Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị trường nội địa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.42 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty từ 2010 - 2012
Bảng 2.2: Cơ cấu lao động trong công ty những năm gần đây
Bảng 2.3: Tương quan sản lượng tiêu thụ của công ty và các công ty khác
Bảng 2.4: Tình hình doanh thu của công ty và các công ty khác
Bảng 2.5: Tình hình lợi nhuận của công ty và các công ty khác
Bảng 2.6: Ma trận SWOT của Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng
Bảng 2.7: Ma trận SWOT của Công ty Dệt 19 – 5 Hà Nội
TÓM LƯỢC
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Dệt kim Phú Vĩnh Hưng là một doanh
nghiệp chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm dệt kim, chủ yếu là sản phẩm
bít tất. Qua gần 8 năm hoạt động và phát triển, công ty đã thu được những thành
công nhất định, đã tìm cho mình một chỗ đứng trên thị trường. Tuy nhiên, sự cạnh
tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp dệt kim trong nước cũng như nước ngoài, đặc biệt
là các công ty Trung Quốc đang đặt ra thách thức lớn cho sự tồn tại và phát triển của
công ty. Xuất phát từ thực tế đó, em xin chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh của Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị trường nội địa trong giai
đoạn hiện nay”.
Thông qua đề tài này, em sẽ đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích và đánh giá
thực trạng sức cạnh tranh của Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị trường
nội địa trong giai đoạn 2010 – 2012. Để có thể đánh giá thực trạng sức cạnh tranh của
công ty một cách chính xác, làm căn cứ để đưa ra các giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh, em đã sử dụng các phương pháp thu thập số liệu thứ cấp, phương pháp phân
tích và xử lý số liệu, bên cạnh đó phương pháp so sánh hay sử dụng mô hình ma trận
SWOT cũng được sử dụng để có thể so sánh sức cạnh tranh của công ty với đối thủ.
Dựa vào thực trạng sức cạnh tranh của công ty, em sẽ đánh giá sức cạnh tranh
của công ty thông qua các công cụ cũng như các chỉ tiêu cạnh tranh như: thị phần,


doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận của công ty và các đối thủ. Dựa trên những
đánh giá đó, em sẽ đưa ra được những thành tựu, hạn chế cũng như nguyên nhân của
những hạn chế trong việc nâng cao sức cạnh tranh và đưa ra những giải pháp khắc
phục hạn chế. Từ đó, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh
của Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trong giai đoạn hiện nay.
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn đầu tiên và sâu sắc
nhất tới TS. Thân Danh Phúc – thầy đã tận tình theo sát và hướng dẫn, chỉ bảo cho em
hoàn thành từng chương trong thời gian làm khóa luận.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới trường Đại học Thương mại, các thầy,
cô trong Khoa Kinh tế đã dạy dỗ, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường
và đặc biệt là các thầy cô trong bộ môn Kinh tế thương mại đã giúp đỡ em trong quá
trình tìm tài liệu nghiên cứu. Em xin kính chúc các thầy, cô luôn mạnh khỏe và công
tác tốt.
Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới Giám đốc, ban lãnh đạo và các phòng
ban trong Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng đã tạo điều kiện, giúp đỡ em trong
quá trình thực tập tại công ty.
Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Vương Xuân Viết
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài: “Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của
công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị trường nội địa trong giai đoạn
hiện nay”.
Chính sách đổi mới mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp chuyển sang cơ chế thị trường đã làm cho nền kinh tế Việt Nam chuyển biến
mạnh mẽ. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà nền kinh tế hàng hoá ngày càng
phát triển mạnh, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt thì sự đứng
vững và khẳng định vị thế của một doanh nghiệp trên thị trường là một điều cực kỳ
khó khăn.

Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh
trong cơ chế thị trường đều phải chịu tác động của các quy luật kinh tế khách quan,
trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại
và phát triển được trên thị trường thì phải không ngừng nỗ lực áp dụng khoa học
kỹ thuật để nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm,… Có như vậy, doanh
nghiệp mới thu hút được khách hàng đồng thời chiến thắng được các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp đã trở thành một vấn đề quan trọng hàng đầu mà bất cứ doanh nghiệp nào
cũng phải quan tâm.
Công ty trách nhiệm hữu hạn Dệt kim Phú Vĩnh Hưng là một doanh nghiệp
chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm dệt kim, chủ yếu là sản phẩm bít tất.
Qua gần 8 năm hoạt động và phát triển, công ty đã thu được những thành công
nhất định, đã tìm cho mình một chỗ đứng trên thị trường. Tuy nhiên, hiện nay công
ty đang phải đương đầu với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp dệt kim
trong nước cũng như nước ngoài như Công ty Dệt 19/5 Hà Nội, Công ty Cổ phần Dệt
kim Đông Quan (Trung Quốc),… Điều này đã đặt ra những thách thức lớn cho công
ty trong việc tồn tại và phát triển. Để mở rộng và phát triển thị trường, công ty cần
phải nghiên cứu tìm ra những biện pháp phù hợp để nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình. Có nâng cao khả năng cạnh tranh, công ty mới có thể chiến thắng được
các đối thủ cạnh tranh, đứng vững trên thị trường.
Xuất phát từ thực tế đó, em xin chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh của Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị trường nội địa trong giai
đoạn hiện nay”.
5
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Qua quá trình tham khảo các tài liệu, luận văn năm trước em thấy có một số đề tài
liên quan tới vấn đề nghiên cứu như:
1. Nguyễn Thị Hạnh (2006), “Khả năng cạnh tranh của Tổng công ty Dệt may Hà Nội”
– Luận văn tốt nghiệp - Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Luận văn đã nêu được một số lý luận cơ bản về cạnh tranh, năng lực cạnh

