Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.09 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
&

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ
ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
GVHD : Tiến sĩ Đào Duy Thanh
HVTH : Trần Đức Nghĩa - 13070250
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SỸ
TP. HỒ CHÍ MINH, 12/2013
1


MỤC LỤC
Đề mục Trang
2
LỜI MỞ ĐẦU
Khi đề cập đến khởi nguồn của văn minh nhân loại, chúng ta không thể không
nhắc đến văn hóa phương Đông, vốn nổi tiếng bởi sự huyền bí, đa dạng, đầy màu sắc;
mà đại diện tiêu biểu là văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ.
Văn hóa Trung Hoa là một trong những nền văn hóa lâu đời và phức tạp nhất
trên thế giới. Với hơn 4000 năm hình thành và phát triển, nó đã gặt hái được vô vàn
những thành tựu to lớn trong nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên - kỹ thuật, hội họa,
kiến trúc, … ; đồng thời là nơi sinh ra nhiều học thuyết triết học có tầm ảnh hưởng lớn
đến nền văn minh thế giới, như Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo, được gọi là ba học

thuyết nền tảng của văn hóa Đông phương (Tam giáo).
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay đã hơn
2500 năm. Chữ “Nho” trong Nho giáo được ghép từ chữ “Nhân” (người) và chữ
“Nhu” (cần, chờ, đợi). Những nhà nho, còn gọi là nho gia, là những người thông hiểu
sách thánh hiền, thấu đạt lễ nghĩa, được thiên hạ tôn sùng để dạy bảo mọi người cách
sống phù hợp với luân thường đạo lý. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh
hưởng ở nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Sự ảnh hưởng này, được
thể hiện trên nhiều phương diện, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức trước đây cũng
như hiện nay.
Nghiên cứu Nho giáo giúp chúng ta hiểu thêm về nền văn hóa Trung Hoa nói
riêng và văn hóa phương Đông nói chung. Đồng thời, với mong muốn có thể áp dụng
được những gì mà các bậc hiền nhân đã truyền lại vào cuộc sống hiện đại ngày nay.

Bài tiểu luận gồm 3 phần chính :
- Phần I. Quá trình phát triển của Nho giáo
- Phần II. Nội dung của tư tưởng Nho giáo
- Phần III. Ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam
3
I. Quá trình phát triển của Nho giáo
1.1. Nguồn gốc lịch sử
Cơ sở của Nho giáo đã được hình thành từ thời Tây Chu, là sự kết hợp nhiều tư
tưởng của các bậc hiền tài, trong đó quan trọng nhất là sự đóng góp của Chu Công
Đán, người đời vẫn thường gọi là Chu Công.
Nho giáo được ra đời ở thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, do Khổng Tử (551 –
479 trước công nguyên - TCN) tiếp nhận - phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống

hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Vì lẽ đó, người đời sau vẫn xem ông là
người sáng lập ra Nho giáo.
Sau khi ông mất, tư tưởng của ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thế
kỷ II TCN, Nho giáo mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở
Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại trong suốt thời phong kiến và là công cụ giúp các
triều vua cai trị đất nước.
1.2. Nguồn gốc tư tưởng
Người Trung Hoa, sau khi quần tụ đông đảo, thành gia lập thất thì cái quyền trị
gia do người cha. Lần hồi người ta theo nguyên tắc gia đình mà lập ra xã hội. Nghĩa là
gia đình thì do người cha quản trị, nước thì có ông vua, còn khắp thiên hạ tức là nước
Trung Hoa thời ấy thì có vị Hoàng Đế thống trị.
Nguyên trong thời đại tối cổ, ở xứ Trung Hoa có năm ông vua ra đời tiếp nhau

mà dạy dân là : Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, sách gọi
đó là Ngũ Đế là năm vị Thánh Vương đắc Đạo, có thần thông trông thấy những hiện
tượng trong cõi Hư Linh.
Một hôm, Vua Phục Hi dạo chơi trên sông Hà (Huỳnh Hà) ông trông thấy một
con vật mình ngựa đầu rồng, trên lưng có dấu chấm, Ngài theo đó mà lập ra Bát Quái
Đồ, cắt nghĩa Đạo biến hóa của Trời Đất, để làm nguyên tắc dạy người.
Như vậy, Nho Giáo thành lập một phần thì do thực tế, một phần thì do Huyền
lý của Trời Đất, nghĩa là Nho Giáo lấy Đạo Trời làm khuôn mẫu dạy người. Làm theo
Đạo trời là lành, trái với Đạo Trời là dữ. Cổ nhơn theo học Nho Giáo để giúp đời, cho
nên trong quyển Nho Giáo, cụ Trần Trọng Kim cắt nghĩa chữ Nho như vầy:
“Chữ Nho


