Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Chính sách phát triển công nghiệp gia công của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 127 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



PHẠM THANH HIỀN





CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP GIA
CÔNG
CỦA TRUNG QUỐC SAU KHI GIA NHẬP WTO
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Hà Nội - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


PHẠM THANH HIỀN




CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP GIA CÔNG
CỦA TRUNG QUỐC SAU KHI GIA NHẬP WTO
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM


Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ LAN HƢƠNG

Hà Nội - 2010


1
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng
Trang
Bảng 1.1
Chi phí về lao động sản xuất
7
Bảng 1.2
Chi phí về lao động sản xuất
8
Bảng 2.1
Tình hình thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài của
Trung Quốc từ 1979 đến 2001
39
Bảng 2.2
Cơ cấu xuất khẩu theo hình thức (1997 – 2001)
40
Bảng 2.3
Cơ cấu giá trị gia công xuất khẩu của Trung Quốc
năm 1993
41
Bảng 2.4
Nguồn nhập khẩu của Trung Quốc theo hình thức
thƣơng mại và thị trƣờng năm 1993 và năm 2002
42
Bảng 2.5
Nguồn xuất khẩu của Trung Quốc theo hình thức
thƣơng mại và thị trƣờng năm 1992 và năm 2002
44
Bảng 2.6
Xếp hạng 10 môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn nhất thế giới
64

Bảng 2.7
Cơ cấu giá trị gia công xuất khẩu của Trung Quốc
sau khi gia nhập WTO
82
Bảng 3.1
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gia công chủ yếu
của Việt Nam năm 2006
93
Bảng 3.2
10 nhà đầu tƣ lớn nhất tại Việt Nam năm 2005
94









2
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Số hiệu biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 1.1
Thị trƣờng gia công của Trung Quốc năm 2002
45


























3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

STT
Ký hiệu
Nội dung

1
FDI
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
2
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
3
TNCs
Công ty xuyên quốc gia
4
USD
Đô la Mỹ
5
WTO
Tổ chức Thƣơng mại thế giới































4
MỤC LỤC


Trang
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
iii
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP GIA CÔNG Ở TRUNG QUỐC

7
1.1. Lý luận chung về công nghiệp gia công và chính sách phát triển công
nghiệp gia công
7
1.1.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723 – 1790) và lý
thuyết lợi thê tƣơng đối của David Ricacđô (1772 – 1823) – cơ sở lý luận cho
sự ra đời của công nghiệp gia công ở các quốc gia đang phát triển
7
1.1.2. Khái niệm và nội dung của công nghiệp gia công
10
1.1.3. Khái niệm và nội dung chính sách phát triển công nghiệp gia công
15
1.2. Chính sách phát triển công nghiệp gia công ở Trung Quốc
21
1.2.1. Quá trình hình thành chính sách phát triển công nghiệp gia công ở
Trung Quốc
21
1.2.2. Tiềm năng và lợi thế của Trung Quốc trong phát triển công nghiệp
gia công
23
1.2.3. Nhiệm vụ của chính sách phát triển công nghiệp gia công ở Trung
Quốc
29
CHƢƠNG 2: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP GIA CÔNG
CỦA TRUNG QUỐC SAU KHI GIA NHẬP WTO

2.1. Chính sách phát triển công nghiệp gia công của Trung Quốc trƣớc khi
gia nhập WTO và một số vấn đề đặt ra sau khi Trung Quốc gia nhập WTO
32
2.1.1. Nội dung cơ bản của chính sách phát triển công nghiệp gia công của

Trung Quốc trƣớc khi gia nhập WTO
32


5
2.1.2. Đánh giá chung về chính sách phát triển công nghiệp gia công của
Trung Quốc trƣớc khi gia nhập WTO
37
2.1.3. Một số vấn đề đặt ra đối với công nghiệp gia công của Trung Quốc
sau khi gia nhập WTO
49
2.2. Sự điều chỉnh chính sách phát triển công nghiệp gia công của
Trung Quốc sau khi gia nhập WTO
52
2.2.1. Quan điểm định hƣớng phát triển công nghiệp gia công của Đảng
cộng sản Trung Quốc sau khi gia nhập WTO
52
2.2.2. Một số chính sách cụ thể
56
2.2.3. Đánh giá chung hiệu quả chính sách phát triển công nghiệp gia
công Trung Quốc sau tám năm gia nhập WTO (2001 – 2009)
80
2.3. Bài học rút ra từ kinh nghiệm của Trung Quốc
86
2.3.1. Bài học kinh nghiệm từ những thành tựu
86
2.3.2. Bài học kinh nghiệm từ những hạn chế
90
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP GIA CÔNG VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO

RÚT RA TỪ THỰC TIỄN TRUNG QUỐC
92
3.1. Tổng quan hoạt động công nghiệp gia công Việt Nam trƣớc khi gia
nhập WTO (ngày 1/11/2007)
92
3.2. Những cơ sở cho việc vận dụng chính sách phát triển công nghiệp gia
công sau khi gia nhập WTO của Trung Quốc ở Việt Nam
94
3.2.1. Điểm tƣơng đồng giữa công nghiệp gia công Trung Quốc và công
nghiệp gia công Việt Nam
94
3.2.2. Điểm khác biệt giữa công nghiệp gia công Trung Quốc và công
nghiệp gia công Việt Nam
98
3.3. Một số đề xuất về chính sách phát triển công nghiệp gia công ở Việt
Nam sau khi gia nhập WTO rút ra từ bài học kinh nghiệm Trung Quốc
100
KẾT LUẬN
114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
118


