình đổi
mới doanh nghiệp, cấu trúc lại nền kinh tế và cũng thường được áp dụng khi
các doanh nghiệp tổ chức sắp xếp, cơ cấu lại dây chuyền sản xuất hoặc các bộ
phận sản xuất kinh doanh. Quá trình định giá nhằm mục tiêu tính toán, xác
định giá trị của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Thông thường, đây
là quá trình ước tính khoản tiền mà người mua có thể trả để có được doanh
nghiệp. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế đều cho rằng: Định giá doanh
nghiệp là quá trình mang nhiều tính nghệ thuật hơn là tính chính xác, vì quá
trình định giá doanh nghiệp chủ yếu dựa vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh dự tính trong tương lai chứ không chỉ đơn thuần dựa trên các hoạt động
quá khứ. Điều này đòi hỏi các chuyên gia không những chỉ nắm vững kỹ


11

thuật định giá mà còn phải có khả năng phán đoán nghiệp vụ tốt.
Hoạt động của doanh nghiệp là liên tục và biến đổi không ngừng nên
khi lập báo cáo tài chính người ta không quan tâm đến giá trị thực tế của các
loại tài sản mà chỉ phản ánh tài sản của doanh nghiệp theo “Nguyên tắc giá
gốc”, trên “cơ sở dồn tính” và tính “tiên tục hoạt động”. Theo đó, giá trị

thực tế của doanh nghiệp sau một thời gian hoạt động sẽ không còn phù hợp
với giá trị sổ sách kế toán.
Do vậy, có thể đưa ra khái niệm định giá doanh nghiệp như sau: “Định
giá doanh nghiệp là xác định giá trị ước tính của doanh nghiệp theo giá cả
thị trường” và “Công tác định giá doanh nghiệp là trình tự, cách thức và
phương pháp định giá được áp dụng để tiến hành định giá doanh nghiệp”.
“Giá trị ước tính” của doanh nghiệp gồm hai bộ phận: ”Giá trị thực”
của doanh nghiệp chính là giá trị còn lại của doanh nghiệp theo sổ sách kế
toán được tính theo giá thị trường vào thời điểm định giá và “Giá trị kỳ vọng”
chính là thu nhập kỳ vọng mà doanh nghiệp có thể mang lại cho chủ sở hữu
trong tương lai.
1.2.2. Sự cần thiết phải định giá doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp được coi như là một loại
hàng hoá để được mua bán, được trao đổi. Vì vậy, nhu cầu định giá hay xác
định giá trị đối với loại hàng hoá này là một đòi hỏi khách quan. Trong việc
điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước cũng như trong hoạt động quản trị kinh
doanh của các doanh nghiệp luôn cần thiết các thông tin về giá trị doanh
nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là bao nhiêu, cao hay thấp luôn là mối quan tâm
của các pháp nhân và thể nhân kinh tế có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp
đến các doanh nghiệp được đánh giá, cụ thể:
- Thứ nhất: Đối với các giao dịch hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp
nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch diễn ra có tính chất


12

thường xuyên và phổ biển trong cơ chế thị trường. Nó phản ánh các nhu cầu
về đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, phản ánh nhu cầu đi tìm nguồn
tài trợ cho sự tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố từ bên ngoài, làm gia
tăng một cách nhanh chóng tiềm lực tài chính, nhằm tăng cường giao dịch đó,

đòi hỏi phải có sự đánh giá các yếu tố tác động tới doanh nghiệp; trong đó,
giá trị doanh nghiệp là một yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp
để quyết định mức giá trong các giao dịch.
- Thứ hai: Giá trị doanh nghiệp thực chất là sự phản ánh năng lực tổng
hợp của một doanh nghiệp, phản ánh khả năng tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đó, các nhà quản trị kinh doanh có thể thấy được
khả năng cạnh tranh không chỉ của doanh nghiệp mình mà còn cả khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp khác trong ngành và trong nền kinh tế. Vì
vậy, giá trị doanh nghiệp là một căn cứ thích hợp, là cơ sở để đưa ra các
quyết định về kinh doanh, về tài chính …. một cách đúng đắn. Ngoài ra, khi
phát hành chứng khoán nhằm thu hút vốn trên thị trường cũng cần định giá
doanh nghiệp làm cơ sở để tính toán được số lượng cần thiết cho mỗi đợt phát
hành chứng khoán.
- Thứ ba: Dưới giác độ của các nhà đầu tư, của người cung cấp thì
thông tin về giá trị doanh nghiệp cho thấy một sự đánh giá tổng quát về uy tín
kinh doanh, về khả năng tài chính, về vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra
các quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc có tiếp tục cấp tín dụng cho doanh
nghiệp nữa hay không.
- Thứ tư: Giá cả của các loại chứng khoán trong điều kiện bình thường
(cung cầu về chứng khoán tương đối cân bằng) được quyết định bởi giá trị
thực của doanh nghiệp có chứng khoán được trao đổi, mua bán trên thị
trường. Vì vậy, trên phương diện quản lý kinh tế vĩ mô, thông tin về giá trị
doanh nghiệp được coi là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định