do hai chữ Nhơn

và Nhu

ghép thành. Chữ Nhơn là người,
chữ Nhu là cần dùng. Hai chữ ghép thành chữ Nho, có nghĩa là người học hành thông
suốt lẽ Trời Đất và tự họ sẵn sàng giúp ích cho nhơn quần xã hội, cầu cho xã hội biết
cách cư xử thích hợp với lẽ Trời. Lấy Đạo Trời làm căn bản cho Đạo người. Nho
Giáo giúp người Tàu được trên thuận, dưới hòa và tạo nên một nền luân lý có căn
bản vững chắc.”
4
1.3. Tiểu sử của Đức Khổng Phu Tử

Đức Khổng Phu Tử là người nước Lỗ bên Tàu, sinh năm 551 trước Tây lịch kỷ
nguyên. Cha Ngài tên Thúc Lương Ngột, mẹ là Nhan Thị. Ngài tên KHÂU, tự Trọng
Ni, lúc lên ba tuổi, thì mồ côi cha, nhờ mẹ dưỡng dục, lên 19 tuổi, Ngài thành gia thất.
Về đường học vấn, Ngài rất chú ý đến Lễ Nhạc. Năm 20 tuổi, Ngài vào học nơi
nhà Minh Đường. Nguyên ở Lạc Ấp, ông Châu Văn Công có cất một nhà Minh
Đường, tích trữ Kinh Điển, Luật lệ, hình tượng và báu vật đời xưa, để làm tài liệu
khảo cổ, Đức Khổng Phu Tử nhờ đó mà mở rộng học lý của Ngài, sau khi ở Minh
Đường về, sức học của Ngài rộng hơn trước nhiều. Từ đó học trò theo học càng ngày
càng đông.
Ngài vốn người Nho học muốn đem Đạo của mình mà phổ biến trong dân gian
để giúp đời, thành thử, Ngài châu du từ nước nầy sang nước nọ, có ý muốn mượn việc
làm quan để thực hành Đạo lý, nhưng rốt cuộc rồi thất vọng. Đến 68 tuổi, Ngài về ở

nhà dạy học và lo việc Kinh sách để lưu truyền cho hậu thế.
Tánh tình Ngài ôn hòa nghiêm trang, kính cẩn, những cử chỉ thường thức như:
đi, đứng, nằm, ngồi mỗi mỗi đều ung dung ngay chính và lúc nào cũng có vẻ vui tươi.
Đối với Vua, Quan, Ngài giữ Lễ trọn vẹn. Khi tế tự vào Miếu Đường, Ngài thành
kỉnh, để thông cảm với Thần Minh. Nếu có việc quan hệ đến tánh mạng người ta thì
Ngài lại dè dặt hơn nữa.
Ngài rất ham học, hay suy gẫm việc xưa nay, để tìm chơn lý. Ngài nói: "Mặc
nhi thức chi, học nhi bất yếm hối nhơn bất quyện". Nghĩa là thầm lặng nghĩ ngợi để
biết, học không chán, dạy người không mỏi. Ta chỉ có ba điều ấy thôi. Đời Ngài, duy
có sự học hành Đạo lý là trên hết. Ngài nói:
"Đức chi bất tu, học chi bất giảng, văn nghĩa bất năng tùy, bất thiện bất năng
cải, thị ngô ưu dã". Nghĩa là đức của mình không sửa cho tốt, học-hành của mình

không giảng cho rõ, nghe điều nghĩa mà không theo được, nghe điều dở mà không đổi
được. Đó là cái lo của ta vậy.
1.4. Sự phát triển của triết học Nho giáo
a) Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa
vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp,
còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
5

Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của
ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo
nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng
Khổng-Mạnh".
Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính
học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo.
Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý
chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
b) Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo được độc tôn và trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ

chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt 2000 năm.
Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo
nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời,
dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
c) Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối
đầu giường của các nhà Nho.
Nho giáo thời kỳ này được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy
(thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho
giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố
"siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.