6




MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong gần 20 năm trở lại đây, quá trình phân công lao động xã hội đã
phát triển mạnh mẽ vƣợt ra khỏi phạm vi quốc gia và có xu hƣớng toàn cầu.
Với mục tiêu tối thiểu hoá chi phí, các nƣớc phát triển đã và đang chuyển
những công đoạn đơn giản trong quá trình sản xuất sản phẩm công nghiệp của
mình sang thực hiện tại các nƣớc đang phát triển. Do đó, ở những quốc gia
đang phát triển trong thời gian qua, một lĩnh vực công nghiệp mới mang tên
“công nghiệp gia công” đã hình thành và ngày càng phát triển.
Sự hình thành và phát triển của công nghiệp gia công ở những nƣớc này
đã đem cho họ rất nhiều lợi ích dựa trên lợi thế mà các nƣớc đang phát triển
có đƣợc : Đó là dân số đông, sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu,
trong quá trình công nghiệp hóa nông nhàn còn lƣợng lao động dƣ thừa nhiều,
trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém. Mặt khác, đặc điểm của công nghiệp
gia công lại chỉ sử dụng nhiều lao động và kỹ thụât sản xuất đòi hỏi ở mức độ
thấp. Vì vậy, phát triển công nghiệp gia công giúp cho họ có thể giải quyết
hàng loạt vấn đề lớn nhƣ : giải quyết việc làm cho ngƣời lao động, tăng thu
nhập cho nhân dân, là cầu nối để tiếp cận khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm
sản xuất tiên tiến trên thế giới; thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá nông
nghiệp, nông thôn….
Là một nƣớc đang phát triển có nguồn lao động dồi dào, tài nguyên thiên
nhiên phong phú, nƣớc ta thấy rõ đƣợc những lợi ích to lớn của công nghiệp


7
gia công đem lại, chính phủ Việt Nam từ năm 1996 đã đề ra nhiều chính sách
nhằm phát triển lĩnh vực này. Tuy nhiên, trải qua 10 năm, đến nay công
nghiệp gia công ở Việt Nam vẫn còn nhiều mặt yếu, phát triển dƣới mức tiềm
năng, sức cạnh tranh rất thấp… Một trong những trở ngại lớn nhất là do hình
ảnh nƣớc Việt Nam năng động, đang đổi mới chƣa đƣợc khẳng định và quảng
bá sâu rộng trên toàn thế giới, các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài chƣa tin tƣởng vào

hệ thống pháp lý và môi trƣờng đầu tƣ tại Việt Nam.
Tuy nhiên, sự kiện Việt Nam trở thành thành viên tổ chức thƣơng mại
thế giới (WTO) vào cuối năm 2006 (7/11/2006) đã giúp Việt Nam thay đổi
hình ảnh của mình. Với việc đáp ứng đƣợc các yêu cầu khắt khe để trở thành
thành viên của WTO, vị thế của Việt Nam đã đƣợc nâng cao và khẳng định
trên trƣờng quốc tế. Vì vậy, đây là một cơ hội rất lớn để Việt Nam có thể thu
hút đƣợc nhiều hợp đồng gia công và phát triển công nghiệp gia công lên tầm
cao mới.
Nhƣng cơ hội sẽ qua đi mất nếu chúng ta không bằng những hành động
cụ thể để tận dụng đƣợc nó. Để biến cơ hội trên thành hiện thực, sau khi gia
nhập WTO, chính phủ Việt Nam cần có những chính sách ƣu đãi, hỗ trợ, điều
tiết, quản lý công nghiệp gia công hợp lý, hiệu quả, hữu hiệu. Để ban hành
đƣợc những chính sách nhƣ vậy, Việt Nam cần tham khảo học hỏi kinh
nghiệm từ những quốc gia đã đi trƣớc, thành công và có nhiều điểm tƣơng
đồng. Trong những quốc gia đó, quốc gia đầu tiên Việt Nam cần học tập là
Trung Quốc.
Trung Quốc gia nhập WTO từ năm 2001(14/11/2001) trƣớc Việt Nam
năm năm. Sau khi gia nhập WTO, chính phủ Trung Quốc đã ban hành rất
nhiều chính sách để phát triển công nghiệp gia công. Đến nay, công nghiệp
gia công đã trở thành một trong những lĩnh vực có thế mạnh nhất của Trung
Quốc, Trung Quốc đã trở thành “công xƣởng” của thế giới. Thành tựu mà


8
công nghiệp gia công mà nƣớc này đạt đƣợc đã đóng góp rất lớn vào sự phát
triển vƣợt bậc của Trung Quốc trong thời gian qua.
Với những điểm tƣơng đồng về kinh tế, chính trị, văn hóa, lịch sử trên
đây, những chính sách phát triển công nghiệp gia công mà Trung Quốc đã
thực hiện nhằm nắm bắt cơ hội do gia nhập WTO đem lại, Việt Nam có thể
chọn lọc, áp dụng sáng tạo vào công nghiệp gia công của mình. Vì vậy, việc

