Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Tỉnh Sơn La theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐINH THỊ THÚY HÀ




CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở TỈNH SƠN LA
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA







LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ







HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





ĐINH THỊ THÚY HÀ




CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở TỈNH SƠN LA
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ ĐỨC THANH




HÀ NỘI - 2011

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NGÀNH 5

1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành 5
1.1.1. Cơ cấu kinh tế 5
1.1.2. Cơ cấu kinh tế ngành 10
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành 11
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 11
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành 12
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành 16
1.2.4. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 24
1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một số địa phương và bài học kinh
nghiệm cho Sơn La 24
1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh 24
1.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành có tính điển hình ở một số địa
phương 25
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở
TỈNH SƠN LA 31
2.1. Đặc điểm của Sơn La ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 31
2.1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội Sơn La có ảnh huởng đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 31
2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình chuyể n dị ch cơ
cấ u kinh tế ngành ở Sơn La 33
2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành ở Sơn
La những năm qua 35
2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Sơn La 35
2.2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu theo nội bộ ngành ở Sơn La 38
2.3. Một số nhận định khái quát về những kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành trên địa bàn tỉnh Sơn La những năm qua 63
2.3.1. Những thành tựu chủ yếu và nguyên nhân 63
2.3.2. Một số hạn chế chủ yếu và nguyên nhân 63
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

NHẰM THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở
TỈNH SƠN LA THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA 67
3.1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Sơn La những năm tới 67
3.1.1. Bối cảnh hiện nay ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Sơn La 67
3.1.2. Những quan điểm chủ yếu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
trên địa bàn tỉnh Sơn La 73
3.2. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Sơn
La 74
3.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Sơn La thời kỳ 2010 – 2020 74
3.2.2. Một số định hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở
Sơn La từ nay đến năm 2020 75
3.3. Một số giải pháp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Sơn La
những năm tới 80
3.3.1. Quy hoạch tổng thế phát triển kinh tế - xã hội 80
3.3.2. Giải pháp về huy động vốn và thu hút vốn đầu tư 84
3.3.3. Đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ 86
3.3.4. Chính sách đào tạo nhân lực và chuyển lao động ra khỏi cơ cấu
nông nghiệp sang cơ cấu công nghiệp và dịch vụ 88
3.3.5. Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng đường xá giao thông trên địa
bàn tỉnh 90
3.3.6. Mở rộng phát triển và tổ chức lại hoạt động các loại thị trường 91
3.3.7. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách vĩ mô của Nhà nước
trung ương và địa phương theo hướng tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đẩy nhanh nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế 93
KẾT LUẬN 96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu khách quan trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo nên sự chuyển
đổi căn bản nền kinh tế trên nhiều lĩnh vực: Phân công lại lao động xã hội,
chuyển dịch các nguồn lực sử dụng trong quá trình sản xuất, gia tăng năng lực
sản xuất, tăng sản phẩm xã hội, góp phần thoả mãn nhu cầu ngày càng tốt hơn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam diễn ra trên nhiều lĩnh vực
khác nhau như: Cơ cấu vùng, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu nhiều thành phần, cơ
cấu ngành; trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Chuyển dịch cơ cấu
ngành để phân bổ hợp lý tài nguyên, sắp xếp lại lao động phù hợp các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Phát triển kinh tế nhanh, có
hiệu qủa bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng
công nghiệp hoá”.
Đối với Sơn La chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở
phát huy lợi thế tương đối của tỉnh, giải quyết việc làm, thúc đẩy sản xuất
phát triển, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Sơn La những năm vừa qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành đã có những chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề phát sinh gây khó khăn cho quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh như: Xây dựng chiến lược,
vốn, đào tạo nguồn nhân lực và những vấn đề kinh tế - xã hội liên quan.
Để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên, tôi lựa chọn vấn đề:

“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Sơn La theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” làm luận văn Thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh
tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

2
Bàn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành theo hướng CNH, HĐH là một trong những vấn đề mà rất nhiều nhà
nghiên cứu ở những khía cạnh và những góc độ khác nhau như:
- Ngô Đình Giao “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
nền kinh tế quốc dân”, tập II, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1994.
- Đỗ Hoài Nam “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các
ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam”, Nxb. Khoa học Xã hội, 1996.
- Nguyễn Cúc “Tác động của Nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng CNH, HĐH ở nước ta hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997.
- Bùi Tất Thắng “Đổi mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Viện Kinh tế học, số 2, 1994.
- Nguyễn Hữu Tiến - Nguyễn Đình Long “Vai trò của kinh tế hộ trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Cộng sản, số
510, 1996.
Các công trình nghiên cứu trên đã phản ánh nhiều mặt của chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong cả nước hoặc trên địa bàn một địa phương nhất định
nhưng cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào thật sự có hệ thống
và toàn diện về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Sơn La theo hướng
CNH, HĐH. Vì vậy tác giả luận văn mong muốn nghiên cứu sâu hơn về cơ
sở, phương hướng và bước đi của chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng
CNH, HĐH ở tỉnh Sơn La.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích: Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa

bàn tỉnh Sơn La những năm qua. Trên cơ sở đó chỉ ra những điểm mạnh và
những hạn chế của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Sơn La và đề xuất
những quan điểm, phương hướng, giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Sơn La theo hướng CNH, HĐH.
* Nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.