13

chính sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh chứng khoán kịp thời nhận
ra sự biến động không bình thường của giá cả chứng khoán, nhận ra dấu hiệu
của hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường, đầu cơ thâu tóm quyền kiểm soát

doanh nghiệp …để từ đó sớm có biện pháp cần thiết ngăn chặn mối nguy cơ
xẩy ra khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ hiện tượng của một nền “kinh tế ảo”.
- Thứ năm: Nội dung cốt lõi của quản trị tài chính doanh nghiệp, xét
cho đến cùng là phải tăng được giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, việc định giá
doanh nghiệp định kỳ sẽ là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt
động tài chính trong các doanh nghiệp.
- Thứ sáu: Việc xác định và thực hiện tốt các trình tự, cách thức và
phương pháp định giá áp dụng trong quá trình định giá doanh nghiệp sẽ là yêu
cầu căn bản để công tác định giá doanh nghiệp được hiệu quả và đem lại giá
trị phù hợp để các bên có liên quan dễ dàng chấp thuận.
Trên đây là những lý do cơ bản đòi hỏi phải tiến hành công tác định giá
doanh nghiệp. Đó vừa là những yêu cầu đời sống kinh tế nói chung, cũng vừa
là đòi hỏi có tính chất thường nhật trong hoạt động sản xuất kinh doanh đối
với các doanh nghiệp nói riêng. Đó cũng là những đòi hỏi, là mối quan tâm
của 3 loại chủ thể khác nhau: Nhà nước, Nhà đầu tư và Nhà quản trị doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc định giá doanh nghiệp là một vấn đề không đơn giản,
xét cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn của Việt nam cũng như trên thế giới.
1.2.3. Mục tiêu của định giá doanh nghiệp
Việc định giá doanh nghiệp là rất cần thiết do có nhiều đối tượng quan
tâm đến giá trị của doanh nghiệp nhằm những mục đích khác nhau tại các thời
điểm nhất định. Việc xác định giá trị của doanh nghiệp có thể phục vụ một số
mục đích như:
- Định giá doanh nghiệp để bảo hiểm
Các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong các


14

lĩnh vực có nhiều yếu tố rủi ro, cần phải mua bảo hiểm cho quá trình hoạt
động sản xuất cũng như mua bảo hiểm cho các loại tài sản cấu thành nên

doanh nghiệp. Để các công ty bảo hiểm có thể thực hiện tham gia bảo hiểm
tại doanh nghiệp, thì giá trị của doanh nghiệp phải được xác định bởi cả hai
phía - công ty bảo hiểm và doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, hai bên tiến hành
đàm phán để kí hợp đồng bảo hiểm - cơ sở cho việc bảo hiểm tài sản sau này
khi xảy ra các vấn đề cần được bảo hiểm.
- Định giá doanh nghiệp để vay vốn
Doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh luôn cần
vốn cho sự tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, nguồn vốn của doanh nghiệp là
hữu hạn, do vậy, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp phải huy động vốn từ
bên ngoài. Đi vay từ các tổ chức tín dụng là một trong những nguồn huy động
quan trọng nhất của doanh nghiệp. Để có thể vay vốn từ Ngân hàng cũng như
các tổ chức tín dụng khác, ngoài hình thức tín chấp bằng uy tín của người bảo
lãnh hay bằng chính uy tín của doanh nghiệp, thì doanh nghiệp phải có tài sản
thế chấp và tài sản đó có thể là chính giá trị của doanh nghiệp. Vì thế, cả bên
cho vay và bên đi vay phải cùng xác định giá trị của doanh nghiệp làm cơ sở
cho quan hệ tín dụng giữa hai bên.
- Định giá để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động, người chủ, người quản lý doanh nghiệp tiến
hành định giá doanh nghiệp tại thời điểm bất kì, mà người đó muốn và thấy
rằng cần thiết để xem xét tình hình hoạt động của doanh nghiệp như thế nào.
Trên cơ sở so sánh với giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm định giá so với
giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm trước, người chủ, người quản lý doanh
nghiệp có thể biết được doanh nghiệp có hoạt động hiệu quả không. Nếu
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, giá trị doanh nghiệp sẽ lớn hơn so với thời
điểm định giá trước và ngược lại.