tìm hiểu, nghiên cứu những chính sách phát triển công nghiệp gia công của
Trung Quốc, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam là hết sức cần
thiết. Với lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chính sách phát triển công
nghiệp gia công của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Sau khi gia nhập WTO, từ một nƣớc nông nghiệp, Trung Quốc nổi lên
nhƣ là một cƣờng quốc trong lĩnh vực công nghiệp gia công. Có đƣợc thành
tựu nhƣ vậy đầu tiên phải kể tới vai trò định hƣớng, quản lý đúng đắn, kịp
thời của các chính sách kinh tế mà Trung Quốc đã ban hành. Chính vì vậy,
trong thời gian qua, chính sách phát triển công nghiệp nói chung và công
nghiệp gia công của Trung Quốc nói riêng đã đƣợc nhiều học giả nghiên cứu.
Có thể nêu lên một số công trình chủ yếu sau:
- Lê Đăng Minh (2007), Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Tác động và giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh một số
ngành công nghiệp, Viện kinh tế, Hà nội .
- Tập thể tác giả viện nghiên cứu Trung Quốc (2003), “Tìm hiểu vấn đề
công nghiệp hoá ở Trung Quốc”, Nxb Khoa học xã hội.
- Phạm Sỹ Thành (2005) , “Trung Quốc - Từ công nghiệp hoá truyền
thống đến con đƣờng công nghiệp hoá kiểu mới”, Tạp chí nghiên cứu Trung
Quốc, Số 3 (tr 19 – 30) .


9
- Phan Thái Quốc (2001), Trung Quốc quá trình công nghiệp hoá trong
20 năm cuối thế kỷ XX, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội
Trong chừng mực nhất định các tác giả đã chỉ ra đƣợc những vấn đề cơ
bản trong chính sách phát triển công nghiệp gia công Trung Quốc. Tuy nhiên,
việc phân tích chính sách phát triển công nghiệp gia công ở Trung Quốc sau
khi gia nhập WTO để từ đó vận dụng vào việc xây dựng chính sách phát triển

công nghiệp gia công của Việt Nam thì chƣa có công trình nào đề cập có hệ
thống và toàn diện. Trong phần trình bày của luận văn, tác giả muốn đi sâu
tìm hiểu vấn đề này và mong muốn đóng góp giá trị vào việc phát triển công
nghiệp gia công - vấn đề vừa có tính lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Đánh giá sự điều chỉnh chính sách phát triển công nghiệp
gia công của Trung Quốc sau khi nƣớc này gia nhập WTO, từ đó rút ra bài
học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp nhằm vận dụng kinh nghiệm của
Trung Quốc vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và cơ sở của việc xây dựng,
điều chỉnh chính sách phát triển công nghiệp gia công của Trung Quốc.
+ Phân tích, đánh giá các chính sách phát triển công nghiệp gia công ở
các lĩnh cơ bản của Trung Quốc từ khi nƣớc này gia nhập WTO (12/2001)
đến nay.
+ Rút ra bài học từ việc xây dựng, điều chỉnh chính sách phát triển công
nghiệp gia công của Trung Quốc và đề xuất một số giải pháp về chính sách
phát triển công nghiệp gia công của Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu


10
Đối tượng nghiên cứu: đề tài phân tích chính sách phát triển công
nghiệp gia công mà Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện từ khi gia nhập WTO
đến nay , làm cơ sở rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Trung Quốc trải qua một quá trình đổi mới lâu dài
với rất nhiều chính sách phát triển công nghiệp gia công đã đƣợc thực hiện.
Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu các chính sách phát triển công nghiệp gia
công tiêu biểu theo định hƣớng của Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần

thứ XVI năm 2002 – thời điểm Trung Quốc bắt đầu gia nhập WTO.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp sử dụng những phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
- Phƣơng pháp trừu tƣợng hoá khoa học.
- Các cặp phƣơng pháp : phƣơng pháp phân tích và phƣơng pháp tổng
hợp; phƣơng pháp lôgic và lịch sử.
- Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học
- Phƣơng pháp thống kê, so sánh
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
- Tổng hợp và phân tích những chính sách phát triển công nghiệp gia
công tiêu biểu của Trung Quốc kể từ khi gia nhập WTO đến nay.
- Nêu đƣợc những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam từ việc phân
tích chính sách phát triển công nghiệp gia công của Trung Quốc sau khi gia
nhập WTO.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển ngành công nghiệp gia công
Việt Nam từ khi gia nhập WTO.
7. Bố cục của luận văn


11
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm
3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách phát triển công
nghiệp gia công ở Trung Quốc.
Chƣơng 2: Chính sách phát triển công nghiệp gia công của Trung Quốc
sau khi gia nhập WTO.
Chƣơng 3: Một số đề xuất về chính sách phát triển công nghiệp gia công
của Việt Nam sau khi gia nhập WTO rút ra từ bài họcTrung Quốc.



12
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP GIA CÔNG Ở TRUNG QUỐC
1.1. Lý luận chung về công nghiệp gia công và chính sách phát triển
công nghiệp gia công
1.1.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723 – 1790) và lý
thuyết lợi thê tương đối của David Ricacđô (1772 – 1823) – cơ sở lý luận
cho sự ra đời của công nghiệp gia công ở các quốc gia đang phát triển
Kế thừa những nghiên cứu của David Hume (1711 – 1776), lý thuyết lợi
thế tuyệt đối – lý thuyết nền tảng của thƣơng mại quốc tế đƣợc Adam Smith
nêu ra vào giữa thế kỷ XVIII trong cuốn “Nghiên cứu nguyên nhân, bản chất
sự giàu có của các dân tộc”. Theo lý thuyết này, các quốc gia sẽ đạt đƣợc lợi
thế trong trao đổi thƣơng mại quốc tế khi tập trung chuyên môn hoá vào sản
xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản xuất thấp hơn so với các
quốc gia khác.
Lý thuyết này đƣợc minh họa rõ hơn qua ví dụ sau:
Bảng 1.1: Chi phí về lao động để sản xuất
Sản phẩm
Tại Anh (giờ công)
Tại Bồ Đào Nha (giờ công)
1 đơn vị lúa mỳ
15
10
1 đơn vị rƣợu vang
10
20