3
- Khảo cứu tình hình thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của
một số tỉnh miền núi, rút ra các bài học kinh nghiệm cho Sơn La.
- Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế ở tỉnh miền
núi Sơn La. Rút ra những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân của những
hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Sơn La hiện nay.
- Nghiên cứu, đề xuất quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Sơn La trong điều kiện chuyển sang
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Cơ cấu kinh tế ngành, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành theo hướng CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Sơn La.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành ở tỉnh Sơn La trong những năm qua (chủ yếu từ 2005 đến nay).
Từ đó rút ra được mục tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu để đẩy
nhanh và nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Sơn La
theo định hướng đến năm 2020.
5. Tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu:
Cơ sở lý luận: Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Các văn
kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Nguồn tài liệu tham khảo: Các tác phẩm kinh điển của C.Mác-
Ăngghen, V.I.Lênin, các Văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, các tư liệu
của Bộ Kế hoạch Đầu tư, Báo cáo của Ủy Ban nhân dân tỉnh Sơn La.

4
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận
văn sử dụng một số phương pháp cụ thể như trừu tượng hoá khoa học,
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, hệ thống hoá.
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong
quá trình CNH, HĐH.
- Làm rõ thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Sơn La.
- Đề xuất những quan điểm định hướng và một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng CNH, HĐH ở
Sơn La trong giai đoạn hiện nay, định hướng đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành.
Chƣơng 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn
tỉnh Sơn La.
Chƣơng 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Sơn La theo hướng
CNH, HĐH.

5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH

1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành
1.1.1. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế, một phạm trù kinh tế có tầm quan trọng to lớn trong
quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia qua các thời kỳ. Cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép tạo nên sự cân
đối, hài hoà của nền kinh tế để sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực,
tài nguyên, của cải vật chất, của cải tinh thần và sức lao động. Điều đó có ý
nghĩa to lớn đối với sự tăng trưởng, và phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của
nền kinh tế quốc dân.
Thuật ngữ cơ cấu (kết cấu) có nguồn gốc ban đầu từ chữ La Tinh
“Trucke”, nó phản ánh cách sắp xếp các bộ phận của một chỉnh thể. Sau đó,
các khái niệm này được sử dụng rộng hơn cho các ngành khoa học khác.
Theo quan điểm triết học “cơ cấu” hay “kết cấu” là một phạm trù phản
ánh cấu trúc bên trong của đối tượng, là tập hợp những mối liên hệ cơ bản,
tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành nên đối tượng, trong một thời
gian nhất định.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống C.Mác
tiếp cận cơ cấu nền kinh tế như là: Toàn bộ các quan hệ giữa những người
làm nhiệm vụ sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên tức là những điều
kiện trong đó họ tiến hành sản xuất. Toàn bộ những quan hệ đó hợp thành xã
hội, xét về mặt cơ cấu kinh tế của nó.
Khi phân tích mối quan hệ phân công lao động xã hội, với cơ cấu kinh
tế xã hội C.Mác đã nhấn mạnh: “Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những
quan hệ sản xuất phù hợp với một quá trình phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất vật chất” [18, tr.70].

6
C.Mác còn phân tích cơ cấu kinh tế cả hai mặt: số lượng (quy mô, tỷ

trọng, tốc độ) và chất lượng (vị trí, sự tương tác, trình độ công nghệ ). Đó là
biểu hiện của mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế. Và theo
C.Mác, cơ cấu là “một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng
của một quá trình sản xuất xã hội” [18, tr.103].
Như vậy, theo C.Mác, cơ cấu kinh tế có cấu trúc bao gồm: Những yếu
tố gắn với lực lượng sản xuất (các quan hệ giữa họ với tự nhiện, kỹ thuật) và
các nội dung của quan hệ sản xuất (các quan hệ kinh tế giữa người với người
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội) hợp thành. Nếu cơ cấu nền
kinh tế bao gồm hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì khi phân
tích cơ cấu kinh tế không thể không xem xét mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý là
một cơ cấu được hình thành và phát triển trong đó các yếu tố của quan hệ sản
xuất luôn phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Tất nhiên, không nên hiểu
cơ cấu kinh tế là con số cộng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà
nên hiểu nó là sự tác động qua lại giữa các yếu tố được xem xét về số lượng
và chất lượng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được hình thành và
phát triển qua các giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
Với quan niệm trên thì cơ cấu của nền kinh tế quốc dân được hiểu là
tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế: Các lĩnh
vực sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng; các ngành kinh tế: công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ ; các thành phần kinh tế - xã hội: Nhà nước, tập thể, tư
nhân ; các vùng kinh tế.
Ở mỗi vùng, mỗi ngành, mỗi địa phương lại có cơ cấu kinh tế riêng, tuỳ
theo điều kiện tự nhiên, địa lý, kinh tế, xã hội cụ thể.
Trong tiếp cận cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải xem xét các yếu tố của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong trại thái có tính tương đối ổn định,
lịch sử cụ thể, phát triển theo đúng các quy luật khách quan, nhất là mối quan
hệ chứa đựng trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất. Chính tính tương đối ổn định này làm cho cơ cấu kinh tế biến


