Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam sau khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 106 trang )




































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ



NGUYỄN THUỲ LINH







ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT
NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
CHÂU Á


Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số: 603101





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ










HÀ NỘI - 2006










































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ



NGUYỄN THUỲ LINH







ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT
NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
CHÂU Á



Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số: 603101



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ




Người hướng dẫn khoa học:
P.G.S, T.S PHAN HUY ĐƯỜNG




HÀ NỘI - 2006










MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ FDI
1.1
Đặc điểm và vai trò của FDI

1.1.1
Đặc điểm của FDI và một số lý thuyết cơ bản về FDI

1.1.2
Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến FDI

1.2
Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nƣớc trong khu vực

1.2.1
Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á và những ảnh hưởng đến dòng
FDI đối với một số nước ASEAN

1.2.2.
Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam


Kết luận chƣơng 1

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG FDI Ở VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG

TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHÂU Á 1997 ĐẾN NAY
2.1
Tổng quan kinh tế Việt Nam giai đoạn 1987-1997 và tình
hình thu hút FDI trong giai đoạn này

2.1.1
Sơ lược kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới

2.1.2

2.1.2.1
Kinh tế Việt Nam và chính sách thu hút FDI của Việt Nam trong
giai đoạn 1987-1996
Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1987-1996

2.1.2.2

2.1.2.3
Chủ trương mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam kể
từ khi đổi mới
Chính sách thu hút FDI của Việt nam giai đoạn 1987-1996

2.1.3
Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 1987-1996

2.2
Thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam từ 1997 đến nay

2.2.1
Những thay đổi trong chính sách thu hút FDI và động thái FDI ở

Việt Nam kể từ năm 1997

2.2.2
Cơ cấu FDI của Việt Nam từ năm 1997 đến nay phân theo



ngành, vùng, lĩnh vực đầu tư
2.2.3
Cơ cấu FDI của Việt Nam từ năm 1997 đến nay phân theo nước
đầu tư

2.3
Đánh giá chung về hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam từ
1997 đến nay

2.3.1
Thành công

2.3.2
Hạn chế

2.3.3
Những vấn đề đặt ra và hướng giải quyết


Kết luận chƣơng 2

CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƢỜNG THU HÚT FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1
Bối cảnh và quan điểm, định hƣớng về thu hút FDI tại Việt
Nam đến năm 2010

3.1.1
Bối cảnh mới trong thu hút FDI

3.1.2
Quan điểm, mục tiêu, chính sách thu hút FDI trong thời gian tới

3.2
Các giải pháp tăng cƣờng thu hút FDI ở Việt Nam trong
thời gian tới

3.2.1
Giải pháp về cải thiện môi trường đầu tư

3.2.2
Giải pháp về cơ cấu đầu tư

3.2.3
Giải pháp về tạo luồng vốn đầu tư


Kết luận chương 3

KẾT LUẬN CHUNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO











1
MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Việt nam ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987, vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đã thực sự trở thành một trong những nguồn vốn quan
trọng phục vụ cho đường lối mở cửa kinh tế và chiến lược công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Nhờ những chính sách ưu đãi và hấp dẫn của Chính phủ đối với các nhà
đầu tư nước ngoài mà dòng vốn vào Việt Nam liên tục tăng cả về vốn đăng ký và
số dự án, đạt mức kỷ lục là 8,6 tỷ đô la Mỹ năm 1996. Nếu tính cả số vốn tăng
thêm thì năm 1996, Việt Nam thu hút được 10,164 tỷ USD.
Tuy nhiên, kể từ năm 1997, dòng vốn FDI vào Việt nam liên tục giảm. Nếu
lấy năm 1996 làm mốc đánh dấu nhịp độ tăng trưởng FDI vào Việt Nam, thì năm
1997, nhịp độ này giảm 45%, đạt 5,59 tỷ USD vốn đăng ký; năm 1998 nhịp độ
này tiếp tục giảm và đạt 5,09 tỷ USD. Những năm 1999-2000, FDI vào Việt Nam
giảm mạnh hơn, chỉ đạt 2,56 tỷ USD và 2,83 tỷ USD tương ứng.
Sự suy giảm dòng vốn FDI vào Việt nam trong những năm gần đây cho thấy
môi trường đầu tư của Việt Nam đang xuống cấp nghiêm trọng, và kém sức hút
đối với các nhà đầu tư. Sau khủng hoảng tiền tệ Châu Á năm 1997, hàng loạt
nước Châu Á đã tiến hành các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư mang tính
hấp dẫn và ưu đãi hơn để ngăn chặn sự thoái lui dòng FDI ra khỏi đất nước và thu

hút sự trở lại của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó ở Việt Nam, mặc dù
Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ sung 2 lần năm 1990 và 1992, sau đó
được thay bằng Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1996 và được sửa đổi
bổ sung ngày 09 tháng 6 năm 2000, được thay thế bằng Luật đầu tư năm 2005,
nhưng các nhà đầu tư vẫn gặp rất nhiều khó khăn do những rào cản luật pháp, các
thủ tục hành chính, chi phí cao, rủi ro cao. Chính những bất cập trong các chính
sách đã khiến dòng vốn FDI vào Việt Nam liên tục giảm, đòi hỏi chính phủ phải
có những biện pháp điều chỉnh thích hợp hơn để thu hút mạnh dòng FDI của thế
giới vào nước ta.
Thực tiễn ở Việt Nam những năm gần đây cũng cho thấy FDI đang có xu
hướng phục hồi trở lại và có xu hướng tăng trưởng mạnh. Cụ thể năm 2005, FDI
vào Việt nam là 6,8 tỷ USD thì đến tháng 11 năm 2006 đã đạt gần 9 tỷ USD. FDI



2
ngày càng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh
tế, tạo nên mức tăng GDP cao hơn, thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhanh hơn và giải quyết tốt hơn các vấn đề về công ăn việc làm,
nghèo đói, thất nghiệp… Do vậy, sự suy giảm dòng vốn FDI sau khủng hoảng tài
chính tiền tệ Châu Á năm 1997 và sự hồi phục của dòng vốn FDI trong vài năm
trở lại đây đòi hỏi Chính phủ phải có những giải pháp, chính sách hiệu quả hơn
nữa để thu hút mạnh mẽ hơn dòng vốn FDI, để dòng vốn này thực sự đóng góp
vai trò quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
của Việt Nam.
Chính vì vậy, luận văn với đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam
sau khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á” góp phần đánh giá thực trạng suy giảm
FDI vào Việt Nam kể từ năm 1997; những nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm đó;
và đưa ra một số khuyến nghị nhằm thu hút mạnh mẽ hơn dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện Đại
hội đảng Cộng sản Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu đã khai thác vấn đề vốn đầu
tư nước ngoài dưới nhiều góc độ khác nhau, với các công trình nghiên cứu cụ thể
sau:
- TS Phùng Xuân Nhạ: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ Công nghiệp
hoá ở Malaixia, kinh nghiệm đối với Việt nam. Nhà Xuất bản nghiên cứu
kinh tế và xã hội (2000)
- PGS. TS. Mai Ngọc Cường: Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
(2001)
- TS. Vũ Trường Sơn: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở
Việt nam. Nhà xuất bản thống kê (2001)
- TS. Nguyễn Trọng Xuân: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc Công
nghiệp hoá, Hiện đại hoá ở Việt nam. Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội
(2002)
Ngoài ra còn có một số bài đăng tải trên các tạp chí đề cập đến tình hình và
chính sách thu hút FDI tại Việt Nam. Song những công trình trên chưa có công



3
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và cập nhật được thực trạng
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam sau những tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997. Do đó đề tài: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt nam sau khủng hoảng tiền tệ tiền tệ Châu Á” hy vọng sẽ
là một công trình nghiên cứu hệ thống, toàn diện và cập nhập về đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á
năm 1997.

3. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của đầu tư trực tiếp
nước ngoài, luận văn tập trung phân tích thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt nam, đi sâu phân tích những nhân tố tác động đến thực trạng
thu hút FDI vào Việt Nam kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á
năm 1997, từ đó luận văn đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng cường thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: chính sách và thực trạng thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á
và những tác động của vấn đề này đối với nền kinh tế Việt nam.
Phạm vi nghiên cứu: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam kể từ
sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu bằng việc sử dụng phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp chặt chẽ với phương pháp khái quát hoá, trìu
tượng hoá và cụ thể hoá trong quá trình phân tích.
Các phương pháp cụ thể sử dụng là: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, đối chiếu, so sánh, logic lịch sử.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau đây:
o Làm rõ thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997.
o Phân tích các nguyên nhân gây ra sự suy giảm dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam kể từ năm 1997 và sự phục hồi của dòng FDI
từ năm 2001.



4

o Đề xuất một số khuyến nghị nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về FDI
Chương 2: Thực trạng FDI ở Việt Nam sau khủng hoảng tài chính tiền tệ
Châu Á 1997 đến nay
Chương 3: Quan điểm định hướng và các giải pháp tăng cường thu hút
FDI ở Việt Nam trong thời gian tới.
Kết luận



5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ FDI

1.1. Đặc điểm và vai trò của FDI
1.1.1. Đặc điểm của FDI và một số lý thuyết cơ bản về FDI
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài xuất hiện từ thế kỷ XVII khi các công ty
của Anh đầu tư vào Ấn Độ. Tuy nhiên, cho đến tận thế kỷ XIX, thế giới mới bắt
đầu chú ý đến hoạt động quốc tế này. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã
làm gián đoạn hầu hết các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng như
sự nghiên cứu về nó. Những số liệu về FDI và các công trình nghiên cứu về FDI
trong thời gian trước năm 1945 còn sót lại không đáng kể. Có lẽ một phần là như
vậy, nên mặc dù FDI diễn ra tương đối lâu, nhưng hầu như không có một lý
thuyết hoàn chỉnh nào về nó.
Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, các công ty lớn không
ngừng mở rộng phạm vi hoạt động. Để mở rộng phạm vi hoạt động ra khỏi biên

giới quốc gia, họ đã thực hiện FDI bằng việc xây dựng các chi nhánh, cơ sở sản
xuất mới, mua hoặc sát nhập với các công ty nước ngoài đang tồn tại. FDI tăng
lên nhanh chóng đã thực sự thu hút được sự chú ý của các nhà kinh tế học. Từ đó,
các lý thuyết FDI bắt đầu xuất hiện. Trong số đó, đáng chú ý nhất là các lý thuyết
theo mô hình Heckcher – Ohlin - Samuelson, mô hình Macdougall – Kempt, lý
thuyết “chu kỳ sản phẩm” của Raymond Vernon, lý thuyết “chu kỳ sản phẩm bắt
kịp” của Akamatsu
Các nghiên cứu về FDI trên thế giới đã đưa ra rất nhiều những khái niệm và
quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng có thể đưa ra một khái niệm cơ bản
về đầu tư được nhiều người thừa nhận, đó là: “đầu tư là việc sử dụng một lượng
tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất đai vào một hoạt động kinh tế cụ thể
nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận”. Người bỏ ra
một lượng tài sản được gọi là nhà đầu tư hoặc chủ đầu tư. Đối tượng được bỏ tài
sản vào đầu tư thuộc quyền sở hữu của người đầu tư. Chủ đầu tư có thể là các tổ
chức, cá nhân (đầu tư tư nhân) và cũng có thể là nhà nước (đầu tư chính phủ) [23,
tr.28].



6
Đặc điểm chính của FDI là chủ đầu tư tiến hành cuộc đầu tư dưới nhiều hình
thức như bỏ vốn đầu tư để lập cơ sở sản xuất mới hoặc mua lại các cơ sở sản xuất
hiện có và trực tiếp quản lý tài sản đó. Thời gian đầu tư thường là trung hạn và
dài hạn. FDI khác với đầu tư gián tiếp bởi đầu tư gián tiếp là hình thức chủ đầu tư
bỏ ra tài sản (chủ yếu là vốn) để mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái
phiếu nhằm hưởng lợi tức, mà không quản lý trực tiếp tài sản của mình. Giữa
hai hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp có mối quan hệ bổ sung lẫn
nhau. Đầu tư trực tiếp rất cần nguồn vốn để mở rộng hoặc nâng cấp cơ sở hiện có,
vì thế đầu tư gián tiếp là nguồn vốn quan trọng để đáp ứng vốn cho nhu cầu này.
Mặt khác, việc phát triển của đầu tư trực tiếp sẽ tăng cường nhu cầu về vốn để

khuyến khích đầu tư gián tiếp phát triển. Bởi vậy, muốn đầu tư tăng trưởng thực
sự thì phải đồng thời phát triển cả hai hình thức này.
Ngoài đặc điểm trên, FDI còn có các đặc điểm quan trọng khác như sau:
+ Chủ sở hữu đầu tư là người nước ngoài. Đặc điểm này có liên quan đến
khía cạnh về quốc tịch, luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập quán Nói chung, đây
là yếu tố làm tăng thêm tính rủi ro và chi phí đầu tư của các chủ đầu tư ở nước
ngoài.
+ Các yếu tố đầu tư di chuyển ra khỏi biên giới. Đặc điểm này có liên quan
chủ yếu đến các khía cạnh về chính sách, luật pháp, hải quan và cước phí vận
chuyển.
+ Vốn đầu tư được tính bằng ngoại tệ (thường là đồng USD). Đặc điểm này
có liên quan đến vấn đề tỷ giá hối đoái và các chính sách tài chính tiền tệ của các
nước tham gia đầu tư.
Khi quyết định đầu tư ra nước ngoài, các chủ đầu tư thường xem xét rất kỹ
các đặc điểm trên và chính từ các đặc điểm khác biệt này thường nảy sinh nhiều
vấn đề cho các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư ở nước ngoài.
Với những đặc điểm trên, trong suốt mấy thập kỷ qua, lý thuyết về FDI đã
là một vấn đề được nghiên cứu rất kỹ. Với các phương pháp tiếp cận và các mục
tiêu nghiên cứu khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều mô hình và quan điểm lý
thuyết về nguyên nhân hình thành, ảnh hưởng của FDI đối với nền kinh tế thế
giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Những quan điểm này đã có ảnh
hưởng quan trọng đến việc hoạch định chính sách FDI của nước đầu tư và nước
chủ nhà.