Tại Anh mất 15 giờ để sản xuất 1 đơn vị lúa mỳ, trong khi tại Bồ Đào
Nha chỉ mất 10 giờ. Do đó, chi phí sản xuất 1 đơn vị lúa mỳ tại Bồ Đào Nha
chỉ bằng 10/15 = 2/3 chi phí lao động sản xuất 1 đơn vị lúa mỳ tại Anh. Vì
vậy, Bồ Đào Nha có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất lúa mỳ.
Ngƣợc lại, tại Anh chỉ mất 10 giờ để sản xuất 1 đơn vị rƣợu vang, trong
khi tại Bồ Đào Nha mất tới 20 giờ. Do đó, chi phí sản xuất 1 đơn vị rƣợu vang


13
ở Anh nhỏ hơn chỉ bằng 10/20 = ½ chi phí sản xuất 1 đơn vị rƣợu vang tại Bồ
Đào Nha. Vì vậy, Anh có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất rƣợu vang.
Nhƣ vậy, theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, Anh và Bồ
Đào Nha đều sẽ thu đƣợc lợi nếu Bồ Đào Nha chuyên môn hóa sản xuất lúa
mỳ, nhập khẩu rƣợu vang của Anh; Anh chuyên môn hóa sản xuất rƣợu vang,
nhập khẩu lúa mỳ của Bồ Đào Nha.
Sự ra đời của lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith trên đây đã đặt
nền tảng lý luận cho sự ra đời của thƣơng mại quốc tế. Tuy nhiên, theo lý
thuyết này, chỉ có những nƣớc có lợi thế tuyệt đối so với nƣớc khác về một
mặt hàng và kém lợi thế tuyệt đối về mặt hàng khác thì mới có lợi khi tham
gia thƣơng mại quốc tế. (Nhƣ trong ví dụ trên, Anh có lợi thế tuyệt đối về
rƣợu vang, nhƣng kém lợi thế tuyệt đối về lúa mỳ, Bồ Đào Nha có lợi thế
tuyệt đối về lúa mỳ nhƣng kém lợi thế tuyệt đối về rƣợu vang). Còn lại,
những nƣớc không có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng nào thì lý thuyết này chƣa
đề cập đến.
Trên cơ sở đó, năm 1817, phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam
Smith, nhà kinh tế học ngƣời Anh - David Ricardo đã nghiên cứu và đƣa ra
lý thuyết lợi thế tƣơng đối (lý thuyết lợi thế so sánh).
Lý thuyết lợi thế tƣơng đối chỉ ra rằng chuyên môn hóa quốc tế sẽ mang
lại lợi ích cho tất cả các quốc gia nếu mỗi quốc gia chuyên môn hóa sản xuất
xuất khẩu các hàng hóa mà mình có ƣu thế tƣơng đối và chuyển những ngành

nghề không có ƣu thế sang quốc gia khác.
Lý thuyết này đƣợc minh họa rõ hơn qua ví dụ sau:
Bảng 1.2: Chi phí về lao động sản xuất
Sản phẩm
Tại Anh (giờ công)
Tại Bồ Đào Nha (giờ công)
1 đơn vị lúa mỳ
15
10
1 đơn vị rƣợu vang
30
15


14
Trong ví dụ này, chi phí sản xuất lúa mỳ tại Bồ Đào Nha chỉ bằng
10/15 = 2/3 tại Anh; chi phí sản xuất rƣợu vang tại Bồ Đào Nha cũng chỉ bằng
15/30 = ½ tại Anh. Nhƣ vậy, Bồ Đào Nha có lợi thế tuyệt đối cả hai mặt hàng.
Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, Bồ Đào Nha nên
chuyên môn hóa cả lúa mỳ và rƣợu, Anh không nên chuyên môn hóa sản xuất
mặt hàng nào và không có thƣơng mại quốc tế.
Tuy nhiên, theo lý thuyết lợi thế tƣơng đối của David Ricacđô, kết luận
hoàn toàn khác: Chi phí lao động sản xuất 1 đơn vị lúa mỳ tại Anh gấp 15/10
= 3/2 tại Bồ Đào Nha. Chi phí sản xuất 1 đơn vị rƣợu vang tại Anh gấp 30/15
= 2 tại Bồ Đào Nha (30/15). Vì 3/2 < 2 nên Anh có chi phí tƣơng đối sản
xuất lúa mỳ thấp hơn chi phí tƣơng đối sản xuất rƣợu vang. Với cách phân
tích tƣơng tự, Bồ Đào Nha có chi phí tƣơng đối sản xuất rƣợu vang thấp hơn
lúa mỳ ( ½ < 2/3).
Nhƣ vậy, áp dụng lý thuyết lợi thế tƣơng đối của David Ricacđô: Anh
và Bồ Đào Nha đều có lợi khi chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng mỗi nƣớc