tranh, vai trò và các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ các lý
luận đã nêu trong bài, tác giả đã biết vận dụng những lý luận ấy vào việc phân tích
năng lực cạnh tranh của công ty trong giai đoạn 2002 – 2005 để đánh giá khả năng
cạnh tranh của công ty qua các chỉ tiêu cụ thể như: thị phần, lợi nhuận và tỷ suất lợi
nhuận, năng suất lao động,… Từ đó, tác giả đã đưa ra được các giải pháp cụ thể,
thiết thực giúp doanh nghiệp trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của tổng
công ty Dệt may Hà Nội.
2. Lê Quốc Vy (2005), “ Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty
Bóng đèn Phích nước Rạng Đông” – Luận văn tốt nghiệp – Trường Đại học Kinh tế quốc
dân.
Luận văn đã nêu được các khái niệm và những vấn đề liên quan đến cạnh tranh
và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, bên cạnh đó luận văn cũng đề cập tới các yếu
tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp, các công cụ sử dụng để nâng cao
sức cạnh tranh như : cạnh tranh bằng giá, cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm hay
cạnh tranh bằng hệ thống phân phối,… Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của doanh
nghiệp cũng được nêu ra trong bài như: chỉ tiêu định lượng (lợi nhuận, tỷ suất lợi
nhuận,… ), chỉ tiêu định tính (trình độ công nghệ, trình độ quản lý, uy tín của doanh
nghiệp,… ). Từ các lý luận được nêu, luận văn đã đi sâu phân tích thực trạng cạnh tranh
của công ty, chỉ ra thành công, hạn chế, từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao sức cạnh
tranh cho doanh nghiệp.
3. Hoàng Thị Thu Huyền (2012), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Dệt may
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” - Luận văn tốt nghiệp – Trường Đại
học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
Luận văn đã chỉ ra được các khái niệm và những lý luận liên quan đến cạnh tranh
và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Từ các lý luận nêu ra, luận văn đã đi sâu vào việc
phân tích, đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam thông qua các công
cụ đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm như: chất lượng, giá thành, mẫu mã,…
Luận văn đã chỉ ra được những điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm dệt may trong việc
6
cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao

sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Nguyễn Anh Tuấn (2012), “Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần Hoàng
Long” – Khóa luận tốt nghiệp - Trường Đại học Thương Mại.
Khóa luận đã đưa ra lý luận về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh và sức cạnh
tranh của doanh nghiệp. Việc phân tích khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông
qua các chỉ tiêu như thị phần, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cũng như thông qua các
công cụ cạnh tranh: giá cả, chất lượng, hệ thống phân phối, dịch vụ sau bán,… đã giúp
bài khóa luận đi sâu vào phân tích khả năng cạnh tranh của công ty Hoàng Long trên thị
trường miền Bắc trong trong giai đoạn 2009 – 2011. Từ việc phân tích sức cạnh tranh
của doanh nghiệp, khóa luận đã chỉ ra được thành công cũng như những tồn tại, nguyên
nhân của những yếu kém trong việc cạnh tranh mà công ty đang gặp phải. Qua đó, khóa
luận đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
như: hạ thấp giá thành sản phẩm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng dịch vụ
khách hàng, hoàn thiện kênh phân phối,…
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nêu trên đã đi sát vào mục tiêu nghiên
cứu, giải quyết vấn đề liên quan tới những lý luận về cạnh tranh như bản chất của
cạnh tranh, các chỉ tiêu đánh giá hay những yếu tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các công trình trên chỉ nghiên cứu về sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp dệt may, chưa có công trình về một doanh nghiệp dệt kim cụ
thể, đây là điểm khác biệt đối với đề tài của em. Qua đề tài của mình, em sẽ đi sâu
nghiên cứu vào các lý thuyết về sức cạnh tranh, thực trạng và giải pháp nâng cao
sức cạnh tranh của Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng, đây là một đề tài mới,
không trùng lặp với các công trình trước.
3.Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài
Kế thừa nội dung và phương pháp nghiên cứu của các công trình trước, khóa
luận của em cũng đi phân tích, tập trung nghiên cứu, đánh giá sức cạnh tranh của
Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trong giai đoạn hiện nay. Sử dụng phương
pháp thu thập và xử lý số liệu, dựa vào mô hình phân tích SWOT để phân tích những
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như thách thức của doanh nghiệp trong việc
cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường. Thông qua việc thu thập, xử lý và phân

tích dữ liệu, tác giả sẽ đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, những điểm
mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của những tồn tại sẽ được nêu ra chi tiết, cụ thể.
Từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường hiện nay.
7
Xác định đây là đề tài mới, không trùng lặp với các đề tài trước đó. Đề tài
cũng được kế thừa rất nhiều tri thức và lý thuyết rất nhiều các đề tài khác có liên
quan được đề cập ở trên. Để giải quyết vấn đề một cách toàn diện nhất, đề tài khóa
luận của em tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu và hệ thống hóa về các vấn đề lý luận cơ bản liên
quan tới cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, các phương pháp
được sử dụng trong việc nghiên cứu sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Trên những cơ sở lý luận cơ bản cùng với việc sử dụng các phương pháp thu thập,
xử lý số liệu, khóa luận sẽ đi sâu phân tích sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đánh
giá điểm mạnh, điểm yếu từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao sức
cạnh tranh của công ty Phú Vĩnh Hưng.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang biến động và nhiều khó khăn như hiện nay,
nâng cao khả năng cạnh tranh được coi là một vấn đề sống còn đối với bất kỳ
doanh nghiệp nào trên thế giới. Xuất phát từ thực tiễn đó, em xin chọn đề tài: “Giải
pháp nâng cao sức cạnh tranh của Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị
trường nội địa trong giai đoạn hiện nay”.
4. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu chung: Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích chính là tìm ra các giải
pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng
trên thị trường nội địa trong giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu cụ thể: Áp dụng những lý luận nêu trên để đánh giá thực trạng sức
cạnh tranh của Công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị trường nội địa, từ đó
làm cơ sở để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của công ty.
Cũng thông qua việc nghiên cứu về thực trạng, đề tài còn phát hiện ra những mặt
thành công cũng như hạn chế trong việc cạnh tranh của doanh nghiệp, nó có ý