15

- Định giá để tiến hành mua bán doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là một loại hàng hóa và có
thể được mua bán trên thị trường. Việc mua, bán một doanh nghiệp là việc
chuyển đổi quyền sở hữu toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Để quá trình mua
bán có thể diễn ra, doanh nghiệp phải được xác định giá trị thực tế - giá trị tại
thời điểm mua bán. Trên cơ sở giá trị của doanh nghiệp, hai bên tiến hành
đàm phán, thương lượng, thực hiện mua bán.
- Định giá doanh nghiệp để cổ phần hóa
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là quá trình chuyển đổi từ sở hữu
Nhà nước sang sở hữu tập thể hoặc cá nhân. Quá trình chuyển đổi sở hữu có
thể là chuyển đổi một phần doanh nghiệp hay toàn bộ doanh nghiệp. Để có
thể tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, trước tiên phải xác định giá trị của
toàn bộ doanh nghiệp, làm cơ sở xác định giá trị mỗi cổ phần, giá bán mỗi cổ
phiếu.
- Định giá trong các trường hợp khác
Việc định giá doanh nghiệp còn rất cần thiết trong những trường hợp
khác như khi doanh nghiệp được chia tách, khi doanh nghiệp góp vốn liên
doanh liên kết, thậm chí khi doanh nghiệp bị phá sản
Như chúng ta đã biết, mọi sự vật hiện tượng đều không ngừng biến đổi,
giá trị của doanh nghiệp cũng như vậy, giá trị của doanh nghiệp không phải là
vĩnh cửu. Do vậy, kết quả của một lần định giá doanh nghiệp chỉ có giá trị tại
một thời điểm nhất định. Để có thể đáp ứng nhu cầu của các đối tượng khác
nhau, việc định giá doanh nghiệp lại được tiến hành lại khi cần thiết và ngày
càng thường xuyên hơn. Vì thế, sự cần thiết của công tác định giá doanh
nghiệp là không thể phủ nhận.
1.2.4. Phương pháp định giá doanh nghiệp
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp


16


và được chia làm 6 nhóm phương pháp xác định giá trị doanh nghiêp.
Bảng 1.1 Các phương pháp định giá doanh nghiệp trên thế giới

(Nguồn: Damodaran Online)

Trong thực tế, tuy có nhiều phương pháp định giá khác nhau nhưng
các chuyên gia tài chính đều có cùng một nhận định, sự khác nhau giữa các
phương pháp định giá chỉ mang tính tương đối. Trong phạm vi bài viết này,
tác giả xin đưa ra một số phương pháp được sử dụng phổ biến nhất đó là:
1.2.4.1. Phương pháp tài sản
Phương pháp này cho rằng giá trị của một doanh nghiệp bằng tổng các
giá trị của từng loại tài sản riêng biệt trừ đi các khoản nợ của doanh nghiệp
đó.
Căn cứ định giá doanh nghiệp là: các chứng từ; sổ sách kế toán; báo
cáo tài chính của doanh nghiệp những năm gần nhất; báo cáo kiểm kê tài sản;
vật tư hàng hoá, tiền vốn; biên bản đối chiếu công nợ…; Một số loại hình
định giá của phương pháp này như dựa trên việc bán tài sản của doanh
nghiệp; dựa trên việc thanh lý tài sản; dựa trên giá trị tài sản ròng. Tuy nhiên
với giả định là doanh nghiệp “hoạt động liên tục” nên trong luận án sẽ chỉ đề
cập đến phương pháp định giá doanh nghiệp theo giá trị tài sản ròng. Khi đó:
Giá trị doanh nghiệp = Giá trị tài sản ròng + Giá trị lợi thế (1.1)
 Xác định giá trị tài sản ròng
Cách 1: Căn cứ vào giá thị trường

×