7
* Mô hình Heckcher – Ohlin – Samuelson (HOS)
Lý thuyết di chuyển vốn quốc tế hoặc FDI là một phần của lý thuyết
thương mại quốc tế. Lý thuyết này chủ yếu dựa trên cơ sở phân tích mô hình

HOS để đưa ra các nhận định về nguyên nhân của di chuyển vốn là có sự chênh
lệch về tỷ suất lợi nhuận so sánh giữa các nước và sự di chuyển đó tạo ra tăng sản
lượng cho nền kinh tế thế giới và nước tham gia đầu tư.
Để đơn giản cho sự phân tích, mô hình HOS được xây dựng dựa trên các
giả định: hai nước tham gia trao đổi hàng hoá hoặc đầu tư (nước I và nước II –
phần còn lại của thế giới), hai yếu tố sản xuất (lao động – L và vốn – K), hai hàng
hoá (X và Y), trình độ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu và hiệu quả kinh tế theo quy mô
ở hai nước như nhau, không có chi phí vận tải, can thiệp của chính sách, hoạt
động của thị trường hai nước là hoàn hảo và không có sự di chuyển các yếu tố sản
xuất giữa các nước. Với những giả định này, mô hình HOS phân tích tỷ lệ chi phí
của các yếu tố sản xuất (L và K) ở hai nước I và II.
Mô hình HOS đã chỉ ra rằng, sản lượng của hai nước sẽ tăng lên nếu mỗi
nước tập trung sản xuất để xuất khẩu những hàng hoá sử dụng yếu tố sản xuất dư
thừa và tiết kiệm yếu tố sản xuất khan hiếm. Ngược lại, nhập khẩu những hàng
hoá dùng nhiều yếu tố khan hiếm và ít hàm lượng yếu tố dư thừa. Như vậy, sự
khác biệt trong chi phí sản xuất hàng hoá và lợi thế so sánh giữa các nước được lý
thuyết HOS phân tích từ sự khác biệt giữa tính dư thừa và khan hiếm của các yếu
tố sản xuất, vì thế mô hình này còn được gọi là lý thuyết các yếu tố sản xuất.
Trong khi những giả định không có sự lưu chuyển các yếu tố sản xuất qua
biên giới và hiệu quả kinh tế theo quy mô giữa các nước không đổi là điểm xuất
phát của lý thuyết thương mại quốc tế, thì mô hình HOS được sử dụng để phân
tích cơ sở hình thành của FDI qua việc loại bỏ hai giả định này. Theo giả định của
các tác giả, năng suất cận biên của vốn có sự khác nhau giữa các nước và theo
quy mô kinh tế. Thông thường, năng suất cận biên của vốn thấp ở nước dư thừa
vốn đầu tư, và cao ở nước khan hiếm vốn đầu tư. Tình trạng này dẫn đến xuất
hiện di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa đến nơi khan hiếm nhằm tối đa hoá lợi
nhuận.
Từ sự phân tích nguyên nhân hình thành FDI, các tác giả đã cho thấy tính
tương đồng về cơ sở hình thành thương mại quốc tế và FDI. Theo các tác giả,
thương mại quốc tế dựa trên nguyên tắc chi phí so sánh, còn FDI dựa trên nguyên




8
tắc lợi nhuận so sánh và hai nguyên tắc này có thể tương đương với nhau. Vì vậy,
lý thuyết FDI và lý thuyết thương mại quốc tế cùng dựa trên cơ sở của hai nguyên
tắc này. Trong thực tế, thương mại quốc tế và FDI có mối quan hệ chặt chẽ mang
tính bổ sung cho nhau, tức là FDI sẽ bổ sung cho thương mại quốc tế để sản xuất
thay thế hàng nhập khẩu khi hàng rào thuế quan và hạn ngạch giữa các nước gia
tăng. Vì thế, thương mại quốc tế có thể đựoc coi như là sự dịch chuyển gián tiếp
các nguồn lực sản xuất quốc tế.
* Mô hình Macdougall – Kemp
Khác với mô hình HOS, điểm nổi bật của ký thuyết di chuyển vốn quốc tế
theo mô hình của Macdougall – Kemp là phân tích ảnh hưởng kinh tế vĩ mô của
FDI đối với nền kinh tế thế giới và các nước tham gia đầu tư. Mô hình này được
xây dựng trên cơ sở những giả thuyết sau: 1) nền kinh tế thế giới bao gồm hai
nhóm nước: nước chủ đầu tư (dư thừa vốn) và nước nhận đầu tư (thiếu vốn); 2)
Năng suất cận biên của vốn tại nước chủ đầu tư thấp hơn tại nước nhận đầu tư; 3)
Năng suất cận biên của vốn tại hai nhóm nước đều tuân theo quy luật giảm dần;
4) Nền kinh tế thế giới cạnh tranh hoàn hảo.
Từ những giả định trên, các tác giả đã đi đến kết luận về nguyên nhân hình
thành FDI là do có sự chênh lệch năng suất cận biên của vốn đầu tư giữa các
nước và ảnh hưởng của nó làm tăng sản lượng thế giới (nhờ vào tăng sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực sản xuất) và các nước tham gia đầu tư đều có lợi. Mô hình
cũng phân tích FDI tạo ra ảnh hưởng rất khác nhau tại nước đầu tư và nước chủ
nhà. Đối với nước đầu tư, thu nhập từ sử dụng vốn tăng lên do sử dụng năng suất
cận biên của vốn tăng khi vốn đầu tư chuyển sang nước nhận đầu tư, trong khi đó
thu nhập từ lao động lại giảm đi vì mất lượng vốn đầu tư đã chuyển sang nước
nhận đầu tư. Đối với nước nhận đầu tư, thu nhập từ vốn và lao động diễn ra theo
chiều hướng ngược lại với nước đầu tư.

Qua việc xây dựng mô hình này, các tác giả đã rút ra kết luận: khi thực
hiện FDI, năng suất cận biên của vốn giữa hai nhóm nước đầu tư và nhận đầu tư
có xu hướng cân bằng. Các nguồn lực kinh tế của hai nhóm nước này được sử
dụng một cách hiệu quả hơn, điều này đã trực tiếp làm tăng tổng sản phẩm của
thế giới.
* Lý thuyết Chu kỳ sản phẩm của Raymond Vernon



9
Lý thuyết chu kỳ sản phẩm của Vernon giải thích sự phát triển của các
công ty xuyên quốc gia (TNCs) theo 3 giai đoạn phát triển của sản phẩm: đổi
mới, tăng trưởng và bão hoà. Trong mô hình đầu tiên của tác giả (năm 1966) đã
phân tích giai đoạn đổi mới sản phẩm chỉ diễn ra ở các nước phát triển (chẳng
hạn như Mỹ), vì thu nhập cao có ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tiêu thụ sản
phẩm mới. Cũng chỉ ở các nước phát triển, kỹ thuật sản xuất tiên tiến với đặc
trưng sử dụng nhiều vốn và các điều kiện sản xuất (tương đương với các nước
đầu tư) mới phát huy được hiệu suất cao. Kết quả là tăng nhanh sản xuất theo quy
mô lớn, năng suất lao động cao và các sản phẩm mới đã đạt đến mức bão hoà.
Để sản xuất tiếp tục được phát triển, công ty phải mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm ở nước ngoài, nhưng việc bán sản phẩm ra nước ngoài đã nhanh
chóng bị hạn chế bởi hàng rào thuế quan hoặc hạn ngạch. Thêm vào đó, cước phí
vận tải và chi phí nguyên vật liệu, lao động rẻ ở các nước đang phát triển đã là
động lực quan trọng thúc đẩy TNCs đầu tư ra nước ngoài.
Cũng theo Vernon (1971), hầu hết các TNCs như là các tổ chức độc quyền
bán và chia ra làm 3 giai đoạn phát triển: độc quyền trên cơ sở đổi mới, độc
quyền bão hoà và độc quyền suy yếu. Giai đoạn 1 với đặc trưng là dựa vào ưu thế
về kỹ thuật tiên tiến để tạo ra các sản phẩm mới và thu được lợi nhuận độc quyền.
Giai đoạn tiếp theo là đạt đến mức độc quyền tối đa so với các đối thủ về quy mô
sản xuất, tiếp thị, nghiên cứu và triển khai (R & D). Giai đoạn cuối cùng là các

yếu tố đổi mới và quy mô kinh tế đã mất vị trí độc quyền. Từ đó các tác giả đi
đến kết luận về nguyên nhân hình thành FDI như là kết quả của quá trình bảo vệ
thị trường độc quyền của TNCs.
* Lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp của Akamatsu
Theo Akamatsu, sản phẩm mới được phát minh và ra đời ở nước đầu tư,
sau đó được xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Tại nước nhập khẩu, do ưu điểm của
sản phẩm mới và nhu cầu của thị trường nội địa tăng lên, chính phủ nước nhập
khẩu đã tăng cường sản xuất thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu
dựa vào vốn, kỹ thuật của nước ngoài. Đến khi nhu cầu thị trường nội địa về
sản phẩm mới được sản xuất trong nước đạt đến sự bão hoà, nhu cầu xuất khẩu
lại xuất hiện và cứ theo chu kỳ như vậy mà dẫn đến hình thành FDI.
Akamatsu cũng đã xây dựng nên mô hình “đàn nhạn bay” (flying geese).
Mô hình này diễn tả sự lặp đi lặp lại của sự phát triển xét trên phạm vi toàn cầu,