có chi phí tƣơng đối thấp hơn và nhập khẩu hàng hóa có chi phí tƣơng đối cao
hơn. Cụ thể : Anh chuyên môn hóa sản xuất lúa mỳ và nhập khẩu rƣợu vang
từ Bồ Đào Nha, Bồ Đào Nha chuyên môn hóa sản xuất rƣợu vang và nhập
khẩu lúa mỳ từ Anh.
Mặc dù lý thuyết lợi thế tƣơng đối của David Ricacđô đã phát triển và
giải quyết đƣợc hạn chế trong lý thuyết lợi thế tƣơng đối của Adam Smith,
nhƣng mức độ chuyên môn hóa mà ông nêu ra mới chỉ dừng lại ở dạng thành
phẩm (nhƣ Bồ Đào Nha chuyên sản xuất rƣợu, Anh chuyên môn hóa sản xuất
lúa mỳ). Phát triển lý thuyết trong thời đại ngày nay, thời đại mà trình độ phân
công lao động quốc tế đã đạt mức rất cao, mỗi quốc gia không còn sản xuất
toàn bộ thành phẩm mà chỉ sản xuất một vài chi tiết, bộ phận, của sản phẩm.
Ứng dụng lý thuyết lợi thế tƣơng đối trong trƣờng hợp này, tất cả các quốc gia


15
sẽ có lợi khi chuyên môn hóa sản xuất công đoạn có chi phí sản xuất nhỏ hơn
công đoạn khác và chuyển những công đoạn sản xuất cho chi phí sản xuất cao
hơn sang nƣớc khác. Thông thƣờng, nƣớc có nền tảng công nghệ cao thì
chuyên môn hóa các công đoạn kỹ thuật phức tạp (thƣờng là những nƣớc phát
triển), còn những công đoạn cần nhiều lao động, kỹ thuật thấp thì thuê các
nƣớc đang phát triển có trình độ công nghệ thấp, nguồn lao động dồi dào với
chi phí lƣơng thấp thực hiện. Trên cơ sở đó, ở các nƣớc đang phát triển đã
hình thành một lĩnh vực công nghiệp mới, đƣợc gọi là công nghiệp gia công.
1.1.2. Khái niệm và nội dung của công nghiệp gia công
1.1.2.1. Khái niệm công nghiệp gia công
Hiện nay có nhiều cách hiểu về công nghiệp gia công, từ những góc độ
khác nhau thì công nghiệp gia công đƣợc hiểu theo những cách khác nhau.
Theo nghĩa hẹp, công nghiệp gia công đƣợc hiểu là lĩnh vực sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp trong nƣớc làm thuê cho doanh nghiệp có
nguyên vật liệu ở nƣớc ngoài.

Với cách hiểu nhƣ trên, doanh nghiệp gia công chỉ đơn thuần là một
doanh nghiệp làm thuê theo đơn đặt hàng trên cơ sở sử dụng nguyên vật liệu
của nƣớc ngoài. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động công nghiệp gia công không
hoàn toàn đƣợc thực hiện nhƣ vậy, để tận dụng nguồn nguyên liệu giá rẻ, bên
thuê vẫn để cho doanh nghiệp gia công sử dụng nguồn nguyên liệu của nƣớc
mình, miễn là chất lƣợng nguyên liệu và các tiêu chuẩn kỹ thuật về công nghệ
phải đúng theo yêu cầu của đơn đặt hàng. Mặt khác, công nghiệp gia công
hiện nay không chỉ thực hiện dƣới hình thức làm thuê theo hợp đồng mà còn
đƣợc thực hiện dƣới hình thức doanh nghiệp nƣớc ngoài hợp tác, liên doanh
với doanh nghiệp trong nƣớc hoặc đầu tƣ xây dựng xí nghiệp gia công mới từ
đầu.


16
Vì vậy, công nghiệp gia công theo nghĩa rộng hiện nay đƣợc hiểu là lĩnh
vực sản xuất kinh doanh chuyên môn hóa mà các doanh nghiệp trong nƣớc
thực hiện một hoặc vài công đoạn trong quá trình sản xuất ra sản phẩm công
nghiệp hoàn chỉnh cho doanh nghiệp nƣớc ngoài trên cơ sở sử dụng nguyên
liệu, bán thành phẩm, công nghệ nhập khẩu dƣới hình thức ký kết hợp đồng
gia công, liên doanh hoặc đầu tƣ mới.
1.1.2.2. Những nội dung cơ bản của công nghiệp gia công
* Mục đích của doanh nghiệp khi thuê gia công ở nước đang phát triển
Khi gia công sản phẩm ở các nƣớc đang phát triển, các doanh nghiệp
thƣờng hƣớng vào các mục đích sau:
Thứ nhất, phát huy lợi thế về nguồn lao động dồi dào, trình độ thấp, tiền
công rẻ ở nƣớc đang phát triển để tiết kiệm chi phí, từ đó giảm giá thành sản
phẩm, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trƣờng trong nƣớc cũng nhƣ
quốc tế.
Thứ hai, các nƣớc đang phát triển bắt đầu bƣớc vào quá trình công
nghiệp hóa muộn hơn các nƣớc phát triển, vì vậy, trữ lƣợng các nguồn tài

nguyên thiên nhiên nhƣ than, khoáng sản, dầu mỏ, đất đai… chƣa đƣợc khai
thác hoặc khai thác chƣa hiệu quả. Gia công sản phẩm ở các nƣớc này sẽ giúp
cho các doanh nghiệp nƣớc ngoài tận dụng đƣợc nguồn tài nguyên thiên nhiên
dồi dào đó.
Thứ ba, các nƣớc đang phát triển thƣờng có dân số đông nên là những
thị trƣờng tiêu thụ hàng hóa rộng lớn, lƣợng cầu cao. Theo lý thuyết về chu
chuyển tƣ bản của Mác, thời gian chu chuyển của tƣ bản tỷ lệ nghịch với tốc
độ chu chuyển của tƣ bản. Các doanh nghiệp nƣớc ngoài nếu gia công sản
phẩm ngay tại thị trƣờng tiêu thụ sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí lƣu thông,
rút ngắn đƣợc thời gian chu chuyển, tăng tốc độ chu chuyển của tƣ bản nhờ
đó thu đƣợc nhiều lợi nhuận hơn.