nghĩa thực tiễn trong việc giúp doanh nghiệp tham khảo để tìm ra các giải pháp
thiết thực nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
- Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của đề tài là sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trong quá trình nghiên cứu đặc trưng mối quan hệ và sức cạnh tranh
sản phẩm chủ đạo của doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Phạm vi về mặt không gian: khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng
sức cạnh tranh của công ty TNHH dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị trường nội địa
(chủ yếu là Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Dương).
8
+ Phạm vi về mặt thời gian: đề tài nghiên cứu thực trạng sức cạnh tranh của
công ty TNHH Dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị trường giai đoạn 2010 – 2012, đồng
thời đề tài cũng đưa ra giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của công ty đến năm
2015.
+ Phạm vi về mặt nội dung: đề tài tập trung phân tích thực trạng sức cạnh
tranh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh như: doanh
thu, thị phần, năng suất lao động, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận; thông qua các
công cụ như: chất lượng sản phẩm, chính sách giá cả, hệ thống phân phối, chính
sách marketing; thông qua các yếu tố nội lực như: trình độ quản lý, chất lượng
nguồn nhân lực.
5. Phương pháp nghiên cứu
A, Phương pháp thu thập số liệu
Dữ liệu gồm hai loại dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp. Trong đề tài em chỉ sử
dụng đến dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu thứ cấp là những dữ liệu đã qua xử lý nhằm phục
vụ cho mục đích nghiên cứu. Có nhiều phương pháp thu thập dữ liệu, khi tiến hành
thu thập dữ liệu thường phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp với nhau để đạt
mong muốn. Sau đây là các phương pháp thu thập dữ liệu mà em đã dùng:
- Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp ghi lại có kiểm soát các sự kiện
hoặc các hành vi ứng xử của con người. Phương pháp này thường được kết hợp với
các phương pháp khác để kiểm tra chéo độ chính xác những dữ liệu thu thập được.

Trong quá trình thực tập tại công ty, em đã quan sát các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của công ty, tìm hiểu báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo tài chính trong
từng giai đoạn để đánh giá thực trạng sức cạnh tranh, những mặt thành công cũng
như hạn chế của công ty.
- Phương pháp thu thập số liệu qua các nguồn thứ cấp: Em đã tiến hành thu thập số
liệu thông qua báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo tài chính của công ty, một số
bài luận văn có liên quan, tìm hiểu các lý luận về cạnh tranh, sức cạnh tranh qua
internet, các bài báo. Thông qua các nguồn thông tin trên, em đã chọn lọc và tiến
hành nghiên cứu để đảm bảo tính xác thực. trong đề tài của mình.
B, Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
- Phương pháp tổng hợp thống kê: thông qua các nguồn thông tin thu thập được từ
các nguồn thứ cấp, em đã tiến hành thống kê giá cả, doanh thu, lợi nhuận, thị phần
của công ty để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh: Phương pháp này giúp cho việc so sánh dữ liệu
giữa các thời kỳ, giữa các doanh nghiệp khác nhau để có thể có những đánh giá
9
khách quan về tình hình phát triển của doanh nghiệp mình nghiên cứu. Thông qua
việc so sánh giúp chúng ta bình luận và đánh giá về vấn đề đang nghiên cứu một
cách đúng đắn. Cách thức thực hiện: Sắp xếp số liệu thu thập được dưới dạng bảng
qua từng năm, sau đó sử dụng các chỉ tiêu so sánh tương đối để làm nổi bật được sự
thay đổi, tiến triển của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp khác: bên cạnh việc sử dụng các phương pháp trên, để phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài của mình, em cũng sử dụng các phương pháp khác như
phương pháp chỉ số, sử dụng phần mềm hỗ trợ để vẽ các biểu đồ nhằm so sánh và
phân tích số liệu.
6.Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng sức cạnh tranh của công ty TNHH dệt kim Phú Vĩnh
Hưng trên thị trường nội địa trong giai đoạn hiện nay.

Chương 3: Các đề xuất và kiến nghị đối với vấn đề nâng cao sức cạnh tranh
của công ty TNHH dệt kim Phú Vĩnh Hưng trên thị trường nội địa.
10
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP
1.1 Khái niệm sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sự cần thiết nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Thời điểm đánh đấu công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta bắt đầu từ đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986). Từ đây cơ chế quản lý kinh tế có
bước đổi mới cơ bản, nền kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, cạnh tranh
xuất hiện. Đặc biệt từ khi nước ta tham gia hội nhập nền kinh tế thế giới thì cạnh
tranh được nhìn nhận theo hướng tích cực hơn. Môi trường cạnh tranh được mở
rộng trên cả thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
Theo Mác: “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa (TBCN) là sự ganh đua, sự đấu tranh
gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật các điều kiện thuận lợi trong sản xuất
và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về nền sản
xuất hàng hoá TBCN và cạnh tranh TBCN, Mác đã phát hiện ra quy luật cạnh tranh
cơ bản là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành.
Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992) ở Anh: “Cạnh tranh trong cơ
chế thị trường được định nghĩa là sự ganh đua kình địch giữa các nhà kinh doanh
nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình”.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là yếu
tố kích thích kinh doanh, là môi trường động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh phát triển, tăng năng suất lao động tạo sự phát triển của xã hội nói chung.
Cạnh tranh không chỉ kích thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất mà
còn cải tiến mẫu mã, chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm và chất
lượng dịch vụ làm cho sản xuất ngày càng gắn liền với tiêu dùng, phục vụ nhu cầu
xã hội được tốt hơn. Bên cạnh những mặt tích cực cạnh tranh còn để lại nhiều hạn
chế và tiêu cực đó là sự phân hoá sản xuất hàng hoá, làm phá sản những doanh