7
đổi trong giới hạn cho phép, mà nếu vượt qua giới hạn đó, hệ thống kinh tế -
xã hội chuyển sang loại hình cơ cấu khác.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra những khía cạnh không thể thiếu được
khi tiếp cận khái niệm cơ cấu kinh tế:
- Bao gồm các bộ phận cấu thành mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra thông qua mối quan hệ kinh tế giữa các
ngành và nội bộ ngành, giữa các vùng kinh tế và giữa các thành phần kinh tế
với nhau.
- Được xem xét trên cả hai mặt định tính và định lượng của từng yếu tố
và mối quan hệ giữa các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đặt cơ cấu kinh tế trong điều hiện lịch sử của mỗi nước, mỗi địa
phương, mỗi ngành trong từng thời kỳ nhất định.
- Gắn mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được xác định trong từng thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ đó rút ra khái niệm cơ cấu kinh tế như sau: Cơ cấu kinh tế là tổng
thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành nền kinh tế gắn với trình
độ công nghệ, quy mô, tỷ trọng tương ứng với tính chất của mối quan hệ
tương tác giữa tất cả các bộ phận; gắn với điều kiện kinh tế - xã hội trong
từng giai đoạn phát triển nhất định; nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội đã được xác định trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cơ cấu kinh tế là hệ thống động, biến đổi không ngừng theo đà phát
triển của lực lượng sản xuất và những nhân tố quy định nó. Để đánh giá một
cách thực tế việc xác định đúng đắn cơ cấu kinh tế và ứng dụng đúng đắn cơ
cấu kinh tế vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng địa phương, trong
từng giai đoạn phát triển, cần lưu ý nhữg đặc trừng sau của cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan.
Theo C. Mác cơ cấu có mối quan hệ mật thiết với phân công lao động
xã hội, người khẳng định: “Trong sự phân công xã hội, thì con số tỷ lệ là một

tất yếu không sao tránh khỏi, một sự tất yếu thầm kín yên lặng” [18, tr.15].

8
Nói một cách khác, mọi sự vật hiện tượng nói chung và nền kinh tế nói
riêng chỉ có thể tồn tại và phát triển theo những cấu trúc nhất định, vận động
theo những quy luật khách quan, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cơ cấu kinh tế do những yếu tố vật chất của nền sản xuất quy định (tư
liệu sản xuất, tài nguyên, công nghệ, sức lao động) do đó cơ cấu kinh tế tồn
tại, vận động, phát triển theo những quy luật khách quan, độc lập với con
người. Con người không thể tuỳ tiện tạo ra cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên con
người có thể tác động làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Nếu con người tác động
phù hợp với quy luật khách quan làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi theo chiều
hướng tiến bộ, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngược
lại, nếu tác động đó không phù hợp sẽ cản trở sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
Thứ hai: Cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử
C. Mác viết: “Sự tất yếu phân công lao động xã hội theo những tỷ lệ
nhất định sẽ không thể bị tiêu diệt bởi một hình thái nhất định của sản xuất xã
hội, chỉ có hình thái biểu hiện của nó có thẻ thay đổi mà thôi, điều đó tự nó đã
rõ rồi” [18, tr.759]. Cơ cấu kinh tế luôn biến động, nó không phải là một cái
gì” chết cứng, nằm im nên việc xác định cơ cấu kinh tế không thể không căn
cứ vào điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của từng thời kỳ. Cơ cấu kinh tế gắn
liền với sự biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ phận trong
nền kinh tế và những mối quan hệ của chúng.
Tính lịch sử cụ thể của cơ cấu kinh tế còn những biểu hiện ở chỗ không có
cơ cấu kinh tế chung cho mọi nền kinh tế và cũng không có cơ cấu kinh tế duy
nhất cho một nền kinh tế, một địa phương ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
Thứ ba: Cơ cấu kinh tế có tính mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội.
Việc xác định cơ cấu kinh tế của một quốc gia hay địa phương được gọi

là hiệu quả kinh tế - xã hội, khi cơ cấu kinh tế đó hợp lý. Một cơ cấu kinh tế
hợp lý phải là một cơ cấu cho phép khai thác hết những tiềm năng kinh tế- xã
hội của quốc gia, các địa phương, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế, các
thành phần kinh tế, các vùng kinh tế thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau, tạo điều kiện

9
cho nhau phát triển. Nó không chỉ đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế mà còn
giải quyết được các vấn đề xã hội và môi trường sinh thái, tạo đà cho sự phát
triển trong tương lai.
Việc thi hành chính sách cơ cấu có lựa chọn hợp lý như vậy đòi hỏi
phải đảm bảo tính đồng bộ, tính cân đối trong sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân, là hai mặt mâu thuẫn của quá trình biện chứng. Từ tính chất hai mặt
của cơ cấu kinh tế là tính cân đối ổn định và tính chất biến đổi tổ chức, nói lên
tính chất phức tậo của việc thay đổi cơ cấu kinh tế.
Thứ tư: Cơ cấu kinh tế mang tính thị trường và mở cửa.
Khi chuyển đổi mô hình kinh tế cũ sang mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế để tạo ra
hàng hoá với tư cách là hàng hoá để bán. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển
cơ cấu kinh tế nhất thiết phải mang tính thị trường. Có như vậy, mới làm cho
cơ cấu kinh tế được xây dựng không chỉ thích ứng mà còn có tác dụng thúc
đẩy việc xây dựng thành công mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta và địa phương.
Trong nền kinh tế thị trường, sự vận động khách quan của cơ cấu kinh
tế theo hướng mở rộng hợp tác, và phân công lao động diễn ra không chỉ
trong phạm vi mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi quốc gia mà còn xác định được cơ
cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế của mình gắn với thị trường trong nước và quốc
tế, nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền kinh
tế quốc dân, tạo điều kiện đẻ chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Sự phát triển đan xen cũng như sự phân công lao động quốc tế, sự thâm
nhập kinh tế các nước vào nhau đã chỉ rõ tính đa dạng phong phú và tính quốc

tế của cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế, xem xét trên cấp độ nền kinh tế quốc dân hay trên một
vùng lãnh thổ, về mặt nội dung, là một hệ thống đa cấu hợp thành.
+ Cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân và nội bộ ngành: Cơ cấu kinh
tế ngành là một kiểu, một bộ phận cơ cấu trong toàn bộ hệ thống các cơ cấu
của nền kinh tế quốc dân, xác định mối quan hệ tương quan về định tính và
định lượng giữa các ngành với nhau.