10
trong đó sự phát triển kinh tế của một nước kém phát triển hơn (lạc hậu hơn) lặp
lại quá trình phát triển cảu một nước phát triển hơn thông qua thương mại, FDI và
các quan hệ kinh tế khác. Akamatsu cho rằng: “Ngày nay chúng ta không thể
nghiên cứu sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển nếu không xem xét
đến sự tác động lẫn nhau giữa nó với nền kinh tế của các nước công nghiệp phát
triển”.
Akamatsu chỉ ra lộ trình phát triển của một ngành công nghiệp cụ thể (ví
dụ như ngành dệt) ở một nước như sau (như Nhật Bản đầu thế kỷ XX). Lúc đầu,
sản phẩm được nhập khẩu, tiếp theo là sự sản xuất được tiến hành trong nước, và
sau đó là việc xuất khẩu sản phẩm. Cả ba quá trình đó lần lượt xuất hiện, phát
triển đến đỉnh cao, rồi giảm dần. Quá trình phát triển đó tạo nên 3 hình sóng kế
tiếp nhau (như đàn nhạn bay). Lúc đầu quá trình đó chỉ xảy ra đối với các ngành
sản xuất các sản phẩm tiêu dùng, sau đó xảy ra với các ngành sản xuất tư liệu sản

xuất.
Đối với hoạt động FDI, quá trình diễn ra cũng tương tự như vậy. Lúc đầu,
nước ngoài đầu tư vào và quá trình sản xuất được hình thành, phát triển cùng với
sự tăng lên của FDI. Đến một giai đoạn nhất định, FDI vào giảm dần, bắt đầu
xuất hiện FDI ra nước ngoài. Các quá trình đó xuất hiện, phát triển và suy thoái,
cũng tạo ra mô hình làn sóng. Mô hình này đã phần nào làm nổi bật vai trò của
FDI của các quốc gia phát triển đối với những quốc gia kém phát triển hơn.
1.1.2. Vai trò và các nhân tố ảnh hƣởng đến FDI
* Vai trò của FDI
Trong nghiên cứu của Ngân hàng thế giới năm 1997 về tác động của dòng
vốn nước ngoài đối với các nước nhận đầu tư, Magnus Blomstrom có viết: một
chiến lược công nghiệp hoá thích hợp đối với nước đang phát triển trong giai
đoạn hiện nay chính là công nghiệp hoá gắn với FDI chứ không đơn giản là công
nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, càng không phải là một chiến lược công nghiệp
hóa dựa trên vay nợ nước ngoài. So với các hình thức kinh tế đối ngoại khác, FDI
có những vai trò ưu việt sau:
+ Nó cho phép khai thác tất cả các lợi thế của một đất nước trong hội nhập
kinh tế quốc tế. Mặc dù toàn cầu hoá bao hàm cả tự do hoá thương mại, FDI sẽ
cho phép khai thác các yếu tố này và đưa chúng vào chu trình kinh tế thế giới qua
việc mở rộng sản xuất quốc tế.



11
+ FDI là yếu tố quan trọng nhất để tạo ra sự bùng nổ xuất khẩu (cả về mặt
lượng và cơ cấu, đặc biệt chuyển biến cơ cấu xuất khẩu theo hướng công nghiệp
hoá). FDI đóng vai trò quyết định trong xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao.
+ FDI là kênh tốt nhất để huy động vốn và công nghệ trên thị trường thế
giới cho công nghiệp hoá mà không gây ra tình trạng phụ thuộc một chiều vào
bên ngoài.

+ Thông qua hiệu ứng lan toả, FDI tạo ra sự liên kết bên trong và bên ngoài
hiệu quả nhất.
Nhìn chung, FDI không chỉ mang lại vốn mà còn cả công nghệ tiên tiến và
khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. FDI đóng vai trò quan trọng đối với các
nước đang phát triển tham gia vào mạng lưới sản xuất quốc tế. Nhiều công trình
nghiên cứu đã nhận thấy FDI có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tăng trường, trong khi
tổng số vốn đầu tư nói chung lại không có ảnh hưởng mấy đối với tăng trưởng,
nghĩa là các nhân tố khác như công nghệ, kinh nghiệm quản lý và các hiệu ứng
lan toả đóng vai trò quan trọng, chứ không chỉ đơn thuần là vốn đóng vai trò quan
trọng.
Mặc dù FDI có những vai trò ưu việt như trên, nhưng không phải cứ thu
hút nhiều FDI là khai thác được những vai trò đó. Trong nhiều trường hợp, FDI
có hiệu ứng ngược lại đối với nước chủ nhà, chẳng hạn gia tăng xu hướng thay
thế nhập khẩu hoặc không tạo ra các mối liên kết bên trong và bên ngoài, thậm
chí gây tổn hại các nguồn tài nguyên. Đó là hệ quả của một chính sách thu hút
FDI thiếu định hướng hội nhập, nói cách khác là có sự sai lệch trong quan hệ toàn
cầu hoá - FDI – công nghiệp hoá: xem FDI chỉ là một giải pháp hỗ trợ cho công
nghiệp hoá, còn công nghiệp hoá không là nhằm hình thành mạng lưới sản xuất
quốc tế thông qua FDI. FDI chỉ phát huy được những tác dụng tích cực của nó
khi hướng vào khai thác lợi thế của một quốc gia trong quá trình công nghiệp
hoá.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến FDI
- Đối với những nước nhận đầu tư:
Đối với nước nhận đầu tư, khi xem xét các nhân tố thu hút FDI, ta cần phải
xem xét các nhóm yếu tố: tình hình chính trị, chính sách – pháp luật, vị trí địa lý –
điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, đặc điểm văn hoá xã hội. Cụ thể là:
+ Tình hình chính trị