nghiệp kinh doanh gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, cơ sở hạ tầng hạn hẹp, trình độ
công nghệ thấp và có thể làm cho doanh nghiệp phá sản khi doanh nghiệp gặp
những rủi ro khách quan mang lại như thiên tai, hoả hoạn,… hoặc bị rơi vào những
hoàn cảnh, điều kiện không thuận lợi.
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất đó là
cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường với nhau,
kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự thay thế lẫn
nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận. Các doanh nghiệp
11
thương mại cần nhận thức đúng đắn về canh tranh để một mặt chấp nhận canh
tranh theo khía cạnh tích cực để từ đó phát huy yếu tố nội lực nâng cao chất lượng
phục vụ khách hàng, mặt khác tránh tình trạng cạnh tranh bất hợp lý dẫn đến làm
tổn hại đến lợi ích cộng đồng cũng như làm suy yếu chính mình.
1.1.2. Khái niệm sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Nếu một doanh nghiệp tham gia thị trường mà không có khả năng cạnh tranh hay
khả năng cạnh tranh yếu hơn các đối thủ của nó thì sẽ rất khó khăn để tồn tại và phát
triển được, quá trình duy trì sức mạnh của doanh nghiệp phải là quá trình lâu dài và
liên tục. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là cơ sở để đảm bảo khả năng duy trì
lâu dài sức mạnh cạnh tranh đó.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở rộng thị
phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá phổ biến hiện nay,
theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với đối thủ và
khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp. Cách quan niệm này có thể gặp trong các
công trình nghiên cứu của Mehra (1998), Ramasamy (1995), Buckley (1991),
Schealbach (1989) hay ở trong nước như của CIEM (Ủy ban Quốc gia về Hợp tác
Kinh tế Quốc tế). Hạn chế trong cách quan niệm này là chưa bao hàm các phương
thức, chưa phản ánh một cách bao quát năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước sự

tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách năng lực của Mỹ
đưa ra định nghĩa: năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về hàng hóa và dịch vụ trên
thị trường thế giới. Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế (CIEM) cho rằng:
năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác
đánh bại về năng lực kinh tế”. Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính
chất định tính, khó có thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức sản
xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm
cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Theo M.
Porter (1990), năng suất lao động là thức đo duy nhất về năng lực cạnh tranh. Tuy
nhiên, các quan niệm này chưa gắn với việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của
doanh nghiệp.
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh
tranh. Chẳng hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm cho rằng: năng lực cạnh tranh của doanh
12
nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp, tác giả Trần Sửu cũng có ý kiến tương tự: năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và
chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và
phát triển bền vững.
Tóm lại, sức cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được định nghĩa như sau: “sức
cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh
tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có
hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và đảm bảo sự phát triển
kinh tế bền vững”.
1.1.3. Sự cần thiết nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong điều kiện hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, để tồn tại và đứng vững
trên thị trường các doanh nghiệp cần phải cạnh tranh gay gắt với không chỉ với các
doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với các Công ty tập đoàn xuyên quốc

gia. Quá trình cạnh tranh sẽ đào thải các doanh nghiệp không đủ năng lực cạnh tranh
để đứng vững trên thị trường. Mặt khác, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không
ngừng cố gắng trong hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh của mình để tồn tại và
phát triển. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công
nghệ đang phát triển nhanh nhiều công trình khoa học công nghệ tiên tiến ra đời tạo ra
các sản phẩm tốt, đáp ứng nhu cầu mọi mặt của con người.
Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải đi sâu nghiên cứu thị trường,
phát hiện ra những nhu cầu mới của khách hàng để qua đó có thể lựa chọn phương án
phù hợp với năng lực kinh doanh của doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Trong cuộc cạnh tranh này doanh nghiệp nào nhạy bén hơn thì doanh nghiệp đó sẽ
thành công.
Nâng cao khả năng cạnh tranh giúp doanh nghiệp phát triển và hội nhập. Nó sẽ
thúc đẩy tiến trình phát triển của doanh nghiệp bởi sức cạnh tranh của doanh nghiệp tỷ
lệ thuận với tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Nó còn giúp doanh nghiệp hội nhập
kinh tế thuận lợi cả về chiều rộng và chiều sâu một cách chủ động.
Khi doanh nghiệp đứng vững và phát triển sẽ tạo điều kiện ngược lại để doanh
nghiệp nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Bởi những thành tựu của sự
phát triển sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh doanh, có đủ khả năng về
nguồn lực để tiếp cận những tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ mới, về tổ chức quản lý
sản xuất kinh doanh.
Nâng cao khả năng cạnh tranh còn giúp doanh nghiệp thực hiện được các mục
tiêu sản xuất, kinh doanh của mình. Mỗi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều đặt ra cho
13
mình những mục tiêu nhất định. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển mà doanh
nghiệp đạt mục tiêu nào nên hàng đầu. Chính vì vậy mà doanh nghiệp luôn phải tìm
mọi cách để bán được sản phẩm của mình nhiều nhất trên cơ sở tối đa hoá lợi nhuận,
cạnh tranh là con đường tốt nhất để doanh nghiệp có thể tự đánh giá được khả năng và
năng lực của mình, từ đó đánh giá được đối thủ cạnh tranh và tìm ra được những “lỗ
hổng” của thị trường, và đó là “phần thưởng” là con đường để đạt được mục tiêu.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề có tính chất quyết định là mỗi doanh nghiệp