10
+ Cơ cấu vùng (hay lãnh thổ) là biểu hiện vật chất cụ thể của phân công
lao động theo lãnh thổ. Hnh thành và phát triển cơ cấu lãnh thổ hoàn toàn phụ
thuộc vào trình độ phát triển phân công lao động theo lãnh thổ.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế: Lực lượng sản xuất bao giờ cũng tồn tại ở
nhiều trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ lực lượng sản xuất là
một kiểu quan hệ phù hợp. Do vậy, sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần trong cơ cấu kinh tế là một tất yếu khách quan.
1.1.2. Cơ cấu kinh tế ngành
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ
lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân, cơ
cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của
nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành kinh tế là nét đặc trưng của các nước
đang phát triển.
Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia, người ta thường phân
tích theo 3 nhóm ngành chính.
- Nhóm nông nghiệp: bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp.
- Nhóm công nghiệp: bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.
- Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm thương mại, dịch vụ, du lịch.
Trong mỗi ngành lại phân thành các ngành nghề nhỏ chi tiết hơn.
Chẳng hạn: Trong ngành nông nghiệp lại chia thành trồng trọt, chăn nuôi, lâm

nghiệp - ngư nghiệp; ngành công nghiệp lại chia thành công nghiệp khai thác,
công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng hoặc chia thành công
nghiệp truyền thống, công nghiệp gắn với công nghệ mới hiện đại; ngành dịch
vụ lại chia thành dịch vụ sản xuất, dịch vụ con người.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Để hiểu rõ hơn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trước tiên chúng ta
hãy tìm hiểu khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

11
Khi nghiên cứu khái niệm cơ cấu kinh tế, chúng ta xem xét nó ở trạng
thái tĩnh hay tương đối ổn định, nhưng khi tiếp cận với khái niệm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế là nghiên cứu ở trạng thái động có tác dụng làm thay đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất để thúc đẩy nền kinh tế phát triển [19, tr.47].
Như vậy, cùng với việc tổ chức lao động một cách khoa học và kỹ
thuật, công nghệ ngày càng phát triển tất yếu làm cho cơ cấu kinh tế của một
xã hội cũng thay đổi, phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hợp lý đến hợp lý,
hiện đại và hiệu quả theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với cách đặt
vấn đề như vậy, chúng ta có thể hiểu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình
thay đổi cấu trúc, tỷ trọng, tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế giữa
các ngành, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế nhằm đạt tới một cơ
cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, tạo thế và lực mới cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, trong từng giai đoạn của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một yêu cầu tất yếu trong quá trình thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ở nước ta, vì để xây dựng và phát
triển một nền kinh tế ổn định, vững chắc, với một tốc độ nhanh đòi hỏi phải
xác định được một cơ cấu kinh tế hợp lý, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa
các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng lãnh thổ và giữa các thành phần

kinh tế. Cơ cấu kinh tế có ý nghĩa thiết thực trong việc thúc đẩy nền kinh tế
phát triển đa dạng, năng động, phát huy lợi thế, tiềm năng về nguồn nhân lực,
vật lực và tài lực. Cơ cấu kinh tế quốc dân có nhiều loại và tuỳ theo mục đích
nghiên cứu, quản lý có thể xem xét dưới các gốc độ khác nhau. Nhưng dù
thuộc loại nào, cơ cấu kinh tế quốc dân cũng là sản phẩm của phân công lao
động xã hội, nó được biểu hiện cụ thể dưới hai hình thức cơ bản nhất là phân
công lao động theo ngành và phân công lao động theo lãnh thổ. Hai hình thức
phân công lao động xã hội này gắn bó với nhau, thúc đẩy quá trình tiến hoá
chung của nhân loại. Mọi sự phát triển của phân công lao động theo ngành
kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ, với đầy đủ các yếu tố về dân
số, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, phong tục tập quán của mỗi vùng sẽ tạo