d) Nho giáo trong thế kỷ XX-XXI
Ban đầu, nho giáo cũng rất phát triển ở các nước châu Á như Nhật Bản, Triều
Tiên, Việt Nam. Nhưng đến thế kỷ 20, với sự sụp đổ của chế độ phong kiến, Nho giáo
mất vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập niên 1960-
1970.
Đến đầu thế kỷ XXI, cùng với sự vươn dậy về kinh tế là sự mai một về đạo
đức tại Trung Quốc, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con người dần
được tôn vinh trở lại. Năm 2004-2020, Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch thành lập
hơn 1.000 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới để quảng bá văn hóa truyền thống
Trung Hoa.
6
II. Nội dung của triết học Nho giáo

2.1. Các bộ sách kinh điển của Nho giáo
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Phật Thích Ca, Chúa
Jesus, Thánh Alla người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Đức Khổng Tử
một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ngài bằng các ghi chép do các
học trò của ngài để lại.
Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, vào khoảng 200
sau khi Đức Khổng Tử qua đời, khiến cho việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Đức Khổng
Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ
thống các tư tưởng và cuộc đời của ngài.
a) Tứ thư : Luận ngữ - Đại học – Trung Dung – Mạnh Tử
Luận ngữ : ghi lại các lời dạy (lời bình) của Khổng Tử được học trò của ông
ghi chép lại sau khi ông mất, qua đó có thể hiểu rõ tánh tình, tư tưởng của ông.

Đại học : dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do Tăng
Sâm, còn gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên lời dạy của
ông soạn ra. Gồm có Tam Cương Lĩnh và Bát Điều Mục, chủ yếu chú trọng vào việc
tu thân.
• Tam Cương Lĩnh gồm Minh Minh Đức, Thân Dân và Chỉ ư Chí Thiện.
• Bát Điều Mục gồm Cách vật, Trí tri, Thành ý, Chánh tâm, Tu thân, Tề
gia, Trị quốc, Bình thiên hạ.
Trung Dung : dạy người ta cách sống dung hòa, không thiên lệch. Hiểu được
tánh mình thì có thể biết được tánh người, tánh vật, hòa hợp với thiên-địa-
nhân, nhờ đó có thể đoán được họa phúc ở đời. Sách này do người cháu nội
của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử, còn gọi là Tử Tư soạn ra.
Mạnh Tử : ghi lại lời dạy của Mạnh Tử, gồm 7 thiên về chính trị học. Mạnh

Tử tên thật là Mạnh Kha, là người tiêu biểu nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng
Tử Tư, phát triển tư tưởng của Khổng Tử ở thời Chiến Quốc (390-305 trước
công nguyên).
b) Ngũ kinh : Kinh thi – Kinh thư – Kinh lễ - Kinh dịch – Kinh Xuân Thu
Kinh Thi : sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về
tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình
cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng.
Kinh Thư : ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng
Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như
Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ. Học Kinh Thơ mục đích giữ Tâm
chánh, đừng để cho tư dục xen vào Tâm.
7

Kinh Lễ : ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng
làm phương tiện để hàm dưỡng tánh tình, ngăn ngừa lòng dục và giữ trật tự phân minh
trong gia đình, xã hội.
Kinh Dịch : là sách bói toán, định việc kiết hung, nhưng bên trong lại còn ẩn
một học lý rất thâm trầm, giải thích lẽ âm dương biến hóa và tạo dựng Vũ trụ và sanh
hóa muôn loài, chủ ý là để cho người ta xem đó mà biết cách lui tới trong phép xử đời.
Kinh Xuân Thu : ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử.
Khổng Tử ghi lại với mục đích bênh vực can thường luân lý, trọng ở hai chữ “khen
chê” nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để
giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ
trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất.
2.2. Đạo của người quân tử trong Nho giáo (“Nhân”)

Khổng Tử chia loài người thành ba hạng :
 Thánh nhân: Bậc hiền giả, người thể hiện và chuyển giao minh triết.
 Quân tử: Người cao nhã, kẻ phấn đấu để làm điều chân chính.
 Tiểu nhân: Kẻ “hèn mọn”, hành động không màng tới đạo đức.
Nho giáo là một học thuyết đạo đức – chính trị xã hội dạy về các hành xử của
một “chính nhân quân tử” trong xã hội, tức là cách người quân tử tổ chức, cai trị xã
hội. Nho giáo lấy việc tạo sự ổn định và phát triển làm trọng, cốt lõi là đào tạo ra các
Nho gia, với hình mẫu lý tưởng là các bậc thánh nhân, người quân tử. Để trở thành
người như thế thì con người trước hết phải “tu thân” (đào tạo bản thân), sau đó phải
“hành đạo” (hành động theo đạo lý).
a) Tu thân
Người quân tử cần phải đạt được 6 điều cơ bản và tuân theo 9 chuẩn mực trong