12
Tình hình chính trị của nước nhận đầu tư có liên quan chặt chẽ đến sự ổn
định của kinh tế xã hội. Đây là yếu tố tác động trực tiếp và có tính toàn diện làm
tăng hoặc giảm khả năng rủi ro trong đầu tư. Các nhà đầu tư không thể quyết định
chuyển vốn đầu tư vào thị trường có nền kinh tế bị khủng hoảng hoặc đang chứa
đựng nhiều tiềm năng bùng phát khủng hoảng vì ở đó có độ mạo hiểm cao. Sự ổn
định chính trị không chỉ là điều kiện quan trọng đảm bảo an toàn vốn đầu tư mà
còn có vai trò to lớn để đảm bảo sự ổn định nền kinh tế xã hội, nhờ đó giảm được
khả năng rủi ro đầu tư. Đây là những mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư
nước ngoài.
+ Chính sách – pháp luật
Vì quá trình đầu tư có liên quan đến rất nhiều các hoạt động của các tổ
chức, cá nhân và được tiến hành trong một khoảng thời gian rất dài, ở nơi xa lạ
nên các nhà đầu tư nước ngoài rất cần môi trường pháp lý vững chắc, có hiệu quả.
Môi trường này bao gồm một hệ thống đầy đủ các chính sách, quy định cần thiết,
đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn chồng chéo với nhau và có hiệu lực
trong thực tiễn.
Các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm nhiều đến mức độ đầy đủ,
hiệu quả và tính minh bạch của các chính sách tác động trực tiếp đến hoạt động
đầu tư như: quy định về lĩnh vực được đầu tư, mức sở hữu của người nước ngoài,
miễn giảm thuế đầu tư, quy định tỷ lệ xuất khẩu, tư nhân hoá, cạnh tranh, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ; các chính sách gây ảnh hưởng gián tiếp như chính sách tài
chính tiền tệ, thương mại, văn hoá xã hội, an ninh, đối ngoại Nếu các chính
sách này không thống nhất, chồng chéo, sẽ là những nhân tố cản trở các nhà đầu
tư nước ngoài vì họ không yên tâm làm ăn dài hạn ở nước nhận đầu tư, do đó
không thu hút được lượng vốn FDI vào phục vụ sự phát triển của đất nước.
+ Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về khoảng cách, địa
điểm, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số Đây là những yếu tố tác động
quan trọng đến tính sinh lợi hoặc rủi ro của các hoạt động đàu tư nước ngoài.

Các nhà đầu tư nước ngoài đều phải tiến hành chuyên chở hàng hoá và dịch
vụ giữa địa điểm sản xuất và tiêu thụ. Nếu vị trí địa lý thuận lợi, không xa xôi
cách trở thì chi phí vận chuyển thấp, giảm được giá thành và hạn chế rủi ro.



13
Ngược lại, nếu vị trí địa lý giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư xa xôi, giao
thông không thuận lợi, các rào cản này sẽ lớn hơn, làm nản lòng các nhà đầu tư.
Khí hậu của nước chủ nhà cũng là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến
quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Yếu tố này bao gồm các đặc
điểm về thời tiết, độ ẩm, bão lũ Chẳng hạn, ở những nước có khí hậu nhiệt đới
gió mùa thường phù hợp với các dự án nông nghiệp hơn là các dự án công
nghiệp, vì khí hậu này thường có độ ẩm cao nên tác động xấu đến độ bền công
nghệ và điều kiện sống của các nhà dầu tư, nhất là các nhà đầu tư từ phương Tây.
Mặt khác, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ cung cấp được các yếu tố đầu
vào phong phú và giá rẻ cho các hoạt động đầu tư. Các nhà đầu tư thường rất
quan tâm đến nguồn cung cấp nguyên liệu tự nhiên và lao động ở nước chủ nhà.
Một nước sẽ không mang tính hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nếu không có
nguồn khoáng sản dồi dào với trữ lượng lớn, nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, dân
số đông Quy mô dân số đông không chỉ có lợi thế về cung cấp nguồn lao động
mà có khả năng tiêu thụ rất lớn. Tất nhiên, mức độ hấp dẫn này còn phụ thuộc
vào chất lượng của thị trường lao động và sức mua của đa số tầng lớp dân cư.
+ Trình độ phát triển của nền kinh tế
Trình độ phát triển của nền kinh tế là mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ
mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các hoạt động kinh doanh của
các nhà đầu tư nước ngoài, mức độ cạnh tranh của thị trường nước chủ nhà. Các
yếu tố này có tác động mạnh hơn hẳn so với các chính sách khuyến khích ưu đãi
về tài chính của nước chủ nhà đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước đã đưa đến một kết luận

rằng: những yếu tố như hệ thống giáo dục tốt, trình độ công nghệ cao, cơ sở hạ
tầng đầy đủ của một nước sẽ tạo sức cạnh tranh lớn hơn trong thu hút FDI. Còn ở
những nước có hệ thống giáo dục và y tế kém, trình độ công nghệ thấp, mức độ
mở cửa thương mại thấp, cạnh tranh yếu, thể chế không vững mạnh, mất ổn định
chính trị xã hội , thì sức cạnh tranh trong thu hút FDI sẽ giảm. Những yếu tố
này đã được chính phủ nhiều nước Châu Á thực hiện tốt trong suốt quá trình công
nghiệp hoá. Tuy nhiên, trong khu vực Châu Á, mức độ nâng cao nội lực của các
nước cũng khác nhau. Trong khi Hàn Quốc, Singapo, Malaixia được coi là những
nước có cơ sở hạ tầng tương đối hiện đại, nguồn nhân lực được đào tạo bài bản,
thì ở một số nước như Inđônêxia, Việt Nam, Ấn Độ chất lượng nguồn nhân lực



14
và cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Bên cạnh
đó, những nước có xung đột tôn giáo, chính trị triền miên, nguồn nhân lực trình
độ thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu, đói nghèo và dịch bệnh tràn lan như Châu Phi,
những yếu tố tĩnh mang tính hấp dẫn đầu tư không được phát huy. Có thể nhận
thấy FDI bao giờ cũng có hiệu suất cao hơn ở những nước có lực lượng lao động
được đào tạo tốt, dân chúng có thu nhập cao và hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế –
xã hội hiện đại.
+ Đặc điểm phát triển văn hoá xã hội
Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều quan tâm đến nhóm yếu tố văn
hoá xã hội như: phong tục tập quán, tôn giáo, ngôn ngữ, trình độ phát triển văn
hoá, khoảng cách giàu nghèo, tỷ lệ tăng dân số vì nó quyết định đến thái độ tiêu
dùng và khả năng thanh toán của khách hàng tại các thị trường mục tiêu. Các yếu
tố này có thể thúc đẩy đầu tư, nhưng cũng có thể cản trở, kìm hãm các hoạt động
đầu tư nước ngoài.
- Các yếu tố thúc đẩy FDI
Đối với các nước chủ đầu tư, lượng FDI lớn hay nhỏ ra nước ngoài phụ

thuộc chủ yếu vào các nhân tố sau:
+ Nhân tố quốc tế:
Trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, những nhân tố mới quyết định sự dịch
chuyển dòng FDI trên thực tế là:
+ Tự do hoá thương mại, nghĩa là xoá bỏ các hàng rào thương mại, đang
đẩy lùi nhân tố lẩn tránh hàng rào thuế quan của dòng FDI và tập trung hơn vào
việc nâng cao sức cạnh tranh trong các hoạt động đầu tư hiện tại. Điều này cũng
làm tăng quy mô tiếp cận thị trường, chẳng hạn như đẩy mạnh xuất khẩu. Tất cả
các doanh nghiệp đều buộc phải nâng cao hiệu quả kỹ thuật và phản ứng tốt hơn
đối với các lực lượng thị trường không chỉ trong lĩnh vực thương mại, mà còn
trong các lĩnh vực dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Các công ty xuyên quốc gia TNCs
cần phải tái thiết lại cơ cấu kinh doanh của họ, tận dụng tất cả các tài sản của họ
để đạt được mức độ hoạt động tốt nhất (best practice), giảm sự xuất hiện của họ
trong các ngành không có lợi thế cạnh tranh nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Do vậy,
hoạt động của các TNCs ở nước ngoài thường kéo theo các chức năng liên kết
khác như R&D, quản lý tài chính, thu mua với các nước nhận đầu tư để nâng