12
điều kiện để chuyên môn hoá sản xuất, hỗ trợ các ngành phát triển, hình thành
các cở sở sản xuất kinh doanh để khai thác và phát huy thế mạnh ở từng vùng
lãnh thổ. Trình độ phát triển của phân công lao động xã hội trong mỗi dân tộc
là thước đo trình độ phát triển chung của các dân tộc đó.
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành
Tiếp cận lý luận cho thấy: Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành của bất
cứ quốc gia nào cũng luôn ở trạng thái vận động, chuyển từ một cơ cấu kém
hiệu quả sang một cơ cấu hài hoà giữa các yếu tố của cơ cấu kinh tế ngành
trong cả nước hoặc một địa phương. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và nội
bộ ngành là quá trình thay đổi cấu trúc các mối liên hệ giữa các ngành và nội
bộ từng ngành của một nền kinh tế theo mục tiêu và phương hướng phát triển
kinh tế - xã hội nhất định.
Thực tiễn lịch sử, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành không chỉ đơn
thuần phát triển công nghiệp mà còn làm thay đổi cơ cấu của các ngành và
trong từng ngành, lĩnh vực, từng vùng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tin học hoá mà còn kết hợp đồng thời
các thành tựu trên nhiều lĩnh vực, mà còn phải lựa chọn những ngành mũi

nhọn, đi tắt, đón đầu; không chỉ áp dụng những công nghệ tiên tiến mà còn
phải biết kết hợp tận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống.
Ở nước ta, cơ cấu ngành và nội bộ ngành kinh tế ở miền Bắc bắt đầu
xây dựng từ năm 1961 và được điều chỉnh qua các kỳ Đại hội toàn quốc của
Đảng.
Cơ cấu ngành kinh tế lần đầu tiên được xác định là ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp,
công nghiệp nhẹ, nhằm nhanh chóng xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật
ban đầu của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta, nhằm biến miền Bắc nước
ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại,
nông nghiệp hiện đại. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên quá trình công
nghiệp hoá thực hiện chưa được nhiều. Tuy vậy, cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ
này cũng thu được một số kết quả nhất định, góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, góp phần phục vụ đắc lực cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

13
thành công. Song nguồn lực chủ yếu để công nghiệp hoá thời kỳ này vẫn dựa
vào sự viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây.
Thực hiện đường lối và kế hoạch tập trung phát triển công nghiệp nặng
để từng bước hình thành cơ cấu công - nông nghiệp, chúng ta đã dồn quá
nhiều vốn, vật tư, kỹ thuật và lao động cho công nghiệp nặng, nên ít quan tâm
đến nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, làm mất cân đối trong đầu tư, dẫn đến
tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, đời sống khó khăn và
làm cho nền kinh tế lâm vào khủng hoảng kinh tế năm 1979.
Đại hội Đảng lần V (1982), Đảng ta xác định được điểm xuất phát của
đất nước là “đang ở chặng đường đầu tiên” của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Do vậy, đường lối công nghiệp hoá có sự điều chỉnh nhất định. Điểm
nổi bật ở đây là coi công nghiệp là mặt trận hàng đầu, tập trung phát triển
nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách và thiết yếu
về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng đề dần dần ổn định đời sống.

Với sự điều chỉnh về cơ cấu ngành kinh tế nên đã tạo ra một bước phát
triển nhất định trong nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng.
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) là cái mốc lịch sử mở đầu giai đoạn
đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta, trong đó có sự đổi mới về các quan
điểm kinh tế. Đảng ta chủ trương điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư theo hướng:
phải tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương
trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Ba chương trình kinh tế là sự cụ thể hoá nội dung công nghiệp hoá chặng
đường đầu tiên, định hướng cho sự phát triển tất cả các ngành, các hoạt động
kinh tế, nhằm xây dựng cơ cấu ngành kinh tế hợp lý.
Tiếp đó Đại hội VII và Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định và
hoàn thiện thêm đường lối đổi mới cho Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra. Trong
giai đoạn này Đảng ta chủ trương chuyển dịch một cách căn bản và toàn diện
về cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm cơ cấu
ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế. Do vậy, qua 15 năm đổi mới,
(1986-2000), việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,

14
hiện đại hoá đã đem lại những thành tựu to lớn trong đó nền kinh tế đã hình
thành cơ cấu 3 ngành rõ rệt teo tỷ trọng GDP như sau:
+ Nông nghiệp: 25%
+ Công nghiệp: 34,5%
+ Dịch vụ: 40,5%
Từ thực tiễn của 15 năm đổi mới, từ tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước và bối cảnh quốc tế, Đại hội IX của Đảng đã có sự bổ sung, phát triển
một cách sâu sắc và toàn diện hơn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta,
năm 2010 và đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp tiên
tiến và xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói trên cơ sở nghiên cứu các tác phẩm của C.Mác, V.I.Lênin và
một số nhà kinh tế học, từ các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh,

lý luận về nội dung của cơ cấu kinh tế ngành, khảo sát sự vận động của lịch
sử phát triển nền kinh tế thế giới và ở Việt Nam gắn với những thành công và
chưa thành công liên quan đến sự vận động và phát triển của cơ cấu kinh tế
giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, có thể tìm ra xu hướng
vận động cơ bản của cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành để từ đó xác định
phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành có hiệu quả nhất.
* Về cơ cấu ngành
- Chuyển dịch đi từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế
công nghiệp - nông nghiệp, từ cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp sang
cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ; và từ cơ cấu công nghiệp - nông
nghiệp - dịch vụ lên cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp hiện đại.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, theo hướng tỷ trọng ngành nông
nghiệp giảm dần, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên trong GDP,
trong đó ngành dịch vụ tăng nhanh hơn ngành công nghiệp.
* Về cơ cấu nội bộ ngành
- Ngành nông nghiệp: Chuyển từ độc canh, thuần lương, tự cấp tự túc
sang đa canh, phát triển toàn diện nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất

15
hàng hoá, gắn nông nghiệp với tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và
dịch vụ tại nông thôn.
- Ngành công nghiệp: Chuyển từ các ngành công nghiệp truyền thống
(ngành sử dụng nhiều lao động chân tay và nhiều nguyên liệu có nguồn gốc tự
nhiên) sang các ngành công nghiệp sử dụng ít lao động chân tay và nguyên
liệu tự nhiên, tiến lên ngành công nghiệp công nghệ cao (ngành sử dụng chủ
yếu là lao động trí tuệ và vật tư nguyên liệu nhân tạo).
- Ngành dịch vụ: Dịch vụ thuần dịch vụ (dịch vụ cho con người) tăng
nhanh hơn ngành dịch vụ sản xuất vật chất. Ngành dịch vụ vật chất gián tiếp
(thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, khoa học, công nghệ ) tăng nhanh hơn
ngành dịch vụ sản xuất trực tiếp.