phải luôn phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để sẵn sàng nắm lấy cơ hội
và đủ khả năng đối mặt với các thách thức trong quá trình hội nhập để tồn tại và phát
triển bền vững.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp
1.2.1.1. Nguồn lực tài chính
Nguồn lực tài chính là vấn đề không thể không nhắc đến bởi nó có vai trò
quyết định đến hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp. Trước hết, nguồn lực tài
chính được thể hiện ở quy mô vốn tự có, khả năng huy động các nguồn vốn phục vụ
sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Quy mô vốn tự có phụ
thuộc quá trình tích luỹ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả, lợi nhuận hàng năm cao, phần lợi nhuận để lại tái đầu tư cho sản xuất kinh
doanh sẽ lớn và quy mô vốn tự có sẽ tăng. Doanh nghiệp có quy mô vốn tự có lớn
cho thấy khả năng tự chủ về tài chính và chiếm được lòng tin của nhà cung cấp, chủ
đầu tư và khách hàng,…
Doanh nghiệp nên phấn đấu tăng vốn tự có lên một mức nhất định đủ đảm bảo
khả năng thanh toán nhưng vẫn đủ kích thích để doanh nghiệp tận dụng đòn bẩy
tài chính làm tăng lợi nhuận. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh sẽ có
điều kiện thuận lợi trong đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị, nâng cao chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm, giữ vững được sức cạnh tranh và củng cố vị thế của
mình trên thị trường.
1.2.1.2. Nguồn lực vật chất kỹ thuật và công nghệ
Máy móc thiết bị là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong tài sản cố định,
nó là những cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu quyết định năng lực sản xuất của
doanh nghiệp, là nhân tố đảm bảo năng lực cạnh tranh. Nếu máy móc thiết bị và
trình độ công nghệ thấp kém sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản
phẩm, làm tăng các chi phí sản xuất. sản phẩm của doanhnghiệp sẽ không đạt các
14
yêu cầu về tiêu chuẩn hoá và thống nhất hóa sẽ rất khó xuất khẩu, tham gia vào thị
trường khu vực và thế giới.

Cùng với máy móc thiết bị, công nghệ là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo M. Porter mỗi doanh nghiệp phải làm
chủ hoặc ít ra là có khả năng tiếp thu các công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lượng sản phẩm. Không đơn giản là việc có được công nghệ mà điều quan trọng
hơn là khả năng áp dụng công nghệ, đó mới là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh. Có
thể khẳng định, một doanh nghiệp với hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ tiên
tiến cộng với khả năng quản lý tốt sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành
hạ và đảm bảo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.2.1.3. Nguồn nhân lực
Nhân tố con người là vô cùng quan trọng đối với hoạt động của mỗi doanh
nghiệp, để quản lý tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh trước hết phải làm tốt
công tác về quản lý nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực không đảm bảo về số lượng và
chất lượng là nguyên nhân giảm sút năng suất và chất lượng sản phẩm. Làm tốt
công tác quản lý nguồn nhân lực là con đường dẫn tới thành công của các doanh
nghiệp bởi quản lý nguồn nhân lực giúp doanh nghịêp khai thác được mọi tiềm
năng của người lao động đóng góp vào sự phát triển, sử dụng chi phí tiền lương
một cách hiệu quả nhất, ngăn chặn mọi sự di chuyển lao động ra khỏi doanh nghiệp
làm ảnh hưởng đến hoạt động của bộ máy. Chất lượng nguồn nhân lực của doanh
nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Trong bất cứ một doanh nghiệp nào chỉ mới có nhà lãnh đạo giỏi vẫn chưa đủ,
vẫn chỉ mới có người ra quyết định mà chưa có người thực hiện những quyết định đó.
Bên cạnh đó phải có một đội ngũ nhân viên giỏi cả về trình độ và tay nghề, có óc sáng
tạo có trách nhiệm và có ý thức trong công việc. Có như vậy họ mới có thể đưa ra
những sản phẩm có chất lượng tốt mang tính cạnh tranh cao.
1.2.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp
1.2.2.1. Môi trường vĩ mô
Nếu nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, thu nhập quốc dân tính
trên đầu người cao sẽ tạo điều kiện tăng tích luỹ, tăng đầu tư cho sản xuất, thị
trường có sức mua lớn là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp phát triển.

Hệ thống pháp luật và các chế độ chính sách của Nhà Nước sẽ có tác dụng tạo
điều kiện hoặc kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị
trường, Nhà Nước có vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường cạnh tranh.
15
Một quốc gia có nền chính trị ổn định sẽ giúp doanh nghiệp phát triển thuận
lợi, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tin tưởng, yên tâm đầu tư cho sản xuất kinh
doanh. Các nhân tố về xã hội như phong tục tập quán, mức sống, dân số,… quyết
định thái độ tiêu dùng và khả năng thanh toán của khách hàng mục tiêu. Khoảng
cách giàu nghèo, trình độ dân số là một trong những cản trở đến trình độ văn hóa
và chất lượng nguồn nhân lực.
16
1.2.2.2. Khách hàng
Thị trường hay nói chính xác là khách hàng là nơi bắt đầu và cũng là nơi kết
thúc quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Căn cứ vào nhu cầu của khách hàng,
doanh nghiệp đưa ra các quyết định sản xuất và khi quá trình sản xuất kết thúc, sản
phẩm của doanh nghiệp lại được đưa ra thị trường để đáp ứng các nhu cầu đó. Số
lượng khách hàng quyết định quy mô thị trường hàng hoá của doanh nghiệp. Nếu
quy mô thị trường lớn, doanh nghiệp có thể tăng đầu tư sản xuất sản phẩm, chiếm
lĩnh thị trường và tăng sản lượng bán.
Doanh nghiệp cần xây dựng được mối quan hệ bền vững với khách hàng, nhất
là xây dựng quan hệ bạn hàng tin cậy với những khách hàng lớn, có nhu cầu sử
dụng sản phẩm của doanh nghiệp một cách ổn định và lâu dài. Việc doanh nghiệp
sử dụng linh hoạt các chính sách ưu đãi về giá cả, thời gian giao hàng, phương tiện
vận chuyển, khuyến mại, với những khách hàng lớn, khách hàng truyền thống rất
có sức hấp dẫn và củng cố sự tin cậy lẫn nhau. Nhờ vậy duy trì được thị phần hiện
có và tăng khả năng mở rộng thị phần cho doanh nghiệp. Giữ được khách hàng là
một yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
1.2.2.3. Nhà cung cấp
Hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp không thể thiếu được
các yếu tố đầu vào, đó là vật tư, máy móc thiết bị, vốn,…Vai trò của nhà cung cấp đối