15
cao hiệu quả cho công ty. Tự do hoá thương mại đang đặt ra rất nhiều thách thức
mới đối với những nước đang phát triển để thích ứng với tình hình mới.
+ Cùng với tự do hoá thương mại, tự do hoá FDI cũng đang là nhân tố thúc
đẩy dòng FDI vào các khu vực và các nước. Ngày càng có nhiều những thoả
thuận ưu đãi đầu tư song phương giữa các nước. Nhờ đó, các TNCs được tự do
hơn trong vấn đề ra quyết định đầu tư, lựa chọn cách thức đầu tư và tăng nhanh
lợi nhuận. Nhờ có các hiệp định đầu tư song phương (BITs), các nước nhận đầu
tư đã thu hút được nhiều hơn nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ
phía đối tác đầu tư, thúc đẩy sự liên kết sâu rộng hơn giữa các công ty địa phương
với các chi nhánh của TNCs. Tuy nhiên, tự do hoá FDI đang tạo nên môi trường

cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các quốc gia, các khu vực để cùng thu hút FDI.
Những nước không có những nỗ lực vượt bậc trong việc cải thiện môi trường đầu
tư sẽ bị đẩy ra ngoài dòng FDI đang được tự do hoá mạnh mẽ trên thế giới.
+ Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng đang là một yếu tố mới thúc đẩy
FDI. Toàn cầu hoá tạo nên mạng lưới sản xuất quốc tế rộng khắp. Khái niệm toàn
cầu hoá được phát triển cao hơn khái niệm quốc tế hoá. Chính tốc độ phát triển
nhanh chóng của toàn cầu hoá sẽ thúc đẩy xu hướng tự do hoá thương mại, từ đó
tạo điều kiện thuận lợi cho các TNCs mở rộng phạm vi hoạt động trên toàn cầu.
Trong xu thế toàn cầu hoá, sự phát triển của khoa học công nghệ đóng vai
trò quan trọng. Trên thực tế, động lực của quá trình sản xuất quốc tế ngày nay
phần lớn đều phản ánh bản chất, tốc độ và tính thâm nhập của tiến bộ công nghệ.
Các lĩnh vực công nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ viễn thông,
công nghệ vận tải mới đang cho phép các TNCs mở rộng quy mô và quản lý
các hoạt động đầu tư quốc tế của mình một cách hiệu quả hơn. Vai trò chuyển
giao công nghệ của FDI đối với các nước nhận đầu tư cũng lớn hơn. Tuy nhiên,
để có thể tiếp cận nguồn công nghệ mới do toàn cầu hoá mang lại, các nứoc đang
phát triển cũng cần phải cải cách và nâng cấp các nguồn lực hiện có. Nếu không
có những nỗ lực như vậy, toàn cầu hoá kinh tế sẽ là rào cản cực lớn khiến các
nước bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển.
+ Nhân tố trong nước của nước đầu tư
- Tình trạng thiếu lao động trong nước, đặc biệt là lao động phổ thông vẫn
là nỗi lo thường nhật của chính phủ các nước công nghiệp phát triển. Vấn đề này
có thể giải quyết bằng hai cách: nhập khẩu lao động hoặc chuyển dịch cơ sở sản



16
xuất sang các nước đang dư thừa lao động. Tuy nhiên, hầu hết các nước phát triển
đều có xu hướng chọn cách thứ hai, bởi việc nhập khẩu lao động có thể gây ra
nhiều phí tổn và chấn động xã hội không tốt cho nền kinh tế trong nước.

- Tình trạng khan hiếm tài nguyên do đã khai thác triệt để thời kỳ công
nghiệp hoá hoặc nghèo tài nguyên. Do vậy, các nền kinh tế phát triển hầu hết đều
phụ thuộc vào các nguồn nguyên nhiên liệu nhập khẩu. Tuy nhiên, việc nhập
khẩu các nguồn tài nguyên này cũng gặp nhiều hạn chế từ phía chính phủ của họ
cũng như của những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Do vậy, FDI là cách
tốt nhất để khai thác và tận dụng triệt để các nguồn tài nguyên thiên nhiên từ
nước ngoài.
- Chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài của các chính phủ
Các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của nước chủ đầu tư chủ yếu
bao gồm: các hiệp định đầu tư song phương (BITs), hiệp định tránh đánh thuế hai
lần (DTTs), trợ giúp tài chính trong các hoạt động xúc tiến đầu tư, cung cấp các
thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài và chính sách đối ngoại của nước
đầu tư. Các hoạt động này tạo ra các cơ sở pháp lý và tiền đề cần thiết cho các
nhà đầu tư ở nước ngoài. Đây là các yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng
thúc đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài.
- Tiềm lực kinh tế, khoa học – công nghệ của nước đầu tư
Một nước chưa thể có đầu tư ra nước ngoài khi khả năng tích luỹ trong nội
địa còn quá thấp. Khi nền kinh tế có khả năng tích luỹ cao, mức dự trũ ngoại tệ
lớn thì lúc đó sẽ có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài để khai thác hiệu quả của nguồn
vốn đầu tư dư thừa này. Trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, công nghệ luôn là
lợi thế quan trọng của nước đầu tư. Đầu tư ra nước ngoài luôn gắn liền với
chuyển giao công nghệ nên nước đầu tư có tiềm năng công nghệ lớn sẽ khuyến
khích các công ty của họ đầu tư ra nước ngoài để tiêu thụ nguồn công nghệ này.
Thực tế cho thấy, những nước đầu tư ra nước ngoài lớn thường là những nước
chiếm tỷ trọng cung cấp công nghệ cao trên thị trường công nghệ thế giới.
1.2. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước trong khu vực
1.2.1. Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á và những ảnh hƣởng đến
dòng FDI đối với một số nƣớc ASEAN
Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á bắt nguồn từ Thái Lan kể từ tháng 7
năm 1997 và lan ra một cách nhanh chóng sang các nước Đông Á khác có bối




17
cảnh và cơ cấu tương tự ở các nước này. Những khía cạnh giống nhau được quy
cho là mô hình chung về tăng trưởng kinh tế và phát triển ở Đông Á, đã bắt đầu
trở nên rõ nét kể từ sau nửa cuối thập kỷ 1980. Mô hình này, phổ biến ở cả Đông
Bắc Á và Đông Nam Á, được xếp vào loại tăng trưởng hướng vào xuất khẩu.
Chiến lược hướng vào xuất khẩu đã đạt được nhiều thành công ở các nền kinh tế
công nghiệp mới (NIEs) Đông Bắc Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Hồng
Kông vào nửa cuối thập kỷ 1960, sau đó áp dụng rộng rãi ở Đông Nam Á như
Malaixia, Thái Lan, Philippin, Inđônêxia từ nửa cuối thập kỷ 1980, đã mang lại
tăng trưởng kinh tế nhanh cho khu vực này. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á
đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế 2 con số kể từ cuối thập kỷ 1980 do có sự
bùng nổ của FDI và sự phát triển mạnh của xuất khẩu. Tuy nhiên, vào giữa những
năm 1990, mặc dù tăng trưởng kinh tế nhanh vẫn tiếp tục được duy trì nhưng đã
bắt đầu xuất hiện những khó khăn và thay đổi quan trọng. Trong số đó phải kể
đến những vấn đề nổi bật như tỷ giá hối đoái thực tế tăng, sự hình thành một nền
kinh tế bong bóng, tăng tỷ lệ đầu tư nước ngoài sử dụng vào các dự án nhằm thoả
mãn nhu cầu trong nước. Một vấn đề nghiêm trọng khác là khủng hoảng tài chính
tiền tệ đã lan khắp các nước Đông Nam Á, thậm chí sang cả các nước Đông Bắc
Á. Điều này có liên quan đến những vấn đề có tính chất cơ cấu kinh tế, do hầu hết
các nước này đều áp dụng mô hình kinh tế “đàn nhạn bay” theo quan điểm của
Akamatsu (đã đề cập ở trên), trong đó Nhật Bản là con nhạn đầu đàn, NIEs là
những con nhạn kế tiếp, sau đó đến các nước ASEAN Sự phát triển phụ thuộc
và mang tính chất cơ cấu này đã dẫn đến tính tổn thương rất lớn của các nền kinh
tế. Khi một con nhạn bị ốm yếu và khủng hoảng, lập tức sẽ tạo ra một làn sóng
khủng hoảng và sụp đổ nền kinh tế dây chuyền và nhanh tới mức không thể
chống đỡ được.
1.2.1.1. Diễn biến khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997