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành
1.2.3.1. Các nhân tố bên trong nền kinh tế
Nhóm nhân tố khách quan
- Là nhóm nhân tố có tác động trực tiếp đến sự hình thành và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là cơ cấu kinh tế ngành. Đó là các nhân tố về địa
lý, địa hình, khí hậu, dân số, điều kiện tự nhiên
+ Vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng, là một những nhân tố ảnh hưởng
lớn tới việc hình thành cơ cấu kinh tế ngành. Nếu ở vị trí địa lý thuận lợi, một
nước có khả năng rất tốt để mở rộng thị trường, tiếp thu các nguồn lực.
+ Địa hình là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và biến đổi
cơ cấu kinh tế ngành. Nơi nào có địa hình thuận lợi thì nơi đó hình thành và
biến đổi cơ cấu kinh tế ngành thuận lợi. Căn cứ vào vị trí và địa hình để bố trí
ngành sản xuất công, nông nghiệp và dịch vụ trọng điểm, điều đó có ý nghĩa
kinh tế rất lớn.
+ Khí hậu thuỷ văn là nguồn tài nguyên liên quan và là tác nhân ảnh
hưởng rất lớn đến các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp. Trong những năm gần đây sự tàn phá môi trường sinh thái của
con người đã làm mất tính ổn định của thời tiết khí hậu, ảnh hưởng lớn đến sự

16
phát triển của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và sinh hoạt của
con người, như hiệu ứng nhà kính, mưa a xit Do vậy, vấn đề đặt ra là cần
bảo vệ bầu khí quyển, chống các tác nhân phá hoại tài nguyên, môi trường,
khí hậu.
+ Dân số lao động, toàn bộ lịch sử đã chỉ rõ, con người vừa là người
sản xuất, vừa là người tiêu dùng. Dân số sẽ cung cấp cho xã hội nguồn lao
động, điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế, hình thành và biến đổi cơ
cấu kinh tế ngành. Ngày nay, lao động trí tuệ trở thành đặc trưng cơ bản.
Nguồn lao động dồi dào về số lượng chưa đủ, chưa có ý nghĩa quyết định. Chỉ

có nguồn lao động dồi dào hiểu biết về khoa học, có sức khoẻ về trình độ văn
hoá hiện đại, kỹ năng lao động thành thạo mới là tài nguyên quý giá.
+ Tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi
cơ cấu kinh tế ngành, đó là tài nguyên như đất đai, rừng, nước, khoáng sản.
Nhưng hiện tại cũng như tương lai, chúng ta thấy rằng tài nguyên thiên nhiên
ngày càng cạn kiệt, là khó khăn lớn cho quá trình tăng trưởng kinh tế, hình
thành và biến đổi chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Con đường thoát khỏi
tình trạng này là dựa vào tiến bộ khoa học - công nghệ, đồng thời tiến hành
thăm dò, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và phát triển theo hướng
kinh tế tri thức.
- Điều kiện về vốn, muốn bảo đảm tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu
ngành lâu dài và bền vững, chất lượng cao thì việc bảo đảm nguồn vốn là rất
quan trọng, trong đó nguồn vốn tự có là chủ yếu.
- Tiến bộ khoa học - công nghệ là động lực chủ yếu thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Tiến bộ khoa học -
công nghệ xét về nội dung được phát triển theo một số hướng chính: đó là cơ
khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá, điện tử và tin học, vật liệu mới, công nghệ
sinh học Nó đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tần suất phát minh
mới và ứng dụng vào sản xuất ngày càng ngắn. Phạm vi ứng dụng của một
phỏt minh ngày càng mở rộng mang tính liên ngành, thậm chí liên quốc gia.
Tăng trưởng GDP với tốc độ cao trong thời đại cạnh tranh quyết liệt trên thị
trường quốc tế, có thể đạt được một cách vững chắc và lâu bền trên cơ sở

17
không ngừng tăng cường năng lực khoa học - công nghệ nội sinh. Trong thời
đại văn minh công nghiệp, chúng ta thấy rõ mối quan hệ nội tại giữa chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành với các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và
vai trò động lực của nó, cụ thể là:
+ Khoa học công nghệ là động lực chủ yếu thúc đẩy phân công lao
động xã hội, hình thành những ngành sản xuất và mối quan hệ giữa chúng.