17
Mặc dù gia công ở nƣớc đang phát triển có những nguồn lợi nhƣ trên,
nhƣng khi gia công ở nƣớc ngoài, các doanh nghiệp luôn luôn giữ vững
nguyên tắc “không bao giờ gia công ngoài giá trị cốt lõi” nhằm giữ bí mật
công nghệ, đảm bảo sức cạnh tranh; nghĩa là thuê gia công nhƣng luôn phải
giữ lại các yếu tố để duy trì khả năng cạnh tranh và tài sản trí tuệ. Vì vậy, họ
chủ yếu chỉ thuê gia công những công đoạn đơn giản, kỹ thuất phổ thông nhƣ
là công đoạn chế biến nguyên liệu thô, lắp ráp, hoàn thiện thành phẩm…
* Các hình thức hoạt động của công nghiệp gia công
Ở nƣớc đang phát triển, hoạt động gia công đƣợc thực hiện dƣới hai hình
thức sau:
- Hình thức thứ nhất là chế độ gia công thuần tuý. Đây là hình thức gia
công mà doanh nghiệp gia công nhận nguyên liệu, thiết bị hoặc công nghệ từ
nƣớc ngoài, thực hiện khâu gia công, lắp ráp, sau đó chuyển thành phẩm cho
nƣớc ngoài và nhận phí gia công. Với hình thức này, doanh nghiệp gia công
không chịu trách nhiệm về nguyên vật liệu đầu vào và trong quá trình gia
công, nguyên liệu vẫn thuộc sở hữu của khách hàng (bên thuê gia công),

doanh nghiệp gia công không đƣợc sử dụng nguyên liệu này để gia công cho
ngƣời khác nếu nhƣ không đƣợc sự đồng ý của khách hàng.
Các doanh nghiệp ở các nƣớc phát triển thƣờng tổ chức hình thức gia
công kiểu này thông qua xây dựng nhà máy gia công của riêng mình hoặc liên
doanh với một công ty ở nƣớc đang phát triển. Toàn bộ hệ thống dây chuyền
và công nghệ sản xuất đều đƣợc nhập khẩu. Nhà máy gia công trở thành một
công ty con do công ty mẹ ở nƣớc ngoài tham gia quản lý tất cả các khâu từ
nhập khẩu đầu vào, sản xuất, đến tiêu thụ đầu ra.
Ƣu điểm của hình thức gia công này là : do dây chuyền sản xuất, kỹ
thuật, nguyên vật liệu đều đƣợc nhập khẩu nên các nƣớc nhận gia công có thể
tiếp thu đƣợc các tiến bộ kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất từ những nƣớc có


18
trình độ khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đây là một lợi ích rất quan
trọng mà công nghiệp gia công đem lại cho các nƣớc đang phát triển.
Tuy nhiên, gia công theo hình thức này có nhƣợc điểm là mỗi doanh
nghiệp nhận gia công hoàn toàn phụ thuộc trực tiếp vào một và chỉ một doanh
nghiệp nƣớc ngoài nên độ rủi ro thƣờng cao và kém ổn định. Trong trƣờng
hợp doanh nghiệp nƣớc ngoài muốn chuyển gia công sang nƣớc khác hoặc bị
phá sản thì hoạt động của doanh nghiệp nhận gia công cũng bị đình đốn hoặc
đóng cửa .
- Hình thức gia công thứ hai là chế độ gia công bằng nguyên liệu nhập
khẩu: doanh nghiệp gia công tự nhập khẩu toàn bộ nguyên liệu và thực hiện
gia công hay lắp ráp hàng hoá cho khách hàng nƣớc ngoài. Về mặt pháp lý, cơ
quan hải quan coi những doanh nghiệp thực hiện hình thức gia công này là
các nhà máy gia công miễn thuế - các doanh nghiệp đƣợc nhập khẩu miễn
thuế đầu vào với điều kiện toàn bộ đầu ra phải đƣợc xuất khẩu. Trong hình
thức gia công này, doanh nghiệp nhận gia công hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nguyên liệu và có thể sử dụng nguyên liệu đó để gia công hàng hóa cho bất kì

khách hàng nào mà doanh nghiệp lựa chọn.
Hình thức gia công này thƣờng đƣợc tổ chức bằng cách : doanh nghiệp
nƣớc ngoài chọn một đối tác trong nƣớc để ký kết hợp đồng gia công. Doanh
nghiệp nhận gia công có nhiệm vụ tìm nguồn cung nguyên liệu, nhập khẩu
dây chuyền sản xuất, quản lý toàn bộ quá trình điều hành, giám sát sản xuất.
Khi sản xuất ra sản phẩm, công ty nƣớc ngoài sẽ căn cứ vào các yêu cầu chất
lƣợng trong hợp đồng để nghiệm thu sản phẩm. Theo hình thức này, các
doanh nghiệp nhận gia công vẫn là doanh nghiệp độc lập, làm thuê cho các
doanh nghiệp nƣớc ngoài.
Thực hiện gia công theo hình thức này cũng có ƣu điểm và nhƣợc điểm
riêng:


19
+ Ƣu điểm : doanh nghiệp nhận gia công trong nƣớc có thể thực hiện gia
công cho nhiều đối tác, mạng lƣới bạn hàng rộng lớn, không bị phụ thuộc
hoàn toàn vào một doanh nghiệp nào, nhờ vậy lợi nhuận ổn định, độ rủi ro
thấp.
+ Nhƣợc điểm : doanh nghiệp gia công phải tự tìm nguồn cung nguyên
liệu và dây chuyền sản xuất đáp ứng đúng yêu cầu của khách hàng, tự giám
sát quá trình sản xuất đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lƣợng nên trách
nhiệm của doanh nghiệp là rất lớn. Ngoài ra, thực hiện gia công theo hình
thức này, xét ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp trong nƣớc không thể tiếp thu
khoa học công nghệ một cách trực tiếp từ doanh nghiệp thuê gia công.
Từ những phân tích trên, mỗi hình thức gia công đều có ƣu nhƣợc điểm
riêng, ƣu điểm của hình thức này lại là nhƣợc điểm của hình thức kia và
ngƣợc lại. Vì vậy, để phát huy tối đa ƣu điểm và khấu trừ nhƣợc điểm cho
nhau, chính phủ các nƣớc đang phát triển thƣờng thực hiện nhiều chính sách
để phát triển cả hai hình thức công nghiệp gia công trên. Tuy nhiên, với ƣu
điểm thu hút đƣợc khoa học công nghệ trực tiếp từ bên thuê gia công, hình

thức gia công thuần túy hiện nay thƣờng đƣợc chú trọng và nhận đƣợc nhiều
ƣu đãi hơn từ phía chính phủ thông qua những chính sách phát triển có lợi.
* Đặc điểm của công nghiệp gia công
Từ những mục đích bên thuê gia công muốn đạt đƣợc và các hình thức
gia công, có thể rút ra công nghiệp gia công có những đặc điểm sau :
- Để gia công hàng hóa ở nƣớc đang phát triển, doanh nghiệp nƣớc
ngoài có thể liên doanh với doanh nghiệp trong nƣớc, đầu tƣ xây dựng mới xí
nghiệp, hoặc ký hợp đồng gia công. Tất cả những cách đó đều là các loại hình
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài FDI. Do đó, sự phát triển của công nghiệp gia
công liên quan chặt chẽ đến khả năng thu hút FDI của nền kinh tế, muốn phát
triển công nghiệp gia công thì phải tăng cƣờng thu hút FDI.


20
- Vì công nghiệp gia công nhằm tận dụng nguồn lao động dồi dào và chỉ
thực hiện những công đoạn đơn giản nên đây là lĩnh vực công nghiệp sử dụng
nhiều lao động và lao động không cần trình độ cao.
- Công nghiệp gia công là lĩnh vực công nghiệp có trình độ kỹ thuật
thấp. Bên gia công chỉ là ngƣời làm thuê theo hợp đồng, không đƣợc tham gia
nghiên cứu sản phẩm, mọi công nghệ mới, cốt lõi đều đƣợc bảo mật.
- Công nghiệp gia công thƣờng phát triển mạnh mẽ ở những nƣớc có thị
trƣờng tiêu thụ rộng lớn. Các sản phẩm gia công đƣợc cung cấp cho nhu cầu
tiêu dùng trong nƣớc và xuất khẩu.
- Với mục đích tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên ở bên ngoài nên
những công đoạn đƣợc gia công thƣờng là những công đoạn sử dụng nhiều tài
nguyên thiên nhiên, lại kết hợp thêm với việc sử dụng kỹ thuật thấp nên công
nghiệp gia công thƣờng gây ô nhiễm môi trƣờng nhƣ ô nhiễm không khí,
nguồn nƣớc, tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá…
1.1.3. Khái niệm và nội dung chính sách phát triển công nghiệp gia
công

1.1.3.1. Khái niệm chính sách phát triển công nghiệp gia công
* Khái niệm chính sách kinh tế
Từ trƣớc đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về chính sách
kinh tế. Có thể kể tới một vài quan niệm đƣợc nhiều học giả thừa nhận nhƣ:
- Chính sách kinh tế là tổng thể các quan điểm, các chuẩn mực, các biện
pháp và các thủ thuật mà nhà nƣớc sử dụng để tác động lên các đối tƣợng và
khách thể trong nền kinh tế nhằm đạt đến các mục tiêu, chiến lƣợc đã lựa
chọn của đất nƣớc.
- Chính sách kinh tế là một công cụ quản lý của nhà nƣớc để điều hành
các hoạt động kinh tế theo những mục tiêu nhất định.