với doanh nghiệp thể hiện ở áp lực về giá các yếu tố đầu vào. Giữa nhà cung cấp và
doanh nghiệp thường diễn ra các cuộc thương lượng về giá cả, chất lượng và thời
gian giao hàng. Nhà cung cấp có nhiều cách để tác động đến khả năng thu lợi
nhuận của các doanh nghiệp như nâng giá, giảm chất lượng vật tư kỹ thuật mà họ
cung ứng, không đảm bảo tiến độ giao hàng theo yêu cầu, gây ra sự khan hiếm giả
tạo. Nếu trên thị trường có nhiều nhà cung cấp thì doanh nghiệp có thể lựa chọn
nhà cung cấp, điều đó tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường yếu tố đầu vào, có tác
dụng làm giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp. Thế mạnh của nhà cung cấp tăng
lên nếu số lượng nhà cung cấp ít, không có hàng thay thế, doanh nghiệp không phải
là khách hàng quan trọng của nhà cung cấp hoặc loại vật tư được cung ứng là yếu
tố đầu vào quan trọng quyết định chất lượng sản phẩm hoặc hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Do đó, nhà cung cấp nói chung có ảnh hưởng không nhỏ
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.2.4. Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh là nhân tố bên ngoài có tác động trực tiếp đến doanh
nghiệp. Trong một ngành nào đó mà tồn tại một hoặc một số doanh nghiệp thống
17
lĩnh thì cường độ cạnh tranh ít hơn và doanh nghiệp thống lĩnh đóng vai trò chỉ đạo
giá. Trong trường hợp này nếu doanh nghiệp không ở vị trí thống lĩnh thì sức cạnh
tranh là rất kém. Nhưng nếu tồn tại nhiều doanh nghiệp có thế lực và quy mô tương
đương nhau thì cạnh tranh trong ngành sẽ rất gay gắt. Cần phải coi trọng lợi thế so
sánh của mình và biến nó thành lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp nào có nhiều lợi
thế cạnh tranh thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Trong thị trường tự do cạnh tranh, gần như không có rào cản gia nhập thị
trường, luôn có các đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng tham gia thị trường bất cứ lúc nào. Sự
xuất hiện của đối thủ mới có thể gây ra những cú sốc mạnh cho các doanh nghiệp
hiện tại vì thông thường những người đi sau thường có nhiều căn cứ cho việc ra
quyết định hơn và các chiêu bài của họ thường có tính bất ngờ. Để chống lại các đối
thủ tiềm ẩn, doanh nghiệp phải thường xuyên củng cố năng lực cạnh tranh của
mình bằng cách không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm, bổ sung những đặc

tính mới ưu việt hơn cho sản phẩm, luôn phấn đấu giảm chi phí để sẵn sàng tham
gia các cuộc cạnh tranh về giá.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.1. Doanh thu
Doanh thu là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sức cạnh tranh của doanh
nghiệp, doanh thu càng cao thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao.
Thực tế cho thấy, khi doanh số bán ra của doanh nghiệp càng lớn chứng tỏ doanh
nghiệp bán được nhiều hàng hóa, khi đó thị phần của doanh nghiệp trên thị trường
sẽ tăng lên. Doanh số bán lớn đảm bảo có doanh thu để trang trải các chi phí bỏ ra,
mặt khác thu được một phần lợi nhuận và có tích luỹ để tái mở rộng sản xuất.
Doanh số bán ra càng lớn thì tốc độ chu chuyển hàng hoá và chu chuyển vốn càng
nhanh, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp.
1.3.2. Thị phần
Thị phần cũng là một chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao sẽ chiếm được thị phần tương ứng với
năng lực cạnh tranh đó và có nhiều khả năng tăng thị phần. Thị phần là một loại tài
sản vô hình của doanh nghiệp, để giành và giữ vững được thị phần đòi hỏi doanh
nghiệp phải có sự nỗ lực không ngừng trong việc sản xuất các sản phẩm đáp ứng
yêu cầu của thị trường, đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Khi đề cập tới thị phần, người ta thường xem xét các chỉ tiêu sau:
18
- Chỉ tiêu thị phần của công ty so với toàn bộ thị trường: là phần trăm về số lượng
hoặc giá trị của hàng hoá của doanh nghiệp đã bán ra so với tổng số lượng hoặc tổng
giá trị của tất cả các hàng hoá cùng loại đã bán trên thị trường.
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình chiếm lĩnh và khả năng chi phối thị trường của
hàng hoá của doanh nghiệp. Tuy nhiên chỉ tiêu này khó xác định vì khó biết chính xác
được hết tình hình kinh doanh của tất cả các đối thủ.
- Chỉ tiêu thị phần so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất (T
ct
):

Chỉ tiêu này cho thấy thực tế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối
thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường. Đây là chỉ tiêu đơn giản, dễ tính hơn so với
chỉ tiêu trên do các đối thủ cạnh tranh mạnh thường có nhiều thông tin hơn.
- Chỉ tiêu tỷ trọng thị phần tăng hàng năm (T
thn
):
T
thn
= Thị phần năm sau - Thị phần năm trước
Nếu kết quả này dương tức là thị phần của doanh nghiệp tăng và khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp đã tăng lên. Nếu như kết quả âm, tức là thị phần giảm và sức
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường đã bị giảm sút.
1.3.3. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là chênh lệch của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí dùng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng hợp đánh
giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận, các
doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng cạnh tranh của mình so với đối thủ.
Nếu lợi nhuận cao thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cao và ngược lại, nếu
lợi nhuận thấp thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đang giảm sút.
Tỷ suất lợi nhuận cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh
thu.
Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận (%) = x 100
Doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phán ánh tiềm năng
của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản kinh doanh
của doanh nghiệp ấy. Nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ mức độ cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì
chứng tỏ doanh nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi và có hiệu quả. Ngoài ra, xét
về quyền lợi của nhà đầu tư người ta có thể dùng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn

chủ sở hữu để đánh giá khả năng sinh lời trên một đồng vốn của người góp vốn vào
19
doanh nghiệp năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả
trong kinh doanh của doanh nghiệp đó.
20
1.3.4. Năng suất lao động
Năng suất lao động là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao động, đặc trưng
bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) với lao động để sản
xuất ra nó. Năng suất lao động là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới
sức cạnh tranh, đặc biệt, năng suất lao động lại phản ánh yếu tố chất lượng người
lao động - yếu tố cốt lõi của sự phát triển trong sự cạnh tranh toàn cầu, sự phát
triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức hiện nay.Năng suất lao động
của doanh nghiệp càng cao thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao so
với các doanh nghiệp cùng lĩnh vực.
1.3.5. Sản lượng
Sản lượng là nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến doanh thu của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ. Trong trường hợp giá cả không thay đổi, nếu sản phẩm tiêu thụ
tăng lên thì doanh thu cũng tăng lên và ngược lại. Bên cạnh đó, sản lượng tiêu thụ còn
tác động không nhỏ đến chi phí doanh nghiệp, nếu ta xét trong thời gian ngắn tức là
quy mô của doanh nghiệp ổn định, chi phí cố định không thay đổi. Khi sản lượng tăng
lên sẽ làm cho chi phí tăng, đồng thời chi phí cho một sản phẩm giảm xuống có nghĩa
là giá thành một sản phẩm giảm và ngược lại. Nếu ta xét trong thời gian dài, quy mô
của doanh nghiệp thay đổi, chi phí cố định thay đổi, khi đó nếu tăng sản lượng thì chi
phí bình quân tăng lên vì phải mua thêm máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng,
thuê nhân công. Như vậy, khi sản lượng thay đổi không chỉ làm doanh thu, chi phí
biến đổi mà nó còn làm cho nhiều yếu tố khác cũng biến đổi, trong đó có quy mô của
doanh nghiệp và sự đáp ứng thoả mãn cho người tiêu dùng trên thị trường trong và
ngoài nước.
1.4. Các công cụ chủ yếu để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong hoạt động cạnh tranh trên thị trường doanh nghiệp có thể sử dụng các

công cụ cạnh tranh khác nhau để chiếm lĩnh thị trường, tăng tốc độ tiêu thụ sản
phẩm, tăng thị phần, Các công cụ thường được các doanh nghiệp sử dụng là chất
lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối.
1.4.1. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản phẩm
thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định phù
hợp với công dụng của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm trở thành công cụ cạnh
tranh quan trọng của doanh nghiệp trên thị trường bởi nó biểu hiện sự thoả mãn
nhu cầu khách hàng của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm ngày càng cao tức là mức
độ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn dần đến sự thích thú tiêu dùng sản phẩm ở
21
khách hàng tăng lên, do đó làm tăng khả năng thắng thế trong cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) đã đưa ra định nghĩa chất lượng sản
phẩm trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000 như sau: “Chất lượng sản phẩm là một tập hợp
các thuộc tính của sản phẩm, tạo cho sản phẩm đó khả năng thoả mãn yêu cầu đã
nêu ra hoặc tiềm ẩn”. Định nghĩa trên cho thấy sự thống nhất giữa các thuộc tính
nội tại của sản phẩm, các nhu cầu của khách hàng, giữa các yêu cầu của người sản
xuất và người tiêu dùng, giữa nhu cầu hiện tại và kỳ vọng trong tương lai của
khách hàng về sản phẩm. Chất lượng sản phẩm có vai trò quan trọng trong cạnh
tranh của mỗi doanh nghiệp. Một trong các căn cứ quan trọng khi người tiêu dùng
quyết định lựa chọn sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp là chất lượng sản phẩm.
Theo M.Porter thì năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được thể hiện thông
qua hai chiến lược cơ bản là phân biệt hoá sản phẩm (chất lượng) và chi phí thấp.
Vì vậy chất lượng sản phẩm trở thành một trong những công cụ quan trọng nhất
làm tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm thể hiện khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng của
doanh nghiệp. Sản lượng tiêu thụ sẽ tăng cùng với sự gia tăng mức độ thoả mãn
của khách hàng. Đặc biệt khi trình độ xã hội ngày càng cao, xã hội ngày càng văn
minh, thị hiếu của người tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao về

mọi mặt chứ không chỉ đơn giản là tốt - bền - đẹp như trước kia. Như vậy chất
lượng và cạnh tranh là hai phạm trù luôn đi cùng và gắn bó chặt chẽ với nhau, chất
lượng làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và ngược lại năng lực cạnh
tranh cao lại tạo cơ sở tài chính và vật chất cần thiết cho nâng cao chất lượng sản
phẩm. Các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ để đảm bảo cạnh
tranh thắng lợi trên sân nhà mà còn nhằm hướng tới khả năng vươn ra thị trường
quốc tế.
Muốn sản phẩm của doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh được trên thị
trường thì doanh nghiệp phải có chiến lược sản phẩm đúng đắn, tạo ra được những
sản phẩm phù hợp, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường với chất lượng tốt. Để
sử dụng có hiệu quả công cụ chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh, doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Trên cơ sở
nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng,
các doanh nghiệp cần xây dựng và tổ chức triển khai các hoạt động đẩy nhanh quá
trình cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tốt nhất công cụ này cho
nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.4.2. Cạnh tranh bằng giá cả
22
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì giá bán sản phẩm là một trong
những công cụ quan trọng thường được sử dụng. Bởi giá bán sản phẩm có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hấp dẫn của sản phẩm và sản lượng tiêu thụ. Hai hàng hoá
có cùng công dụng chất lượng như nhau, khách hàng sẽ mua hàng hóa nào có giá
thấp hơn. Có nhiều chính sách giá khác nhau được doanh nghiệp sử dụng phù hợp
với sản phẩm, mục tiêu, tình hình thị trường và khả năng thanh toán của khách
hàng như:
- Chính sách định giá thấp : Là chính sách định giá thấp hơn thị trường để thu hút
khách hàng về phía mình. Chính sách này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực vốn
lớn, phải tính toán chắc chắn và đầy đủ mọi tình huống rủi ro có thể xảy ra đối với
doanh nghiệp khi áp dụng chính sách giá này.
- Chính sách định giá cao: Doanh nghiệp áp dụng mức giá cao hơn giá thị trường và