Tiến bộ khoa học - công nghệ là nguồn gốc chủ yếu của tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
+ Tiến bộ khoa học - công nghệ là yếu tố quyết định nâng cao hiệu quả
khai thác, sử dụng tài nguyên, do đó để nâng cao hiệu suất tổng thể “đầu vào”
và “đầu ra” của kinh tế. Làm cho tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng đầu
tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
+ Tiến bộ khoa học - công nghệ là yếu tố quyết định chuyển từ cơ cấu
kinh tế ngành phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu (cơ cấu
thiết bị thay thế lao động, thay những ngành lao động truyền thống tiêu hao
nhiều lao động cơ bắp bằng những ngành công nghệ cao ) làm thay đổi cơ
cấu hàng hoá chất lượng thấp sang cơ cấu hàng hoá chất lượng cao, đáp ứng
nhu cầu thị trường xã hội.
+ Tiến bộ khoa học - công nghệ thúc đẩy cơ cấu kinh tế ngành ngày
càng hoàn thiện, đa dạng hoá, nâng cấp cơ cấu ngành kinh tế. Tiến hành cải
tạo hoặc thay thế phương tiện, thiết bị lạc hậu bằng phương tiện, thiết bị tiên
tiến hơn, từng bước xây dựng, phát triển những ngành công nghệ cao. Vì vậy,
nó đòi hỏi người lao động phải nâng cao trình độ tay nghề, trình độ tổ chức,
quản lý, tiếp thị nhằm liên kết các thành tố để nâng cao hiệu quả sản xuất,
kinh doanh.
+ Tiến bộ khoa học - công nghệ là yếu tố quan trọng tạo ra khả năng
bảo vệ môi trường. ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào việc hiện đại
hoá cơ cấu kinh tế ngành bằng việc thay thế thiết bị cũ, lạc hậu bằng những
thiết bị hiện đại, tiết kịêm năng lượng, nguyên liệu và hiệu quả cao. Giảm đi
một lượng chất thải lớn vào môi trường. Những ngành công nghiệp sử dụng

18
nhiều nguyên liệu, năng lượng được thay thế bằng những ngành công nghệ
cao tiêu hao ít nguyên liệu sẽ giảm đáng kể tác hại đến môi trường.
Tóm lại, tiến bộ khoa học - công nghệ là yếu tố cót lõi thúc đẩy cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ chuyển dịch, thúc đẩy sự hình thành

những người mới và mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp và dịch
vụ; nâng cao năng suất loa động và hiệu quả sử dụng tài nguyên.
- Phân công và hợp tác lao động là cơ sở hình thành cơ cấu lao động,
nhân tố chủ yếu phát triển cơ cấu xã hội, dân cư mới. Sự phân công lao động
ngày càng sâu sắc thì số lượng các ngành nghề càng tăng, nhờ đó thúc đẩy cơ
cấu lao động chuyển dịch theo chiều rộng. Phân công lao động sẽ nâng cao
năng suất lao động, thúc đẩy kinh tế ngành, liên ngành phát triển. Do vậy,
phân công lao động xã hội là một trong những nhân tố quan trọng hình thành
cơ cấu lao động vùng. Trong điều kiện toàn cầu hoá, để rút ngắn khoảng cách
lạc hậu, những nước có lợi thế lao động và tài nguyên cần lợi dụng vốn, khoa
học - công nghệ từ bên ngoài để hoàn thiện và nâng cấp cơ cấu lao động theo
chiều sâu.
- Vai trò của nhân tố thị trường đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành. Đối với nước ta, trong bối cảnh vừa chuyển đổi mô hình kinh
tế, vừa trong điều kiện của nền kinh tế thị trường mới hình thành, chưa phát
triển đầy đủ thì vai trò và tác động của nhân tố thị trường đối với sự phát triển
các ngành và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành diễn ra như thế nào? Cần
phải làm gì để thị trường phát huy được đầy đủ và vai trò tác dụng tích cực
của nó.
Nền kinh tế nói chung, các ngành, lĩnh vực, đơn vị kinh tế nói riêng đều
phải hướng tới việc đảm bảo các yêu cầu của thị trường và tuân thủ các
nguyên tắc hoạt động của nó, nghĩa là: mọi hoạt động sản xuất, dịch vụ, kinh
doanh đều phải dựa vào thị trường và xuất phát từ nhu cầu thị trường; giá cả
hàng hoá và dịch vụ do thị trường chi phối; hoạt động của các ngành, lĩnh vực
đơn vị kinh tế đều diễn ra trong môi trường cạnh tranh và phải thích ứng với
môi trường này; phải coi lợi nhuận tối đa là mục đích cuối cùng và là động
lực nội tại.

19
Để đảm bảo các nguyên tắc nêu trên, đáp ứng những yêu cầu khách

quan của nền kinh tế thị trường trong điều kiện vận động, biến đổi không
ngừng của chúng, đòi hỏi các nhà sản xuất, kinh doanh cũng như các ngành,
lĩnh vực của nền kinh tế phải tạo được một cơ cấu kinh tế hợp lý, năng động
và có hiệu quả hơn. Đối với nước ta hiện nay là làm thế nào để vận dụng được
các quy luật thị trường, hướng các hoạt động của nó vào cùng một mục tiêu là
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khai
thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế so sánh, đồng thời hạn chế được tính
tự phát và tác động ngược chiều của cơ chế thị trường.
Nhóm nhân tố chủ quan
- Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế phát sinh từ yêu cầu phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại, vai
trò Nhà nước không thể thiếu được thì trong nền kinh tế chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, vai trò Nhà nước càng có ý nghĩa quyết định hơn nhiều. Vai trò
kinh tế Nhà nước đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành được thể hiện ở
các mặt chủ yếu sau:
+ Vai trò và năng lực của Nhà nước đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thể hiện ở các chức năng chính của Nhà nước, đó là vai trò định hướng
chiến lược của Nhà nước, công tác tổ chức, quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
+ Sử dụng có hiệu quả những đòn bẩy kinh tế, nó thể hiện trong hệ
thống chính sách đối với việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Những đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ như tài chính quốc gia, các ngân hàng trung
ương và hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Đòn bẩy làm cơ sở tất yếu để Nhà
nước thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là tài chính quốc gia. Đó là
công cụ quan trọng nhất của đường lối kinh tế của Nhà nước. Tài chính quốc
gia tạo nên sự phát triển hài hoà của cơ cấu kinh tế ngành bởi ba chức năng
điều chỉnh thu nhập.
Các ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại và hệ thống tín dụng
đóng vai trò quan trọng nhất trong điều tiết tập trung vốn vào những ngành
kinh tế trọng yếu trong cơ cấu kinh tế ngành.