21
- Chính sách kinh tế là một quyết sách của nhà nƣớc nhằm giải quyết
một vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế của đất nƣớc thông qua hoạt động
thực thi của các ngành, các cấp có liên quan trong bộ máy nhà nƣớc.
Bổ sung cho quan niệm này có nhiều ý kiến cho rằng không phải bất cứ
quyết sách nào giải quyết các vấn đề trong đời sống kinh tế cũng đƣợc gọi là
chính sách kinh tế. Những quyết sách đột xuất hay ngẫu nhiên của nhà nƣớc
nhƣ cho các doanh nghiệp nghỉ bù chủ nhật… không đƣợc coi là chính sách
kinh tế. Theo ý kiến này, chính sách kinh tế phải là những quyết sách tác động
lâu dài và sâu sắc tới hoạt động của các cá nhân hoặc cộng đồng.
Từ những quan niệm trên, trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả
cho rằng chính sách kinh tế là hệ thống những công cụ mà nhà nước sử
dụng để điều tiết các mối quan hệ kinh tế quan trọng có tầm ảnh hưởng
sâu sắc trong đời sống kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược quốc
gia xét trong từng thời kỳ nhất định.
Dựa trên tiêu chí lĩnh vực tác động, chính sách kinh tế làm nhiều loại:
+ Chính sách phát triển ngành nông nghiệp
+ Chính sách phát triển ngành công nghiệp

+ Chính sách phát triển ngành dịch vụ
+ Chính sách tài chính – tiền tệ…
* Khái niệm chính sách phát triển công nghiệp
Từ khái niệm và phân loại các chính sách kinh tế, chính sách phát triển
công nghiệp đƣợc hiểu nhƣ sau:
Chính sách phát triển công nghiệp là một bộ phận của chính sách kinh
tế, là hệ thống những công cụ điều tiết các mối quan hệ kinh tế quan trọng có
tầm ảnh hƣởng sâu sắc trong ngành công nghiệp nhằm thúc đẩy sự phát triển
của ngành theo các mục tiêu, chiến lƣợc quốc gia trong từng thời kỳ nhất
định.


22
Chính sách phát triển công nghiệp đƣợc thể hiện thành một hệ thống với
nhiều chính sách nhƣ : chính sách phát triển công nghiệp khai khoáng, chính
sách phát triển công nghiệp chế biến, chính sách phát triển công nghiệp gia
công….
* Khái niệm chính sách phát triển công nghiệp gia công
Từ khái niệm chính sách công nghiệp trên, có thể rút ra khái niệm chính
sách phát triển công nghiệp gia công là:
Chính sách phát triển công nghiệp gia công là một bộ phận của chính
sách phát triển công nghiệp, là hệ thống những công cụ mà nhà nƣớc sử dụng
để điều tiết các mối quan hệ kinh tế quan trọng, có tầm ảnh hƣởng sâu sắc
trong ngành công nghiệp gia công nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành theo
các mục tiêu, chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc trong từng
thời kỳ nhất định.
1.1.2.4. Nội dung chính sách phát triển công nghiệp gia công
* Chức năng của chính sách phát triển công nghiệp gia công
Nhƣ đã phân tích trong phần trên, công nghiệp gia công là ngành công
nghiệp đƣợc thực hiện qua hình thức đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài. Đây là

ngành có ƣu điểm là sử dụng nhiều lao động, trình độ công nghệ phù hợp với
các nƣớc đang phát triển. Mặt khác, lại có nhƣợc điểm là công nghệ thƣờng
lạc hậu, đơn giản, gây ô nhiễm môi trƣờng. Vì vậy, phát triển ngành công
nghiệp này một cách hiệu quả không hề đơn giản, phải sử dụng cùng một lúc
rất nhiều công cụ thực hiện đƣợc các chức năng sau:
- Chức năng kích thích sự phát triển của ngành:
Chính sách phát triển công nghiệp gia công trƣớc hết phải kích thích sự
phát triển của ngành công nghiệp gia công. Khác với những ngành công
nghiệp khác nhƣ công nghiệp khai khoáng, công nghiệp chế biến… phần lớn
dựa vào nguồn lực trong nƣớc, công nghiệp gia công chủ yếu dựa vào nguồn


23
lực bên ngoài, cụ thể là nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI). Vì vậy,
để phát triển ngành công nghiệp này đầu tiên cần phải thực hiện tốt các chính
sách thu hút FDI vào công nghiệp gia công.
- Chức năng định hƣớng:
Chức năng định hƣớng của chính sách phát triển công nghiệp gia công
phụ thuộc vào chiến lƣợc phát triển kinh tế của từng quốc gia. Nếu quốc gia
chủ trƣơng phát triển công nghiệp gia công thành một ngành thế mạnh thì
chính sách phát triển công nghiệp gia công phải hƣớng tất cả hoạt động của
tất cả các chủ thể kinh tế, các nguồn lực và các hoạt động đối nội, đối ngoại
của nhà nƣớc phục vụ cho sự phát triển của ngành này. Trong trƣờng hợp
quốc gia chủ trƣơng thay đổi chiến lƣợc phát triển công nghiệp gia công thì
các chính sách phát triển công nghiệp gia công phải thể hiện rõ đƣợc định
hƣớng này.
- Chức năng điều tiết
Những nƣớc đang phát triển thƣờng có sự phát triển không đồng đều
giữa các vùng, các hoạt động công nghiệp gia công thƣờng chỉ tập trung ở
vùng đồng bằng và thành phố lớn, còn lại các vùng nông thôn và miền núi hầu

nhƣ không phát triển. Vì vậy, khi thực hiện chính sách phát triển công nghiệp
gia công thì phải có những công cụ để điều tiết công nghiệp gia công về ở
những nơi kinh tế còn khó khăn, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách về trình
độ phát triển với các vùng khác.
Mặt khác, công nghiệp gia công có nhƣợc điểm chỉ sử dụng công nghệ
trình độ thấp và gây ô nhiễm môi trƣờng. Vì vậy, phát triển ngành công
nghiệp này phải có những công cụ để điều tiết, kiểm soát mức xả thải của các
doanh nghiệp để nền kinh tế phát triển bền vững.
* Các công cụ của chính sách phát triển công nghiệp gia công

×