Ngay từ năm 1996 đã xuất hiện những dấu hiệu về một cuộc khủng hoảng
tiền tệ, tài chính ở các nước Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philipin. Những dấu
hiệu này là: mức tăng xuất khẩu đã giảm mạnh trong năm 1996, ở Thái Lan chỉ
còn 8% so với mức 20%/năm của thời kỳ 1994-1995. Nợ bằng USD của ngân
hàng nước ngoài ở 4 nước trên chiếm tới 15-37% GDP vào cuối năm 1996, trong
đó số nợ phải đáo hạn trong 12 tháng chiếm tỷ lệ khá cao khoảng 50-70%. Dư nợ
ngân hàng đã tăng khá cao chiếm tới 50-110% GDP, do các ngân hàng của 4



18
nước trên vay USD với lãi suất thấp và tái cho vay bằng nội tệ với lãi suất cao, ăn
chênh lệch v.v Nhiều chuyên gia đã cảnh báo chiều hướng xấu đi này của nền
kinh tế. Nhưng vì trong năm 1996 tốc độ tăng trưởng còn cao, dự trữ ngoại tệ
chưa suy giảm , nên chính phủ các nước đã chưa tính tới việc áp dụng các biện
pháp đủ mạnh để ngăn chặn chiều hướng xấu đi trên đây.
Đến năm 1997 tình hình kinh tế xấu đi nhanh chóng hơn. Mức xuất khẩu
giảm mạnh hơn, cán cân thương mại thiếu hụt nghiêm trọng hơn, các chỉ số về
tiền tệ và tài chính xấu đi rõ rệt hơn. Cơn bão tiền tệ, tài chính đã bùng nổ đầu
tiên ở Thái Lan với việc chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng Bath vào ngày
2/7/1997. Điều đó có nghĩa là chính phủ Thái Lan đã tung gần hết dự trữ ngoại tệ
để cứu đồng Bath, nhưng đã không cứu nổi, buộc phải thả nổi. Từ đó đồng Bath
mất giá liên tục, chỉ trong tháng 7 đã mất giá 24%, đến 7/1/1998 mất giá 110%,
mức kỷ lục trong lịch sử của Thái Lan. Ngày 11/7/1997, con bão đã tràn tới
Philippin. Chính phủ Philippin đã phải tuyên bố thả nổi đồng Peso. Đến 7/1/1998
đồng Peso mất giá tới 73%. Đồng Ringit của Malaixia cũng đã buộc phải thả nổi
tiếp theo và đã mất giá nghiêm trọng, đến ngày 7/1/1998 mất giá tới 88%. Cơn
bão tiền tệ đổ vào Inđônêxia chậm hơn nhưng dữ dội hơn. Ngày 13/8/1997 đồng
Rupiad của Inđônêxia so với đồng USD là 2625, ở thời điểm cao nhất tỷ giá này
đã mất giá tới 500%. Đến tháng 11/1997, cơn bão tiền tệ đã tràn sang Hàn Quốc

và đồng Won mất giá tới 100% so với những ngày đầu tháng 6/1997. Cơn bão
này cũng làm cho các đồng đô la Hồng Kông, đô la Singapore, đô la Đài Loan
đều bị mất giá theo với mức độ thấp hơn khoảng 15%.
Cơn bão tiền tệ này đã kéo theo nó cơn bão về tài chính, làm bùng nổ
khủng hoảng nợ ở các nước trên. Khối lượng nợ bằng USD đã tăng lên, nhưng
nghiêm trọng hơn là số nợ này tính bằng nội tệ đã tăng dữ dội cùng với sự mất giá
của các đồng tiền. Số dư nợ xấu (con nợ không trả được lãi từ tháng 6 trở lên) đã
lên tới khoảng 10-20% GDP của các nước trên, cuộc khủng hoảng nợ đã làm cho
hệ thống ngân hàng của các nước này hoàn toàn tê liệt. Chính cuộc khủng hoảng
nợ và hệ thống ngân hàng đã đẩy nền kinh tế các nước này lâm vào tình trạng suy
thoái trong năm 1997 và nhiều năm tiếp theo.
Biểu hiện nổi bật nhất của cuộc khủng hoảng tiền tệ là sự phá giá đột biến
của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ, chủ yếu so với đồng USD đã làm cho giá trị
tài sản bằng USD của đất nước tăng lên. Xu hướng mất giá liên tục của đồng nội



19
tệ đã làm cho những người giữ nội tệ, giữ các giấy tờ có giá trị bằng nội tệ lo sợ,
bán tống, bán tháo chúng đổi lấy USD. Các đồng tiền của các quốc gia này đã là
những đồng tiền chuyển đổi, thị trường chứng khoán của các nước này đã được
quốc tế hoá, do vậy các nhà kinh doanh nước ngoài giữ tiền và chứng khoán của
các nước Châu Á cũng vội bán chúng để đổi lấy đồng USD, dẫn tới sự hoảng loạn
trên thị trường tiền tệ và tài chính. Những căn bệnh cấp tính về tiền tệ, tài chính
bột phát nghiêm trọng đã làm cho các căn bệnh mãn tính khác như tham nhũng,
cơ cấu đầu tư sai, sự móc ngoặc giữa các ngân hàng, tài chính nhà nước và các
công ty, hệ thống ngân hàng yếu kém không minh bạch, sự điều tiết thái quá của
nhà nước, gia đình trị tái phát, tạo nên tác động xấu lên toàn bộ tình hình kinh
tế xã hội.
Bảng 1. 1.Các chỉ số kinh tế cơ bản của ASEAN-5 giai đoạn 1996-2004 (%)


1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
1. Tăng trƣởng GDP (%)
Inđônêxia
7,82
4,70
-13,13
0,79
4,92
3,45
3,69
4,10
4,32
Malaixia
10,0
7,32
-7,36
6,14
8,86
0,32
4,15
5,31

8.01
Philippin
5,85
5,19
-0,59
3,41
4,38
4,52
3,12
4,70
6,15
Singapo
7,71
8,51
-0,86
6,42
9,41
-2,37
3,29
1,09
12,55
Thái Lan
5,90
-1,37
-10,51
4,45
4,76
2,14
5,41
6,75

6,29
ASEAN-5
7,46
4,87
-6,49
4,25
6,47
1,62
4,74
4,39
7,47
2. Tỷ lệ lạm phát (%)
Inđônêxia
7,9
10,3
77,5
2,0
9,3
12,5
10,0
5,1
6,3
Malaixia
3,3
2,3
5,4
2,1
2,1
1,2
1,7

1,2
1,9
Philippin
7,1
7,2
10,4
4,3
6,6
4,1
2,6
3,1
3,9
Singapo
2,0
2,0
-1,4
0,7
2,1
-0,6
0,4
0,8
0,1
Thái Lan
4,8
7,6
4,3
0,7
1,4
0,8
1,6