cao hơn giá thành sản phẩm trong trường hợp sản phẩm mới tung ra thị trường,
chưa có đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và chưa có
cơ hội so sánh về giá. Giai đoạn này doanh nghiệp sẽ tranh thủ chiếm lĩnh thị
trường sau đó sẽ hạ dần đến mức bằng hoặc thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn
đảm bảo thu lợi nhuận.
- Chính sách ổn định giá: Theo chính sách này doanh nghiệp sẽ chọn một mức giá vừa
phải và áp dụng trong thời gian dài để tạo uy tín và củng cố niềm tin của khách
hàng về sự ổn định của sản phẩm. Nó giúp sản phẩm có những nét độc đáo khác
biệt với đối thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp có điều kiện giữ vững và mở rộng
thị phần.
- Chính sách bán phá giá: Là chính sách doanh nghiệp bán hàng với mức giá rất thấp,
không có lợi nhuận, thậm chí không bù đắp được chi phí sản xuất làm cho đối thủ
không thể cạnh tranh được về giá và phải tự rút lui khỏi thị trường. Khi đó doanh
nghiệp độc chiếm thị trường và lại chủ động nâng giá lên. Chính sách này rất nguy
hiểm, ít được sử dụng vì nó là con dao hai lưỡi. Hiện nay bán phá giá được coi là
phương thức cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm sử dụng.
- Chính sách phân biệt giá: Là chính sách đưa ra những mức giá khác nhau đối với
cùng một loại sản phẩm khi bán cho những đối tượng khác nhau, cho những khu
vực thị trường khác nhau, hoặc khách hàng mua với số lượng khác nhau hoặc
trong những thời điểm khác nhau. Chính sách này giúp doanh nghiệp thoả mãn
được nhiều đối tượng khách hàng có nhu cầu và khả năng thanh toán khác nhau,
tạo nên sự linh hoạt về giá để hấp dẫn khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo bù đắp
được những chi phí phát sinh do sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao hơn
hoặc do vận chuyển sản phẩm đến những địa điểm khác nhau.
23
Tóm lại, chiến lược giá cả là một công cụ cạnh tranh sắc bén của doanh
nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy
mỗi doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các chiến lược giá và hoạch định chiến lược
giá cả sao cho phù hợp với biến động của thị trường và mục tiêu phát triển của
doanh nghiệp.

24
1.4.3. Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối
Để tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần phải chọn các kênh phân phối, lựa
chọn thị trường, nghiên cứu thị trường và lựa chọn kênh phân phối để sản phẩm
sản xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng, hợp lý và đạt được hiệu quả cao. Chính sách
phân phối sản phẩm đạt được các mục tiêu giải phóng nhanh chóng lượng hàng
tiêu thụ, tăng nhanh vòng quay của vốn thúc đẩy sản xuất nhờ vậy tăng nhanh khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hiện nay doanh nghiệp có rất nhiều hình thức tiêu thụ nhưng đa số các sản
phẩm là những máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng trong quá trình
tiêu thụ nói chung đều thông qua một số kênh chủ yếu như bán trực tiếp, bán
thông qua các công ty bán buôn của mình và các hãng bán buôn độc lập, sử dụng
mạng lưới bán lẻ của hãng, bán qua các cửa hàng, các hãng bán lẻ độc lập hoặc
bán hàng qua điện thoại, qua mạng. Việc lựa chọn và xây dựng kênh phân phối phải
dựa trên các kết quả nghiên cứu các đặc điểm thị trường bao gồm đặc điểm của
nhóm khách hàng (cá nhân, tổ chức, khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm
năng, ), đặc tính sản phẩm (tính dễ hư hỏng, tính thời vụ, đặc điểm kỹ thuật của
sản phẩm, ), đặc điểm môi trường (điều kiện kinh tế, khả năng quản lý, các ràng
buộc pháp lý, điều kiện địa lý, ).
Để xây dựng hoặc thay đổi được một kênh phân phối cần rất nhiều công sức
và thời gian vì nó còn phụ thuộc nhiều nhân tố khách quan khác chứ không chỉ phụ
thuộc mong muốn chủ quan của doanh nghiệp. Trên thực tế để lựa chọn và tiến
hành xây dựng một kênh phân phối vận hành trơn tru có khi phải mất nhiều năm.
Vì vậy chọn kênh phân phối hợp lý sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ và duy trì sức cạnh
tranh trong doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây có nhiều thay đổi trong lựa chọn kênh phân phối,
các doanh nghiệp có xu hướng chọn kênh phân phối trực tiếp. Hình thức này cho
phép phát triển các quan hệ hợp đồng và hệ thống các đơn hàng cá biệt. Việc thực
hiện lịch giao hàng theo quy định sẽ tạo điều kiện cho khách hàng giảm được lượng
dự trữ tồn kho. Điều đó cũng là tiền đề để phát triển sản xuất kinh doanh có tính

đến yêu cầu cụ thể của khách hàng.
1.4.4. Cạnh tranh bằng chính sách Marketing
Chính sách marketing cũng là một công cụ quan trọng để nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xây dựng và thực thi được chính
sách marketing một cách khoa học và hiệu quả. Chiến lược marketing được xây
dựng dựa trên quá trình phân tích các thị trường tiêu thụ và hành vi của người
25

×