quá trình tu thân.
* Đạt đạo *
“Đạo” có nghĩa là "con đường", là “phương hướng”, là cách ứng xử theo chuẩn
mực cần phải được thực hiện trong cuộc sống.
Trong Nho giáo nguyên thủy, Khổng tử phân “Đạo” trong thiên hạ thành 5
điều, là “đạo quân thần, đạo phụ tử, đạo phu phụ, đạo huynh đệ, đạo bằng hữu”. Đó
chính 5 cách ứng xử ứng với 5 mối quan hệ trong cuộc sống là “vua tôi, cha con, vợ
chồng, anh em, bạn bè”. 5 mối quan hệ này được gọi là “ngũ luân” (luân – thứ bậc).
Và cách cư xử tốt nhất là “trung dung”.
Đến Hán Nho, “ngũ luân” được thu gọn lại chỉ còn 3 mối quan hệ quan trọng
nhất trong xã hội là “quân thần, phụ tử, phu phụ”, còn được gọi là “tam cương”. Và
cách cư xử tốt nhất biến đổi thành là “trung, hiếu, tiết nghĩa”.

8
“trung, hiếu, tiết nghĩa” : bề tôi phải trung với vua, con cái phải hiếu với cha,
vợ phải giữ tiết nghĩa với chồng. Điều này thể hiện mối quan hệ 1 chiều, tuyệt đối
phục tùng, được xem là chuẩn mực đạo đức trong thời bấy giờ.
* Đạt đức *
Khổng Tử nói : "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người
nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận
ngữ). Tức người quân tử phải đạt được ba đức : "nhân - trí - dũng".
Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức :
"nhân, nghĩa, lễ, trí". Thời Hán nho lại thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức
là : "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín", còn gọi là "ngũ thường".
* Đạt thi thư lễ nhạc *

Ngoài đạo và đức, người quân tử cần phải biết cả thi thư lễ nhạc, để có một vốn
văn hóa toàn diện.
** 9 tiêu chuẩn **
• Khi nhìn phải nhìn cho minh bạch
• Khi nghe phải nghe cho rõ ràng
• Sắc mặt phải luôn ôn hòa
• Tướng mạo phải trang nghiêm
• Nói năng trung thực
• Làm việc phải trọng sự kính nể
• Điều gì nghi ngờ phải hỏi cho rõ
• Khi tức giận phải nghĩ đến hậu quả
• Khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa

b) Hành đạo
Sau khi “tu thân”, người quân tử phải “hành đạo”, tức là phải làm quan, làm
chính trị, được khái quát hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn
thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là
bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân
tử trong việc cai trị là hai phương châm :
* Nhân trị *
Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi
người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói:
"Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân
được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân
thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).

** Chính danh **
Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm
đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất
9
việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Vua ra
vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo,
chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến
lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ,
nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần
phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là

tiểu nhân (như dân thường).
2.3. “Lễ” trong Nho giáo
“Lễ” là một phạm trù quan trọng trong học thuyết của Khổng Tử, đóng vai trò
rất lớn trong đời sống đạo đức và chính trị. Theo Khổng Tử, “lễ” vừa là nghi lễ, vừa là
tế lễ, vừa là thể chế chính trị, vừa là chuẩn mực đạo đức; có thể chia làm 4 mục đích
chính :
• Để hàm dưỡng tính tình
• Để giữ những tình cảm cho thích hợp đạo trung
• Để định lẽ phải trái
• Để tiết chế thói thường tình ở con người
Lễ là cách đối nhân xử thế trong đạo làm người, là cách kính người và dưỡng
mình. Không Tử nói : “Điều gì không phải lễ thì đừng nhìn, không phải lễ thì đừng

nghe, không phải lễ thì đừng nói, không phải lễ thì đừng làm”.
Đặc biệt, trong Nho giáo, “nhân” và “lễ” không tách rời nhau, có quan hệ mật
thiết với nhau. Nhân là nội dung, lễ là hình thức, biểu hiện của nhân. Khổng Tử nói :
“Một ngày biết nén mình theo lễ thì thiên hạ sẽ quay mình về nhân vậy”.
a) Lễ hàm dưỡng tính tình
Theo Khổng giáo, nhân sự ở trên đời đều bởi tình cảm mà sinh, nên việc xây
dựng tình cảm tốt chính là gây dựng cái gốc của đạo nhân. Như vậy, hành xử theo lễ
tức là hành vi đạo đức lấy thiện tâm làm gốc trong đối nhân xử thế, có trọng lễ thì mới
giữ gìn được tôn ti trật tự, và muốn giữ lễ phải trau dồi đạo đức. Nói cách khác, lễ là
cội nguồn nuôi dưỡng đạo đức hướng hành vi của con người theo đạo đức, tập quán,
lễ nghi, …
b) Lễ giữ tình cảm cho thích hợp với đạo trung