1,8
3,0
3. Thâm hụt tài khoản hiện hành (% GDP)
Inđônêxia
-3,4
-2,2
4,2
4,1
5,3
4,8
4,5
3,7
2,9
Malaixia
-4,4
-6,2
13,2
15,9
15,9
8,3
8,4
12,9
12,4
Philippin
-4,8
-5,3
2,4
10,4
10,4
1,8

5,5
4,4
2,8
Singapo
15,2
15,7
22,6
18,7
18,7
19,0
21,4
30,8
25,7
Thái Lan
-7,9
-2,0
12,7
10,2
10,2
5,4
5,5
5,6
3,8
Nguồn: [38]
Cuộc khủng hoảng này lúc đầu chỉ tác động trong phạm vi khu vực, nhưng
càng ngày người ta càng nhận thấy tầm cỡ toàn cầu của nó và tạo ra dấu hiệu



20

khủng hoảng toàn cầu. Sau những năm 1997-1998, nền kinh tế thế giới gặp
những dấu hiệu suy thoái nghiêm trọng, một phần do những ảnh hưởng tiêu cực
và lan truyền từ khủng hoảng tài chính châu Á.
Những tác động của khủng hoảng trong năm 1998 đối với tăng trưởng
GDP và các chỉ số kinh tế vĩ mô của một số nước được thể hiện khá rõ trong bảng
1.1. Vào năm 1998, GDP của Inđônêxia tăng trưởng -13,13%, Thái Lan là -
10,51%, Malaixia là - 7,36% Trong những năm sau đó, khủng hoảng vẫn tồn
tại, tuy nhiên mức độ khủng hoảng đã giảm bớt dần. Một số nước đã bắt đầu có
sự phục hồi kinh tế kể từ năm 1999.
Tuy nhiên, trong sự phục hồi kinh tế nhanh chóng của các nước ASEAN,
vẫn còn tồn tại rất nhiều dấu hiệu bất ổn.
Thứ nhất, trong số các nước ASEAN, Inđônêxia và Philippin có sự phục hồi
kinh tế chậm chạp hơn cả. Trong giai đoạn 1999-2004, kinh tế Inđônêxia chỉ đạt
mức tăng trưởng 3,55%, thấp nhất trong số các nước ASEAN-5, tiếp theo là
Philippin 4,38%. Nước phục hồi tăng trưởng kinh tế nhanh chóng nhất là
Malaysia với GDP tăng 5,47% và Singapore tăng 5,07% trong cùng giai đoạn.
Mặc dù chính sách kinh tế của tổng thống mới Inđônêxia đang tạo môi tường
thuận lợi cho đầu tư nước ngoài, nhưng những tồn tại trong hệ thống ngân hàng,
luật pháp vẫn là rào cản dòng vốn FDI vào đất nước này. Trong giai đoạn
1995-2003 Inđônêxia chỉ nhận được 3,838 tỷ USD vốn FDI, bằng 1/10 so với
Malaysia và Thái Lan và chỉ bằng 1/35 so với Singapore. Còn tại Philippin, đất
nước này đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nợ, do nợ công của
Philippin đã tăng hơn gấp đôi kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu á xảy ra
năm 1997, lên tới 3.360 tỷ peso (60,32 tỷ USD), bằng 130% GDP của đất nước.
Đây là tỷ lệ nợ thuộc diện cao nhất Châu Á. Trong khi đó, nợ nước ngoài của
Philippin tính đến cuối năm 2003 là 56,3 tỷ USD, chiếm 77% GDP. Cùng với sự
gia tăng về thâm hụt ngân sách, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Philippin liên tục
giảm, trong khi ở các nước như Singapore, Malaysia và Thái Lan cũng chịu tác
động của khủng hoảng năm 1997, FDI đã có dấu hiệu phục hồi trở lại. Cán cân
thương mại của Philippin cũng có chiều hướng thâm hụt nặng nề hơn nhiều nước

Châu Á, do chính phủ Philippin áp dụng thuế nhập khẩu để bảo vệ sự tập trung
quyền lực chính trị trong khi các ngành công nghịêp xuất khẩu lại hoạt động
không hiệu quả. Tính đến tháng 5/2004, thâm hụt cán cân thương mại của



21
Philippin là - 1,3 tỷ USD, trong khi Malaysia + 19,5 tỷ USD, Thái Lan + 1,7 tỷ
USD và Inđônêxia + 27,9 tỷ USD. Tính đến tháng 6 năm 2004, dự trữ ngoại tệ
của Philippin là 12,8 tỷ USD, thấp nhất trong khu vực Châu Á, trong khi
Malaixia đạt 53,9 tỷ USD, Thái Lan 42,3 tỷ USD và Inđônêxia 33,7 tỷ USD.
Thứ hai, hiện vẫn tồn tại nhiều tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ đối với nền kinh tế các nước ASEAN. Cuộc khủng hoảng đã bộc lộ
tính dễ tổn thương của các nền kinh tế này, trong đó đặc biệt là sự yếu kém của
hệ thống tài chính ngân hàng, nợ nước ngoài, sự lệ thuộc vào thương mại, tình
trạng giảm phát kéo dài trong nhiều năm. So với tốc độ tăng trưởng GDP 7-8%
của những thập niên trước đó, khủng hoảng đã đem lại tốc độ tăng trưởng GDP
hiện nay cho các nước ASEAN thấp hơn nhiều. Thu nhập đầu người cũng giảm.
Năm 1996, thu nhập bình quân đầu người của Inđônêxia là 1.114 USD, năm 2001
giảm còn 688 USD và 2003 dừng ở mức 977 USD. Tương ứng với các năm trên,
thu nhập đầu người ở Malaysia là 4814 USD, 3689 USD, 4141; ở Singapore là
25.127 USD, 20.735 và 21.829; ở Thái Lan là 3035, 1837 và 2241; ở Philippin là
1184, 924 và 978[38]. Khủng hoảng cũng làm tăng sự lệ thuộc của các nước vào
các khoản viện trợ, giúp đỡ về tài chính từ bên ngoài, sự ảnh hưởng và can thiệp
của nhiều nước lớn và các tổ chức quốc tế vào khu vực làm cho tình hình phát
triển kinh tế thêm phức tạp và căng thẳng. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bị
giảm sút, bởi sự mất cân cân đối trong phát triển cơ cấu ngành. Sự bỏ bễ các khu
vực nông nghiệp, lâm nghiệp, các ngành công nghiệp nặng truyền thống đang
tạo ra sự tụt lùi, thậm chí là triệt tiêu sự phát triển, tạo ra sự mất an ninh nghiêm
trọng về kinh tế, xã hội, an ninh lương thực, khiến Inđônêxia, phải nhập khẩu 3,5

triệu tấn lương thực vào năm 1998. Trong giai đoạn 2000-2003, sản lượng nông
nghiệp của Philippin đạt trung bình 3,6%, thấp vào loại bậc nhất khu vực Đông
Nam Á mặc dù Philippin có tiềm năng rất lớn về nông nghiệp Những nỗ lực tái
cơ cấu kinh tế cũng đang làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Trong giai đoạn 2000-2003,
tỷ lệ thất nghiệp ở Philippin là 9,8% so với 4,8% của năm 1980. Khủng hoảng
kinh tế và sự phá sản của hàng loạt công ty cũng đẩy hàng loạt lao động không
lành nghề trong các khu vực đô thị ở Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia, Philipin
quay trở lại khu vực nông thôn truyền thống. Tỷ lệ thất nghiệp ở Inđônêxia đã
tăng từ 5,1% trong tháng 2/1997 lên 14,8% trong năm 1998 và hơn 15% vào năm
1999. Trước những năm cuối thập kỷ 90, người ta thường nhắc đến Châu Á với

×