20
Doanh nghiệp Nhà nước thuộc sở hữu nhà nước giữ vai trò quan trọng.
Doanh nghiệp nhà nước được phát triển trong những ngành và lĩnh vực then
chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân.
+ Vai trò của Nhà nước biểu hiện trong vấn đề đào tạo nguồn lực cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Nhà nước có vai trò quyết định trong việc
tạo ra và hội tụ các nguồn lực để phát triển nguồn nhân lực. Điều này thể hiện
ở các mục tiêu, công cụ, cơ chế tác động của Nhà nước đến quá trình hình
thành, phát triển, quản lý nguồn nhân lực.
+ Vai trò của Nhà nước còn thể hiện trong hệ thống các chính sách tác
động đến phát triển nguồn nhân lực. Đó chính là chính sách giáo dục, đào tạo,
chính sách khoa học, công nghệ, chính sách tuyển dụng, đánh giá và phân
phối nguồn nhân lực
Vai trò của Nhà nước trong đào tạo nguồn nhân lực còn thể hiện trong
cơ chế, công cụ tác động đến nguồn nhân lực. Nhà nước kiểm tra đánh giá,
điều chỉnh sự phát triển của nguồn nhân lực; Nhà nước xây dựng cơ chế đầu
tư phát triển nguồn nhân lực.
+ Vai trò của Nhà nước trong việc hoạch định và thực hiện chính sách
kinh tế đối ngoại đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nước (thị
trường, vốn, khoa học - công nghệ ).
+ Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng được khẳng
định trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý; tạo địa bàn để các địa
phương thu hút các doanh nghiệp trong nước, nước ngoài đầu tư vào các
ngành đem lại lợi nhuận cao với chu kỳ thu hồi vốn nhanh; góp phần tích cực
vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành có hiệu quả.
1.2.3.2. Các nhân tố bên ngoài nền kinh tế
Trong điều kiện toàn cầu hoá, nền kinh tế của các quốc gia đều chịu sự
chi phối mạnh mẽ nhân tố bên ngoài, các nước phát triển với lao động cơ bắp

là chủ yếu thì việc tham gia phân công lao động quốc tế có tác dụng to lớn
thúc đẩy cơ cấu lao động chuyển dịch theo chiều sâu, hình thành cơ cấu lao
động với hàm lượng lao động trí óc ngày càng tăng. Có như vậy, các nước

21
đang phát triển mới có khả năng rút ngắn khoảng cách lạc hậu, sử dụng lợi thế
về lao động và tài nguyên, lợi dụng vốn khoa học - công nghệ từ bên ngoài để
hoàn thiện và nâng cấp cơ cấu lao động theo chiều sâu.
Hợp tác liên doanh và hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố quan trọng
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Hiện nay, xu hướng đẩy nhanh
mở cửa và hội nhập về kinh tế khu vực là chủ yếu; đó là giai đoạn đầu, đặt
nền móng cho hợp tác liên doanh kinh tế toàn cầu. Hợp tác kinh tế khu vực và
thế giới là nhân tố quan trọng thúc đẩy tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành. Nó được thể hiện ở các mặt:
- Hợp tác liên doanh và hội nhập kinh tế quốc tế là yếu tố quan trọng
thúc đẩy phân công lao động xã hội, nâng cao trình độ nguồn nhân lực.
Việt Nam cơ bản vẫn còn là một nước nông nghiệp, nền kinh tế nói
chung phát triển chưa ổn định, do đó hạn chế việc nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó, Việt Nam cần
mở cửa và tham gia hợp tác kinh tế quốc tế. Đó là biện pháp chiến lược đẩy
nhanh trình độ phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá nâng cao trình độ
nguồn nhân lực, thu hút nguồn lao động dư thừa, đặc biệt là đầu tư trực tiếp
của tư bản nước ngoài sẽ lấp nhiều chỗ trống và lạc hậu trong cơ cấu kinh tế
ngành, làm cho tiềm lực sản xuất to lớn của các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ phát triển.
- Hợp tác liên doanh và hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố quan trọng
nâng cấp chất lượng sản phẩm công, nông nghiệp, dịch vụ.
Liên kết và hợp tác kinh tế sẽ tạo vốn, công nghệ và không gian hoạt
động kinh tế rộng hơn nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu của các ngành kinh
tế, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm công, nông nghiệp và

dịch vụ.
- Hợp tác liên doanh và hội nhập kinh tế quốc tế còn là nhân tố cần
thiết khắc phục tình trạng cơ cấu kinh tế ngành bất hợp lý do lịch sử để lại,
góp phần hình thành cơ cấu kinh tế mở, hợp lý trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.4. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

×