Xây dựng tình cảm tốt là điều thiết yếu. Nhưng tình cảm thì thường tự do, bộc
phát bởi hành vi của con người nên có thể bị sai lệch, thoái hóa, bất cập. Cho nên cần
dùng lễ để điều tiết cho có chừng mực, để lúc nào cũng phù hợp với đạo trung, hay
phù hợp với mọi hoàn cảnh đang diễn ra trong cuộc sống, … (đói cho sạch, rách cho
thơm, …)
10
c) Lễ định lẽ phải trái, tình thân và trật tự trên dưới phân minh
Lễ gắn liền với tôn ti trật tự, tức phép tắc để tổ chức luân thường đạo lý trong
gia đình, xã hội. Mỗi người trong xã hội đều có vị trí khác nhau, vai trò khác nhau,
cách quan hệ xã hội cũng khác nhau nên cần có lễ như một chuẩn mực, thước đo để
định thức cho các mối quan hệ đó, để mọi người biết đường ăn ở cho phải đạo. (kính
trên nhường dưới, tôn sư trọng đạo, …)

d) Lễ dùng để tiết chế cái thường tình của con người
Lễ định ra điều phải trái, đúng sai để con người biết đường mà tuân theo hay
tránh né. Lễ thể hiện tri thức của con người, khả năng nhận biết, lĩnh hội, thông hiểu
và vận dụng được.
Tóm lại, lễ bao hàm tính pháp luật nhưng khác với pháp luật ơ chỗ lễ thiên về
quy củ tích cực nhiều hơn, trong khi pháp luật thì thiên về cấm chế tiêu cực. Lễ dạy
con người nên làm điều gì và không nên làm điều gì. Pháp luật thì cấm con người làm
điều này, điều kia, nếu làm thì phải chịu tội. Lễ ngăn việc chưa xảy ra, pháp luật thì trị
việc đã xảy ra rồi.
2.4. Chuẩn đạo đức của con người trong Nho giáo
Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của
đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận bàn về đạo

đức.
Nho giáo đã đặt ra một loạt các quy tắc, chuẩn mực đạo đức trong sinh hoạt
chính trị và cuộc sống nhằm duy trì sự ổn định của xã hội.
• Tam cương ngũ thường : chuẩn đạo đức mà nam giới phải theo.
• Tam tòng tứ đức : chuẩn đạo đức mà nữ giới phải theo.
Tam cương là ba mối quan hệ: Quân Thần (vua tôi), Phụ Tử (cha con), Phu
Phụ (vợ chồng).
o Quân - thần : Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung (Vua bảo tôi chết, tôi
không chết là tôi bất trung)
o Phụ - tử : Phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu (Cha bảo con chết, con
không chết là con bất hiếu)
o Phu - phụ : Phu xướng phụ tùy (Chồng nói ra, vợ phải theo)

Ngũ thường là năm điều phải có, gồm : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
 Nhân : Lòng yêu thương đối với vạn vật. Khổng Tử nói : “Khi ở nhà giữ
gìn dung mạo khiêm cung; khi ra làm việc thi hành một cách kính cẩn; khi
giao thiệp với người, giữ lòng trung thành. Dẫu đi tới các đoàn rợ phương
đông và phương bắc, cũng chẳng bỏ ba đức hạnh cung, kính và trung ấy,
như vậy là người có đức nhân.”
11
 Nghĩa : Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải. Hành vi của con người
phải tuân theo tính chính đáng, chú trọng quy tắc, tiêu chuẩn, trọng tâm là
nghĩa vụ và trách nhiệm.
 Lễ : Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người. mở rộng ra là
việc tuân thủ các quy tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Khổng

Tử nói : "Cung kính mà thiếu lễ thì làm thân mình lao nhọc. Cẩn thận mà
thiếu lễ thì trở thành nhút nhát. Dũng cảm mà thiếu lễ sẽ trở thành rối loạn.
Ngay thẳng mà thiếu lễ sẽ trở nên thô lỗ”.
 Trí : Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
 Tín : Phải giữ đúng lời hứa.
Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử” tức người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha, lấy chồng phải
theo chồng, chồng qua đời phải theo con.
Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có.
o Công : Khéo léo trong nữ công gia chánh
o Dung : Hòa nhã trong sắc diện, biết tôn trọng hình thức bản thân
o Ngôn : Mềm mại, diu dàng trong lời ăn tiếng nói

o Hạnh : Nhu mì trong tính nết, tức nết na trong nhà (biết kính trên nhường
dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em họ hàng nhà chồng) và
chín chắn khi ra ngoài (không hợm hĩnh, cay nghiệt)
III. Ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam
3.1. Quá trình tiếp thu Nho giáo vào văn hóa Việt Nam
Đã có một số bằng chứng cho thấy Nho giáo được truyền vào thế kỷ I TCN, khi
ở Trung Quốc, nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy
quyền thống trị và cho lập 3 quận tại Bắc Bộ, tuy niên tầm ảnh hưởng Nho giáo còn
rất hạn chế, song song đó Nho giáo là công cụ thống trị của chính quyền đô hộ và
phục vụ cho chính quyền đô hộ, Nho giáo còn được xem để du nhập chữ Hán vào Việt
Nam và dần Hán hóa ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam tạo ra về mặt kỹ thuật với một
kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên, đó là nền văn học, sử học, triết học, thiên văn

học và y học được tiếp thu từ người Trung Hoa cổ đại.
Đến thế kỷ IX, sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại của Ngô Quyền, khi dân
tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây dựng
nền văn minh Đại Việt trong khuôn khổ của một nhà nước phong kiến quân chủ tập
quyền, thì xã hội Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu đối với sự tồn tại và phát
triển của Nho giáo ở Việt Nam, đầu tiên phải kể đến là muốn tồn tại thì phải truyền
bá Nho giáo đến người dân, củng cố quyền lực phong kiến lớn mạnh và không bị giặc
ngoài tấn công.
12
Vì quyền lực của nhà nước đó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung” của Nho
giáo cần được tiếp thu để củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ thời Lý – Trần,
trung với vua không tách rời trung với nước, vì đó là những ông vua thực sự điều hành

cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi. Ở Việt Nam, “trung”
thường gắn với “nghĩa” nhằm đề cao trách nhiệm của con người đối với Tổ quốc, quê
hương, làng xóm. Cũng chính vì thế, trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn thường gắn
“trung” với “nghĩa”. Hơn nữa, nếu nhà nước phong kiến tập quyền muốn trở nên hùng
mạnh thì phải quan tâm đến con người, đến nhân dân và do đó, “nghĩa” không tách rời
“nhân”. Ngọn cờ nhân nghĩa là để “yên dân”, để giải phóng nhân dân khỏi áp bức của
quân xâm lược.
Khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, Nho giáo không ngừng củng cố
và phát triển cho đến vào giữa thế kỷ XIX, yêu cầu tất yếu này dần như bị suy sụp và
dần nhạt phai khi sự du nhập mạnh mẽ của phương Tây của thực dân Pháp, tuy
nhiên Nho giáo vẫn là công cụ ảnh hưởng đối với những nhà yêu nước cách mạng như
Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học hay Hồ Chí Minh,

3.2. Ảnh hưởng của Nho giáo đến con người Việt Nam hiện nay
Nho giáo đã tồn tại và phát triển ở Việt Nam suốt hai mươi thế kỷ. Sự có mặt
tất yếu và vai trò lịch sử của Nho giáo ở Việt Nam không tách rời sự hình thành và tồn
tại của chế độ phong kiến Việt Nam. Nho giáo đã đáp ứng được những yêu cầu phát
triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Khi chế độ phong kiến Việt Nam suy tàn thì
Nho giáo Việt Nam cũng trở nên lỗi thời, lạc hậu và có những ảnh hưởng tiêu cực đối
với sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Hiện nay, con người và xã hội ngày càng phát triển, những triết lý, tư tưởng
gốc của người xưa, của các bậc đại trí không còn chính xác hoàn toàn nhưng nó vẫn
có một giá trị nhất định. Đó là giá trị nền tảng, là cơ sở để con người ngày nay nhìn
nhận lại bản thân, tiếp thu và phát triển nó lên cho phù hợp với xu thế mới.
a) Mặt tích cực của Nho giáo

Đối với người Trung Hoa, tư tưởng “trung quân” được đặt nặng hơn, cao hơn
cả “yêu nước”, thậm chí gần như không đề cập đến. Người Việt Nam vốn có truyền
thống yêu nước và tinh thần dân tộc, nên khi tiếp nhận chữ “trung” thì lại mang ý
nghĩa là trung với nước. Vì lẽ đó, Nho giáo đã giúp giữ vững và phát huy ngọn lửa bất
diệt của lòng yêu nước, giúp con người và đất nước Việt Nam vượt qua bao gian khổ
dựng nước và giữ nước cho đến hôm nay.
Cùng với sự phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế là quá trình tiếp thu và
du nhập của văn hóa phương Tây vào Việt Nam, vốn thuộc văn hóa phương Đông. Sự
va chạm của hai nền văn hóa khác biệt nhau sẽ giúp hình thành và tạo nên một nền
văn hóa mới tốt đẹp hơn. Nhưng để làm được điều đó thì nó lại phải trải qua một thời
13
kỳ quá độ mà ở đó, những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp có thể bị bóp méo, bị

thay đổi theo hướng tiêu cực. Lúc này, những tư tưởng đạo đức của Nho giáo đóng vai
trò như một cột mốc định hướng, góp phần giáo dục lối sống cho cả một thế hệ trẻ.
Dẫn chứng cụ thể nhất là ngày nay, một bộ phận thanh thiếu niên, nam nữ Việt
Nam không chỉ bất kính với các bậc trưởng bối (ông bà cha mẹ, …) mà còn coi
thường các giá trị văn hóa mà ông cha đã gìn giữ, không biết nhìn lại đức tính bản
thân mà chỉ chú trọng vào danh lợi phù du. Họ không còn coi trọng nề nếp gia đình,
thậm chí coi việc chăm sóc ông bà cha mẹ là gánh nặng, và không quan tâm yêu
thương con cháu. Điều này có thể lý giải là do thiếu giáo dục lễ nghĩa trong cả gia
đình, nhà trường và xã hội, khiến họ quên đi lễ nghĩa, quên đi tôn ti trật tự trong gia
đình, xã hội và nhất là quên đi các chuẩn mực đạo đức và cần thiết của việc tu tâm
dưỡng tính.
Khái niệm “ngũ thường” và “tứ đức” vẫn còn có giá trị và ảnh hưởng rất lớn

đối với con người Việt Nam hiện đại. Cùng với nhu cầu quyền bình đẳng của nữ giới,
“Ngũ thường : Nhân – Nghĩa – Lễ - Trí – Tín” không còn là chuẩn mực riêng dành
cho nam giới, mà đã trở thành những đức tính chung cần thiết cho con người mới.
Bản chất truyền thống của người Việt Nam là tương thân tương ái, nặng nợ
nghĩa tình. Cho nên, khi tiếp nhận Nho giáo thì “Nhân – Nghĩa” được chú trọng hơn
cả và cả hai đều được quy về chữ “tình”, tình thương, tình bác ái, tình đồng loại, …
Con người tồn tại trong xã hội cần tuân thủ những chuẩn mực : sống trọn tình
trọn nghĩa, tuân thủ đạo đức - pháp luật, biết phân biệt phải trái và giữ chữ tín với mọi
người. Cụ thể như :
 Gia đình yên ấm : con cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ, vợ chồng chung thủy,
anh em hòa thuận
 Xã hội ổn định : yêu nước, tôn trọng pháp luật, yêu con người, yêu thiên nhiên,

tuân thủ lời hứa với mọi người
Những luật lệ, tư tưởng cổ hủ trong thời phong kiến dùng để áp bức, ràng buộc
người phụ nữ (tam tòng) đã bị xóa bỏ. Nhưng các chuẩn mực khác (tứ đức) vẫn còn
được sử dụng và duy trì như là một nét văn hóa truyền thống, một đặc trưng tiêu biểu
của người phụ nữ Việt Nam.
Nho giáo tạo được truyền thống ham học, truyền thống tôn sư trọng đạo, truyền
thống coi trọng người có học. Từ đó các kiến thức học tập được tích lũy, có điều kiện
để duy trì và phát triển. Ngoài ra còn tạo cho con người biết đạo ăn ở, biết quan tâm
đến người khác, biết sống có văn hóa và đạo đức.
Tạo được cơ chế tuyển dụng người tài qua thi cử. Bất kể xuất thân ra sao (nông
dân, người thợ, lính tráng ) nếu học giỏi đỗ đạt thì có thể ra làm quan giúp nước (ở
phương Tây thời kỳ này, chức tước chỉ được chuyển giao nội bộ trong các gia đình

quý tộc, dân thường hầu như không với đến). Từ đó tạo nên một tâm lý xã
14
hội: “Không tham ruộng cả ao liền, tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ”. Nhiều thanh
niên, trai tráng lấy việc học tập, thi cử làm mục tiêu cao nhất trong cuộc đời mình. Xã
hội nhờ vậy coi trọng sự học tập cần cù.
b) Mặt hạn chế của Nho giáo
Tuy nhiên Nho giáo còn có những mặt hạn chế mà mỗi thời đại trong lịch sử
Việt Nam đều có sự nhìn nhận và kế thừa.
Nho giáo trọng ở “tu thân”, nên mang tính hướng nội, và gần như không đề cập
gì đến nhu cầu hướng ngoại. Chính điều này cũng là 1 rào cản cho các nước phương
Đông trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Cho nên cần được cải biến cho
phù hợp.

Nho giáo đặt nặng vấn đề chuẩn mực, mà đã là chuẩn mực tức là cứng nhắc.
Cho nên việc học tập và giáo dục theo tư tưởng đạo đức của Nho giáo khiến con
người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. Điều này phần nào gây
cản trở, khó khăn cho việc tiếp thu cái mới, xây dựng đạo đức mới và xã hội mới ở
nước ta hiện nay.
Nho giáo quá coi trọng nông nghiệp, bài xích thương nghiệp, bảo thủ, thiếu
tinh thần cầu tiến, học hỏi cái mới tốt đẹp hơn. Điều này không còn phù hợp với tình
hình toàn cầu hóa và kinh tế thị trường hiện nay.
Những tư tưởng mang dấu ấn phong kiến, tính gia trưởng, trọng nam khinh nữ
của Nho giáo cũng cần bị xóa bỏ và thay thế bằng các tư tưởng mới, giúp nâng cao vai
trò của nữ giới trong xã hội.
Về nội dung học tập, Nho giáo chỉ nói đến “trí dục” và “đức dục” mà không xét

đến mặt “thể dục” là mặt cũng rất cần cho sự phát triển toàn diện của con người.
Những kiến thức về giới tự nhiên và về sản xuất vật chất không được Nho giáo đề cập
(bởi ở thời của Khổng Tử, khoa học kỹ thuật và nền sản xuất chưa phát triển). Do vậy,
người học tuy thấm nhuần tư tưởng Nho học về đạo đức, tinh thông cổ văn, nhưng
những kiến thức về khoa học tự nhiên, các hoạt động thực tiễn và khả năng thực hành
thì lại không phát triển.
Tóm lại, cả hai mặt tiến bộ và hạn chế của Nho giáo đều để lại dấu ấn trên
những con người Nho sĩ. Có người thì mặt tốt nhiều hơn mặt xấu, có người thì ngược
lại. Sự tốt xấu đó là kết quả của hoàn cảnh khách quan cũng như yếu tố chủ quan của
mỗi người quyết định. Chúng ta cần phải tiếp thu có chọn lọc, để có thể gạt bỏ những
yếu tố tiêu cực và sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo nhằm phục vụ cho
công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay.

15
KẾT LUẬN
Qua sự nghiên cứu nguồn gốc, nội dung của Nho giáo và sự phân tích ở trên,
có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự
tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất
định.
Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế
thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của
tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì
và lâu dài như là một quá trình “tu dưỡng”, hình thành nhân cách tốt đẹp cho bản thân.
Đối với mỗi người Việt Nam, cần nhìn nhận, đánh giá, tiếp thu các tư tưởng
Nho giáo vào văn hóa của chính bản thân mình, xem nó như một phần nền tảng của

văn hóa truyền thống, giúp con người không bị lạc trong sự phát triển quá nhanh của
xã hội, cũng như trong công cuộc hội nhập quốc tế. Trong mọi mối quan hệ, đều phải
giữ vững bản tâm, giữ vững những truyền thống, những văn hóa tốt đẹp mà ông cha ta
đã gìn giữ và để lại cho con cháu, luôn ghi nhớ chúng ta “hòa nhập chứ không hòa
tan”; có như vậy Việt Nam mới thực sự có được hình ảnh, tiếng nói riêng trên môi
trường quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nho giáo Trung Quốc - Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
[2] Giáo trình Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại - Trần Đình Hượu
-Nhà xuất bản giáo dục.
[3] Nho giáo - />[4] Nho giáo - />[5] Triết lý Nho giáo - http://www-
personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/DichLyCaoDai/NguyenThuy/KhaoCuuVu-

III/khaocuuvu-III-chuongII3.htm
[6] Tư tưởng đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở nước ta hiện nay -
/>nuoc-ta-hien-nay/
16

×